PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là sản phẩm của thiên nhiên ban tặng. Nó có giới hạn về không
gian nhưng vô hạn về thời gian sử dụng. Nói như vậy không phải là chúng ta
có thể sử dụng đất một cách bừa bãi, mà phải làm thế nào để sử dụng nó có
hiệu quả cao và bền vững mới thật sự có ý nghĩa.
Xã hội phát triển, dân số tăng nhanh kéo theo những đòi hỏi ngày càng
tăng về lương thực thực phẩm, chỗ ở cũng như các nhu cầu về văn hóa, xã
hội. Thực trạng đất đai theo Nghị định 64/CP của Chính phủ với việc giao đất
nông nghiệp theo phương thức “ có tốt, có xấu, có gần, có xa” đã làm cho đất
đai ở trong tình trạng manh mún, nhỏ lẻ và phân tán dẫn đến việc sử dụng đất
kém hiệu quả, tổ chức sản xuất gặp khó khăn, khó áp dụng cơ giới hóa vào
sản xuất. Để thực hiện công nghiệp hóa hiện đại và hóa nông nghiệp nông
thôn, Đảng và Nhà nước đã có chủ trương thực hiện và cho phép các hộ nông
dân chuyển đổi ruộng đất, tích tụ đất đai tạo nên các trang trai có quy mô vừa
và lớn. Sau khi thực hiện công tác dồn điền đổi thửa, số lượng thửa và quy
mô thửa đất cơ bản đã được thay đổi theo chiều hướng tích cực góp phân
nâng cao hiệu quả kinh tế sử dụng đất, cải thiện đồi sống của nông dân.
Kỳ Giang là xã miền núi thuộc huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Hiện nay,
dân cư vẫn sống dựa vào sản xuất nông nghiệp là chủ yếu (trên 80%), năm
2003 xã đã thực hiện chủ trương dồn điền đôi thửa. Sau 2 năm thực hiện về
cơ bản thì rộng đất trong toàn xã đã được chuyển đổi và bước đầu đã đạt được
một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, sau khi dồn điền đổi thửa, vẫn còn một
số vấn đề tồn tại về sử dụng đất đai như diện tích trồng lúa còn chiếm diện
tích khá lớn, người dân chưa chú trọng đầu tư cho vùng đất xấu Vì vậy, xây
dựng phương hướng sử dụng đất, nhằm mục đích định hướng cho người dân
trong xã khai thác và sử dụng hợp lý, góp phần nâng cao thu nhập cải thiện
đời sống.
Xuất phát từ thực tế sử dụng đất của địa phương, được sự đồng ý của ban
chủ nhiệm khoa Tài nguyên đất và Môi trường nông nghiệp - Trường Đại học
Nông Lâm Huế và sự hướng dẫn của của cô giáo TS Trần Thị Thu Hà,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản
xuất nông nghiệp trước và sau dồn điền đổi thửa tại xã Kỳ Giang, huyện
Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh”.
1.2 Mục đích
Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp trước và sau dồn
điền đổi thửa của xã Kỳ Giang, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
Đề xuất một số giải pháp kinh tế - kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng đất trên địa bàn nghiên cứu.
1.3 Yêu cầu
Nghiên cứu các điều kiện của xã một cách đầy đủ, chính xác và khoa
học, các tiêu chí phải thống nhất, hệ thống.
Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp trước và sau dồn
điền đổi thửa một cách khách quan, khoa học và phù hợp với tình hình thực
tiễn của địa phương.
Các giải pháp đề xuất phải mang tính khả thi cao.
PHẦN 2: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 Một số đề về đất đai
2.1.1 Khái niệm đất đai và đất sản xuất nông nghiệp
*. Khái niệm đất đai
Đất đai là khoảng không gian có giới hạn, theo chiều thẳng đứng, gồm:
Khí hậu của bầu khí quyển, lớp phủ thổ nhưỡng, thảm thực vật, động vật,
diện tích mặt nước, tài nguyên nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất; theo
chiều ngang, trên mặt đất là sự kết hợp giữa thổ nhưỡng, địa hình, thủy văn
thảm thực vật với các thành phần khác, nó tác động giữ vai trò quan trọng và
có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động sản xuất cũng như cuộc sống của xã hội
loài người.
Khoa học môi trường khẳng định: Đất không những là tư liệu sản xuất
cơ bản của nông nghiệp mà còn được coi là một bộ phân qua trọng của hệ
sinh thái một vùng. Với khái niệm này, đất đai bao gồm tất cả các thuộc tính
sinh học và tự nhiên của bền mặt trái đất có ảnh hưởng nhất định đế tiềm
năng và hiện trạng sử dụng đất.
Từ các định nghĩa, khái niệm trên có thể hiểu đơn giản: Đất đai là một
diện tích cụ thể của bề mặt trái đất và bao hàm các thuộc tính tự nhiên, kinh
tế, xã hội như: khí hậu, địa hình địa mao, thổ nhưỡng, thủy văn, động thực vât
tự nhiên và các hoạt động của con người.[3]
*. Khái niệm đất sản xuất nông nghiệp
Đất nông nghiệp là tất cả những diện tích được sử dụng vào mục đích
sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, diện tích
nghiên cứu thí nghiệm phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Kể cả diện tích đất
lâm nghiệp và các công trình xây dựng cơ bản phục vụ cho sản xuất nông lâm
nghiệp.
Đất sản xuất nông nghiệp là đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích sản
xuất nông nghiệp bao gồm: đất cây trồng hàng năm và đất trông cây lâu năm
2.1.2 Sử dụng đất
Sử dụng đất là hệ thống các biện pháp nhằm điều hòa mối quan hệ
người – đất trong tổ hợp với các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và môi
trường. Có nhiều kiểu sử dụng:
- Sử dụng đất trên cơ sở sản xuất trực tiếp như trồng trọt, lâm nghiệp,
đồng cỏ.
- Sử dụng đất trên cơ sở gián tiếp như chăn nuôi, cơ sở chế biến Nông -
Lâm- Ngư nghiệp
- Sử dụng đất vì mục đích bảo vệ môi trường như chống suy thoái đất,
bảo tồn đa dạng hóa loài sinh vật, bảo vệ các loài quý hiếm.
