Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Phiên chợ Giát 1 Nguyễn Minh Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.08 KB, 17 trang )

Lão Khúng thức giấc. Lão chợt thức giấc vì một giấc mê khủng khiếp. Trong
cơn mê ngủ, lão Khúng trông thấy một lão già thân hình cao vóng lại lủng
củng đầy những xương cùng xẩu, mái tóc cắt ngắn cứng như rễ tre, mớ đổ
phải, mớ đổ về phía trước trán, sợi đen sợi trắng loang lổ, mặt mũi gồ ghề, hai
con mắt nhìn gườm gườm, với những mảng tiết bò còn ướt hoặc đã khô dính
bết trên các bắp thịt nổi cuộn ở bả vai và bắp tay; cái lão già ghê tởm ấy giang
cả hai cánh tay nâng một chiếc búa to nặng như búa của thằng phụ lò rèn ở
đầu làng Khơi bổ xuống giữa đầu một con bò, cú đánh của chiếc búa tạ làm
lún một mảng trán sát hai con mắt của con vật, khiến cho một con mắt dính
đầy máu trồi ra ngoài.
Trời đất hỡi, đúng là con bò của nhà lão Khúng, con khoang đen nhà lão, "mụ
già khụt khịt hay cảm cúm" của nhà lão, "bà đội trưởng" của lão Khúng, con
bò nhà lão kêu rống lên một tiếng nghe ghê rợn, thứ tiếng kêu phát ra vào
buổi mờ sáng từ nhà a ba toa phố Cầu Giát mà từ nhỏ những bận đi củi qua
đó, qua các nhà a ba toa có ánh sáng ngọn đèn bãi chiếu như hắt ánh sáng ra
ngoài, lão Khúng đều phải bịt cả hai lỗ tai lại, vắt chân lên cổ mà chạy. Nào
có phải đứa dát, là đứa trẻ tợn tạo nhưng lão Khúng từ nhỏ đã không chịu nổi
bất kỳ con vật gì kêu khi sắp chết.
Ai? Ai đã giết con khoang đen nhà lão, người bạn đời của lão? Lão nào?
Thằng già chết tử chết tiệt nào, đứa thần trùng nào, bọn trộm cướp giết người
của dân kẻ bãi hay sơn tràng nào?
Thì lão chứ ai! Đứa hung thần là lão Khúng chứ ai! Kẻ nâng chiếc búa tạ lên
đánh vào đầu con vật là lão chứ ai! Tay chân run lẩy bẩy, mồ hôi toát ra khắp
sống áo đầm đìa, lão Khúng sợ quá. Lão đã trở nên độc ác quá mức, thật là vô
cùng ác độc, mà lão đã trở nên độc ác ngoài sức nghĩ của con người từ bao
giờ vậy? Giá như người khác, là người biết ngoan ngoãn tuân phục một thứ
tôn giáo nào thì chắc chắn lúc này, giữa đêm hôm khuya khoắt, lão đã lập tức
quỳ sụp xuống mà hối hả đọc kinh, đập đầu xuống đất mà van nài kẻ tôn thờ,
trút lòng ăn năn sám hối trước đấng thiêng liêng ở trên đầu trên cổ. Đằng này
là một kẻ vô đạo, lão Khúng chỉ biết lật mình ngồi dậy trên tấm phản gỗ mà
run sợ một mình, vật vã đau khổ một mình, tự mình lại lấy làm sợ hãi trước


chính mình. Lão mở trừng trừng hai con mắt mà nhìn tên hung thần đồ tể vừa
nhập vào lão, ngay khi lão bình yên ngủ trên tấm phản quen thuộc giữa nhà
mình.
Đoạn rồi như một kẻ vừa may mắn thoát họa, lão Khúng thở phào. Thực may!
may quá! Vậy là không phải, chỉ là trong giấc mơ. Không phải thực. Đúng,
mà đây rồi, con khoang đen nhà lão lúc này đang khụt khịt ở ngoài gian bò
sau nhà bếp.
Lão yên tâm nằm xuống. Và nghĩ về giấc mơ tiếp sau đó.
Pin! pin! pin!
Lạ lùng sao, con bò bỗng kêu rống lên lanh lảnh như tiếng còi ô-tô vậy nhỉ?
Mà hóa ra ô-tô thật, trong giấc mơ lão Khúng chẳng thấy con bò nhà lão ở
đâu nữa, mà từ phía sau lưng lão, ngật ngưỡng lao vút đến một chiếc xe
commăngca đầy oai vệ. Chiếc xe đít tròn không chạy trên đường mà bay là là
trên mặt đám ruộng trồng khoai lang, bay qua đoạn mương dẫn nước trước
nhà lão Khúng rồi lại bay qua mảnh sân nề vôi, bốn bánh xe không hề chạm
mặt đất.
Lão Khúng cứ trương mắt đứng ngó trân trân vào cái mặt kính chắn gió. Lão
trông thấy loang loáng ở đằng sau có một người đàn ông thân hình phương
phi, mặt tròn vành vạnh và đỏ rực như vầng mặt trời mới mọc, mặc sơ-mi cụt
tay mầu trứng sáo đã hơi nhùng nhục, đội chiếc mũ cát két xám. Người ngồi
ô-tô hớn hở tươi cười nhìn lão, chém chém vào không khí, giống hệt bàn tay
của các lãnh tụ trên lễ đài mà lão Khúng đã nhìn thấy nhiều lần ở trong phim.
Người đang ngồi trong chiếc xe đít tròn biết bay chính là ông Bời bí thư
huyện ủy, con người đang nổi tiếng khắp đài báo trong cả nước và là bạn thân
của lão Khúng.
Nghĩ tiếp về giấc mơ đến đoạn đấy thì lão không nghĩ thêm nữa. Lão vẫn giữ
nguyên tư thế nằm ngửa, chỉ động đậy hai cẳng chân duỗi thẳng, toàn thân
hơi mềm ra. Lâu nay thỉnh thoảng có đôi lúc lão đã thấp thoáng nghĩ đến cái
chết. Đêm lão nằm mê thấy những chuyện vui thì ít, rủi ro, tai họa là nhiều.
Cho nên mỗi lần nằm mê thức dậy bao giờ lão cũng mừng, rút cục là một nỗi

