Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Một số giải pháp nâng cao chất lượng ứng dụng CNTT cho giáo viên mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.08 KB, 12 trang )

sáng kiến kinh nghiệm mầm non sáng kiến kinh nghiệm mầm non 2012 sáng kiến kinh
nghiệm mầm non của cán bộ quản lý sáng kiến kinh nghiệm mầm non hay sáng kiến kinh
nghiệm mầm non 4-5 tuổi sáng kiến kinh nghiệm mầm non môn chữ cái sáng kiến kinh
nghiệm mầm non 5-6 tuổi sáng kiến kinh nghiệm mầm non 2013 sáng kiến kinh nghiệm
mầm non môn tạo hình
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ.
1. Lý do chọn đề tài. sáng kiến kinh nghiệm ứng dụng công nghệ thông tin
Ngày nay với sự phát triển nhảy vọt của khoa học công nghệ nói chung của ngành tin học
nói riêng, với những tính năng ưu việt, sự tiện dụng và ứng dụng rộng rãi, tin học ngày nay là
một phần không thể thiếu được của nhiều ngành trong công cuộc xây dựng và phát triển xã hội.
Hơn thế nữa nó còn đi sâu vào đời sống của con người. Tin học đã thâm nhập khá mạnh mẽ vào
Việt Nam, nhiều lĩnh vực hoạt động từ lĩnh vực quản lý hành chính, quản lý kinh tế, tự động hóa
công nghiệp …đến các lĩnh vực giáo dục và đào tạo đều có thay đổi đáng kể nhờ ứng dụng tin
học. Máy tính là công cụ cần thiết đối với con người trong thời đại ngày nay. Mọi loại thông tin, số
liệu âm thanh, hình ảnh có thể được đưa về dạng kỹ thuật số để bất kỳ máy tính nào cũng có thể
lưu trữ, xử lý và chuyển tiếp cho nhiều người.
Những công cụ và sự kết nối của thời đại kỹ thuật số cho phép chúng ta dễ dàng thu thập, chia
sẻ thông tin và hành động trên cơ sở những thông tin này theo phương thức hoàn toàn mới, kéo
theo hàng loạt sự thay đổi về các quan niệm, các tập tục, các thói quen truyền thống, và thậm chí
cả cách nhìn các giá trị trong cuộc sống. Công nghệ thông tin là một trong các động lực quan
trọng nhất của sự phát triển…ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin ở nước ta nhằm góp
phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi
mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an ninh quốc phòng…
CNTT đi vào cuộc sống sẽ lan toả đến mọi nơi, mọi lĩnh vực, máy tính sẽ có mặt ở khắp mọi nơi,
việc kết nối mạng cũng trở nên dễ dàng và thuận tiện nhất cho tất cả mọi người dân. Vì vậy với
sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin hiện nay, quốc gia nào, dân tộc nào nhanh
chóng nắm bắt và làm chủ được công nghệ thông tin thì sẽ khai thác được nhiều hơn, nhanh
hơn lợi thế của mình. Và cũng chính từ đây nảy sinh một thách thức rất lớn đối với các nước
đang phát triển như nước ta đó là làm thế nào để phát huy được thế mạnh của CNTT thúc đẩy


sự phát triển của xã hội mà không mất đi văn hoá truyền thống quý báu của dân tộc trong đó có
sự góp mặt của nền giáo dục.