- Sử dụng đất theo các chức năng đặc biệt như đường sá, khu dân cư,
khu công nghiệp
2.1.3 Quan điểm sử dụng đất bền vững
Tính bền vững của một hệ thống sử dụng đất phải đạt được cả trên ba
phương diện sau
- Bền vững về kinh tế: Các loại cây trồng trên loại hình sử dụng đất đó
cho hiệu quả kinh tế cao, được thị trường chấp nhận
- Bền vững về mặt môi trường: Các loại hình sử dụng đất không có ảnh
hưởng xấu đến môi trường và có khả năng cải thiện đất
- Bền vững về mặt xã hội: Các loại hình sử dụng đất đó phải thu hút
được nguồn nhân lực và cơ sở vật chất phục vụ sản xuất tại chỗ nhằm đảm
bảo đời sống cho cư dân trong vùng và góp phần phát triển xã hội [2]
2.1.4 Khái niệm đánh giá đất
Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về đánh giá đất:
- Đánh giá đất đai là so sánh, đánh giá khả năng của đất theo từng
khoanh đất dựa vào độ màu mỡ và khả năng sản xuất của đất.
- Theo Sôbôlev: Đánh giá đất đai là học thuyết về sự đánh giá có tính
chất so sánh chất lượng đất của các vùng đất khác nhau mà ở đó thực vật sinh
trưởng và phát triển.
- Đánh giá đất đai là sự phân chia có tính chất chuyên canh về hiệu suất
của đất do những dấu hiệu khách quan (khí hậu, thời tiết, thủy văn, thảm thực
vật tự nhiên, hệ động vật tự nhiên,…) và thuộc tính của chính đất đai tạo nên.
- Theo FAO (1976) đánh giá đất đai là quá trình so sánh, đối chiếu những
tính chất vốn có của vạt/khoanh đất cần đánh giá với những tính chất đất đai
mà loại hình sử dụng đất yêu cầu.
Như vậy đánh giá đất đai trong sản xuất nông nghiệp thường dựa vào
chất lượng (độ phì tự nhiên, độ phì hữu hiệu) của đất và mức sản phẩm mà độ
phì tạo nên. [2]
2.1.5 Mục đích của đánh giá đất
Việc xây dựng hệ thống đánh giá đất đai FAO có các mục đích sau:
- Xác định và xây dựng nguyên lý, quan điểm và qui trình đánh giá đất
đai cho sử dụng đất nông nghiệp, lâm nghiệp hay bảo tồn thiên nhiên.
- Có khả năng áp dụng được cho toàn cầu cũng như xuống đến cấp địa
phương của cả các quốc gia đã phát triển và đang phát triển.
- Cho được một cái nhìn tổng quát về những đặc tính tự nhiên của đất
đai, những chiều hướng về kinh tế xã hội và sự thay đổi môi trường, cũng như
các biện pháp kỹ thuật đang áp dụng của đất đai và sử dụng đất đai. nhằm
cung cấp những thông tin cần thiết cho quy hoạch sử dụng đất đai.
Hệ thống này được sử dụng như là nền tảng để đánh giá các hệ thống
đánh giá đất đai hiện có thông qua sự so sánh và kết quả:
- Hệ thống này sẽ là cơ sở cho việc nghiên cứu thành những hệ thống
đánh giá đất đai mới riêng cho các vùng chuyên biệt.
- Hệ thống này đã và đang được áp dụng rộng rãi cho các nước trên thế
giới.[2]
2.2 Những vấn đề hiệu quả và đánh giá hiệu quả sử dụng đất
2.2.1 Lý luận về hiệu quả và hiệu quả sử dụng đất
Hiểu một cách đơn giản thì hiệu quả là kết quả tốt theo sự mong đợi và
hướng tới của con người trong đời sống.
Ở mỗi lĩnh vực khác nhau, hiệu quả mang lại sẽ có nội dung đặc trưng
riêng: Trong kinh doanh, hiệu quả là giá trị thặng dư, lợi nhuận thu được sau
khi tiêu thu sản phẩm. Trong sản xuất, hiệu quả là hiệu suất, năng suất đạt
được trong một quá trình sản xuất nhất định. Trong lao động, hiệu quả là
năng suất lao động được đánh giá bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong
một đơn vị thời gian. Trong xã hội, hiệu quả là sự tác động tích cực tới các
lĩnh vực xã hội [7]
*. Hiệu quả kinh tế
Theo C.Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể là
quy luật tiết kiệm thời gian và phân phối một cách có kế hoạch thời gian lao
động theo các ngành sản xuất khác nhau. Mọi hoạt động của con người đều
tuân theo quy luật đó, nó quyết định động lực phát triển của lực lượng sản
xuất, tạo điều kiện phát triển văn minh xã hội và nâng cao đời sống con người
qua mọi thời đại.
Theo các nhà khoa học Đức (Stennien, Hânu, Rusteruyer, Simmerman-
1995) thì hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu so sánh mức độ tiết kiệm chi phí trong
một đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng kết quả hữu ích của hoạt động sản
xuất vật chất trong một thời kỳ góp phần làm tăng thêm phúc lợi xã hội [7]
Vậy, hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng
kết quả đạt được và lượng chi phí bỏ ra trong một hoạt động sản xuất kinh
doanh. Kết quả đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng
chi phí bỏ ra là phần giá trị của các nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó
cần xét cả về phần so sánh tuyệt đối và tương đối cũng như xem xét mối qua
hệ chặt chẽ giữa hai đại lượng đó.
Từ những quan niệm trên có thể rút ra kết luận của hiệu quả sử dụng
đất là: trên một diện tích đất nhất định sản xuất ra một khối lượng của cải vật
chất nhiều nhất so với một lượng đầu tư chi phí về vật chất và lao động nhằm
đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội
Xuất phát từ thực tiễn trên, trong quá trình đánh giá hiệu quả sử dụng
nông nghiệp cần phải đánh giá hiệu quả kinh tế của các loại hình sử dụng đất
nhằm lựa chọn được loại hình sư dụng đất có hiệu quả kinh tế cao.
*. Hiệu quả xã hội
Theo Nguyễn Duy Tính và các cộng sự (2005) hiệu quả về mặt xã hội
trong sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu được xác định bằng khả năng tạo việc
làm trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp. Vậy, có thể xem hiệu quả xã
hội là mối tương quan so sánh kết quả xét về mặt xã hội và tổng chi phí bỏ ra
[7]
Từ các kết luận trên cho thấy, mối quan hệ qua lại giữa hiệu quả kinh tế
và hiệu quả xã hội là sự phản ánh mối qua hệ giữa sản xuất và lợi ích xã hội
của sản xuất mang lại.
