Mục lục
Lời nói đầu
Phần 1: Đường lối đối ngoại và chính sách ngoại giao với Trung Quốc.
I/ Bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước, khu vực.
II/ Đường lối và Chính sách đối ngoại của ta với Trung Quốc.
Phần 2: Triển khai chính sách.
I/ Giải quyết vấn đề biên giới trên bộ, vịnh Bắc Bộ và biển, đảo.
II/ Mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác mọi mặt.
Phần 3: Những vấn đề tồn tại trong quan hệ hai nước và kiến nghị giải pháp.
I/ Những vấn đề tồn tại trong quan hệ hai nước.
II/ Kiến nghị giải pháp
Kết luận
1
Lời nói đầu
Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc là một trong những mối quan hệ địa chính
trị lâu đời nhất trên thế giới còn tồn tại đến ngày nay và là chủ đề nóng bỏng trong
4000 năm lịch sử của Việt Nam, cho dù thời đại nào đều mang tính thời sự. Là hai
nước láng giềng, chung biên giới trên bộ và trên biển, lại có quá trình gắn bó
tương tác về văn hóa lịch sử, cũng như các cuộc chiến tranh qua lại giữa hai nước,
đã làm cho Quan hệ Việt Trung trở nên vô cùng phức tạp và nhạy cảm. Tuy nhiên,
trong bối cảnh lịch sử thế giới hiện đại, kể từ khi bình thường hoá quan hệ năm
1991 đến nay, quan hệ hữu nghị và hợp tác Việt - Trung phát triển nhanh chóng và
sâu rộng chưa từng thấy trên mọi lĩnh vực, đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho
nhân dân hai nước.
Trung Quốc là nước láng giếng lâu đời của Việt Nam, có vai trò là một
nước lớn trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và có tầm ảnh hưởng về kinh tế
chính trị, văn hoá xã hội rất lớn. Hơn nữa, nền kinh tế Trung Quốc đang trỗi dậy
mạnh mẽ, phát triển với tốc độ nhanh chóng đã và đang thu hút rất nhiều sự quan
tâm trên toàn thế giới. Do đó, việc bình thường hoá và phát triển quan hệ hợp tác
hữu nghị của nước ta với Trung Quốc từ năm 1991 đến nay mang nhiều ý nghĩa to
lớn mà từ đó ta có thể rút ra được nhiều kinh nghiệm quý báu để có thể tích cực
phát triển hơn nữa.
Để có thể phát triển được quan hệ tốt đẹp, giải quyết được những mâu
thuẫn và vấn đề còn tồn tại thì biện pháp hiệu quả nhất là nghiên cứu kỹ lưỡng quá
trình hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại của nước ta với Trung Quốc để
từ đó có thể thực hiện, triển khai một cách hiệu quả theo định hướng. Tiểu luận
này được viết không nằm ngoài mục địch đó, qua việc nghiên cứu đối tượng là
việc hoạch định và thực thi chính sách đối ngoại, hi vọng sẽ có những đóng góp
thiết thực để cung cấp một cái nhìn toàn diện những thành tựu và vấn đề trong
quan hệ giữa hai nước. Nguồn tài liệu được sử dụng là nguồn tài liệu chính thống,
phù hợp với quan điểm được hai nhà nước chấp thuận, tuỵêt đối không sử dụng
những tài liệu không chính thống, mang tính chống phá, xuyên tạc gây mất đoàn
kết và làm xấu đi mối quan hệ hữu nghị đó.
Tiểu luận có 3 phần chính, theo trình tự từ bối cảnh khách quan dẫn đến
hoạch định chính sách; từ việc hoạch định chính sách dẫn tới việc triển khai; và
cuối cùng là từ khâu triển khai phản hồi lại những vấn đề và tồn tại trong quan hệ
ngoại giao hai nước. Qua đó, ta sẽ có thể hiều và nhìn nhận vấn đề một cách bao
quát, tuần tự toàn bộ quá trình hoạch định và triển khai chính sách của Đảng và
nhà nước.
Do thời gian cũng như sự hạn chế về tri thức cũng như nguồn tài liệu, tiểu
luận sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Mong quý độc giả thông cảm và góp ý.
2
Phần 1:
Đường lối và chính sách đối ngoại của nước ta với Trung Quốc.
I/ Bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước, khu vực.
Năm 1991 đánh dấu sự kết thúc của chiến tranh lạnh, với sự sụp đổ của Liên
Xô và sự tan rã của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, cục diện thế giới thay đổi
một cách mau lẹ và sâu sắc: Chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, phá vỡ thế cân
bằng trên toàn cầu đã tồn tại gần nửa thế kỷ. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại
phải đương đầu với sự chống phá ác liệt từ nhiều phía của các thế lực thù địch
quốc tế.
Trong khi đó, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh như
vũ bão đang cuốn hút tất cả các nước, ảnh hưởng lớn tới nhịp phát triển lịch sử và
cuộc sống các dân tộc. Hầu hết các nước chuyển sang cơ chế thị trường và đang
hình thành một thị trường toàn thế giới. Không một nước nào có thể tự cô lập
mình với thế giời bên ngoài mà buộc phải mở cửa thì mới có thể phát triển được.
Mạng lưới thông tin quốc tế bùng nổ và chỉ trong nháy mắt lan toả khắp thế giới.
Quá trình quốc tế hoá sản xuất vật chất và đời sống xã hội cùng với sự giao lưu
quốc tế đang được thúc đẩy hết sức mạnh mẽ… Điều này chính là cơ hội thuận lợi
cho các nước biết cách xử thế và làm ăn để phát triển, nhưng cũng là sự thách thức
to lớn với những nước chậm phát triển, có nguy cơ bị tụt hậu rất xa so với sự phát
triển chung của thế giới.
Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, tình hình
chính trị đất nước vẫn khá ổn định, nền kinh tế có những chuyển biến tích cực;
đạt được những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu của ba chương
trình kinh tế, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; sinh hoạt dân chủ trong
xã hội ngày càng được phát huy, đời sống nhân dân ổn định, quốc phòng được
giữ vững, an ninh quốc gia được bảo đảm. Mặc dù vậy, nước ta cũng phải đương
đầu với các hoạt động phá hoại của các lực lượng thù địch ở cả trong và ngoài
nước. Tình hình kinh tế và đời sóng của nhân dân vẫn còn khó khăn, đất nước
vẫn trong tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội và vẫn chưa thoát ra khỏi tình
trạng bị bao vây, cấm vận.
Vấn đề khu vực lúc bấy giờ của nước ta là những nỗ lực để kết thúc đàm
phán tìm kiếm giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia. Bên cạnh đó là nỗ lực
xúc tiến quá trình bình thường hoá với Trung Quốc của nước ta, kết thúc hơn
một thập kỷ đối đầu giữa hai nước; cuối cùng là tạo môi trường quốc tế thuận lợi
cho sự hợp tác, phát triển kinh tế của nước ta với các nước trong khu vực Đông
Nam Á, với tổ chứ ASEAN, mở ra một chương mới cho sự hợp tác cùng phát
triển của khu vực.
3
II/ Đường lối và chính sách đối ngoại của nước ta với Trung Quốc.
Trước tình hình trong nước, khu vực và trong nước diễn biến phức tạp,
"Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương(khoá VI) tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII", ngày 27-6-1991 đã xác định: “Nhiệm vụ đối ngoại
bao trùm trong thời gian tới là giữ vững hoà bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và
hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc, đáp ứng lợi ích của nhân dân ta, góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.
…Cần nhạy bén nhận thức được những diễn biến phức tạp và thay đổi sâu
sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất trên thế
giới để có những chủ trương đối ngoại phù hợp. Trong điều kiện mới càng phải
coi trọng vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức
mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để
phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa…
…Phát triển quan hệ hữu nghị với các nước ở Đông Nam á và châu á -
Thái Bình Dương, phấn đấu cho một Đông Nam á hoà bình, hữu nghị và hợp tác.