Đối với ngành Giáo dục – Đào tạo đặc biệt là Giáo dục mầm non, CNTT là phương tiện hữu ích
góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học. Việc ứng dụng CNTT trong
chăm sóc giáo dục trẻ được xem là ưu tiên hàng đầu của ngành Giáo dục mầm non. Trong
những năm qua ngành giáo dục mầm non đã triển khai việc ứng dụng CNTT trong các hoạt động
chăm sóc giáo dục và các hoạt động khác một cách tích cực về mọi mặt và đã gặt hái được
nhiều thành quả đáng khích lệ. Nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, ngành giáo dục mầm non
là mắt xích đầu tiên trong việc thực hiện nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực CNTT và đẩy mạnh
ứng dụng CNTT vào chăm sóc giáo dục trẻ. Công nghệ thông tin phát triển đã mở ra những
hướng đi mới cho ngành giáo dục trong việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học. Công
nghệ thông tin phát triển mạnh kéo theo sự phát triển của hàng loạt các phần mềm giáo dục và
có rất nhiều những phần mềm hữu ích cho người giáo viên mầm non như Bộ Office, Flash,
Photoshop, Converter, Kidspix, Kidsmart, Nutrikids, Happykids…
Các phần mềm này rất tiện ích và trở thành một công cụ đắc lực hỗ trợ cho việc thiết kế giáo án
điện tử và giảng dạy trên máy tính, máy chiếu, bảng tương tác cũng như trên các thiết bị hỗ trợ
khác như Tivi, đầu Video…vừa tiết kiệm được thời gian cho người giáo viên mầm non, vừa tiết
kiệm được chi phí cho nhà trường mà vẫn nâng cao được tính sinh động, hấp dẫn của giờ dạy.
Nếu trước đây giáo viên mầm non phải rất vất vả để có thể tìm kiếm những hình ảnh, biểu
tượng, đồ dùng phục vụ bài giảng thì hiện nay với ứng dụng ứng dụng công nghệ thông
tin giáo viên có thể sử dụng Internet để chủ động khai thác tài nguyên giáo dục phong phú, chủ
động quay phim, chụp ảnh làm tư liệu cho bài giảng điện tử. Chỉ cần đánh vào “google” những gì
chúng ta cần là đã có cả một kho tư liệu cho chúng ta lựa chọn là những hình ảnh những con vật
ngộ nghĩnh, những bông hoa đủ màu sắc, những hàng chữ biết đi và những con số biết nhảy
theo nhạc, những bản nhạc hay dành cho trẻ hiện ngay ra với hiệu ứng của những âm thanh
sống động trong cuộc sống ngay lập tức thu hút được sự chú ý và kích thích hứng thú của trẻ vì
được chủ động hoạt động nhiều hơn để khám phá nội dung bài giảng. Đây có thể coi là một
phương pháp ưu việt vừa phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, vừa thực hiện được nguyên
lý giáo dục của Vưgotxki ” Dạy học lấy học sinh làm trung tâm” một cách dễ dàng. Có thể thấy
ứng dụng của công nghệ thông tin trong giáo dục mầm non đã tạo ra một biến đổi về chất trong

hiệu quả giảng dạy của ngành giáo dục mầm non, tạo ra một môi trường giáo dục mang tính
tương tác cao giữa giáo viên và trẻ.
sáng kiến kinh nghiệm ứng dụng công nghệ thông tin vào trong các hoạt động chăm
sóc giáo dục trẻ tức là cho trẻ được tiếp cận với môi trường đa phương tiện kết hợp hình ảnh,
video, camera, âm thanh, chữ cái…được trình bày qua máy tính theo kịch bản vạch sẵn nhằm
đạt hiệu quả tối đa qua một quá trình học đa giác quan. Kỹ thuật đồ họa cao có thể mô phỏng
nhiều quá trình, hiện tượng thiên nhiên, các hình ảnh sống động mà theo phương pháp truyền
thống thì khó mà thực hiện được như sự lớn lên của cây, quá trình hình thành mưa, hay quá
trình nở của sâu…Đặc biệt sử dụng tin học vào tổ chức các hoạt động cho trẻ mầm non sẽ tạo ra
những điều mới lạ kích thích sự tò mò, trí tưởng tượng của trẻ đáp ứng với yêu cầu“Đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Học tập cùng máy tính
giúp trẻ sẽ dễ dàng học được các khái niệm và tăng cường sự phối hợp mắt và tay, nâng cao
hiểu biết xã hội. Thông qua việc ứng dụng CNTT trẻ được học tập vui chơi theo hướng phát huy
tính tích cực học tập của trẻ và làm phong phú hơn kỹ năng dạy học. Các trò chơi KidSmart của
IBM có tính giáo dục cao, hấp dẫn, kích thích nhận thức của trẻ, tạo điều kiện phát triển các kỹ
năng nhóm: giao tiếp, chia sẻ, tự giải quyết vấn đề. Và các phần mềm khác như kidspix,
happykids… góp phần không nhỏ trong sự phát triển của trẻ.