Hiệu quả kinh tế là mối quan tâm hàng đầu của người dân trong sản
xuất, ngày nay với xu hướng sản xuất nông nghiệp bền vững thì hiệu quả xã
hội cũng không kém phần quan trọng
*. Hiệu quả về môi trường
Hiệu quả môi trường là sự phản ứng của môi trường đối với sự tác động
của các hoạt sản xuất nông nghiệp
Hiệu quả môi trường được thể hiện ở các vấn đề như: trong quá trình
sản xuất vẫn đảm bảo được chất lượng đất không bị thoái hóa, không bị bạc
màu, không bị ô nhiễm các chất hóa học nâng cao độ che phủ, hệ số sử dụng
đất hợp lý
Trong sản xuất nông nghiệp, hiệu quả kinh tế và hiệu quả môi trường
thường mâu thuẫn với nhau. Do vậy, khi lựa chọn loại hình sử dụng đất cần
chú ý cân bằng nhằm đảm bảo sự phát triển kính tế mà không làm tổn hại đến
môi trường [7]
2.2.2 Ý nghĩa của việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất
Hiệu quả sử dụng đất là kết quả của một hệ thống các biện pháp về tổ
chức sản xuất, khoa học kỹ thuật, điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội; Trong
điều kiện cụ thể, sản xuất nông nghiệp luôn gắn liền với các ngành kinh tế
khác. Bên cạnh các biện pháp kỹ thuật và thâm canh truyền thống cần phải
biết vận dụng các tiến bộ của khoa học kỹ thuật mới, mạnh dạn chuyển đổi cơ
cấu cây trồng phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả trong sản xuất trên cơ sở tận
dụng tối đa tiềm năng đất đai
Hiệu quả sử dụng đất là chỉ tiêu chất lượng đánh giá kết quả sử dụng
đất đai trong hoạt động kinh tế xã hội. Thể hiện về mặt kinh tế qua lượng sản
phẩm, lượng giá trị (lợi nhuận) thu được bằng tiền, thể hiện về mặt xã hội là
lượng lao động được sử dụng trong quá trình hoạt động kinh tế cũng như
hàng năm để khai thác đất [7]
Vậy khi đánh giá hiệu quả sử dụng đất cần chú ý đến tác động của việc
sử dụng đất tới phương diện kinh tế cũng như xã hội, đồng thời phải quan tâm
tới những ảnh hưởng của sản xuất nông nghiệp tới môi trường xung quanh
Việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp sẽ có ý nghĩa đối với
sản xuất nông nghiệp nói riêng và đối với đời sống xã hội nói chung. Vì khi
đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp sẽ thu được những kết quả sau:
- Xác định được hiệu quả kinh tế của việc sử dụng đất trong hoạt động
sản xuất nông nghiệp, từ đó đưa ra những quyết định hữu hiệu cho việc bố trí
sản xuất đảm bảo thu được lợi nhuận cao nhất
- Đánh giá, xem xét những lợi ích mang lại và bất cập thông qua việc
sử dụng đất nông nghiệp về các vấn đề xã hội như giải quyết việc làm, nâng
cao thu nhập, trình độ dân trí, quá trình sản xuất với tập quán canh tác của địa
phương. Để từ đó có các biện pháp giúp chính quyền địa phương và người
dân bố trí lao động sản xuất, cơ sở hạ tầng phù hợp
- Quan tâm đánh giá tác động của hoạt động sản xuất nông nghiệp đến
môi trường sinh thái, đặc biệt là môi trường đất. Từ đó đề xuất lựa chọn các
loại hình sử dụng đất phù hợp nhằm cải tạo chất lượng đất, chất lượng nước
và môi trường nói chung.[7]
2.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất
Trong quá trình sử dụng đất, con người là nhân tố chi phối chủ yếu,
ngoài ra, việc sử dụng đất còn chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố sau:
- Nhân tố điều kiện tự nhiên:
Điều kiện tự nhiên bao gồm các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt
động sản xuất nông nghiệp, là cơ sở để cây trồng, vật nuôi sinh trưởng phát
triển và tạo sinh khối. Do vậy đánh giá điều kiện tự nhiên là xác định cơ sở
cho việc định hướng cây trồng vật nuôi phù hợp.
Trong nhóm các yếu tố điều kiện tự nhiên thì điều kiện khí hậu là nhân
tố hạn chế hàng đầu của việc sự dụng đất, sau đó là điều kiện đất đai mà chủ
yếu là điều kiện địa hình và các nhân tố khác.
Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là các sinh vật sống (cây trồng, vật
nuôi) nên chịu ảnh hưởng trực tiếp của các yếu tố khí hậu. Khí hậu quyết định
số vụ trồng trong năm vì mỗi cây trồng yêu cầu một điều kiện thời tiết khí
hậu phù hợp với nó. Nắm vững yếu tố khí hậu và bố trí cây trồng hợp lý sẽ
tránh được những thiệt hại do khí hậu gây ra. Đồng thời, giảm được tính thời
vụ trong sản xuất nông nghiệp nhằm đem lại năng suất cao, từ đó cũng nâng
cao hiệu quả sử dụng đất.
- Yếu tố kinh tế - xã hội:
Bao gồm các yếu tố như: chế độ xã hội, dân số và lao động, thông tin
và quản lý, chính sách môi trường và chính sách đất đai, yêu cầu quốc phòng,
sức sản xuất và trình độ phát triển của kinh tế hàng hóa, cơ cấu kinh tế và
phân bố sản suất, các điều kiện về công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp,
giao thông vận tải, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý, sử
dụng lao động, Mặc dù nhóm nhân tố này xếp sau nhân tố điều kiện tự
nhiên nhưng thường có ý nghĩa quyết định, chủ đạo đối với việc sử dụng đất
đai. Nếu điều kiện tự nhiên của đất đai cho phép xác định khả năng thích ứng
về phương thức sử dụng đất, thì sử dụng đất như thế nào được quyết định bởi
sự năng động của con người và các điều kiện kinh tế - xã hội, kỹ thuật hiện
có, quyết định bởi tính pháp lý, tính khả thi về kinh tế kỹ thuật và mức độ đáp
ứng của chúng, quyết định bởi nhu cầu của thị trường.
Ảnh hưởng của điều kiện kinh tế - xã hội, góp phần tạo ra năng suất
kinh tế trong sản xuất nông nghiệp và được đánh giá bằng hiệu quả sử dụng
đất nông nghiệp. Cần tận dụng khai thác tiềm năng các yếu tố thuận lợi nhưng
phải có giải pháp khắc phục trên cơ sở khoa học và thực tiễn đối với những
yếu hạn chế. Quan trọng là tìm ra những nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử
dụng đất để có những biện pháp thay đổi cơ cấu sử dụng đất nhằm nâng cao
hiệu quả
- Yếu tố lao động:
Lao động với tư cách là chủ thể của quá trình lao động, có khả năng
nhận thức được các quy luật khách quan. Lực lượng lao động sẽ thúc đẩy sản
xuất phát triển, điều này lại phụ thuộc rất lớn vào trình độ lao động, trình độ
học vấn, trình độ tay nghề của người lao động. Hiện nay, nông nghiệp đang
dần có những bước phát triển nhanh đặc biệc là công nghệ sinh học. Do đó
đòi hỏi chủ thể lao động phải có khả năng nắm bắt nhanh chóng những thay
đổi đó và ứng dụng có hiệu quả vào sản suất nông nghiệp.