Mở rộng sự hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các nước Bắc âu, Tây âu, Nhật Bản
và các nước phát triển khác. Thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ với Hoa
Kỳ.”
Qua đó, ta thấy được sự đúng đắn trong việc điều chỉnh đường lối đối ngoại
của Đảng ta, thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất
cả các nước, với phương châm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, nhằm tạo điều kiện quốc tế thuận lợi
cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì lợi ích
của nhân dân và góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế
giới vì hoà bình, ổn định và phát triển.
Với đường lối đối ngoại rộng mở và liên tục được hoàn thiện qua các kỳ
đại hội, Đảng ta và bộ phận phụ trách công việc đối ngoại của đất nước đã có
những chính sách thích hợp trong quan hệ của từng quốc gia, đặc biệt là những
nước làng giềng và khu vực:
“Không ngừng củng cố, phát triển quan hệ đoàn kết và hữu nghị đặc biệt
giữa Đảng và nhân dân ta với Đảng và nhân dân Lào, Đảng và nhân dân
4
Campuchia anh em. Đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả theo
nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích chính đáng của
nhau. Phấn đấu góp phần sớm đạt được một giải pháp chính trị toàn bộ về vấn đề
Campuchia, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của Campuchia và Hiến chương Liên
hợp quốc.”
Đặc biệt là chính sách đối ngoại với Trung Quốc:
“Thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, từng bước
mở rộng sự hợp tác Việt - Trung, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa hai nước
thông qua thương lượng hoà bình.”
Trước hết ta đã xác định Trung Quốc cần gì? Trung Quốc phấn đấu thành
nước giàu mạnh nhất thế giới. Do đó, vấn đề duy trì và củng cố môi trường quốc tế
thuận lợi cho chính sách cải cách và mở cửa được đặt lên hàng đầu trong quan hệ
đối ngoại. Vì thế, việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc tháng 10/1991 có
ý nghĩa lớn lao trong quan hệ giữa hai quốc gia, phù hợp với những lợi ích của
nhân dân hai nước và xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển của khu vực và trên toàn
thế giới. Tuy nhiên trong quan hệ với Trung Quốc, ta cần phải giữ vững lập trường
4 nguyên tắc: Độc lập tự chủ, hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. 4 nguyên tắc này sẽ thúc đẩy mối quan
hệ của hai nước phát triển theo hướng tích cực, tránh được những va chạm nảy
sinh trong quá trình giải quyết những vấn đề mâu thuẫn.
Qua việc hoạch định chính sách đối ngoại với Trung Quốc, Việt Nam
một lần nữa khẳng định quan hệ giữa hai nước là một mối quan hệ hữu nghị
đặc biệt, mang nhiều ý nghĩa lớn lao giữa hai Đảng, hai nhà nước và với nhân
dân hai nước. Tình đoàn kết hợp tác ấy cần được vun đắp thường xuyên bằng
nhiều hành động cụ thể, thiết thực và phải luôn tuân thủ theo những nguyên
tắc đã đặt ra để cùng nhau phát triển, cùng có lợi.
5
Phần 2:
Triển khai chính sách.
Như đã trình bày ở trên, việc triển khai chính sách đối ngoại của ta với
Trung Quốc có thể chia ra làm hai phần: một phần là giải quyết những vấn đề
tranh chấp, cụ thể ở đây là vấn đề biên giới; phần còn lại là việc mở rộng sự hợp
tác Việt – Trung trên mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội.
I/ Giải quyết vấn đề biên giới trên bộ, vịnh Bắc Bộ và biển, đảo
Sau khi bình thường hóa quan hệ năm 1991, 2 nước Việt Nam Trung Quốc
đã có nhiều lần đàm phán nhằm giải quyết vấn đề biên giới 2 nước có 3 vấn đề
trọng tâm như sau :
1/ Việc phân định biên giới trên bộ.
Vấn đề phân định biên giới và cắm mốc trên đất liền:
Đường biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc dài khoảng 1.400km,
tiếp giáp giữa 7 tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng
Sơn và Quảng Ninh của Việt Nam với tỉnh Vân Nam và khu tự trị dân tộc Choang
tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc; được hoạch định và phân giới, cắm mốc lần đầu
tiên trong lịch sử bằng Công ước hoạch định biên giới ngày 26/06/1887 và Công
ước bổ sung Công ước hoạch định biên giới ngày 20/06/1895 ký kết giữa Pháp và
nhà Thanh (Trung Quốc). Địa hình dọc đường biên giới chủ yếu là đồi núi cao và
sông suối, trong đó có gần 400km đường biên giới đi theo sông suối.
Trong hơn 100 năm qua kể từ khi các Công ước Pháp – Thanh được ký kết,
đường biên giới giữa hai nước đã trải qua nhiều biến đổi trên thực địa do thời tiết
và do biến động về chính trị - xã hội ở mỗi nước cũng như trong quan hệ hai nước,
đặc biệt là cuộc chiến tranh biên giới 1979. Từ nhận thức khác nhau về hướng đi
của đường biên giới, tình hình tranh chấp căng thẳng ở các khu vực biên giới diễn
ra khá phổ biến.Việc phân định qua công ước Pháp-Thanh đã thực hiện cách đây
hơn 100 năm nên không tránh khỏi nhiều sai sót do nhiều cột mốc đã bị phá hủy
hoặc bị xê dịch,sự xâm canh xâm cư,địa hình bị xói mòn do thời gian hơn nữa các
cột mốc trên không được xác định bằng phương pháp tọa độ.Trước tình hình đó
với nhu cầu xác định rõ ràng đường biên giới tránh sự tranh chấp ảnh hưởng tới
quan hệ 2 nước.Ngay sau 11/1991,2 nước đã đàm phán ký kết hiệp ước mới thay
cho hiệp ước Pháp-Thanh sau đó tiến hành phân giới cắm mốc trên thực địa.
Hiệp ước 1999: Cơ sở pháp lý của công tác phân giới, cắm mốc
Ngay sau khi giành được độc lập, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến
việc giải quyết vấn đề biên giới, lãnh thổ với các nước láng giềng. Ngày
02/11/1957, Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã gửi thư cho Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đề nghị hai bên tôn trọng
6
đường biên giới lịch sử được hoạch định trong các Công ước Pháp - Thanh 1887
và 1895, hai Bên thông qua đàm phán giải quyết mọi tranh chấp. Tháng 4/1958,
Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc trả lời đồng ý với đề nghị của phía Việt
Nam.
Với mục tiêu xác lập đường biên giới rõ ràng giữa hai nước, từ năm 1974 đến
1979, Việt Nam và Trung Quốc đã tiến hành 03 lần đàm phán về biên giới lãnh
thổ, nhưng không đạt được kết quả do hai bên có lập trường, quan điểm khác xa
nhau.
Sau khi bình thường hóa quan hệ, từ tháng 10/1992, hai Bên tiến hành đàm
phán lần thứ tư về biên giới lãnh thổ. Sau 01 năm đàm phán, tháng 10/1993, hai
Bên đã ký Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới
lãnh thổ giữa Việt Nam - Trung Quốc, theo đó hai Bên đồng ý lấy các Công ước
Pháp - Thanh 1887 và 1895 và các văn kiện, bản đồ hoạch định, cắm mốc biên
giới kèm theo làm căn cứ để xác định lại đường biên giới Việt Nam - Trung Quốc;
các khu dân cư hai bên đã sinh sống lâu đời thì duy trì cuộc sống ổn định của dân
cư; đối với những đoạn biên giới sông, suối thì giải quyết theo nguyên tắc của luật
pháp và thực tiễn quốc tế.