Là một giáo viên mầm non đang giảng dạy ở Trường mầm non Tề Lỗ tôi nhận thấy được
việc giáo viên biết ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao trình độ chuyên môn và kiến thức
tin học cho bản thân có tác dụng to lớn trong giáo dục để tổ chức các hoạt động nhằm giúp trẻ
phát triển toàn diện như: trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, tình cảm kĩ năng xã hội… Mặt khác, ứng
dụng công nghệ thông tin sẽ nâng cao chất lượng học tập của trẻ trẻ được học qua máy tính một
cách tích cực, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng dạy và học phù hợp với chương trình giáo
dục mầm non hiện nay.
Nhưng trên thực tế việc ứng dụng ứng dụng công nghệ thông tin ở trường mầm non Tề Lỗ nói
riêng và các trường mầm non nói chung thì việc ứng dụng ứng dụng công nghệ thông tin trong
giáo dục mầm non mới chỉ là những bước đi đầu tiên còn nhiều hạn chế, Việc sử dụng ứng
dụng công nghệ thông tin hỗ trợ công tác giảng dạy còn nhiều vấn đề bất cập: Lạm dụng công
nghệ, sử dụng công nghệ chưa thích hợp, không gắn với đặc thù của trẻ mầm non, dẫn đến phá

vỡ các nguyên tắc dạy học tích cực giáo viên còn thụ động trong công tác tự bồi dưỡng, các bài
giảng còn mang tính hình thức dập khuân chưa có tính sáng tạo, phương pháp tổ chức cho trẻ
hoạt động còn cứng nhắc chưa linh hoạt, Giáo viên ngần ngại tiếp nhận và sử dụng thiết bị hiện
đại, hạn chế về ngoại ngữ cũng là một trở ngại cho giáo viên tiếp cận với ứng dụng công nghệ
thông tin… cho nên việc ứng dụng ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục mầm non
hiệu quả chưa cao. Từ những thực tế trên tôi quyết định chọn đề tài “ Một số giải pháp nâng cao
chất lượng ứng dụng CNTT cho giáo viên mầm non ”. Tôi hy vọng rằng với tâm huyết của mình
sẽ góp phần nhỏ bé nâng cao được chất lượng ứng dụng công nghệ thông tin cho giáo viên
Trường mầm non Tề Lỗ nói riêng và giáo viên mầm non nói chung.
2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở tìm hiểu lý luận, thực tiễn đề tài nhằm đánh giá thực trạng, tìm ra các giải
pháp” Nâng cao chất lượng ứng dụng CNTT cho giáo viên mầm non” .
Trong quá trình nghiên cứu đề tài giúp tôi hiểu rõ hơn về ứng dụng CNTT vào tổ chức các
hoạt động giáo dục, tích luỹ thêm kiến thức cho bản thân đồng thời chia sẻ kinh nghiệm của mình
cho đồng nghiệp. Cũng như giúp trẻ tiếp cận
với công nghệ thông tin một cách tích cực.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Tìm hiểu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về việc ứng dụng ứng dụng công nghệ thông
tin trong tổ chức các hoạt động giáo dục.
Tìm hiểu những khó khăn của giáo viên khi ứng dụng công nghệ thông tin vào tổ chức các
hoạt động giáo dục.
Đưa ra một số kinh nghiệm khi ứng dụng ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt
động giáo
dục trẻ.
Đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả việc ứng dụng CNTT và đẩy mạnh ứng dụng
CNTT cho giáo viên mầm non.
4. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng: Các phần mềm ứng dụng ứng dụng công nghệ thông tin vào chương trình
giáo dục mầm non.