- Phương thức canh tác:
Phương thức canh tác bao gồm các biện pháp kỹ thuật canh tác, là
những tác động của con người vào đất đai, cây trồng, vật nuôi nhằm tạo nên
sự hài hòa giữa các yếu tố của quá trình sản suất để đạt hiệu quả kinh tế cao.
Tập quán canh tác cũng ảnh hưởng đến việc lựa chọn các tác động kỹ thuật,
lựa chọn chủng loại cây trồng và sử dụng các đầu vào nhằm đạt được các mục
tiêu kinh tế. Trong trồng trọt, mỗi loại cây trồng đều có một phương thức
canh tác khác nhau, đòi hỏi cần phải nắm vững được yêu cầu các biện pháp
kỹ thuật để canh tác thì mới có hiệu quả, đồng thời loại bỏ những phương
thức tập quán canh tác lạc hậu gây tác hại cho đất, mang lại hiệu quả kinh tế
thấp.
- Vốn đầu tư:
Vốn đầu tư vào sản xuất, bồi dưỡng, cải tạo đất đối với người dân là
một yêu cầu cấp thiết. Hiện nay, đa số người dân vẫn còn phải đối mặt với
việc thiếu vốn để mua sắm các tư liệu sản xuất, mua phân bón đầu tư cho cây
trồng trong khi giá phân bón trong những năm gần đây lại có xu hướng tăng
cao. Từ đó, dẫn đến năng suất cây trồng không cao trong khi độ phì nhiêu của
đất ngày càng giảm,
- Yếu tố thị trường:
Hiện nay, cả thị trường đầu vào và đầu ra của sản xuất nông nghiệp ngày
càng được mở rộng và có tác động to lớn đến phát triển sản xuất. Tuy nhiên,
phần lớn vẫn còn mang tính tự phát, thiếu định hướng, ngẫu nhiên và thiếu sự
vận hành đồng bộ. Điều này đã gây không ít trở ngại, bất lợi cho nông dân và
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nông sản.
- Yếu tố không gian:
Trong thực tế, mọi ngành sản xuất vật chất và phi vật chất đều cần đến
đất đai như điều kiện không gian để hoạt động, vì vậy không gian trở thành
một trong những nhân tố hạn chế cơ bản nhất của việc sử dụng đất. Do vị trí
và không gian của đất đai không bị mất đi và cũng không tăng thêm trong quá
trình sử dụng không chỉ hạn chế khả năng mở rộng không gian sử dụng đất
mà còn chi phối giới hạn thay đổi của cơ cấu đất đai. Vì vậy, cần phải thực
hiện nghiêm nghặt nguyên tắc sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả kết
hợp bảo vệ tài nguyên đất và môi trường. [3]
2.3 Tình hình thực hiện công tác dồn điền đổi thửa ở huyện Kỳ Anh.
2.3.1 Cơ sở để thực hiện công tác dồn điền đổi thửa.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của ban chấp hành trung ương khóa IX
về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn thời kỳ
2001- 2010
- Căn cứ vào luật đất đai năm 1993, sửa đổi và bổ sung một số điều
Luật đất đai năm 1998 và năm 2001
- Nghị định số 64/CP ngày 27 tháng 09 năm 1993 của Chính phủ về
việc giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài vào
mục đích sản xuất nông nghiệp cho hộ gia đình cá nhân
- Quyết định số 68/2002/QĐ- TTg ngày 04 tháng 06 năm 2002 của Thủ
tướng Chính phủ về chương trình hành động thực hiện nghị quyết Trung ương
V (khóa IX)
- Luật đất đai 2003 ngày 10 tháng 12 năm 2003
- Các quyết định, nghị quyết, chỉ thị, công văn, hướng dẫn của Tỉnh ủy,
Ủy ban nhân dân các địa phương về công tác dồn điền đổi thửa.
2.3.2 Tình hình thực hiện công tác dồn điền đổi thửa (giai đoạn I) ở
huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
Hầu hết diện tích đất nông nghiệp trên địa bàn huyện đã được giao ổn
định lâu dài theo Nghị định 64/CP, đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nông nghiệp cơ sở hạ tầng trong nông thôn và trên đồng ruộng cũng đang
được đầu tư nhưng ruộng đất được giao cho nhân dân sử dụng ổn định có tính
chất manh mún gây khó khăn trong sản xuất. Do đó, chủ trương dồn điền đổi
thửa là rất cần thiết. Cùng với nghị quyết số 01 ngày 20/7/2001 của Tỉnh Uỷ,
Ban chấp hành Huyện ủy Kỳ Anh đã có nghị quyết số 04 NQ/HU ngày
20/7/2001 về cuộc vận động chuyển đổi ruộng đất nông nghiệp. Sau 2 năm
thực hiện, đến tháng 10/2004 toàn huyện với 33/33 xã, thị trấn đã hoàn thành
công tác chuyển đổi.
Bảng 2.1: So sánh một số chỉ tiêu trước và sau DĐĐT của huyện Kỳ Anh
S
T
Chỉ tiêu Đơn vị Trước
DĐĐT
Sau
DĐĐT
So sánh
Tăng Giảm
1 Tổng số thửa Thửa 335.325 188.693 146.632
2 Tổng số hộ Hộ 34.792 35.557 765
3 Bình quân số thửa/hộ Thửa/hộ 9,6 5,3 4,3
4 Bình quân diện tích/thửa m2 270,4 463,0 192.,6
5 Diện tích thửa lớn nhất m2 3.500 9.944 6.444
6 Diện tích thửa nhỏ nhất m2 40 50 10
7 Tổng diện tích đất CHN m2 9068,21 8735,37 332,84
Nguồn:[ 12]
Toàn huyện có 33 xã, thị trấn với 262/262 thôn (xóm) đã hoàn thành
việc chuyển đổi ruộng đất. Trong đó, có 9 xã hoàn thành chuyển đổi trong
năm 2002. Hoàn thành chuyển đổi toàn phần có 19 xã và chuyển đổi từng
phần có 13 xã.