Hai Bên đã căn cứ vào các nguyên tắc trên để đàm phán xác định đường
biên giới. Kết quả là trong tổng chiều dài khoảng 1.400 km thì nhận thức của hai
bên trùng nhau gần 950km (chiếm 69% tổng chiều dài đường biên); hai bên có
nhận thức khác nhau ở 289 khu vực với tổng chiều dài khoảng 450km (chiếm
31%) với diện tích khoảng 232km
2
.
Ngày 30/12/1999, tại Hà Nội, thay mặt Nhà nước hai nước, Phó Thủ tướng
kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm và Bộ trưởng Ngoại giao Trung
Quốc Đường Gia Triền đã ký Hiệp ước về biên giới đất liền Việt Nam – Trung
Quốc, đặt nền tảng cho việc xây dựng đường biên giới hòa bình, ổn định lâu dài
giữa hai nước.
Hiệp ước 1999 đã ghi nhận toàn bộ hướng đi của đường biên giới từ Tây sang
Đông và kết quả giải quyết 289 khu vực có nhận thức khác nhau. Theo đó: khoảng
114,9 km
2
thuộc Việt Nam; khoảng 117,2km
2
thuộc Trung Quốc. Chỉ còn bốn (04)
khu vực hai Bên chưa giải quyết được (ba khu vực ở Cao Bằng, trong đó có khu
vực thác Bản Giốc) và khu vực cửa sông Bắc Luân (bản đồ đính kèm Hiệp ước chỉ
thể hiện nét đứt). Hai Bên thoả thuận sẽ giải quyết các khu vực này trong quá trình
phân giới, cắm mốc.
Hiệp ước 1999 là sự kiện quan trọng có ý nghĩa to lớn trong lịch sử quan hệ
Việt Nam - Trung Quốc. Đặc biệt, Hiệp ước 1999 là cơ sở pháp lý cho việc phân
giới, cắm mốc trên biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc.
Tuy nhiên, Hiệp ước 1999 mới chỉ xác định đường biên giới bằng lời văn
và trên bản đồ. Để thực thi chủ quyền quốc gia, tiến hành bảo vệ và quản lý lãnh
7
thổ trên thực địa, hai Bên cần tiến hành phân giới, cắm mốc, chuyển đường biên
giới từ lời văn trong Hiệp ước và bản đồ ra thực địa, cùng nhau xác định, đánh dấu
rõ ràng từng vị trí cột mốc, vạch ra đường biên giới chính xác trên thực địa.
Quá trình phân giới cắm mốc
Ngay sau khi ký hiệp định về biên giới đất liền Việt-Trung,2 bên đã thành
lập uỷ ban Liên hiệp về phân giới cắm mốc,chia biên giới Việt-Trung làm 12 đoạn
mỗi đoạn giao cho 1nhóm Liên hợp tiến hành phân định và cắm mốc.
Từ năm 2000 và 2002, hai Bên đã thoả thuận được 12 văn bản pháp lý kỹ
thuật làm cơ sở cho công tác phân giới, cắm mốc. Tháng 12/2001, hai Bên tiến
hành cắm cột mốc đầu tiên tại cửa khẩu Móng Cái - Đông Hưng. Từ tháng
10/2002, hai Bên đồng loạt triển khai phân giới, cắm mốc trên toàn tuyến biên giới
Việt Nam - Trung Quốc.
Trong 2 năm 2002 và 2003, hai bên thoả thuận tiến hành công tác phân
giới, cắm mốc theo hình thức “cuốn chiếu” từ Tây sang Đông, tức là làm đến đâu
dứt điểm đến đó. Trong giai đoạn này, do hai Bên còn có nhận thức khác nhau về
cách thức triển khai nên công tác phân giới, cắm mốc tiển triển rất chậm, hai Bên
chỉ cắm được 89 cột mốc.
Từ năm 2004 - 2006, hai Bên thỏa thuận triển khai công tác phân giới, cắm
mốc theo phương châm “dễ trước, khó sau”. Nhờ đó, công tác phân giới, cắm mốc
có tiến triển nhanh hơn. Hết năm 2006, hai Bên đã xác định được gần 70% vị trí
mốc giới. Tuy nhiên, sang đầu năm 2007 tốc độ phân giới, cắm mốc chậm lại do
các khu vực tồn đọng đều là các khu vực nhạy cảm, có lịch sử tranh chấp lâu đời,
đã qua nhiều vòng đàm phán nhưng chưa giải quyết được.
Trước tình hình đó, hai Bên đã đưa ra nhiều biện pháp đẩy nhanh tiến độ
phân giới, cắm mốc, thỏa thuận giải quyết các vấn đề còn tồn đọng theo phương
thức “cả gói”, trên cơ sở các nguyên tắc:
1. Căn cứ pháp lý Hiệp ước năm 1999 và bản đồ đính kèm.
2. Giải quyết tất cả các khu vực trong “gói” theo cùng một tiêu chí.
3. Công bằng, hợp tình, hợp lý; cân bằng về lợi ích, hai Bên đều chấp
nhận được.
4. Biên giới đi qua tất cả mốc cũ và các dấu tích lịch sử.
5. Giảm thiểu tối đa tác động đến đời sống dân cư.
Trong quá trình giải quyết cụ thể, hai Bên đã nhất trí chia các khu vực tồn
đọng thành nhiều “gói”, mỗi “gói” giải quyết theo một số tiêu chí nhất định. Hai
Bên đặc biệt quan tâm đến các gói: “cửa khẩu”, “mốc cũ Pháp - Thanh” và gói
“thác Bản Giốc và cửa sông Bắc Luân”.
8
Suốt 8 năm qua, hai Bên đã cùng nhau cố gắng giải quyết các vấn đề trên
thực địa và trong đàm phán trên tinh thần thông cảm và chiếu cố đến mối quan
tâm của nhau nhằm tìm ra một giải pháp công bằng, phù hợp với lời văn và tinh
thần của Hiệp ước 1999. Hai Bên đã tiến hành 13 vòng đàm phán cấp Chính phủ
về biên giới lãnh thổ và rất nhiều cuộc gặp hai Trưởng đoàn Đoàn đàm phán
Chính phủ về biên giới lãnh thổ; 31 vòng đàm phán cấp Chủ tịch Ủy ban Liên hợp
phân giới, cắm mốc. Riêng trong năm 2008, hai Bên đã tiến hành 06 cuộc gặp giữa
hai Trưởng đoàn Đoàn đàm phán Chính phủ về biên giới lãnh thổ, 11 vòng đàm
phán cấp Chủ tịch Ủy ban Liên hợp phân giới, cắm mốc, vòng ngắn nhất kéo dài 9
ngày, vòng dài nhất kéo dài 23 ngày, phiên họp dài nhất kéo dài liên tục hơn 30
giờ liền.
Đến ngày 31/12/2008, hai Bên đã giải quyết dứt điểm toàn bộ các vấn đề
còn tồn tại, hoàn thành công tác phân giới, cắm mốc trên toàn tuyến biên giới đất
liền Việt Nam - Trung Quốc. Hai Trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ về biên
giới lãnh thổ đã ra Tuyên bố chung về việc hoàn thành công tác phân giới, cắm
mốc biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc đúng thời hạn như Lãnh đạo
cấp cao hai nước đã thoả thuận.
Hai Bên đã phân giới xong toàn bộ tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc
dài khoảng 1.400 km, trong đó có gần 400km đường biên giới đi theo sông, suối;
cắm 1.991 cột mốc (trong đó có 1.548 cột mốc chính; 443 cột mốc phụ). Hệ thống
mốc giới này đã được đánh dấu, ghi nhận và mô tả phù hợp với địa hình thực tế
một cách khách quan, khoa học, chi tiết. Nếu so sánh với đường biên giới của các
nước trên thế giới, đường biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc được
đánh giá là có mức độ cột mốc dầy đặc và rõ ràng, được xác định theo phương
pháp hiện đại, đảm bảo tính trung thực và bền vững lâu dài.