mừng rỡ, âm thầm mừng rỡ như mọi lần, cái thế giới trần ai đầy nhọc nhằn,
đầy thân thiết lại trở về với lão trước tiên ở thính giác, từ đôi tai đầy nhạy bén
của lão. Lão nghe được gần như cùng một lúc hai hột sương rơi trên tàu lá
chuối bên hồi nhà và trên ngọn đu đủ sau nhà. Hai con chó rất khôn của nhà
lão thì vẫn im hơi lặng tiếng. Nằm trong nhà, lão vẫn nghe tiếng chân chúng
đi tuần ngoài sân, trong lúc chó nhà thiên hạ đang sủa ran lên. Lắng nghe
tiếng chó sủa xa cứ râm ran, như cắn đuổi ma đang bắt đầu lục đục ru về các
chốn gió bụi, lão đoán biết ít nhất cũng đã hai ba giờ sáng chứ không ít. Bao
nhiêu thứ ánh sáng cùng cái thứ tiếng máy đằng khu công trường lớn, cả trong
khe Đá Dầu cũng đã tắt hết tiệt cả. Đêm tối thui và sâu. Đâu, đã từ lâu lắm lão
Khúng lại mới cảm thấy một vẻ im ắng về ban đêm như thế này khiến cho lão
hơi sờ sợ một nỗi sờ sợ nguyên thủy y như có ai lại vừa ném lão trở vào một
cái làng đất sâu hun hút và tối tăm - từ ở đấy lão đã ra đời, và cũng từ đấy ông
bà tổ tiên lão đã ra đời, để sinh ra lão.
Biết rằng dẫu muốn thì cũng không tài nào ngủ lại được nữa, lão Khúng đã
toan trở dậy nhưng cái cảm giác tối tăm nặng nề ban nãy như một hòn đá tận
dưới lòng đất sâu nối với thể xác lão bằng một sợi dây rất dài vô hình cứ níu
kéo không cho lão ngồi dậy.
Nhưng là một con người vốn quen săn sở đối với công việc, lão đã bật dậy:
sáng nay lão Khúng phải đi xuống chợ Giát bán con bò. Và lão đã rắp tâm dắt
con bò đi thật sớm
Suốt đời lão, trong muôn vàn những điều bực bõ, không thực hoàn toàn thỏa
mãn về chính mình, có một điều thỉnh thoảng lão lại cảm thấy là không biết
cách sắp xếp cho có thứ tự những thứ chứa ở trong cái đầu của lão, cũng
không biết cách diễn đạt thành lời cho rành rẽ - tất nhiên là chỉ diễn đạt với
mình - cái bầy ý tưởng rối rắm, tăm tối lại hay trái ngược lẫn nhau, lại đầy gai
ngạnh, như nhiều đàn bò của nhiều nhà tự nhiên đem nhốt chung vào một
chuồng và suốt đêm chúng nó húc nhau, rượt đuổi nhau lung tung beng cả
lên, ở trong ngăn chuồng quá đỗi chật hẹp là cái đầu của lão.
Lão ngồi bật dậy trên tấm phản mọt rồi lập tức thả hai bàn chân trần xuống

đất lạnh cóng. Lão làm thế, một cử chỉ đầy kiên quyết và dứt khoát là theo
kinh nghiệm sống của lão, nhằm để khắc phục cái sự dùng dằng phân vân
trong một công việc trọng đại, nó quá trọng đại - có thể nói như thế - mà sáng
nay lão phải làm, dứt khoát lão phải làm. Tì một bàn tay xuống mép phản, lão
rọi cặp mắt nhìn vào bóng tối trong nhà. Lão trông thấy có một tấm lưng trẻ
con nằm vắt trên miệng cái cối xay thóc kê ở gần cửa ăn thông giữa nhà ngoài
và buồng trong của mụ Huệ. Lại thằng Bút rồi! lão nghĩ. Đây là thằng con trai
út của lão, mới lên sáu tuổi. Cái thằng "đầu bò" ấy đêm nào cũng ngủ chung
với bố trên tấm phản nhà ngoài nhưng nửa đêm lại có thói quen hay rúc vào
buồng ngủ với mẹ. Thằng bé thường bước chập chững vừa đi vừa ngủ, trên
dọc đường nó vấp phải con chó đang nằm ngủ thì ngã nhào xuống ôm lấy con
chó mà ngủ tiếp luôn cho đến tận sáng. Cuối cùng thì chẳng có lần nào nó đi
tới được với mẹ mà sáng ngày ra chẳng hôm nào thấy nó ngủ ở trên giường,
trên phản. Hôm thì ôm lấy cái cối xay thóc, hôm nó ôm lấy cái chổi mà ngủ.
Như hai tên tuần đinh mẫn cán ở ngoài sân hai con chó vẫn ngậm miệng đi đi
lại lại. Một trời sao dày như mắt sàng sáng long lanh và ướt át. Sương khuya
rơi lộp bộp nặng trĩu từ trên những tàu lá xuống mặt đất chung quanh nhà vốn
đã ướt đẫm sương. Lão Khúng như một cái thân cây khô đầy mấu mắt và vặn
vẹo đứng im thin thít giữa mảnh sân một nền vôi trắng toát đang hướng mặt
về phía biển, lão cùng ngôi nhà đều đang hướng mặt về phía biển, về hướng
cái làng Khơi chôn rau cắt rốn của lão, của tổ tiên lão ở dưới ấy. Về hướng ấy
chân trời như thấp hẳn xuống và nhòe nhoẹt trong sương luôn luôn như dội
tới hai bên lỗ tai đầy thính nhậy như lỗ tai loài vật của lão những tiếng rì rào,
rì rầm của sóng biển của đất đai quê nhà và mồ mả cha ông, cũng chả biết đó
là những âm thanh có thực, lão nghe thấy thực hoặc chỉ là do lão đã từng nghe
thấy từ đời tám hoánh nào, từ khi còn nằm trong bụng mẹ.
Lão cúi khom lưng bước nhanh vào trong nhà bếp. Hai bàn tay lão sờ soạng
trong góc tối. Mùi cám lợn chen lẫn mùi phân dê vừa chua lòm vừa nồng nàn
xộc vào mũi lão nhưng những thứ mùi ấy đã trở nên quá quen thuộc đến mức
lão chẳng ngửi thấy gì cả. Lão lôi được từ trên cái giàn tre gác bếp xuống một