Thực hiện trên giáo viên trường mầm non Tề Lỗ – huyện Yên Lạc – tỉnh Vĩnh Phúc.

5. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài tôi đã lựa chọn, sử dụng nhiều phương pháp như sau:
Phương pháp nghiên cứu lý luận
Đọc và sử dụng các tài liệu, sách báo, tạp chí giáo dục mầm non, mạng internet có liên
quan đến đề tài.
Phương pháp quan sát.
Quan sát các hoạt động của cô và trẻ trong trường mầm non để nhận biết về khả năng
ứng dụng công nghệ thông tin của giáo viên mầm non.
Phương pháp đàm thoại:
Đàm thoại với giáo viên và trẻ để tìm hiểu về công nghệ thông tin và việc ứng dụng công
nghệ thông tin trong giáo dục mầm non.
Phương pháp kiểm tra khả năng tiếp thu bài của trẻ ở những giờ có sử dụng bài soạn
giảng giáo án điện tử và những giờ sử dụng theo phương pháp soạn giảng truyền thống.
Phương pháp tổng kết, đúc kết kinh nghiệm thông qua hoạt động của bản thân và đồng
nghiệp.
6. Giới hạn nghiên cứu.
Đề tài tập trung chủ yếu vào nghiên cứu ứng dụng các phần mềm công nghệ thông tin của
giáo viên, thực hiện việc ứng dụng CNTT vào các hoạt động giáo dục trẻ ở trường mầm non Tề
Lỗ – huyện Yên Lạc – tỉnh Vĩnh Phúc.
7. Kế hoạch nghiên cứu đề tài.
Mỗi tuần tôi dự giờ đồng nghiệp 2 lần để rút ra bài học cho bản thân đồng thời học tập
những kinh nghiệm của đồng nghiệp đã làm được để áp dụng vào tổ chức các hoạt động giáo
dục.
Đồng thời tôi dành 8 h mỗi tuần để nghiên cứu qua các tài liệu sách báo có liên quan đến
kiến thức tin học và tự bồi dưỡng qua mạng internet về cách sử dụng các phần mềm liên quan
đến giáo dục đặc biệt là giáo dục mầm non từ đó lựa chọn và ứng dụng vào quá trình chăm sóc
giáo dục trẻ sao cho phù hợp nhất.
Từ điều kiện thực tế của nhà trường và bản thân nên đề tài bắt đầu thực hiện nghiên cứu
từ tháng 08/2010 kết thúc đến tháng 08/2013.
PHẦN II. NỘI DUNG.

1. Cơ sở lí luận của việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy của giáo viên .
2. Khái niệm về công nghệ thông tin:
Ở Việt Nam, khái niệm Công nghệ Thông tin được hiểu và định nghĩa trong nghị quyết
Chính phủ 49/CP ngày 04/08/1993: “Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học,
các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại – chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông – nhằm
tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm
năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội“.
Thuật ngữ “Công nghệ Thông tin” xuất hiện lần đầu vào năm 1958 trong bài viết xuất bản
tại tạp chí Harvard Business Review. Hai tác giả của bài viết, Leavitt và Whisler đã bình luận:
“Công nghệ mới chưa thiết lập một tên riêng. Chúng ta sẽ gọi là công nghệ thông tin (Information
Technology – IT).”
Các lĩnh vực chính của công nghệ thông tin bao gồm quá trình tiếp thu, xử lý, lưu trữ và
phổ biến hóa âm thanh, phim ảnh, văn bản và thông tin số bởi các vi điện tử dựa trên sự kết hợp
giữa máy tính và truyền thông. Một vài lĩnh vực hiện đại và nổi bật của công nghệ thông tin như:
các tiêu chuẩn Web thế hệ tiếp theo, sinh tin, điện toán đám mây, hệ thống thông tin toàn cầu, tri
thức quy mô lớn và nhiều lĩnh vực khác. Các nghiên cứu phát triển chủ yếu trong ngành khoa
học máy tính.