2/ Vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ.
Trong các vấn đề do lịch sử để lại trong quan hệ giữa ta và Trung Quốc có
3 vấn đề liên quan đến biên giới lãnh thổ là xác định đường biên giới trên đất liền ;
phân định Vịnh Bắc Bộ và vấn đề trên Biển Đông (mà thực chất là vấn đề chủ
quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như đối với vùng đặc
quyền kinh tế, thềm lục địa của ta). Vịnh Bắc Bộ được bao bọc bởi Việt Nam và
Trung Quốc có diện tích 123.700 km2, chiều ngang nơi rộng nhất khoảng 320 km
(176 hải lý) và nơi hẹp nhất khoảng 220 km (119 hải lý). Chiều dài bờ biển phía
Việt Nam khoảng 763 km, còn phía Trung Quốc khoảng 695 km. Phần Vịnh phía
ta có khoảng 1 300 hòn đảo ven bờ, đặc biệt có đảo Bạch Long Vĩ nằm cách đất
liền nước ta khoảng 110 km, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng 130 km.
Vịnh có vị trí chiến lược quan trọng đối với Việt Nam và Trung Quốc về an ninh
và quốc phòng. Đặc thù của Vịnh là chiều ngang tương đối hẹp, từ trước tới nay
hai nước chưa hề phân định Vịnh. Theo Công ước luật Biển năm 1982 của Liên
hợp quốc, thì toàn bộ Vịnh Bắc Bộ là vùng chồng lấn và trong thực tế thời gian
qua có tranh chấp, ảnh hưởng không tốt đến quan hệ giữa hai nước. Trước tình
9
hình đó, hai nước đều có nhu cầu tiến hành đàm phán để phân định Vịnh Bắc Bộ
nhằm đạt hai mục tiêu cơ bản và lâu dài : một là xác định đường phân giới rạch
ròi, phân chia vùng biển, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước
láng giềng ; hai là giải quyết vấn đề tồn tại do lịch sử để lại, tạo cơ sở và động lực
thúc đẩy quá trình xây dựng lòng tin, tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa
hai Đảng, hai nước theo phương châm 16 chữ mà hai đồng chí Tổng Bí thư đã
thỏa thuận. Ngoài ý nghĩa về an ninh, quốc phòng, Vịnh Bắc Bộ còn có ý nghĩa
lớn về kinh tế, có nguồn lợi hải sản phong phú. Hai nước đều có nhu cầu hợp tác
đánh bắt, bảo vệ môi trường và bảo vệ và nuôi trồng nguồn hải sản trong Vịnh.
Vào các năm 1957, 1961 và 1963 hai nước có ký các thỏa thuận cho phép thuyền
buồm của hai bên được đánh bắt trong Vịnh ngoài phạm vi tương ứng 3 hải lý, 6
hải lý và 12 hải lý tính từ bờ biển và hải đảo mỗi bên. Các thỏa thuận này đã hết
hiệu lực vào những năm 70. Trong quá trình đàm phán về phân định Vịnh Bắc Bộ,
phía Trung Quốc kiên trì đề nghị lập vùng đánh cá chung đồng thời với việc phân
định Vịnh Bắc Bộ và nhấn mạnh nếu không thỏa thuận được vấn đề này thì khó có
thể giải quyết được vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ trong năm 2000. Ta không chủ
trương gắn vấn đề nghề cá mang tính kinh tế, kỹ thuật với vấn đề phân định quốc
giới mang tính chiến lược lâu dài. Nhưng ta cũng nhận thức rõ là việc không giải
quyết được vấn đề nghề cá có thể dẫn đến hậu quả là khó giải quyết được vấn đề
phân định Vịnh Bắc Bộ trong năm 2000. Lúc đó toàn bộ Vịnh sẽ tiếp tục bị coi là
vùng chồng lấn giữa hai bên, và tình hình ở đó sẽ tiếp tục mất ổn định. Thực tiễn
quốc tế cho thấy nhiều nước có vịnh hoặc vùng biển chung cũng đã thỏa thuận lập
vùng đánh cá chung và về mặt pháp lý thì điều đó không trái với Công ước luật
Biển năm 1982. Nhằm mục đích tạo thuận lợi tối đa cho việc giải quyết vấn đề
phân định và trên cơ sở cân nhắc kỹ mọi khía cạnh trong quan hệ hai nước cũng
như thực tiễn quốc tế, ta đã đồng ý lập vùng đánh cá chung ở trong Vịnh Bắc Bộ.
Cuộc đàm phán về biên giới lãnh thổ, trong đó có vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ
giữa ta và Trung Quốc đã được tiến hành từ đầu những năm 70. Trong các năm
1974 và 1977 - 1978, hai nước đã tiến hành 2 vòng đàm phán về phân định.
Nhưng do điều kiện lúc đó nên đàm phán không có kết quả. Sau khi hai nước bình
thường hóa quan hệ, hai bên đã quyết định thương lượng để giải quyết các vấn đề
biên giới lãnh thổ, trong đó có vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ. Hai nước đã ký
Thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới - lãnh thổ giữa
Việt Nam và Trung Quốc ngày 19-10-1993, trong đó nêu rõ phương hướng phân
định Vịnh Bắc Bộ là "Hai bên sẽ áp dụng luật quốc tế và tham khảo thực tiễn quốc
tế, theo nguyên tắc công bằng và tính đến mọi hoàn cảnh liên quan trong Vịnh để
đi đến một giải pháp công bằng". Thực hiện thỏa thuận đó, từ 1993 đến năm 2000,
hai bên đã triển khai 7 vòng đàm phán cấp chính phủ, 3 cuộc gặp giữa hai Trưởng
đoàn đàm phán cấp chính phủ và 18 vòng đàm phán cấp chuyên viên. Một thuận
lợi hết sức lớn lao đối với quá trình đàm phán là quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa
hai nước không ngừng được tăng cường, ngày càng đi vào thực chất và toàn diện,
lãnh đạo của hai bên luôn luôn quan tâm, chỉ đạo sát sao. Trong các chuyến thăm
Trung Quốc vào năm 1997 của Đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười và tháng 2-1999
10
của Đồng chí Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, lãnh đạo cấp cao hai nước đạt được thỏa
thuận là khẩn trương đàm phán để giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền trước
năm 2000 và hoàn thành việc phân định để ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ
trong năm 2000. Với tinh thần đó, trong năm 1998 và 1999 hai bên chủ yếu dành
ưu tiên cho việc giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền. Năm 2000 cuộc đàm
phán về phân định Vịnh Bắc Bộ được đẩy mạnh và đi vào giải quyết thực chất (1
vòng đàm phán cấp chính phủ, 3 cuộc gặp liên tiếp giữa 2 trưởng đoàn cấp chính
phủ và 8 vòng đàm phán cấp chuyên viên).