vòng dây chão mới và một vòng dây đã cũ. Gian bếp tối như hũ nút lão chỉ có
thể phân biệt được đấy là hai vòng dây chão mới và cũ bằng cảm giác trên
những ngón tay. Trong ngày phiên chợ sắp tới lão chẳng hề có ý muốn làm
đỏm làm dáng cho con bò nhà lão sắp đem bán một tý nào nhưng bằng những
ngón tay lão cảm thấy cuộn dây cũ đã quá cũ, nó đã mòn vẹt, thậm chí lão có
thể ngửi thấy được cả mùi mồ hôi của con vật rịn ra từ những lỗ chân lông ở
trên hông nó trong những buổi cày ngày này sang ngày khác đã thấm vào
trong cái vòng dây chão. Con khoang đen đã già yếu quá, từ lâu lão Khúng đã
biết vậy. Lão biết vậy từ đầu năm ngoái. Thậm chí bà con trong xóm người ta
không nói nhưng đã biết như vậy trước cả vợ chồng lão Khúng, người ta nhận
ra nó đã già lão từ năm ngoái. Con bò đã hom hem như một bà lão vậy mà cái
sợi dây chão lại cũ, không khéo người ta nhìn vào lại càng thấy nó già yếu
hơn? Lão Khúng đứng trong bóng tối và đang tính toán mọi đường hơn lẽ
thiệt về cái uy thế của con bò nhà lão lúc ra đứng ở giữa chợ.
Trong bóng đêm tối thui lão Khúng đứng nhìn sợi dây chão đã từng cột cổ
bao nhiêu con bò, đã từng gắn bó với đất cát nhà lão, đã từng đi qua đời lão,
phải rồi ngày xửa ngày xưa đấy là sợi dây chão vẫn còn mới nguyên, những
sợi lạt giang mới cứ trắng tinh như lụa bện chặt vào nhau mà lão đã mang từ
chợ Cày về cùng với mồ ma con vá lưng, lão đã dùng sợi dây này dòng con
vá lưng tận trong chợ Cày về, và cũng trong cái bận đi tậu bò ấy, lão đã giáng
cho cái thằng cha lái bò trong chợ Cày một bài học đáng đời, lão đã làm cho
hắn được một mẻ ngượng ngay giữa chợ. Là bởi vì cái thằng cha bủn xỉn quá
thể đã bán con bò cho lão, cầm trên tay cả một đống giấy tiền lớn cuộn tròn to
bằng cả cái khăn xếp vậy mà còn định cởi ra khỏi cổ con vật cái dây chão.
Vậy thì để cho lão phải cởi dải rút ra mà dắt con bò về à? Quả thực thì sợi dây
trông còn mới quá, còn mới hơn rất nhiều cái cuộn dây mới lão Khúng đang
cầm trên tay bây giờ.
Nghĩ thế rồi lão Khúng quay trở vào cất cuộn dây mới lên gác bếp. Lão xách
cuộn dây cũ ra. Chậc, dù chỉ là cái vặt nhưng cũng phải xuất tiền ra mua chứ
chả ngửa tay xin không được của ai bao giờ, lão nghĩ vậy trong khi bước qua

một lối đi rải vỏ ngao từ nhà bếp ra chuồng bò. Đi qua cái chum vỡ miệng
chứa nước múc dưới giếng lên, lão cầm cái gáo dừa múc nước trong chum tu
một ngụm, súc miệng sùng sục.
Con khoang đen đã trông thấy bóng lão Khúng ngay từ lúc lão vừa thức dậy
đi qua sân vòng ra căn nhà bếp đứng đái ồ ồ rất lâu ở cái thùng đựng tro đặt
sau chuồng lợn. Mặc cho trong đêm tối, con bò cũng rất dễ nhận ra hình của
lão Khúng. Hơn chục năm nay, con vật đã quá quen với một cái hình dáng
con người, đứng trên hai chân y như một cái cây dại tự nhiên từ trong đất mọc
lên, con vật chỉ khụt khịt lỗ mũi vài cái đã có thể đánh hơi thấy từ xa mùi mồ
hôi muối thân thuộc và lập tức đánh thức dậy trong trí lực u tối của nó một ý
chí thuần phục. Như tuân theo một thứ quán tính, trông thấy lão Khúng vừa
đưa ống tay áo chùi nước hai bên mép vừa bậm bạch đi tới trước cửa giàn,
con bò đã toan bấm móng xuống đất đứng dậy nhưng lại như một đứa trẻ
quen làm nũng nó biết rằng cần phải tỏ ra khủng khỉnh đôi chút, lão Khúng
cũng thừa biết vậy, lão đưa bàn tay vỗ nhè nhẹ lên cái cổ vươn dài ra ngoài
then cửa nhưng khi con bò ngoan ngoãn đứng dậy, bàn tay lão trở nên run run
khi buộc sợi dây chão vào cổ con vật. Lão Khúng biết rằng cái nốt buộc lần
này sẽ không bao giờ cởi ra nữa, lão đang cột cái chết vào cổ con vật.
Con bò già nua làm sao thấy được một giọt nước mắt của lão Khúng vừa lăn
vào lớp cỏ ống nhầu nát dưới bàn chân lão trong lúc lão oằn người giang hai
cánh tay thúc cái then cửa giàn về một bên để mở cửa giàn bò cho con bò đi
ra. Với chiếc dây chão cũ rích nằm vắt hai vòng trên cặp sừng rồi bỏ thõng
xuống một bên bả vai đã sần sùi như da cóc vì suốt đời mang ách, con
Khoang đen già nua lững thững đi ra khỏi cửa giàn, bốn móng chân nó giậm
lộp bộp trên nền đất bột của mùa hanh khô vương đầy rơm rạ cùng những
cọng cỏ tươi đã lấm láp.
Ra khỏi cửa giàn mới dăm bước, con vật liền đứng lại. Nó khụt khịt lỗ mũi
đánh hơi mùi đất ẩm sương đêm lẫn mùi ngai ngái hăng hắc xông lên từ một
cái quang cỏ còn nguyên vẹn nén chặt trong bốn sợi dây thép, toàn cỏ ống đã
rửa sạch mà con Nghiên, đứa con gái áp út của lão Khúng vừa đi cắt tận trong

chân núi, lúc nhập nhoạng tối. Con vật thè cái lưỡi ram ráp bứt một ngọn cỏ
trong chiếc quang nhai trệu trạo giữa hai hàm răng trắng nhởn, liên tiếp giậm
bốn móng xuống đất tỏ ý ngạc nhiên chứa đầy bất mãn đối với lão Khúng vì
nó cảm thấy đêm vẫn còn sâu sao mà lão Khúng đã lôi nó dậy đi cày sớm quá.
Nhưng rồi như một thói quen mỗi buổi sáng ra ruộng, con khoang đen già nua
ngước mõm lên trời kêu lên một tiếng "ngọ" khàn khàn đầy não nề làm rung
chuyển màn đêm. Cũng theo thói quen mỗi lúc ra ruộng, lão Khúng đánh con
bò ra khỏi giàn liền chạy đi nhặt một chiếc rổ thưa bật vành dính đầy tro lẫn
phân bò khô đem đặt giữa hai chân sau của con vật. Ngay từ khi con khoang
đen đang còn là một con me mới ra đời 14 năm trước, nhìn tướng mạo lão
Khúng đã lấy làm bằng lòng khi trông thấy cái xoáy chỗ mút mông lão biết
suốt đời con vật sẽ ỉa trước khi ra đồng, lão nuôi nó sẽ không bao giờ mất
phân, hơn nữa, cái cuống đuôi không tròn vo mà bèn bẹt như đầu con cá chai:
con vật sẽ ban thưởng cho lão ngoài sức lao động của nó, những hòn phân ra
hòn phân cứ chắc nịch chứ không bao giờ ỉa té re. Lão đứng trước cửa giàn lơ
đễnh nhìn những ngôi sao trên trời chờ con bò đại tiện và lấy làm tiếc từ nay
nhà lão không còn nguồn phân ngồn ngộn của con khoang đen để hằng ngày
hót đổ xuống cái hố ủ bên cạnh giàn bò nữa.
Hai cánh mũi hít hít cái mùi phân vừa trút ra khỏi cơ thể con vật còn nóng ấm
và đầy nồng nàn đang tan vào không khí về sáng hơi giá buốt, lão cầm đầu
dây chão dắt con bò ra chỗ gốc cây vối ngoài đầu ngõ, ở đấy một chiếc xe bò
bánh lốp ô-tô đậu nép bên hồi nhà bếp chỗ đầu hồi hơi nhô ra, nơi đặt chiếc
cỗi giã gạo đạp bằng chân, hai bánh lốp ô-tô của chiếc xe bò được quấn một
sợi dây xích cột vào bên chân cối giã gạo.
Lão Khúng nhìn qua một đống củi lẫn những bó chè xanh chất cao lù lù trên
thùng xe, trông thấy một mái đầu bịt khăn quàng đen đang ẩn hiện ở bên kia
chiếc xe, lão hơi giật mình biết là mụ Huệ đã thức dậy, vợ lão đã thức dậy
cùng lúc với lão trong cái giờ phút trọng đại vĩnh biệt con bò.
Mụ Huệ không hề lên tiếng cứ như người ngậm tăm, lão cũng vậy. Lão đứng
hơi né ra một bên khi người đàn bà đi tới giơ tay cầm lấy một bên chiếc sừng