Qua bảng số liệu cho thấy, sau khi thực hiện DĐĐT trong toàn huyện
đã giảm được 146.632 thửa, bình quân số thửa/hộ giảm từ 9,6 thửa/hộ xuống
còn 5,3 thửa/hộ; Bình quân diện tích/thửa sau DĐĐT là 463 m
2
tăng 192,6 m
2
so với trước, với thửa có diện tích lớn nhất là 9.944 m
2
Tổng số hộ sau chuyển đổi là 35.557 hộ so với trước chuyển đổi tăng
765 hộ nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu tách hộ sau khi thành lập gia đình
riêng và một số đất tự khai hoang phục hóa của các hộ nay kê khai để xin cấp
giấy CNQSD đất
Tổng diện tích đất nông nghiệp sau chuyển đổi là 8.735,73 ha giảm
332,48 ha đất trồng lúa do chuyển đổi cơ cấu sang nuôi trồng thuỷ sản, đất
dành cho khu công nghiệp Cảng biển Vũng Áng, đất xây dựng hệ thống giao
thông thuỷ lợi nội đồng
Những kết quả đạt được từ công việc chuyển đổi đã tạo điều kiện thuận
lợi cho nông dân trong sản xuất nhằm tăng năng suất lao động, chủ động
mạnh dạn thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, ứng dụng máy móc trong sản
xuất giúp giảm chi phí trong sản xuất, tiết kiệm được cường độ lao động,
thời gian tạo điều kiện khai thác có hiệu quả tiềm năng đất đai
Thông qua việc chuyển đổi tạo điều kiện quy hoạch sử dụng đất hợp lý
và nâng cao việc quản lý đất đai. Bên cạnh đó, là việc đưa cơ giới vào phục
vụ sản xuất đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp
nông thôn
2.3.3 Tình hình thực hiện công tác dồn điền đổi thửa ở xã Kỳ Giang,
huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
Xã Kỳ Giang có diện tích tự nhiên là 1719,83 ha, trong đó có 551,32ha
diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Sau 7 năm thực hiện nghị định 64/CP của
Chính phủ về việc sử dụng đất nông nghiệp có nhiều chuyển biến tích cực
hơn trước, việc sản xuất đã mang lại hiệu quả cho nông dân.
Tuy nhiên, việc thực hiện giao đất theo Nghị định 64/CP ở xã Kỳ Giang
còn bộc lộ một số hạn chế như ruộng đất chia cho nông hộ còn manh mún,
nhỏ lẽ gây khó khăn cho việc sản xuất như đưa máy móc vào sản xuất, hệ
thống tưới tiêu không thuận tiện , khó khăn cho việc quản lý và nhiều hạn
chế khác cần có biện pháp khắc phục
Ngày 12/6/2001 Tỉnh ủy có Nghị quyết số 01 ngày 20/7/2001, Huyện
ủy có nghị quyết số 04, UBND huyện Kỳ Anh đã có đề án chuyển đổi ruộng
đất nông nghiệp. Sau 2 năm thực hiện (2003 + 2004) thực hiện cuộc vận động
chuyển đổi ruộng đất nông nghiệp ở xã Kỳ Giang đã thu được kết quả tốt
Bảng 2.2: So sánh một số chỉ tiêu trước và sau dồn điền đổi thửa
T
T
Chỉ tiêu Đơn vị
Trước
DĐĐT
Sau
DĐĐT
So sánh
Tăng Giảm
1
Tổng số hộ Hộ 1.234 1.430 166
2
Tổng số thửa Thửa 14.079 6.321 7.758
3
Diện tích đất CHN Ha 466,07 427,40 38,67
4 Bình quân thửa /hộ Thửa/hộ 13,6 4,4 9,2
5
Bình quân DT /thửa m
2
272,6 661,6 389
6 Thửa có diện tịch nhỏ
nhất
m
2
330 658 328
7 Thửa có diện tích lớn
nhất
m
2
2.120 6.266 4.146
Nguồn: [13]
Toàn xã có 100% số thôn đã tiến hành chuyển ruộng đất theo hình thức
chuyển đổi toàn phần (chia lại). Tổng số hộ tham gia chuyển đổi là 1.234 hộ
chiếm tỷ lệ 100%, toàn xã đã đào đắp được 51km đường và mương nội đồng
với khối lượng 68,916 m
3
đất, xây được 116 cầu cống nội đồng
Qua bảng cho thấy, sau khi thực hiện dồn điền đổi thửa cho 12/12 thôn
của xã đã giảm được thửa, bình quân thửa trên hộ giảm 11,3 thửa/hộ xuông
còn 4,5 thửa/hộ. Bình quân diện tích/thửa tăng so với trước dồn điền đổi thửa
là 328 m
2
. Diện tích các thửa đất tăng tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản
xuất cho người dân như việc cơ giới hoá, hệ thống giao thông và kêng mương
nội đồng thuận tiện hơn.
Bên cạnh những thành tựu đạt được ở trên, việc thực hiện dồn điền đổi
thửa giai đoạn 1 của xã vẫn tồn tại một số khuyết điểm như: Một số thôn chia
đất trên 5 vòng chia dẫn đến ruộng đất vẫn còn manh mún, sau chuyển đổi số
hộ có 5 thửa còn quá nhiều chiếm 34,97% (500 hộ), số thửa có diện tích dưới
500 m
2
là 1903 thửa trên tổng số là 6321 thửa (chiếm 30%), việc thực hiện
làm giao thông thuỷ lợi nội đồng trên toàn xã chưa đồng bộ nên công tác tưới
tiêu còn gặp nhiều khó khăn
Tóm lại, sau khi thực hiện dồn điền đổi thửa hiệu quả sử dụng đất của
xã tăng lên rõ rệt, đất đai được sử dụng đúng mục đích và mang lạ hiệu quả
cao. Tuy nhiên sau dồn điền đổi thửa nhiều thửa đất bị lấy đi phần đất mặt
màu mỡ nên tốn nhiều công sức và chi phí để cải tạo, vì vậy cần có chủ
trương cho nông dân vay vốn với lãi suất thấp để tạo điều kiện cho người dân
đầu tư thâm canh cải tạo ruộng đất là cho hiệu quả sử dụng đất ngày càng cao
lên. Mặt khác, xã phải có chủ trương, kế hoạch lâu dài để giúp đỡ và nông
dân xây dựng hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng, hệ thống kênh mương nội đồng, đặc
biệt là phải chủ động nguồn nước tưới để tăng số vụ trên năm nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng đất tăng năng suất cây trồng góp phần cải thiện bộ mặt
nông thôn.
PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Đất sản xuất nông nghiệp của xã Kỳ Giang, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà
Tĩnh
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: Đề tài được tiến hành vào ngày 06/01/2010 đến
ngày 09/05/2010
- Phạm vi không gian: Quá trình nghiên cứu được thực hiện trong phạm
vi địa giới hành chính của xã Kỳ Giang, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh
3.3 Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội.
- Đánh giá hiện trạng sử dụng đất.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường của các loại hình sử
dụng đất sản xuất nông nghiệp chính
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các loại hình sử
dụng đất trong tương lai.