2. Ứng dụng CNTT đối với Giáo dục mầm non.
Đất nước đang trong thời kì mở cửa để đưa các ứng dụng khoa học tiên tiến cũng như
đưa ứng dụng ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giáo dục đặc biệt là giáo dục mầm
non, thì các phương tiện như máy vi tính và những kỹ thuật liên quan đã đóng vai trò chủ yếu
trong việc lưu trữ, truyền tải thông tin và tri thức đến con người hội nhập cùng cùng thế giới.
Tiếp tục hưởng ứng Chỉ thị số 55/2008/CT-BGDĐT ngày 30/9/2008 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo về tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong
ngành giáo dục giai đoạn 2008-2012.
Thông tư số 08/2010/TT-BGDĐT ngày 01/03/2010 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo quy định về sử dụng phần mềm tự do mã nguồn mở trong các cơ sở giáo dục;
Công văn số 4960/BGDĐT-CNTT ngày 27/07/2011 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về hướng dẫn
thực hiện nhiệm vụ CNTT năm học 2011 – 2012. Trong đó có đề cập đến vấn đề: Mỗi cán bộ và
giáo viên có ít nhất một địa chỉ e-mail của ngành, có tên dưới dạng @ tên-cơ-sở-giáo-

dục.edu.vn, trong đó tên cơ sở giáo dục có thể là moet, tên sở, tên phòng.
Công văn số 4987/BGDĐT-CNTT ngày 2/8/2012 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về hướng dẫn
thực hiện nhiệm vụ CNTT năm học 2012 – 2013.
Trong đó có nội dung như sau:
Đẩy mạnh ứng dụng ứng dụng công nghệ thông tin trong điều hành và quản lý giáo dục chỉ
đạo ứng dụng CNTT trong học tập và giảng dạy theo hướng người học có thể học qua nhiều
nguồn học liệu; hướng dẫn cho người học biết tự khai thác và ứng dụng CNTT vào quá trình học
tập của bản thân, thay vì chỉ tập trung vào việc chỉ đạo giáo viên ứng dụng ứng dụng công
nghệ thông tin trong giảng dạy, trong tiết giảng.
Tiếp tục triển khai cuộc thi “Thiết kế hồ sơ bài giảng e-Learning” do Bộ GDĐT và Quỹ Laurence
S.Ting tổ chức, với khẩu hiệu chung “Trong mỗi học kỳ, mỗi giáo viên xây dựng ít nhất một bài
giảng điện tử”.
Tạo thư viện mở huy động giáo viên tham gia góp ý các bài trình chiếu, bài giảng E-learning.
Tiếp tục phát huy khả năng khai thác các phần mềm kidsmart cho trẻ thông qua các ngôi nhà
không gian và thời gian của Trudy, ngôi nhà khoa học của Sammy,ngôi nhà toán học của Mili,
ngôi nhà sách Happykid, ngôi nhà những đồ vật biết nghĩ Thinking1; phần mềm kidspix, bút chì
thông minh, bảng tương tác…
Các hình thức ứng dụng CNTT trong dạy học.
Hiện nay, trên thế giới người ta phân biệt rõ ràng 2 hình thức ứng dụng ứng dụng công nghệ
thông tin trong dạy và học, đó là Computer Base Training, gọi tắt là CBT (dạy dựa vào máy tính)
và e-learning (học dựa vào máy tính) trong đó:
CBT là hình thức giáo viên sử dụng máy vi tính trên lớp, kèm theo các trang thiết bị như máy
chiếu (hoặc màn hình cỡ lớn) và các thiết bị multimedia để hỗ trợ truyền tải kiến thức đến học
sinh, kết hợp với phát huy những thế mạnh của các phần mềm máy tính như hình ảnh, âm thanh
sinh động, các tư liệu phim, ảnh, sự tương tác người và máy.