nhẵn bóng, dắt con vật sang bên kia thành xe. Lão Khúng đi quanh một vòng
thít lại sợi dây mây chằng những bó củi rồi ra chỗ gốc vối ngồi xổm xuống,
kẹp chiếc điếu cày giữa hai đầu gối, những ngón tay tự nhiên tê cứng run rẩy
mãi mới châm được mồi thuốc lào vào cái nõ điếu bằng gỗ thị. Lão ngó nhìn
chung quanh một lát mới bật cái bật lửa, thu thu ngọn lửa trong tà áo để khỏi
rọi ánh sáng vào nhà khiến lũ con có thể tỉnh giấc vào lúc này. ánh sáng từ
chiếc bật lửa trên tay lão rọi một khoảng trăng trắng trong lòng chiếc chậu
sành da lươn. Trước mặt lão, mụ Huệ ngồi xổm còn con bò đang đứng sung
sướng thè lưỡi liếm thứ cháo nếp đặc sánh vô cùng thơm ngon mà mụ Huệ đã
nấu sẵn từ đầu hôm. Nó có cái gì giống như bữa tiệc thết người trước khi
bước lên đoạn đầu đài. Con bò già nua ăn chậm chạp, chiếc cổ cúi xuống gần
như không động đậy, chỉ có chiếc yếm đã nhẽo ra hơi run run, thỉnh thoảng
con vật lại đưa chiếc lưỡi ram ráp liếm ngược lên theo thành chậu rồi âu yếm
liếm trên hai bàn tay đã dăn deo vì lam lũ của mụ Huệ đặt thõng trong lòng
chậu cháo.
Chờ cho con bò ăn xong, mụ Huệ đưa bàn tay vẫn còn dính những hạt cháo
nếp vuốt ve nhiều lần lên cổ con vật, đoạn dắt nó đến bên càng xe. Lão
Khúng vội vã chạy tới vứt chiếc điếu cày lên đống chè xanh trên nóc xe đoạn
cúi gò lưng nâng bổng cả hai chiếc càng xe lên khỏi mặt đất, đặt chiếc ách gỗ
mặt trong đã mòn lõm vào cổ con vật.
Hai vợ chồng lão Khúng đứng nhìn con bò rồi nhìn nhau một lúc trong đêm
vắng. Cả hai vẫn lặng im.
Lão Khúng biết không thể dùng dằng được nữa, không phải dùng dằng đối
với mụ Huệ mà chính lão sợ con Nghiên và thằng Bút ngay lúc này trong nhà
thấy động chúng thức dậy. Ai chứ thằng Bút, thằng "đầu bò" sẽ nằm lăn quay
ra trước xe, thậm chí ôm chặt lấy hai chân trước của con bò không cho bố
đem đi đâu cả.
Nhất là con Nghiên, năm nay mới 9 tuổi đầu nhưng từ khi biết cầm cái liềm,
là đứa con gái bé nhất của lão đã biết ngày ngày chăm chỉ đi cắt cỏ, mỗi ngày
một gánh đầy, để cho con khoang đen ăn no để đi cày, có hôm nó đi cắt tận

trong khe núi giáp Diễn Châu, gánh gánh cỏ đi lạc mãi trong những dãy núi,
vừa sợ, vừa đói chín mười giờ đêm mới tìm được đường về làng.
Lão hấp tấp trèo lên ngồi chênh vênh trên thành xe, kêu lên những tiếng "hầy,
hầy" đầy gắt gỏng. Nhưng đâu có phải chờ lão giục, con bò đã vươn dài cổ
kéo chiếc xe bánh lốp đã mòn vẹt lọc cọc lăn qua trước mặt mụ Huệ đang
đứng câm lặng bên gốc vối. Ra khỏi nhà một đoạn, lão nhảy xuống. Con
đường dốc sục lên những đất bột tự nó kéo chiếc xe lăn tuồn tuột xuống dốc.
Lão Khúng bước cao bước thấp, hai tay cố níu giữ chiếc xe đi chậm lại, lão
quay ngoái cổ, bằng con mắt con vật, nhìn một lần cuối cùng ngôi nhà với cái
dốc tường hình tam giác trắng nhờ nhờ in bật trên nền trời sao đêm về sáng
đang nhấp nháy liên hồi, bỗng giật mình chợt nhìn thấy bên gốc vối không
phải chỉ có một mình vợ lão mà còn thêm một cái bóng bé bỏng, trời ơi, con
Nghiên! con Nghiên! sao nó biết mà dậy? Lão Khúng thấy vướng vức trong
lòng vô cùng. Suốt tối qua, chiều qua và cả ngày hôm nay, cả hai vợ chồng
lão đã đồng lòng giấu biệt không cho lũ con biết sớm nay sẽ đem bán con bò
của nhà. Vậy mà đứa con gái đã biết mà thức dậy, đứa con gái hai bàn tay lúc
nào cũng sây sát ứa máu vì công việc cắt cỏ cho con bò ăn để đi cày.
Thực ra con bé thức dậy tự lâu lắm, trước lão Khúng và dường như là suốt
đêm nó không ngủ. Con bé lên chín sứt răng, bằng mối mẫn cảm đặc biệt của
dòng máu gia đình nông dân, nó biết tính toán rồi ra trước sau không còn cách
gì khác, nhà nó cũng phải bán con khoang đen đi để lấy tiền cho bố đi vào
Đác Lắc một chuyến nữa, để làm nhà làm cửa cho vợ chồng anh Lạc nó đang
đi "kinh tế mới" và đang gặp khó khăn ở trong đó, trong đó là đâu? Đác Lắc,
Đác Lắc, cái xứ đất rất xa lạ ngoài sức tưởng tượng của nó, ngoài tầm tay với
đầy tình thân yêu nhưng ngắn ngủi của nó đối với người anh mà cứ mỗi lần
có ai đang nói chuyện nhắc đến hai tiếng Đác Lắc là con bé dỏng tai lên nghe
hóng, không khỏi mủi lòng bùi ngùi sực nhớ ngay đến vợ chồng anh Lạc,
người hiền như đất, tính tình như con gái mà nó thân nhất nhà, thương nhất
nhà.
Hồi tháng một năm ngoái lão Khúng đã đi thăm con một chuyến trong Đác