3.4 Phương pháp nghiên cứu
3.4.1 Các phương pháp thu thập số liệu
- Thu thâp số liệu sơ cấp: Thu thập các tài liệu có liên quan đến điều
kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, tình hình quản lý và sử dụng đất, và các tài
liệu có liên quan đến đề tài. Các tài liệu này được thu thập tại Phòng Tài
nguyên và Môi Trường, phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, UBND
xã Kỳ Giang.
- Thu thập số liệu thứ cấp: Thu thập số liệu thông qua việc lập phiếu
điều tra và phỏng vấn trực tiếp các nông hộ trên địa bàn xã Kỳ Giang
3.4.2 Phương pháp thực địa
- Điều tra, phỏng vấn nông hộ, cán bộ xã để tìm hiểu và đánh giá hiệu
quả sử dụng đất của các loại hình sử dụng đất trên cơ sở các chỉ tiêu kinh tế
(tổng thu, tổng chi, lợi nhuận tổng hợp, hệ số quay vòng vốn), xã hội và môi
trường.
3.4.3 Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
- Đây là phương pháp phân tích và xử lý các số liệu thô đã thu thập
được để thiết lập các bảng biểu để so sánh được sự biến động và tìm nguyên
nhân của nó. Trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp cần thực hiện.
3.4.4 Các phương pháp kế thừa
- Thừa kế những số liệu đã có của các cơ quan chuyên môn trên địa bàn
huyện.
- Từ những số liệu mà ta thu thập được ta tiến hành đi thực địa để kiểm
tra xem những số liệu đó có xác thực với ngoài thực địa hay không để kịp
thời điều chỉnh cho phù hợp.
3.4.5 Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp thông qua
đánh giá các tiêu chí
Hiệu quả sử dụng đất là tiêu chí đánh giá mức độ khai thác sử dụng đất
và được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu sau:
Tỷ lệ SD đất đai: là tỷ số giữa hiệu của tổng diện tích đất đai và diện
tích đất chưa chưa sử dụng với tổng diện tích đất đai.
Tổng diện tích đất đai -Tổng diện tích đất chưa sử dụng
* Tỷ lệ SDĐ (%) =
Tổng diện tích đất đai
Diện tích các loại đất
* Tỷ lệ SD loại đất (%) =
Tổng diện tích đất đai
Nguồn: [3]
*. Đánh giá hiệu quả về mặt kinh tế, bao gồm các chỉ tiêu sau:
- Giá trị sản xuất (GO): là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ
được tạo ra trong một thời kỳ nhất định ( thường là một năm).
- Chi phí trung gian (IC): là khoản chi phí vật chất thường xuyên bằng
tiền mà chủ thể bỏ ra để thuê và mua các yếu tố đầu vào và dịch vụ sử dụng
trong quá trình sản xuất.
- Giá trị gia tăng (VA): là hiệu số giữa giá trị sản xuất (GO) và chi phí
trung gian (IC), là giá trị sản phẩm xã hội được tạo ra thêm trong thời kỳ sản
xuất đó: VA=GO - IC
- Hiệu quả kinh tế trên một đồng chi phí trung gian (IC):GO/IC; VA/IC.
- Hiệu quả kinh tế trên một ngày công lao động (LĐ) quy đổi: GO/ LĐ;
VA/LĐ.
*. Đánh giá hiệu quả về mặt xã hội, bao gồm các chỉ tiêu:
- Bình quân diện tích đất nông nghiệp trên đầu người.
- Thu hút lao động, giải quyết công ăn việc làm.
- Thu nhập bình quân trên đầu người ở vùng nông thôn.
- Đảm bảo an toàn lương thực và gia tăng lợi ích của nông dân.
*. Đánh giá hiệu quả về môi trường, bao gồm các chỉ tiêu:
Diện tích đất lâm nghiệp có rừng + Diện tích đất cây lâu năm
Độ che phủ (%) =
Tổng diện tích đất đai
Tổng diện tích gieo trồng hàng năm
Hệ số SDĐ (lần) =
Diện tích cây hàng năm (đất canh tác)
PHẦN 4 : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của xã Kỳ Giang
4.1.1 Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1 Vị trí địa lý, địa hình địa mạo.
*. Vị trí địa lý
Kỳ Giang là một xã miền núi nằm ở phía bắc thị trân Kỳ Anh, cách trung
tâm huyện 14 km, cách trung tâm thị xã Hà Tĩnh.
Phía Bắc giáp với xã Kỳ Phú và Kỳ Xuân
Phía Nam giáp với xã Kỳ Trung
Phía Đông Giáp với xã Kỳ Đồng
Phía Tây giáp với Kỳ Tiến
*. Địa hình địa mạo
Địa hình của xã vừa có đồi núi, vừa có đồng bằng, dạng địa hình kéo
dài và thấp dần từ Nam - Bắc, nghiêng từ hướng Đông Bắc sang Tây Nam.
Với ưu thế về địa hình, vị trí địa lý nên xã có điều kiện phát triển nền nông
nghiệp, lâm nghiệp đa dạng và bền vững
4.1.1.2 Thời tiết khí hậu
Xã Kỳ Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung
bình hàng năm của xã khoảng 25
0
C, tháng cao nhất 34
0
C, thấp nhất là tháng
12 với 15
0
C, độ ẩm không khí thường trên 70%. Các mùa được phân bố cụ
thể như sau:
- Mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3 với lượng mưa
trung bình năm trên 2000ml, vào mùa này thường có gió mùa Đông Bắc và
gió bão kèm theo mưa lớn, đây cũng là mùa ngập lụt.
- Mùa khô bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 9, là mùa nắng gắt có gió Tây
Nam nóng và khô, lượng nước bốc hơi lớn, đặc biệt là từ tháng 6 đến tháng 8
lượng mưa rất ít chỉ đạt từ 8 - 12% tổng lượng mưa cả năm.
Về mùa khô chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam nên thời tiết khô nóng,
lượng nước bốc hơi lớn gây nên tình trạng thiếu nước trong sản xuất và sinh
hoạt vẫn diễn ra phổ biến mặc dù đã có các tuyến kênh và hồ đập
Trong những năm gân đây do diễn biến thất thường của thời tiết đã gây
nên hiện tượng các bệnh xuất hiện trên các loại cây trồng và vật nuôi thường
xẩy ra như bệnh héo rũ ở cây lạc, bệnh đạo ôn và khô vằn trên cây lúa, cúm
gia cầm lan rộng đã gây tổn thất cho người dân.