Trong quá trình đàm phán, hai bên đã vận dụng các nguyên tắc như sau để
giải quyết : một là, căn cứ vào các quy định của Công ước luật Biển 1982 của Liên
hợp quốc cũng như các nguyên tắc luật pháp quốc tế và tập quán được công nhận
rộng rãi ; hai là, hai bên tính đến các đặc thù của Vịnh Bắc Bộ như sự hiện diện
của các đảo, chiều dài bờ biển v.v ; ba là, việc giải quyết vấn đề phân định phải
xuất phát từ thực trạng cũng như nhu cầu phát triển quan hệ giữa hai nước ; bốn là,
bảo đảm nguyên tắc công bằng và chiếu cố lợi ích của nhau. Về diện tích, phía
Trung Quốc kiên trì chủ trương đại thể chia đôi, thừa nhận ta có thể nhỉnh hơn
nhưng hơn không đáng kể. Ta chủ trương giải pháp công bằng phải phù hợp với
các hoàn cảnh hữu quan trong Vịnh như sự hiện diện của các đảo của ta, chiều dài
bờ biển của ta lớn hơn v.v Do đó, kết quả của giải pháp phân định phù hợp với
yêu cầu ta đặt ra. Về diện tích tổng thể ta được 53,23% diện tích Vịnh, Trung
Quốc đạt 46,77% (ta hơn Trung Quốc 6,46% tức là khoảng 8205 km2), đường
phân định cách đảo Bạch Long Vĩ 15 hải lý, đảo Cồn Cỏ được hưởng 50% hiệu
lực. Về khía cạnh tài nguyên, giải pháp phân định đạt được cũng bảo đảm việc
phân chia lợi ích một cách công bằng. Hai bên đã phân chia rõ ràng phần thềm lục
địa để mỗi bên đều có thể tiến hành thăm dò, khai thác tài nguyên trong phạm vi
thềm lục địa của mình mà không bị bên kia can thiệp hoặc gây khó khăn. Trong
trường hợp có cấu tạo mỏ vắt qua đường phân định thì hai bên sẽ thỏa thuận với
nhau về việc khai thác và phân chia lợi ích của việc khai thác đó.
Cuộc đàm phán về nghề cá được khởi động muộn hơn. Cho mãi đến tháng
4-2000 ta mới tán thành đàm phán nghề cá. Qua 6 vòng đàm phán cấp chuyên viên
về nghề cá, hai bên nhất trí lập vùng đánh cá chung ở trong Vịnh Bắc Bộ từ vĩ độ
20o xuống đường đóng cửa Vịnh. Vùng này có bề rộng là 30,5 hải lý kể từ đường
phân định về mỗi phía và có tổng diện tích là 33.500 km2, tức là khoảng 27,9%
diện tích Vịnh. Như vậy, đảm bảo cách bờ của mỗi nước là 30 hải lý : đại bộ phận
cách bờ của ta 35 - 59 hải lý và có 2 điểm cách bờ là 28 hải lý. Thời hạn của vùng
đánh cá chung là 15 năm (12 năm chính thức và 3 năm gia hạn). Hai bên cũng đã
thỏa thuận các điều khoản liên quan đến bảo vệ môi trường và bảo vệ và nuôi
trồng nguồn hải sản trong Vịnh. Ba nguyên tắc lớn của vùng đánh cá chung là :
vùng đặc quyền kinh tế của nước nào thì nước đó có quyền kiểm tra, kiểm soát các
tàu cá được phép vào vùng đánh cá chung ; sản lượng và số tàu thuyền được phéãp
vào vùng đánh cá chung là dựa trên nguyên tắc bình đẳng, căn cứ vào sản lượng
được phép đánh bắt, xác định thông qua điều tra liên hợp định kỳ ; mỗi bên đều có
11
quyền liên doanh hợp tác đánh cá với bên thứ 3 trong vùng đặc quyền kinh tế của
mình. Hai bên thỏa thuận lập Uủy ban liên hợp nghề cá để xây dựng quy chế liên
quan đến vùng đánh cá chung. Ngoài vùng đánh cá chung ra, hai bên thỏa thuận về
dàn xếp quá độ với thời hạn 4 năm ở phía Bắc vĩ tuyến 20 cho tàu thuyền của hai
bên tiếp tục được đánh bắt. Phạm vi cụ thể của vùng này hai bên sẽ tiếp tục thảo
luận. Sau thời hạn quá độ, tàu thuyền của các bên về đánh cá ở vùng đặc quyền
kinh tế của mình, trừ khi được bên kia cho phép. Đồng thời hai bên cũng thỏa
thuận lập một vùng đệm nhỏ ở ngoài cửa sông Bắc Luân với mục đích là tạo thuận
lợi cho việc ra vào của các tàu cá nhỏ (nếu phát hiện các tàu đó đánh cá thì cảnh
cáo và buộc rời khỏi vùng nước của mình). Vùng này dài 10 hải lý và tính từ
đường phân định rộng 3 hải lý về mỗi bên.
Về tổng thể, các giải pháp đạt được trong quá trình đàm phán và được thể
hiện trong hai bản Hiệp định là thỏa đáng, đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của cả
hai bên. Các Hiệp định đó là kết quả của quá trình đàm phán lâu dài, thể hiện nỗ
lực, thiện chí và tính đến sự quan tâm, nhân nhượng từ cả hai phía. Đối với ta, việc
ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ tiếp theo việc ký Hiệp ước về biên giới trên
đất liền năm 1999, có ý nghĩa rất quan trọng vì qua đó ta đã đạt được mục tiêu là
giải quyết được hai trong ba vấn đề biên giới - lãnh thổ tồn đọng lâu nay giữa hai
nước. Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc năm 1999 và Hiệp
định phân định Vịnh Bắc Bộ tạo nên một cơ sở pháp lý vững chắc để quản lý biên
giới, lãnh thổ, thực hiện mục tiêu là xây dựng biên giới Việt Nam - Trung Quốc
thành biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài, và tạo động lực thúc đẩy, tăng
cường quan hệ hai nước. Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ đã xác định trọn vẹn
đường biên giới lãnh hải giữa ta và Trung Quốc ở khu vực ngoài cửa sông Bắc
Luân, phân định rõ ràng phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và phạm vi thềm lục địa
của hai nước ở Vịnh. Hiệp định đã ghi nhận cam kết của hai bên tôn trọng chủ
quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mỗi bên trong phạm vi các vùng
biển của mình. Hiệp định cũng đã đề ra cách giải quyết khi xảy ra trường hợp hai
bên chung nhau các mỏ tài nguyên khoáng sản nằm trong Vịnh. Hiệp định phân
định Vịnh Bắc Bộ vừa mới ký với Trung Quốc này là Hiệp định phân định biển
thứ hai của nước ta (Hiệp định phân định biển đầu tiên là Hiệp định phân định các
vùng biển giữa Việt Nam và Thái Lan ký năm 1997) và là Hiệp định phân định
biển gần đây nhất ở trong khu vực). Do đó ý nghĩa của Hiệp định này không chỉ
dừng lại trong khuôn khổ quan hệ Việt - Trung mà thực sự góp phần vào việc ổn
định hòa bình trong khu vực. Hiệp định hợp tác nghề cá đã góp phần quan trọng
đưa đến việc ký kết Hiệp định phân định ; thể hiện rõ sự nhân nhượng, thông cảm
lợi ích của nhau, phù hợp với phương châm "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn
diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" trong quan hệ hai nước.
3/ Vấn đề biển Đông và chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa và thềm lục địa
phía Nam.
12
Chủ quyền trên 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là vấn đề rất nhạy cảm
trong ngoại giao giữa Việt-Trung.Chủ quyền 2 quần đảo và tranh chấp khu vực
biển Đông hiện nay là 1 vấn đề nóng vì không chỉ có 2nước Việt-Trung mà nay
còn có thêm ASEAN,Đài Loan tham gia vào tranh chấp này vì khu vực biển Đông
có trữ lượng dầu khí lớn,lại là tuyến giao thông hàng hải quan trọng nên ngay cả
Mỹ cũng muốn gây ảnh hưởng tại đây.Về phía Việt Nam chúng ta luôn luôn
khẳng định chủ quyền không thể chối cãi trên 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng
Sa.Ngay từ thế kỉ XVII,chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã cử tướng đi chấn giữ
Hoàng Sa,Trường Sa.Việt Nam đã khai thác 2 quần đảo này từ lâu đời,và trong
hòa bình (hơn 300 năm) nên theo Công ước Luật Biển của Liên Hợp Quốc chủ
quyền đó là không thể chối cãi.Trước tình hình Trung Quốc tuyên bố kế hoạch
kinh tế 5 năm trong đó có bao gồm tới quần đảo Truờng Sa và Hoàng Sa,phát
ngôn viên bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng phản đối. Phía Việt Nam đã yêu
cầu Trung Quốc đàm phán đa phương vấn đề tranh chấp Biển Đông.Chúng ta luôn
cứng rắn trong vấn đề biển Đông nhằm bảo vệ chủ quyền thiêng liêng nói trên
bằng phương pháp đàm phán hòa bình mà không làm ảnh hưởng tới mối quan hệ
hữu nghị Việt-Trung.