Lắc, về cái công chuyện này cũng có đôi lúc lão Khúng nghĩ mà lấy làm buồn
rầu. Dù sao đời lão đã phải bỏ làng xóm, bỏ mồ mả tổ tiên ở dưới biển để lên
tận đây, cái miền ngược ma thiêng nước độc này để khai khẩn đất cát kiếm
miếng sống, lão vật lộn với miếng đất rừng này đến giờ đã gọi được là tạm
mát mặt, hòn đất đã bớt đi rất nhiều mầm cỏ dại, hòn đất đã gần hóa thành
hòn đất thuộc, lão đã tưới đến gần cạn kiệt mồ hôi cho mảnh đất này thì đời
con lão lại phải bỏ đây để đi đến những miền khác, những miền rừng khác xa
xôi hơn, mịt mùng hơn. Chả lẽ đời của lão, cái số phận của lão, của vợ chồng,
con cái lão là phải như vậy, cứ phải như vậy?
Ôi, lão Khúng nghĩ, giá không phải chạy theo đứa con để bù trì nâng giấc
cuộc sống ban đầu cho nó ở cái nơi đất khách quê người chắc chắn hôm nay
lão không phải rong con khoang đen xuống chợ Giát từ nửa đêm thế này? Mà
cái con khoang đen nó đã già gì, vẫn biết rằng nó đã đủ răng, đã đoạn từ lâu,
nhưng của bền tại người, ông Bời bí thư huyện ủy nói đúng, trong các xã có
con bò nào béo gầy, bảo già thì hãy cứ dắt lên vùng trên giao cho ông Khúng
nuôi hộ. Chỉ nửa năm chúng sẽ trở thành trai tơ, gái tơ, lại kéo cày được!
Một cái bóng mảnh nhỏ trong đêm như chiếc lá cỏ vụt bay ra khỏi gốc cây
vối, vật tượng trưng cho cái ngõ ra vào của nhà lão.
- Họ, họ
Miệng kêu khẽ bằng cái giọng âm thầm của một người quen ăn to nói lớn, hai
tay giữ chặt lấy càng chiếc xe không cho hai bánh lốp nhúc nhích. Lão Khúng
đứng làm cái phanh xe hồi hộp đợi đứa con gái chạy xuống và trong bóng tối
lão trông thấy chạy phóng lên phía trước đứa con gái là hai con chó nổi tiếng
của gia đình lão: con mực và con vàng. Chẳng hiểu sao hai con chó cũng trở
nên đầy quyến luyến đối với con bò, chúng chạy quẩn quanh chân con bò, hai
con vật giữ nhà đưa mũi hít hít trên những chiếc móng sừng của con vật kéo
cày, trong lúc con Nghiên nước mắt giàn giụa sụp xuống ngồi xổm dưới tấm
yếm thõng thẽo, rồi con bé xõa cả mái tóc ngắn đỏ quạch chưa kịp cặp lại
bằng chiếc cặp ba lá từ khi nhảy choàng ra khỏi giường, để cho mái tóc trùm
lên đầu, lên cổ con vật, hai bàn tay bé nhỏ không ngừng vuốt ve hết mũi

miệng, đến đầu cổ con vật. Con bò cũng tỏ vẻ buồn bã, hay là đến lúc này
bằng bản năng loài vật, nó đã cảm thấy được nó đang đi chuyến đi cuối cùng
của đời nó, giữa đêm khuya?
Con Nghiên chừng như không còn chịu đựng nổi nếu đứng mãi bên con vật
mà suốt đời nó chăm sóc, con bé liền chạy lại gục đầu vào ngực bố bởi nó biết
chính lúc này bố nó cũng đang đau khổ vì phải đem bán con bò. Lão Khúng
đưa một bàn tay lên vuốt vuốt trên phiến lưng gầy guộc của đứa con gái chăm
làm nhất nhà. Lần đầu tiên lão nhận thấy từ mái tóc và hơi thở của đứa con
gái nhỏ phả ra mùi của các loài cỏ rất tươi non của đồng nội, vừa đắng vừa
ngọt, phải lúc lâu sau khi đứa con đã rời lão và khụt khịt như đang khóc vừa
chạy vụt trở về với mẹ bên gốc cây vối, lão mới âm thầm nhận ra trên cơ thể
của nó cái mùi cỏ ống vừa cắt, cả mùi đất rừng hoang dã rất xa xưa đã ngủ
trong ký ức của lão nhiều năm về trước, khi lão còn là một chàng trai cùng
mụ Huệ vừa từ dưới làng Khơi lần mò đặt chân lên đây.
Thời bấy giờ con Nghiên hãy còn chưa đẻ, hơn một nửa số con cái của lão
hãy còn chưa đẻ, con khoang đen cũng đang còn nằm trong bụng mẹ nó là
con vá lưng mà lão sắp sửa đi tậu từ trong chợ Cày. Những ngày tháng ấy như
thuộc vào thời kỳ mới có loài người, lúc bấy giờ trong cái "ổ gấu chó" của gia
đình lão, cái gia đình loài người độc nhất giữa lòng rừng này mới có thằng
Hùng, thằng Dũng và thằng Lạc mới sinh được hai tháng đang còn đỏ hỏn
nằm trong lòng mụ Huệ.
Y như thể ngày ấy mặt đất đâu đâu cũng là rừng rú, người thì ít, lác đác, quá
ít, chỉ có một gia đình lão do táo tợn mới dám chạy lên lập nghiệp, ấy vậy mà
cái sợ lại không nhiều như bây giờ. Con người ta sợ nhau nhiều hơn là sợ beo
trăn, cọp hổ, mới nói tưởng chẳng thể nghe lọt tai nhưng ngẫm nghĩ lâu lại
thấy đúng như thế, nhất là từ ngày có cái công trường của nhà nước. Ngày
trước cái gì bỏ đâu còn đó, thậm chí một cái ruột áo bông mới mua để mặc
rét, suốt mùa hè vứt ngoài khe đá mà có ma nào lấy? Ai lấy? Lão sống như
người rừng, đánh mất luôn tính cách một người ở đồng bằng, một anh nông
dân bon chen ở làng. Vợ lão vốn một người thành phố lại càng thay đổi nhiều.