E-learning là hình thức học sinh sử dụng máy tính để tự học các bài giảng mà giáo viên đã soạn
sẵn, hoặc xem các đoạn phim về các tiết dạy của giáo viên, hoặc có thể trao đổi trực tuyến với
giáo viên thông mạng Internet. Điểm khác cơ bản của hình thức E-learning là lấy người học làm
trung tâm, người học sẽ tự làm chủ quá trình học tập của mình, người dạy chỉ đóng vai trò hỗ trợ
việc học tập cho người học.

Như vậy, có thể thấy CBT và E-learning là hai hình thức ứng dụng ứng dụng công nghệ thông
tin vào dạy và học khác nhau về mặt bản chất:
Một bên là hình thức hỗ trợ cho giáo viên, lấy người dạy làm trung tâm và cơ bản vẫn dựa trên
mô hình lớp học cũ ( CBT )
Một bên là hình thức học hoàn toàn mới, lấy người học làm trung tâm, trong khi người dạy chỉ là
người hỗ trợ ( E-learning )
Phương pháp.
Sử dụng các bài giảng điện tử trong giảng dạy.
Nhà trường đã sử dụng tương đối phổ biến mô hình giảng dạy sử dụng bài giảng điện tử cùng
với các trang thiết bị khác như máy tính, máy chiếu (projector),… Bài giảng điện tử và các trang
thiết bị này có thể coi là những công cụ dạy học đa năng vì nó có thể thay thế cho hầu hết các
công cụ dạy học khác từ truyền thống (tranh vẽ, dối tay,dối dẹt, mô hình,…) đến hiện đại
(cassette, ti vi, đầu video…). Hơn nữa, nếu các bài giảng điện tử được đầu tư xây dựng cẩn thận
thì sẽ đem lại hiệu quả hơn hẳn, tạo được sự hấp dẫn và học sinh có thể tiếp thu bài giảng dễ
dàng hơn.
Sử dụng Internet trong việc tìm kiếm các thông tin trực tuyến: Internet là một thư viện không
lồ, là nơi lưu chứa tri thức của toàn nhân loại với hàng tỷ tư liệu và các bài viết của mọi lĩnh vực
và luôn được cập nhật từng ngày, từng giờ. Vấn đề quan trọng và bắt buộc đối với giáo viên là
phải biết khai thác nguồn tài nguyên phong phú trên Internet để làm tốt việc ứng dụng CNTT
trong dạy học.
Trao đổi chuyên môn, chia sẻ tài nguyên trên các mạng xã hội. Đặc biệt, các giáo viên nếu
biết tận dụng những chức năng của blog thì hoàn toàn có thể sử dụng blog để làm tốt hơn công
việc giảng dạy của mình.
1. Thực trạng nghiên cứu của việc ứng dụng“ Một số giải pháp nâng cao chất lượng
ứng dụng CNTT cho giáo viên.
2. Khái quát đặc điểm tình hình trường mầm non Tề Lỗ.
Trường mầm non Tề Lỗ nằm trên địa bàn xã Tề Lỗ, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Được
đặt tại trung tâm xã, giao thông thuận tiện cho việc đi lại. Năm học 2013 – 2014 nhà trường có 19
lớp với tổng số 545 học sinh, 100% các cháu ăn bán trú tại trường. Toàn trường có 41 cán bộ,
giáo viên, nhân viên. Nhà trường có một khu trung tâm được xây dựng năm 2003 với tổng số 10

phòng học kiên cố, đang được xây dựng thêm 6 phòng học kiên cố dự tính sẽ hoàn thiện vào
tháng 1/2014. Ngoài ra Trường mầm non Tề Lỗ được trang bị các thiết bị dạy học như mỗi phòng
có một máy tính, máy in vận động phụ huynh mua mua ti vi và đầu đĩa, mỗi tổ có một máy chiếu,
ngoài ra trường còn có, máy chiếu vật thể, bảng tương tác, nối mạng Internet cho tất cả các
phòng học, mua các phần mềm như Kidsmart, Kidpix,Vui học chữ cái…. phục vụ cho việc ứng
dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy. Tuy vậy, trang thiết bị dạy học của trường còn thiếu
so với qui định số: 02/2010/TT- BGD&ĐT.