II/ Mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác mọi mặt.
1/ Quan hệ chính trị:
Hai bên xây dựng khuôn khổ quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác lâu dài.
Trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu tháng 2/1999, lãnh
đạo cấp cao hai nước xác định phương châm 16 chữ thúc đẩy quan hệ hai nước
trong thế kỷ 21 là "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng
tới tương lai". Dịp Chủ tịch nước Trần Đức Lương thăm Trung Quốc tháng
12/2000, hai bên ký Tuyên bố chung về hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới, cụ thể
hoá phương châm 16 chữ đó thành những biện pháp cụ thể phát triển quan hệ hai
nước trên tất cả các lĩnh vực. Năm 2005, hai bên thoả thuận đưa quan hệ hai nước
trở thành “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Đặc biệt, trong
chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tháng 5/2008, hai bên
nhất trí phát triển “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” theo phương
châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt, đồng thời nhất trí thiết lập đường dây nóng giữa
lãnh đạo cấp cao hai nước tạo cơ sở cho quan hệ hai nước phát triển ổn định, lâu
dài trong thời gian tới.
Lãnh đạo cấp cao hai nước duy trì đều đặn các chuyến thăm và gặp gỡ bên
lề hội nghị quốc tế. Trong hai năm gần đây, có các chuyến thăm Trung Quốc của
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh (5/2008), Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết dự Lễ
khai mạc Olympic Bắc Kinh (8/2008), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm chính
thức Trung Quốc và dự Hội nghị cấp cao ASEM (10/2008); dự Diễn đàn Bác
Ngao, thăm Quảng Đông, Hồng Kông và Macao (4/2009). Phía Trung Quốc có
đoàn Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị Chu Vĩnh Khang (10/2008) và một số đồng
chí là Ủy viên Bộ Chính trị, lãnh đạo các Ban ngành địa phương thăm ta (Ủy viên
13
Bộ Chính trị, Bí thư tỉnh Quảng Đông Uông Dương; Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư
Thiên Tân Trương Cao Lệ; Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Chí Lập; Ủy viên Quốc
vụ, Bộ trưởng Bộ Công an Mạnh Kiến Trụ, Trưởng Ban liên lạc đối ngoại Đảng
Cộng sản Trung Quốc Vương Gia Thụy, Trưởng Ban tổ chức Trung ương Lý
Nguyên Triều…).
Trong các chuyến thăm, Lãnh đạo cấp cao hai nước nhấn mạnh tình hữu
nghị Việt-Trung là tài sản quý báu của hai nước và nhân dân hai nước, cần được
hết sức giữ gìn và không ngừng vun đắp; khẳng định sẽ làm hết sức mình để đưa
quan hệ đó ngày càng sâu sắc hơn, tin cậy hơn, cùng ủng hộ lẫn nhau trong sự
nghiệp đổi mới, cải cách mở cửa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước, vì hòa
bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Hai bên thành lập Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam - Trung
Quốc (11/2006) và đã tiến hành 2 phiên họp (phiên thứ 2 họp tại Bắc Kinh tháng
1/2008). Phiên họp thứ 3 dự kiến vào vào nửa đầu năm 2009 tại Việt Nam.
Hợp tác giữa hai Đảng được đẩy mạnh. Hai bên duy trì trao đổi đoàn và
thiết lập cơ chế hợp tác, giao lưu giữa các Ban Đảng. Từ cuối năm 2007, Trung
Quốc tiếp tục thực hiện các chương trình bồi dưỡng, đào tạo cán bộ cho ta. Trong
chuyến thăm Việt Nam của Trưởng ban liên lạc đối ngoại Trung Quốc Vương Gia
Thụy, hai bên trao đổi ý kiến về các biện pháp tăng cường giao lưu giữa các cơ
quan hai Đảng trên các lĩnh vực đào tạo cán bộ, công tác xây dựng Đảng… Ngoài
ra, hai Đảng đã tổ chức 4 cuộc hội thảo về lý luận, kinh nghiệm xây dựng Đảng,
quản lý nhà nước, về đổi mới, cải cách mở cửa, hội nhập quốc tế (tháng 10/2008,
tổ chức Hội thảo lý luận và thực tiễn về nông nghiệp, nông thôn, nông dân - Kinh
nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm Trung Quốc tại Nha Trang). Giao lưu giữa thế hệ
trẻ 2 nước tiếp tục được duy trì (tháng 10/2008, đã diễn ra cuộc “Gặp gỡ hữu nghị
thanh niên Việt Nam - Trung Quốc” lần thứ 8 với chủ đề Giao lưu hữu nghị Việt -
Trung).
Quan hệ giữa các ngành quan trọng như ngoại giao, an ninh, quốc phòng
tiếp tục được tăng cường với việc ký các thỏa thuận hợp tác giữa hai Bộ Ngoại
giao (12/2002), hai Bộ Công an (9/2003), hai Bộ Quốc phòng (10/2003); hai
ngành An ninh (3/2005), Thoả thuận hợp tác biên phòng (8/2007) và Thỏa thuận
về hợp tác giữa hai Tổng Cục chính trị Bộ Quốc phòng hai nước (12/2007). Năm
2008, hai bên trao đổi các đoàn quan trọng: Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc
Dương Khiết Trì thăm ta (4/2008); Ủy viên Quốc vụ, Bộ trưởng Bộ Công an
Trung Quốc Mạnh Kiến Trụ thăm Việt Nam và dự “Hội nghị Bộ trưởng giữa Bộ
Công an Việt Nam và Bộ Công an Trung Quốc về hợp tác phòng chống tội phạm
lần thứ nhất”(12/2008); Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ
trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Khắc Nghiên thăm Trung Quốc (11/2008).
- Quan hệ giữa các địa phương hai bên cũng được tăng cường với nhiều hình thức
14
đa dạng và thiết thực như trao đổi đoàn các cấp, ký kết các văn bản hợp tác, cùng
nhau tổ chức hội thảo, triển lãm
Liên tiếp trong 5 năm kể từ năm 2004 đến nay, hàng năm lãnh đạo Quảng
Tây đều sang thăm Việt Nam, trong đó gần nhất là chuyến thăm của Bí thư Khu
uỷ Quảng Tây Quách Thanh Côn (2-5/4/2008). Ngoài ra, Tỉnh trưởng Vân Nam
Tần Quang Vinh (4/2007); Ủy viên BCT, Bí thư tỉnh Quảng Đông Uông Dương
(9/2008); Ủy viên BCT, Bí thư Thiên Tân Trương Cao Lệ (11/2008) cũng đã thăm
Việt Nam. Lãnh đạo ta cũng nhiều lần thăm các địa phương phía Nam của Trung
Quốc như Vân Nam, Quảng Tây, Hải Nam .v v.
Năm 2008, hai bên tiến hành phiên họp lần thứ nhất Ủy ban công tác liên
hợp giữa 3 tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh với Quảng Tây tại Quảng Ninh
và giữa 4 tỉnh Điện Biên, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu với Vân Nam tại Lào Cai.
Các tỉnh biên giới trao đổi biện pháp tăng cường hợp tác trên nhiều lĩnh vực cụ
thể, chú trọng hiệu quả thiết thực, trong đó có việc xây dựng đường biên giới hai
nước thành đường biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định và phát triển . Trong
khuôn khổ hợp tác “hai hành lang, một vành đai kinh tế”, hai bên tổ chức hội nghị
lần thứ 4 về hợp tác kinh tế giữa Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Lào Cai với
Vân Nam, Trung Quốc.