Cả hai vợ chồng trở nên lầm lì, tính nết cũng âm âm u u như tính nết của
rừng. Ngày đó, lắm lúc lão Khúng nhìn những đứa con chơi với nhau bên
hang đá, đầu ngọn suối, lão ứa nước mắt, nói dại, lão cứ nghĩ không biết
chúng nó là con lão hay là con của loài cầy cáo, beo trăn, mỗi lần nghĩ dại
thế, lão lại lăn ra cười một mình, cười lăn cười lộn như một kẻ điên, trước cái
sự vây bọc tưởng không bao giờ thoát ra nổi của hoang vu.
Bây giờ con người đã đông hơn con vật, sắt thép đã đông hơn cây cối vậy mà
lão lúc nào cũng nơm nớp. Vụ đông năm ngoái, cánh công nhân cơ giới hái
trộm mất của nhà lão cả gần sào cà chua vừa độ chín rộ. Còn năm nay, mới
tháng trước, con Hương, đứa con gái nổi tiếng xinh đẹp của lão đi học dưới
trường cấp III của huyện được về nhà chiều thứ bảy. Mới nhập nhoạng tối
chứ đã khuya khoắt gì, lão ngồi xổm trước thầm đang lúi húi dở nồi khoai
lang luộc, trông qua làn khói, lão phát run lên, vừa tức giận, trông thấy con
gái mặt cắt không còn giọt máu, guốc, dép vứt đằng guốc dép, chạy bán sống
bán chết từ dưới con dốc trước nhà lên, hốt hoảng như bị lợn rừng rượt
2
Con bò già, lão Khúng cùng chiếc xe vẫn chưa mò mẫm ra khỏi cái hõm đất
dưới chân dốc trước nhà. Đất bột sục lên ngang bắp chân hắt lên trời một cái
quầng trắng nhờ nhờ. Khắp mặt đất xó nào cũng vứt ngổn ngang từng đống
thanh sắt hoặc cuộn dây thép hoặc những cái hòm gỗ cao to lừng lững như
những cái nhà khiến lão Khúng phải nhảy xuống dắt con bò đi len lỏi giữa
những khoảng bóng tối của đám vật liệu công nghiệp vít mất hết cả đường xá.
Con mực, con chó có tính hay phất phơ, lang thang vẫn lẽo đẽo chạy theo lão.
Lão đứng lại, quay đầu chiếc roi chỉ về hướng nhà rồi cất tiếng đằng hắng.
Con chó đen liền cun cút quay trở lại để giữ nhà. Ra đến đường, trời đất hình
như có sáng hơn một chút. Một vệt đất nhẵn chìm ngập trong rừng cỏ may lẫn
sim mua của những vạt đồi nằm nghiêng nghiêng nhấp nhô hai bên, đến lúc
này lão Khúng mới cảm thấy ớn lạnh, cái lạnh như từ những vạt sao xanh
ngời ngời tận trên đỉnh trời tiết ra theo từng nhịp ánh sáng nhấp nháy. Lão
quài tay ra sau túm ngay được chiếc áo dạ cứt ngựa mà mụ Huệ đã chu đáo

nhét vào giữa những bó củi ngay sau lưng chỗ lão ngồi.
- Chậc, trời với đất , lão thốt lên một câu nửa chừng rồi im, không dám thú
nhận với mình đã dại dột đánh con bò đi quá sớm. Đáng lý có thể để cho nó
và cả lão đàng hoàng ngủ thêm một giấc đẫy nữa rồi hẵng ra đi cũng vừa.
Bỗng nhiên lão Khúng có cảm tưởng mình là một tên đêm lén lút đi ăn trộm
bò của nhà ai và lấy làm bực cả mình. Cũng tại cả cái con vật này nó đã
không cho lão ngủ, nửa đêm đầu hôm thức chong, nửa đêm về sáng vừa chợp
mắt lại nằm mê thấy nó
Khoác hờ chiếc áo dạ ở một bên vai ngồi co ro trên thành xe, lão đưa mắt
nhìn đau đáu vào cái khoảng cổ đã trụi hết lông và sần sùi da cóc của con vật
trên đó chiếc ách cổ đang xiết chặt lấy làm phát ra những tiếng lọc cọc trong
đêm vắng, và một khoảng bóng tối đen kịt cứ như đóng đinh vào phía trước
mặt con bò, một khoảng bóng tối chừng như quá sâu, quá dầy, còn lâu mới
chọc thủng, và dưới chân lão Khúng và con vật tất cả đất đai cùng cỏ cây đều
đang còn nồng nàn trong giấc ngủ say như chết, những con chim sâu lẩn lút
trong đám cỏ may cũng chưa hề cất lên tiếng kêu chích chích, lão chỉ nghe
tiếng côn trùng tỉ tê rất xa, và bốn phía trời đất dường như đang còn mịt mùng
chìm đắm trong khoảng bóng tối của âm ti.
Ngồi một mình, lúc này lão Khúng đang nghĩ đến cái lúc nay mai lão phải
báo tin đã bán con bò khoang đen cho tất cả chín đứa con của lão biết, từ
thằng Bút đứa con trai út đầy dại dột cho đến con Hương đang học lớp 12
dưới phố Cầu Giát, cho tới thằng Đoan, con Lê nửa ngày đi học nửa ngày đi
làm với vợ chồng lão ở nhà, rồi những đám vợ chồng thằng Dũng, đang ở
trong tỉnh, vợ chồng thằng Lạc ở tận Đác Lắc. Ôi, mới đáng sợ làm sao, cả
một thời trẻ thơ của từng đứa con lão cũng như cả một đời làm lụng vất vả
trong gia đình của từng đứa một đều gắn bó với con vật này, đã từng chăn dắt
đùa nghịch với con vật rồi đi cày đi bừa, thức khuya dậy sớm, con khoang
đen này suốt 18 năm nay đã trở thành một người trong gia đình lão, một thành
viên trong gia đình lão, dường như đến tận bây giờ lão mới thấu hiểu rõ cái
điều hiển nhiên này.