Tề Lỗ là một xã nằm ở phía tây bắc huyện Yên Lạc có diện tích tự nhiên 411,9 ha, dân số
trên 9000 người/ 1900 hộ, được chia làm 5 thôn. Ngành nghề chủ yếu của người dân là nông
nghiệp thu nhập kinh tế dựa trên đồng ruộng là chính. Ngoài ra còn một số hộ tiểu thương, buôn
bán phế liệu sắt vụn.
Trong những năm gần đây cùng với sự thay đổi của đất nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng uỷ xã, HĐND, UBND cùng với sự nỗ lực của mỗi người dân nên đời sống kinh tế, văn hoá
của nhân dân ngày càng ổn định. Phong trào giáo dục có nhiều tiến bộ khởi sắc. Mặt bằng dân
trí tương đối ổn định và ngày càng phát triển.
Từ điều kiện thực tế trường mầm non Tề Lỗ có những thuận lợi như.
Thuận lợi.
Trong nhiều năm qua nhà trường luôn đi đầu trong các phong trào thi đua của ngành, các cuộc
vận động nhà trường luôn đạt kết quả cao và nhiều năm đạt danh hiệu tập thể lao động xuất sắc,
được tặng huân chương lao động hạng ba.
Bản thân tôi tiếp thu đầy đủ các chỉ thị, văn bản của các cấp, ngành về nhiệm vụ trọng tâm của
từng năm học theo chỉ thị số: 03/CT-TW ngày 14/05/2011. Từ đó tôi xây dựng kế hoạch và thực
hiện kế hoạch phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, của trường, lớp phụ trách.
Được sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của SGD& ĐT Vĩnh Phúc, PGD& ĐT huyện Yên
Lạc, BGH Trường mầm non Tề Lỗ đã quan tâm giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình nghiên cứu
đề tài.
Tôi đã từng tham gia lớp học CNTT do Tỉnh mở tại trung tâm Tin học nên có sẵn trong
mình những hiểu biết về Powerpoint, Internet. Đồng thời tôi cũng là một giáo viên trẻ năng động
và có kinh nghiệm trong giảng dạy nên nắm chắc các bước lên lớp và kĩ năng sư phạm cần thiết
để tổ chức các hoạt động giáo dục có hiệu quả.

Trong thời gian qua nhà trường đã tạo điều kiện cho tôi đi tập huấn các lớp tin học về
CNTT do phòng giáo dục tổ chức. Đồng thời tôi cũng không ngừng học tập, tìm hiểu về những
phần mềm đồ họa khác để lấy thêm kiến thức cũng như sưu tầm hình ảnh đẹp phục vụ cho việc
thiết kế bài giảng sinh động hấp dẫn.
Bên cạnh đó, tôi cũng rất may mắn được sự đồng tình và giúp đỡ, động viên nhiệt tình
của Ban giám hiệu nhà trường và của bạn bè đồng nghiệp.
Thời gian sống và làm việc trong môi trường giáo dục được gắn bó với đồng nghiệp,
thương yêu học sinh, thực sự đã mang lại cho tôi cảm hứng và nhiệt huyết để nâng cao chất
lượng giảng dạy trong từng hoạt động nói chung và những khám phá về tin học nói riêng.
Khó khăn.
Trình độ về CNTT của giáo viên còn hạn chế, thời gian đứng lớp cả ngày nên thời gian nghiên
cứu còn hạn chế. Hơn nữa trình độ đào tạo không đáp ứng yêu cầu, nắm bắt phương pháp
giảng dạy mới còn rất nhiều hạn chế. Trình độ nhận thức của một số giáo viên không đồng đều,
khả năng ngoại ngữ của giáo viên không có.
Một vài giáo viên năng lực chuyên môn nghiệp vụ chưa cao. Cách soạn giảng giáo án điện tử
còn nhiều lúng túng chưa linh hoạt.