Hiện nay ta có các Tổng lãnh sự quán tại Quảng Châu, Nam Ninh, Côn
Minh, Hồng Kông. Tháng 11/2007, Đại sứ quán ta tại Trung Quốc mở Văn phòng
Lãnh sự tại Thượng Hải.
Hai bên tích cực trao đổi, phối hợp lập trường trên nhiều vấn đề quốc tế và
khu vực, đặc biệt là phối hợp trong HĐBA/LHQ kể từ khi Việt Nam là Ủy viên
không thường trực HĐBA/LHQ.
2. Quan hệ kinh tế thương mại:
a) Về thương mại:
Từ năm 2004 đến nay, Trung Quốc liên tục là bạn hàng thương mại hàng
đầu của Việt Nam. Năm 2007, kim ngạch mậu dịch hai nước đạt gần 16 tỷ USD,
hoàn thành trước 3 năm mục tiêu nâng kim ngạch thương mại hai nước đạt 15 tỷ
USD vào năm 2010. Năm 2008, kim ngạch mậu dịch song phương đạt 20,1 tỷ
USD, tăng 40% so với năm 2007; đồng thời, hai bên nêu mục tiêu mới nâng kim
ngạch thương mại song phương lên 25 tỷ USD vào năm 2010. Đi đối với việc duy
trì đà tăng trưởng kim ngạch song phương, hai bên cũng tích cực tìm biện pháp cải
thiện cán cân thương mại. Để thúc đẩy hơn nữa xuất nhập khẩu hàng nông sản và
thực phẩm trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh
(30/5-2/6/2008), hai bên ký kết Hiệp định kiểm dịch động vật và Hiệp định kiểm
dịch thực vật.
Để triển khai thực hiện Hiệp định về phát triển sâu rộng quan hệ kinh tế
thương mại, hiện nay hai bên đang tích cực hoàn tất để sớm ký kết "Quy hoạch
15
phát triển 5 năm hợp tác kinh tế thương mại Việt - Trung" giai đoạn 2009 - 2013,
xác định các lĩnh vực và dự án hợp tác trọng điểm, nâng cao hơn nữa quy mô và
mức độ hợp tác kinh tế thương mại, đồng thời đưa ra một số giải pháp cụ thể,
trong đó có các biện pháp hướng tới giải quyết vấn đề nhập siêu.
b) Về hợp tác đầu tư:
Quan hệ hợp tác đầu tư có bước phát triển mới, nhiều tập đoàn lớn của
Trung Quốc bày tỏ mong muốn đầu tư vào Việt Nam. Tính đến hết tháng 12/2008,
Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam 628 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký
khoảng 2,197 tỷ USD, đứng thứ 16/84 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp
vào Việt Nam.
- Trong những năm qua, Trung Quốc không ngừng tăng qui mô tín dụng ưu đãi
dành cho Việt Nam. Hiện hai bên đang triển khai một số dự án hợp tác kinh tế lớn
như Dự án xây dựng nhà máy khai thác và luyện đồng tại Sin Quyền; cải tạo nâng
tạo nâng cấp nhà máy gang thép Thái Nguyên; phân đạm Hà Bắc; Nhà máy nhiệt
điện Quảng Ninh Bình I, II; Nhà máy nhiệt điện Hải Phòng I, II; Dự án thông tin
tín hiệu đường sắt các tuyến Hà Nội - Đồng Đăng, Hà Nội - Thái Nguyên, Hà Nội
- Lào Cai và khu đầu mối Hà Nội; Dự án hiện đại hoá hệ thống thông tin tín hiệu
đường sắt đoạn Vinh - thành phố Hồ Chí Minh, Nhà máy sản xuất phân đạm từ
than cám Ninh Bình v.v…; Dự án viễn thông nông thôn; Dự án đường sắt nhẹ trên
không tuyến Hà Nội - Hà Đông v.v… Hai bên cũng nhất trí tăng cường thúc đẩy
các doanh nghiệp của hai nước hợp tác trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, công
nghiệp chế tạo, phát triển nguồn nhân lực, năng lượng, chế biến khoáng sản và các
lĩnh vực quan trọng khác, tăng cường hợp tác các dự án trong khuôn khổ "Hai
hành lang, một vành đai kinh tế" và các dự án lớn khác. Tháng 7/2008, Tập đoàn
Công nghiệp than khoáng sản Việt Nam và Công ty Hữu hạn công trình quốc tế
Nhôm Trung Quốc (CHALIECO) ký Hợp đồng EPC xây dựng Nhà máy Alumin,
thuộc Dự án Tổ hợp Bauxit - nhôm Lâm Đồng trị giá 446 triệu USD.
Ngoài tín dụng ưu đãi, Chính phủ Trung Quốc còn hỗ trợ Việt Nam nhiều
khoản viện trợ không hoàn lại dùng vào việc tổ chức các đoàn tham quan, khảo sát
kinh nghiệm phát triển kinh tế xã hội ở Trung Quốc; trao đổi thanh thiếu niên; đầu
tư trang thiết bị cho một số bệnh viện tại Việt Nam; xây dựng khu nhà ở Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Cung Hữu nghị Việt - Trung. Trung Quốc là
thị trường nguồn du lịch lớn nhất của Việt Nam. Năm 2008 có hơn 650 ngàn lượt
khách Trung Quốc đi du lịch Việt Nam.
3/ Về mặt văn hóa, giáo dục và khoa học:
Về mặt văn hóa, từ sau khi bình thường hóa quan hệ, mối quan hệ hợp tác
về văn hóa giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc ngày càng phát triển. Hai nước
đã kí nhiều Hiệp định, kế hoạch và chương trình hợp tác về văn hóa, trong đó nêu
rõ các nguyên tắc bình đẳng, khuyến khích giao lưu, tăng cường hợp tác trên các
lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, thể dục, thể thao, báo chí, phát thanh truyền hình,
16
điện ảnh, thư viện, bảo tàng; đồng thời khuyến khích các hoạt động hợp tác và
giao lưu trên các lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật, triển lãm, hợp đồng xuất bản các
tác phẩm, cử cán bộ thăm viếng trao đổi lẫn nhau…
Nhờ vậy, các hoạt động giao lưu văn hóa giữa hai nước đã phát triển mạnh
mẽ, từ khi ký Hiệp định hợp tác văn hóa đến này, phía Việt Nam đã cử hàng trăm
đoàn đại biểu các cấp thuộc các lĩnh vực báo chí, mỹ thuật, bảo tàng, âm nhạc,
phim ảnh, kịch nói, truyền hình, nhiếp ảnh, văn hóa truyền thống đến Trung Quốc
khảo sát, nghiên cứu, biểu diễn, triển lãm… Ngược lại, nhiều đoàn văn hóa thuộc
các lĩnh vực khác nhau của Trung Quốc cũng đã sang Việt Nam biểu diễn, nhận
được sự hoan nghênh nhiệt liệt của người xem Việt Nam.
Về mặt giáo dục, ngành giáo dục hai nước đã tiến hành những cuộc hội
đàm và ký kết các văn bản thỏa thuận về giao lưu và hợp tác giáo dục. Tổng số lưu
học sinh được hưởng học bổng tại Trung Quốc mỗi năm đến 130 người. Phía Việt
Nam, mỗi năm học cũng dành cho phía Trung Quốc 15 suất học bổng cho lưu học
sinh Trung Quốc sang Việt Nam tiến tu và nghiên cứu. Tính đến nay, có hơn 20
trường đại học của Việt Nam có quan hệ giao lưu hợp tác với hơn 40 trường đại
học và học viện của Trung Quốc. Ngoài ra, bằng nhiều con đường khác nhau,
nhiều thanh niên Việt Nam đã sang Trung Quốc du học tự phí và do có thành tích
học tập tốt nên học đã nhận được các suất học bổng của phía trung Quốc. Theo
thống kê, riêng năm 2003 đã có 3487 người Việt nam được nhận các suất học
bổng dài hạn và ngắn hạn khác nhau, đứng đầu các nước Đông Nam Á và đứng
thứ 4 thế giới, sau Hàn Quốc, Nhật Bản và Mỹ trong số 165 quốc gia và vùng lãnh
thổ có lưu học sinh tại Trung Quốc.