Có đi nhanh lên không nào, lão Khúng lấy làm bực mình vô cùng lên tiếng
quát thật lực, đi nhanh lên! Rảo bước đi nhanh lên, mà chết cho sớm sủa! Để
cho người ta nện một búa vào đầu mày cho nhanh lên, đồ quỷ ạ!
Rồi đến lượt tao, tao cũng phải tìm cách "báo cáo" với chúng nó, với những
đứa con trai lẫn con gái của tao rằng tao đã phải bán mày, rằng từ nay trong
nhà không còn mày nữa, rằng tao đã giết mày! Mà mày cũng đã già nua tuổi
tác rồi chứ chả còn là thiếu nữ hay nạ dòng gì nữa, ông trời sinh ra số kiếp
mày đã như thế, suốt cả một đời nai lưng kéo cày, già thì giết thịt! Có ai để
cho một con bò già rồi chết để làm đám tang cho thật to, thật linh đình bao
giờ?
°
° °
Trong thế giới bao la giữa đêm tối sâu thẳm tĩnh mịch, chỉ những ngôi sao
xanh ngời ngời và ẩm ướt đang nhấp nháy tận đỉnh trời là có thể nhìn thấy hai
giọt nước mắt đặc quánh như một thứ chất dầu đang dâng lên tận trong khóe
mắt lão Khúng.
Lúc này bằng những lời nói âm thầm từ trong lòng lão, lão đang báo tin việc
bán con bò với thằng Dũng, "báo cáo" cái việc này với đứa con thứ hai của
lão đã hy sinh trên chiến trường Kampuchea cách đây hai năm. Đấy là thằng
con trai đích thực mang dòng máu của lão, cho nên từ ngày đứa con chết,
phần nào tính tình lão có thay đổi, lão đâm ra hay nghĩ, không hùng hục chỉ
biết làm như trước. Sau khi nỗi thống khổ đã dần dần qua đi nhưng vẫn âm ỉ
như một đợt sóng biển phủ vào đất liền đã rút nhưng vẫn để lại cái chất mặn
làm xót cây khoai, cây lúa, dường như là lần đầu tiên lão nghĩ đến nỗi nhọc
lòng mà từ nay đời lão phải gánh chịu: một nỗi đau đớn không bao giờ nguôi
quên vì cái chết của thằng Dũng. Điều này chỉ có mụ Huệ là người có thể thấu
hiểu được cõi lòng của lão.
Đó là một buổi chiều cách đây hai năm, lúc ấy đã nhập nhoạng tối, chỉ còn
mình lão với con khoang đen ở nán lại bên một đống đá xếp vuông vức bên
bờ một mảnh ruộng mới khai phá tận trong khe Đá Dầu. Lão gắt mù lên với

cái con vật lúc bấy giờ có cái gì làm nó sốt ruột cứ lồng lên kéo chiếc xe chở
đá về nhà.
- Họ họ Khoan đã nào! Mày tưởng tao không biết đói bụng đấy hử?
Nói nhẹ không xong, lão nhiếc móc nó, nào đồ siêng ăn nhác làm, đồ rắn mặt,
đồ khó bảo, nhưng con vật vẫn vươn cổ, bấm bốn móng xuống, kéo bánh xe
lăn đi. Lão vội vã hất hòn đá màu gan gà to bằng cái cối đang ôm trước bụng
vào giữa lòng chiếc xe chất ngổn ngang những đá là đá, lão muốn tranh thủ
chở hết đống đá về nhà trong dăm ba buổi chiều cho xong để kịp xây lại bức
tường phía sau nhà bếp thay vào chỗ bức vách đã nát. Mà sao cái con vật hôm
này bỗng giở chứng, mọi ngày có bướng thế đâu, lão thủng thẳng đi phía sau,
vừa đi vừa nghĩ, thỉnh thoảng đưa tay đẩy giúp cho con bò đỡ nặng mỗi lúc
chiếc xe chở đá lắc lư bò qua một khúc suối nước chỉ xâm xấp mắt cá chân,
với những bụi cây rậm rạp hai bên đã chứa đầy bóng tối.
Lão và con bò chưa về đến gốc vối đầu ngõ đã nghe trong nhà khóc ran lên,
những tiếng khóc đầy đau đớn thảm thiết. Cả dưới bếp lẫn nhà trên tối mò
mò, chả đèn đóm. Một cái gì sụp đổ xuống trong người lão. Để mặc kệ con
khoang đen một mình đang gò cổ vồng lưng lên gần như chết đứng với xe đá
trên lưng chừng cái dốc ngay trước nhà, lão Khúng đã thấy tối tăm cả mặt mũi
nhưng vẫn cố gượng để đừng ngã vật xuống, lão cố lê bước lên dốc. Chưa bao
giờ quãng đường ngắn ngủi chỉ dăm bước chân trên lối đi về nhà đối với lão
lại xa như thế, khó nhọc như thế, tưởng sức lão chẳng bao giờ đi thấu. Lúc
bấy giờ con Lê, đứa con thứ 5 sinh cặp kè sau con Hương, một đứa con gái
trông thô kệch, nhưng đa cảm, đen như cột nhà cháy, đứa con gái ấy đã gần
như hóa dại, khóc lóc không thỏa nó chạy ra ôm lấy ngang thân cây vối ở đầu
ngõ, đập đầu chan chát vào cái cành mà lão Khúng vừa cưa cụt.
- Bố ơi, anh Dũng chết rồi!
Có lẽ suốt đời lão sẽ không bao giờ quên được cho nổi mấy cái tiếng ấy, nó
sao mà xót xa, não nề và đầy bất lực của đứa con gái đứng gục đầu vào gốc
cây vối với hai con mắt trợn ngược lên như hóa dại trước ngõ, đang nói lên
cái lời báo tử cho người anh của nó ngay trước ngõ.

Cũng vào trong lúc bấy giờ lão chợt nhận ra rằng, lúc này, lão phải làm một
cái cột chống ở trong nhà. Mọi sự như thể và đại thể lão đã hiểu. Vợ con đều
đã ngã gục xuống cả thì lão càng phải đứng thẳng.
Lão đứng tại chỗ một lát để định thần lại, khi đã đỡ hoa mắt rồi quay trở
xuống dốc bằng những bước bình thản, lão cúi xuống lấy hết sức liên tiếp bắt
bánh giúp con khoang đen lúc bấy giờ đã gần ngã gục xuống lôi chiếc xe đá
nhích dần lên.
Rồi vẫn bằng những bước đi bình thản, lão đi vào nhà.
ở trong nhà bếp vợ lão ngất đi, vừa tỉnh lại được và cái anh bộ đội lạ mặt mới
hỏi thăm đến nhà lão Khúng cách đây chưa đầy nửa tiếng đồng hồ bây giờ đã
như một người trong nhà, tự động mò mẫm trong khắp các hốc cột lôi ra được
chiếc đèn dầu hỏa. Anh ta châm đèn, ngồi tựa lưng vào chiếc ba lô dính đầy
đất cát vứt ngay bên chân cột nhà đối diện với lão Khúng, người lính bắt đầu
tường thuật vắn tắt đầu đuôi trường hợp hy sinh của thằng Dũng mà lúc ấy
anh cũng có mặt ngay bên cạnh cho lão Khúng và mụ Huệ nghe.
Ngày thường, những người trong xóm "Thống Nhất" vừa muốn đi lại chơi bời
với gia đình lão Khúng lại vừa có ý e ngại, hơi xa lánh. Với cái thứ tính nết
chật chưỡng đầy trái khoáy của lão Khúng, người ta chỉ muốn tránh nhưng
nói cho công bằng thì cũng chẳng ai nỡ tâm ghét lão bởi xét cho đến cùng thì
lão cũng không phải con người lèo lá, nhớp bụng, tham vặt hoặc độc địa, độc
ác. Lão chỉ có một cái tật là chẳng giống ai, lão là lão Khúng, chỉ đáng trách
có thế. Ngoài ra ngày mụ Huệ hãy còn trẻ mụ đã làm đám đàn ông trong xóm
phân tâm không ít, đám đàn bà trong cả xóm khai hoang sinh lòng ghét, cũng
chả phải mụ lẳng lơ (lẳng lơ gì với những lão đàn ông vốn là chồng của các
mụ người nào cũng đầy tục tằn và bẩn thỉu) mà chỉ vì mụ Huệ đi đâu, đứng
đâu cũng như một bằng chứng để cho đám đàn ông phân tâm, ngơ ngơ ngẩn
ngẩn.
Trong cái buổi chiều tang tóc đổ ập xuống mái nhà của lão, nếu không có bà
con láng giềng trong xóm xúm vào giúp đỡ thì lão lúng túng quá. Guồng máy
lao động của cái gia đình ấy xưa nay như một cỗ máy tra kỹ dầu mỡ. Thế mà