4.1.1.3 Thuỷ văn, tài nguyên nước
Xã có nguồn nước mặt khá dồi dào về số lượng và chất lượng nước
cũng tốt. Nguồn nước sinh hoạt chủ yếu dùng bằng giếng khơi, nước phục vụ
cho sản xuất chủ yếu lấy từ kênh Sông Rác và từ các đập (đập Mạc Khê, đập
Tân Phong trên, đập Tân Phong dưới) trữ lượng nước khá lớn nên đã tạo điều
kiện thuận lợi cho việc phục vụ sản xuất. Có thể nói xã Kỳ Giang cơ bản đã
chủ động nguồn nước tưới tiêu trên các chân ruộng
Nguồn nước ngầm của xã cũng khá phong phú về số lượng, chất lượng
nước cũng tương đối tốt. Mực nước ngầm thay đổi phụ thuộc vào địa hình và
lượng mưa trong năm. Trung bình độ sâu từ 2m đến 4m. Đây cũng là nguồn
nước chính phục vụ cho sinh hoạt của người dân trong xã.
4.1.1.4 Tài nguyên đất
Toàn xã có tổng diện tích tự nhiên là 1715,88 ha, chiếm 1,36% tổng
diện tích của huyện. Theo tài liệu điều tra về nông hoá thổ nhưỡng của tỉnh
Hà Tĩnh năm 1971 và các cuộc điều tra bổ sung của huyện Kỳ Anh thì đất đai
của xã có thể chia ra các nhóm sau:
- Đất Feralit nâu đỏ chiếm khoảng 20% diện tích, được phân bố về phía
Nam và phía Bắc của xã. Tầng đất sâu, giàu dinh dưỡng thuận lợi cho việc
các cây ngắn ngày như đậu, lạc
- Đất Feralit nâu vàng chiếm khoảng 10% diện tích, được phân bố về
phía Tây của xã. Đất có câu tạo khô, nghèo dinh dưỡng, tầng đất mỏng nên
khả năng giữa nước và phân kém cần có kế hoạch cải tạo đất.
- Đất xám bạc màu chiếm khoảng 10% diện tích đất tự nhiên. Là loại
đất xấu phân bổ ở phía Nam của xã, đây cũng là loại đất cần được cải tạo
- Các loại đất khác như đất phù sa cổ, đất bãi bồi chiếm khoảng 60%
diện tích đất tự nhiên, được phân bố rải rác khắp trong toàn xã. Là loại đất có
tầng đất dày, chất dinh dưỡng khá nên được sử dụng để trồng Lúa, rau màu
4.1.1.5 Tài nguyên rừng
Theo số liệu kiểm kê năm 2005, diện tích đất lâm nghiệp có rừng của
xã là 400,11 ha bao gồm:
Diện tích rừng phòng hộ là 172,50 ha.
Diện tích rừng sản xuất là 227,61 ha. Đây là điều kiện thuận lợi để phát
triển sản phẩm lâm nghiệp hàng hóa tạo nên sự đa dạng hóa nền kinh tế của
xã tạo công ăn việc làm tăng nguồn thu nhập đáng kể cho người dân.
4.1.1.6 Thực trạng môi trường
Do trình độ thâm canh còn hạn chế và ý thức bảo vệ môi trường chưa
được chú trọng nên các hoạt động sản xuất nông nghiệp của nông dân đã làm
cho đất bị suy thoái, quá trình xói mòn và rửa trôi đã làm cho đất bị biến chất.
Thêm vào đó là tập quán khai thác sử dụng lạc hậu đã làm cho diện tích rừng
giảm cả về diện tích và chất lượng, kéo theo sự suy giảm về đa dạng sinh học.
Tuy nhiên trong những năm gân đây việc trồng rừng trên địa bàn xã đã được
đẩy mạnh nhằm nâng cao độ che phủ và ngăn ngừa các tác động tiêu cực đến
môi trường.
4.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội
4.1.2.1 Dân số - lao động
*.Dân số
Tổng dân số năm 2009 của xã Kỳ Giang có 5.679 người với 1.552 hộ gia
đình sinh sống trong 12 thôn (Tân Lập, Tân Thành, Tân Phong, Tân Diệu,
Tân Pha, Tân Giang, Tân Đông, Tân Khê, Tân Đình, Tân Thắng, Tân Hòa).
Mật độ dân số của xã hiện nay là 330,6 người/ km
2
và phân bố tương đối đều
ở các thôn. Trong những năm qua xã đã thực hiện tốt công tác dân số - kế
hoạch hoá gia đình, tốc độ gia tăng dân số hiện nay là 1,04%. [17]
*.Lao động
Tính đến năm 2009, xã Kỳ Giang có 2.835 người trong độ tuổi lao động
chiếm 49,9 % tổng dân số của toàn xã. Cơ cấu kinh tế của xã đã ảnh hưởng
trực tiếp đến cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế. Năm 2005 số lao động
trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm gần 95% số lao động đang làm việc trong
các ngành kinh tế, thì đến năm 2009 số lao động của ngành nông nghiệp chỉ
còn 71,8 %. [17]
4.1.2.2 Thu nhập và mức sống
Theo báo cáo của UBND xã thì thu ngân sách trên địa bàn xã năm 2008
là 1.873.384.185 đồng đạt 94% KH năm, 11 tháng năm 2009 là 2.349.502.000
đồng đạt 89% KH năm
Mức sống của người dân ngày càng được nâng cao, thu nhập bình quân
năm 2008 là 6,5 triệu đồng, năm 2009 là 7,6 triệu đồng, năm 2010 ước đạt
8,55 triệu đồng/người/năm. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2009 là 18,9% giảm 13,1%
so với cùng kỳ năm 2008.
4.1.2.3 Hệ thống cơ sở hạ tầng
*.Về giao thông
Toàn xã có diện tích đất giao thông là 49,56 ha chiếm 2,89% diện tích
đất tự nhiên. Nhìn chung mạng lưới giao thông của xã là tương đối hợp lý,
các tuyến đường thuận tiện cho việc đi lại và được nối với trục đường chính.
Tuyến đường Quốc Lộ 1A chay ngang qua xã dài 2,7km rộng 12m mặt nhựa
và tuyến đường Phong Khang dài 3km rộng 7m hiện là đường đất
Các tuyến đường chính (đường liên thôn) của xã gồm 11 tuyến có tổng
chiều dài là 12,5km thì hiện nay đã bê tông hoá và nhựa hoá được 9,5km tạo
điều kiện thuận lợi cho việc giao thông trong cũng như ngoài xã
*.Hệ thống thuỷ lợi
Hiện xã có hệ thống thuỷ lợi khá đầy đủ để phục vụ cho việc sản xuất
nông nghiệp có sự kết hợp hài hoà giữa thuỷ lợi cấp huyện và thuỷ lợi nội
đồng. Toàn xã có 136,97 ha đất thuỷ lợi, với hệ thống kênh mương nội đồng
có tổng chiều dài là 55,56km, trong đó có 30,76km đã được bê tông hoá, các
tuyến mương còn lại hàng năm được nạo vét tu sửa để phục vụ cho việc tưới
tiêu trong sản xuất.