Về mặt khoa học, từ sau năm 1991, hợp tác giữa hai nước Việt Nam, Trung
Quốc trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật cũng ngày một tăng cường và phát triển.
Hai nước đã ký các Hiệp định và Nghị định thư hợp tác Khoa học kỹ thuật, trong
đó, sự hợp tác về khoa học kỹ thuật nông nghiệp được hai nước rất coi trọng và
đẩy mạnh, như hợp tác trong chế biến nông sản, xây dựng khu sản xuất hàng nông
nghiệp áp dụng công nghệ cao. Ngoài ra, hai bên còn có các dự án hợp tác trong
việc khôi phục, giữ gìn và nhân rộng giống một số cây quả ngọt, sử dụng hợp lý
và hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn nước sông Mê Kông, sông Hồng,
hợp tác trong lĩnh vực bảo vệ môi trường…
17
Phần 3:
Những vấn đề tồn tại trong quan hệ hai nước và kiến nghị giải pháp
I/ Những vấn đề tồn tại trong quan hệ hai nước.
Trong lĩnh vực kinh tế. Điều này thể hiện rõ nhất bởi sự chênh lệch cán cân
thương mại giữa hai nước. Mặc dù tổng kim ngạch xuất khẩu hai bên tăng trưởng
nhanh, nhưng Việt Nam luôn là bên nhập siêu và mức nhập siêu tăng lên liên tục:
tính đến năm 2010, Tổng kim ngạch hai chiều đạt mức 22 tỷ USD, nhưng Việt
Nam nhập siêu tới hơn 11 tỷ USD. Tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại
trong buôn bán tiểu ngạch qua biên giới vẫn chưa được ngăn chặn, gây nhiều tiêu
cực cả về kinh tế lẫn xã hội cho các địa phương biên giới, không ít hàng bị phát
giác là mất an toàn vệ sinh thực phẩm, đồ chơi trẻ em kích động bạo lực… Cơ chế
thanh toán vẫn sơ khai, khi xuất khẩu hầu như chỉ thu được đồng Nhân dân tệ -
đồng tiền này khó mua được hàng từ thị trường khác, nhất là ở các nước phát triển.
Ngược lại vì xuất không đủ, nên ta phải huy động các nguồn ngoại tệ mạnh để
nhập hàng từ Trung Quốc.
Về mặt đầu tư, đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam tuy tăng
nhanh cả về số lượng lẫn vốn đầu tư, nhưng chất lượng đầu tư chưa cao. Hạn chế
ảnh hưởng đến đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam bộc lộ qua một số điểm:
Công nghệ đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam chưa cao; Vốn đầu tư bình quân
cho 1 dự án còn thấp, khoảng 2,5 triệu USD/dự án, trong khi trung bình một dự án
nước ngoài đầu tư vào Việt Nam khoảng 11 triệu USD; Bên cạnh đó, vốn đầu tư
thực hiện chưa cao, các doanh nghiệp hàng đầu của Trung Quốc vào Việt Nam
chưa nhiều.
Về vấn đề biên giới lãnh thổ, trong thời gian qua, hai nước đã giải quyết
được hai trong số ba vấn đề còn tồn tại về mặt lãnh thổ giữa hai bên, vẫn tồn tại
vấn đề về chủ quyền trên đảo Trường Sa, Hoàng Sa và thềm lục địa phía Nam.
Tuy nhiên, đây là vấn đề hết sức nhạy cảm, nếu xử lý không phù hợp sẽ làm giảm
sự tin cậy lẫn nhau, ảnh hưởng tới sự phát triển bình thường của hai nước.
II/ Kiến nghị giải pháp.
Tiểu luận xin đưa ra một số kiến nghị để tăng cường hợp tác, cùng phát
triển trong quan hệ hai nước:
Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong thời gian qua đã có sự phát triển
một cách nhanh chóng, tốt đẹp, tạo sự tin tưởng vững chắc cho sự phát triển trong
thời gian tới. Trong bối cảnh mới của tình hình quốc tế, khu vực và mỗi nước,
quan hệ Việt – Trung có nhiều cơ hội phát triển mới nhưng cũng đứng trước rất
nhiều những khó khăn, thách thức. Vì vậy hai nữa cần phải nỗ lực tăng cường hợp
tác, hướng tới mục tiêu chung là cùng nhau phát triển.
18
Trên cơ sở các thoả thuận đã đạt được thể hiện trong các bản Tuyên bố
chung và Thông cáo chung cũng như giữa các nhà lãnh đạo cấp cao, các ngành
hữu quan hai nước cần tiếp xúc, cùng nhau nghiên cứu tìm ra các giải pháp bao
gồm cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn nhằm làm cho sự hợp tác giữa các lĩnh vực
đi vào chiều sâu hơn, thiết thực hơn và hiệu quả hơn. Cụ thể, trong lĩnh vực về
kinh tế, các bên cần nghiên cứu và phối hợp tốt với nhau trong lĩnh vực quản lý
thương mại, chế độ tỷ giả hối đoái, quản lý ngoại tệ để có thể tích cực đẩy mạnh
tính minh bạch trong hoạt động ngoại thương giữa hai nước, hạn chế những vi
phạm và gian lận thương mại. Thứ hai, các bên cần phải tuân thủ tuyệt đối những
cam kết về quy tắc sử xự trong việc giải quyết những tranh chấp về chủ quyền
lãnh thổ trên biển Đông (DOC, BOC), cấm sử dụng vũ lực và đe doạ sử dụng vũ
lực nhằm thương lượng để giải quyết vấn đề một cách hoà bình, tuân thủ những
nguyên tắc được ghi nhận song phương và trong hiến chương Liên Hợp Quốc.
Cuối cùng, việc tăng cường các hoạt động giao lưu văn hoá, đẩy mạnh phong trào
thanh niên giữa hai nước sẽ giúp gia tăng lòng tin và tình thân ái, đoàn kết giữa
nhân dân hai nước, cùng phấn đầu vì mối quan hệ hữu nghị gắn bó, bền chặt.
Kết luận
Qua phần trình bày ở trên, ta có thể đánh giá quan hệ Việt – Trung đã thể
hiện một cách đúng đắn chính sách đối ngoại của nước ta với Trung Quốc. Mối
quan hệ này sẽ còn tiếp tục phát triển hơn nữa, nhất là trong bối cảnh hai nước lấy
phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt đã được các nhà lãnh đạo hai nước đề ra và sử
dụng như kim chỉ nam cho các hoạt động đối ngoại giữa hai nước. 16 chữ vàng:
“Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và
4 tốt: “Láng giềng tốt, đồng chí tốt, bạn bè tốt, đối tác tốt” sẽ là một cơ sở cho sự
tin tưởng của hai Đảng, hai nhà nước và nhân dân hai nước Việt – Trung cùng
hướng tới để xây dựng và vung đắp tình hữu nghị mãi mãi xanh tươi, đờì đời bền
vững.
19
Tài liệu tham khảo:
1. Chính sách đối ngoại Việt Nam II (1975-2006) - Học viện quan hệ quốc tế.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hoạt động đối ngoại (1975-2006) - Học
viện quan hệ quốc tế.
3. Văn kiện Đại hội Đảng VII – NXB Chính trị quốc gia.
4. Trang web Đảng cộng sản Việt Nam: cpv.org.vn
5. Trang web Bộ Ngoại giao Việt nam: mofa.gov.vn
20