trong khoảng khắc đã gãy vụn, vợ lão Chắt Hòe, bây giờ là chỗ thông gia với
gia đình lão Khúng, phải cùng với mấy mụ đàn bà khác ra tay cho lợn cho gà
ăn rồi chạy ra các góc vườn hoặc xó buồng, lôi ra những đứa con của lão
Khúng trở dậy, vỗ về dỗ dành chúng. Lão Khúng tỏ ra cứng cỏi nhưng cố lắm
lão cũng chỉ giữ được cái vẻ bề ngoài. Cho tận đến sáng ngày hôm sau lão
mới biết xẩm tối hôm qua, lúc tháo ra khỏi chiếc xe đá lùa con khoang đen
vào chuồng, lão đã lú lẫn quên cài then, thậm chí quên cả cho con bò ăn, suốt
đêm con vật phải nhịn đói không có được cọng cỏ nào vào bụng.
Anh bộ đội người Thanh Hóa, bạn thân của thằng Dũng đã cùng mấy anh em
trong tiểu đội chôn cất đứa con trai lão Khúng trong một khu rừng Tây Bắc
Kamuchea giáp nước Thailand, việc ấy xảy ra đã gần nửa năm trước khi anh
lính về nhà lão. Sáng hôm sau, người lính quê Thanh Hóa xin phép vợ chồng
lão ra đi từ tờ mờ đất.
Hai ngày sau mụ Huệ vẫn không gượng dậy được, không hề ăn một miếng,
nỗi đau khổ của con người chỉ có nỗi đau khổ của kẻ khác là cởi giải được
phần nào. Mụ Hái, đã ngoài 60, vừa con trai vừa con gái từ ngày cái trận Điện
Biên đến giờ đếm trên đốt ngón tay đã có ba người hy sinh ở các mặt trận,
chẳng biết làm cách nào, mụ Hái đã bắt mụ Huệ ngồi dậy húp được nửa bát
cháo.
Sang ngày thứ ba, mụ Huệ vịn tay vào bức vách vừa rên rỉ một mình vừa lục
tìm chiếc nồi hông bằng đất đem ra giếng cọ rửa chuẩn bị nấu đĩa xôi cúng
con. Lão Khúng xách chiếc rựa ra bụi tre sau nhà chặt một cây vác vào ngồi
chẻ ra, đan một tấm phên để thiết lập cái bàn thờ thằng con trai thứ hai bên
gian trái.
Lão đã làm xong cái bàn thờ đứa con.
Lão ngắm nghía cái công trình đơn sơ vừa hoàn thành sau khi trải lên mặt tấm
phên tre mảnh ni lông màu đọt chuối mà con Nghiên thường dùng khoác đi
cắt cỏ, lại bày lên mặt tấm ni lông một cái bát sành đựng gạo.
Vợ lão từ nhà bếp lên, ngó cái bàn thờ mới rồi ngó sang lão Khúng bằng cái
nhìn trân trân, vô hồn, không còn là hai con mắt của mụ Huệ mọi ngày mà là

hai cái vực thẳm người ta vừa tát cạn hết nước. Lão Khúng thầm cám ơn vợ;
mấy ngày qua mụ Huệ đã không hề thốt lên, dù rằng chỉ thốt lên qua tiếng
khóc kể lể cái cơn bốc đồng của chí khí ái quốc của lão ngày ấy - từ đó thằng
Dũng mới nắm lấy mấy câu khích lệ đầy cao hứng của bố để đòi đi bộ đội cho
kỳ được. Thực tình thì ngày ấy trong nhà đã có thằng Hùng, thằng anh đang ở
lính, nó xung phong đi là chính chứ có ai bắt, và ngày đó một mình mụ Huệ
không làm sao mà ngăn cản, cầm chân cầm tay cái thằng Dũng của mụ.
Chính vào lúc này lão Khúng cũng phải tự gồng mình lên để cố giữ lấy trong
người lão cái ý nghĩ rằng thằng Dũng đã hy sinh vì Tổ quốc. Cái ý nghĩ ấy
như một tấm ván lát cầu ao đã lâu năm vừa nhún nhẩy vì mỏng manh lại vừa
hay trùng triềng. Lão chỉ lơ là một chút, lãng quên đi những điều tâm niệm
thiêng liêng chỉ một chút là lập tức xỉa chân xuống và nỗi đau khổ gấp trăm
vạn lần sẽ lại vò xé lòng lão với tất cả nỗi niềm âm thầm của cái sự thực trần
trụi và đơn giản.
Trong một thoáng chốc, lão đâm ra sợ cả chính mình, như một con chiên sợ
đánh mất đức tin lão đã đánh mất đứa con, lại đánh mất luôn cả những ảo ảnh
về nó. Con ơi, giá những ngày còn sống con mặc bộ quân phục chụp gửi về
cho bố một bức ảnh. Để bố bày lên bàn thờ của con lúc này. Bố sẽ xuống phố
Cầu Giát thuê người ta phóng đại, tô màu, cái bức ảnh sẽ mãi suốt đời đem
đến cho bố nỗi khuây khỏa và niềm vinh dự Hiệu ảnh ở dưới ấy thiếu gì mà
bố cũng thiếu gì tiền? Hồi ở nhà mày hay trêu bố keo kiệt nhưng trong cái
việc này phóng đại, tô màu một bức ảnh anh bộ đội đã hy sinh ở trong nhà.

×