Việc sử dụng thiết bị dạy học còn mang nặng tính hình thức, chưa thường
xuyên, liên tục. Dấu dốt ngại hỏi, ngại phát biểu ý kiến.
Thiết bị dạy hiện đại tuy đã có nhưng đã cũ, do đó chất lượng chưa cao nên đã ảnh
hưởng không nhỏ đến việc nâng cao chất lượng ƯDCNTT của GV.
Đảng uỷ, chính quyền địa phương và nhân dân đã quan tâm tới giáo dục nhiều hơn, xong
còn chưa cụ thể, hỗ trợ về vật chất và tinh thần đối với cán bộ giáo viên, nhân viên nhà trường
chưa được nhiều. Phụ huynh học sinh bận buôn bán nên nhiều trẻ ở với Ông Bà vì vậy việc phối
hợp và truyên truyền với phụ huynh chưa được thường xuyên.
Việc sử dụng công nghệ thông tin để đổi mới phương pháp dạy học chưa được nghiên
cứu kỹ dẫn đến việc ứng dụng CNTT không đúng chỗ, không đúng lúc nhiều khi quá lạm dụng.
Việc tổ chức bồi dưỡng kiến thức CNTT chuyên sâu cho giáo viên chưa được nhiều, trường
chưa có phòng máy tính riêng nên trẻ sử dụng máy tính chưa được nhiều.
Nguyên nhân.
Tất cả những tồn tại, hạn chế trên đây do các nguyên nhân khác nhau như:

Về phía các cấp lãnh đạo mặc dù đã quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất và hỗ trợ về tinh
thần cho giáo viên như hưởng lương theo bằng cấp nhưng đôi khi vẫn còn lỏng lẻo trong việc
quản lý và việc đánh giá chất lượng chưa khoa học.
Về một số giáo viên còn tự ti, chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp. Một số giáo viên trẻ chưa
có kinh nghiệm trong việc chăm sóc giáo dục trẻ, chưa nắm chắc kiến thức cơ bản của bậc học.
2. Đặc điểm của trẻ
Mỗi trẻ em tuổi mầm non là một chủ thể tích cực, sự phát triển của trẻ mang bản chất văn hoá –
xã hội, có tính duy nhất, phụ thuộc nhiều vào tình huống và là kết quả của quá trình nội tâm hoá
những gì chúng trải nghiệm, học được nhờ sự tương tác với người khác (cha mẹ, người thân
trong gia đình, cô giáo, trẻ cùng lớp.
Vậy ngay từ tuổi mầm non, trẻ cần phải được dạy như thế nào? Làm thế nào để lập được một
“bản đồ” về sự phát triển nhận thức, kỹ năng sống của trẻ, đánh giá chính xác đâu là điểm mạnh,
điểm yếu của trẻ? Và phải có những chiến lược nuôi dưỡng, bồi đắp như thế nào, để hỗ trợ kịp
thời sự phát triển trí tuệ, nhân cách sớm giúp trẻ thành công.
Trẻ em thích nghe những điều chưa biết, thích tìm hiểu khám phá những cái chưa thấy, những
điều trẻ chưa được tiếp cận vì thế đưa ứng dụng CNTT vào trong chăm sóc giáo dục trẻ sẽ kích
thích tối đa trí tưởng tượng phong phú và khả năng hoạt động của trẻ. Khi được tiếp cận với
CNTT tuy nhiên lòng yêu thích của các cháu còn ở nhiều mức độ khác nhau. Bên cạnh đó việc
trẻ hứng thú, ham thích say mê với công nghệ thông tin như thế nào còn phụ thuộc vào hoàn
cảnh sống, điều kiện gia đình, giáo dục của người lớn xung quanh. Vì thế ứng dụng công nghệ
thông tin cũng là phương tiện phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ, phát triển
thể chất và có sự tác động mạnh đến sự tự tin của trẻ trong cuộc sống hàng ngày cũng như
bước vào trường Tiểu học.
3. Một số khảo sát thực tế của giáo viên trường mầm non Xã giao châu – huyện giao
thủy – tỉnh Nam Định.

×