*.Mạng lưới điện
Hiện nay xã có 4 trạm biến áp với tổng công suất 630KVA, có 5,1km
đường dây cao thế và 29,22km đường dây hạ thế.Hệ thống mạng lưới điện
quốc gia đã đi đến 12/12 thôn trong xã với 100% số hộ có điện phục vụ sinh
hoạt và dùng để sản xuất như máy xay xát, may bơm
Tuy nhiên, do xây dựng đã lâu, vốn chủ yếu do nhân dân tự đóng góp
và một số tập thể ở trong xã nên việc xây dựng không đồng bộ. Hiện nay
đường dây xuống cấp nghiêm trọng dẫn đến hao hụt điện năng, xảy ra sự cố
mất điện làm ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt của bà con trong toàn xã
4.1.2.4 Thực trạng phát triển kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 13,5%, thu nhập bình quân đầu người
đạt 7,6 triệu/người/năm. Cơ cấu kinh tế đang có hướng chuyển dịch tích cực:
Nông - Lâm - Ngư chiếm 59%, Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp và xây
dựng chiếm 19% , Thương mại dịch vụ chiếm 22% đã có tác động tốt tới đời
sống nhân dân
*. Nông nghiệp
- Trồng trọt: Những năm gân đây nhờ chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, từng
bước áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất đã là cho năng suất và sản
lượng cây trồng tăng lên, đảm bảo an toàn lương thực, thực phẩm và từng
bước nâng cao, cải thiện đời sống nhân dân.
Bảng 4.1: Bình quân diện tích và năng suất một số cây trồng ngắn
ngày chủ yếu xã Kỳ Giang
TT
Loại
cây
Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
Diện
tích
(ha)
Năng
suất
(tạ/ha)
Diện
tích
(ha)
Năng
suất
(tạ/ha)
Diện
tích
(ha)
Năng
suất
(tạ/ha)
1 Cây lúa 451,50 45,6 452,50 52,02 447 51,07
2 Cây lạc 40 21,4 40 19,50 42,50 20,71
3 Khoai lang 30,50 44,62 32 49,32 40 51,83
Nguồn : [14]
- Chăn nuôi: Ngành chăn nuôi của xã hiện đang chủ yếu là phát triển
trong các hộ gia đình với quy mô nhỏ lẽ nhằm tận dụng các phụ phẩm nông
nghiệp và lao động nhàn rỗi và tự túc sức kéo, thực phẩm, phân bón cho sản
xuất. Con vật nuôi chủ yếu của xã là trâu, bò, lợn, gia cầm.
Bảng 4.2: Tình hình sản xuất chăn nuôi xã Kỳ Giang
TT Chăn nuôi
Năm 2007
(con)
Năm 2008
(con)
Năm 2009
(con)
1 Trâu, bò 1.590 1.435 1.277
2 Lợn 4.500 2.450 3.450
3 Gia cầm 26.400 24.500 22.031
Nguồn: [17]
*. Tiểu thủ công nghiệp và thương mại
Các hoạt động của ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương
mại dịch vụ hoạt động sôi nổi hơn trước, đa dạng các mặt hàng ngày càng
tăng lên phục vụ đầy đủ cho sản xuất, xây dụng và mua sắm hàng ngày của
người dân. Theo số liệu điều tra cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể đến
1/10/2009 số hộ có tham gia vào các hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, thương mại và dịch vụ là 181 hộ, tăng 26% so với năm 2008. Tổng
giá trị ngành công nghiệp tiểu thủ công nghiệp là 7.531,2 triệu đồng, ngành
thương mại dich vụ là 9.147,3 triệu đồng theo thống kê năm 2009.
Trên địa bàn xã hiện có nhà máy gạch Tuynel hàng năm cung cấp một
lượng lớn gạch gói ra thị trường, góp phần giải quyết việc làm cho một bộ
phân lao động trong cũng như ngoài xã, tăng thêm nguồn thu nhập cho người
dân.
4.1.3 Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội xã Kỳ Giang
*. Thuân lợi
- Phần lớn diện tích đất trồng cây hàng năm của xã có độ phì khá. Đất
đai được hình thành trên đá Feralit đỏ vàng rất tốt để các loại cây sinh trưởng
phát triển
- Khí hậu phân bố theo mùa tạo điều kiện cho việc bố trí cây trồng theo
mùa vụ
- Tài nguyên nước khá dồi dào và rất chủ động đáp ứng nhu cầu tưới
cho phần lớn diện tích đất canh tác của xã. Thuỷ văn của xã khá đa dạng (các
hồ, đập) tạo điều kiện thuận trong việc điều hoà nguồn nước trong canh tác
mùa vụ
- Diện tích đất đồi núi chưa sử dụng còn nhiều, điều này cho thấy khả
năng tận dụng hết tài nguyên đất để đưa vào trồng rừng phát triển mô hình
kinh tế trng trại của xã là rất tốt.
- Nguồn lao động dồi dào, là những người dân có tập quán canh tác lâu
đời, kinh nghiệm sản xuất phong phú đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát
triển sản xuất nông nghiệp của xã
- Hệ thống giao thông khá phát triển là điều kiện thuận lợi cho việc sản
xuất, giao lưu trao đổi vật tư, sản phẩm nông nghiệp. Đặc biệt, xã có tuyến
đường quốc lộ 1A và tuyến đường liên xã Phong Khang chay qua là một lợi
thế lớn cho việc phát triển sản xuất hàng hoá và mở rộng giao lưu kinh tế với
cả huyện
- Hệ thống kênh mương thuỷ lợi thường xuyên được tu bổ, nâng cấp đã
góp phần quan trọng trong việc thâm canh tăng vụ, tăng năng suất và đa dạng
hoá ngành trồng trọt ở phần lớn diện tích của xã.
*.Khó khăn.
- Xã nằm trong vùng khí hậu miền Trung nên thường xẩy ra các thiên
tai như bão lụt, hạn hạn gây ra hiện tượng ngập nước về mùa mưa và thiếu
nước vào mùa khô làm ảnh hưởng tới việc sản xuất nông nghiệp
- Đất đai ít đa dạng nên không có khả năng đa dạng hoá cây trồng trong
sản xuất nông nghiệp
- Xã là địa bàn độc canh cây lúa, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và
dịch vụ chưa phát triển mạnh do đó tình trạng phát triển kinh tế xã hội của
địa phương còn nhiều hạn chế