Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Báo Cáo Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) và sự tham gia, đóng góp của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.64 KB, 46 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu và khu vực phục hồi chậm lại với nhiều
khó khăn, thách thức. Vòng đàm phán Đo – Ha vẫn bế tắc, với vai trò là điễn đàn
liên kết kinh tế quan trọng ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, APEC đã nhất trí
đưa ra định hướng hợp tác trong năm 2011 là : Tăng cường liên kết kinh tế khu vực
và mở rộng thương mại nhằm thúc đẩy tăng trưởng, tạo ra việc làm và hướng tới
phát triển bền vững. Theo đó, APEC tập trung vào ba trọng tâm là đẩy mạnh liên kết
kinh tế khu vực và mở rộng thương mại, thúc đẩy tăng trưởng xanh, nâng cao hợp
tác và đồng bộ về chính sách. Nhằm thúc đẩy hợp tác khu vực và phục hồi kinh tế,
các nhà lãnh đạo đã nhất trí đẩy mạnh chiến lược mới của APEC về cải cách cơ cấu
kinh tế, hợp tác chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng xanh, tạo thêm công ăn việc
làm, phát triển cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh liên kết thương mại và chuỗi cung ứng khu
vực, tăng cường sự tham gia và đóng góp của các doanh nghiệp.
Các nhà lãnh đạo APEC cũng đặc biệt quan tâm vấn đề sử dụng năng lượng
hiệu quả và an ninh năng lượng liên quan đến mô hình tăng trưởng xanh - một trong
ba ưu tiên của APEC 2011.
Trước tình hình nhu cầu tiêu thụ năng lượng gia tăng nhanh chóng tại khu
vực, các nhà lãnh đạo chia sẻ đánh giá chung cần đẩy mạnh hợp tác trong việc sử
dụng hiệu quả và bảo đảm an ninh năng lượng, giảm cường độ tiêu thụ năng lượng,
đặc biệt là các nguồn năng lượng truyền thống, triển khai các chiến lược giảm khí
thải carbon…
APEC lần thứ 19 đã thông qua Tuyên bố Honolulu - Hướng tới một nền kinh
tế khu vực gắn kết, trong đó có những cam kết cụ thể về nhiều vấn đề quan trọng đối
với khu vực, nhấn mạnh tính đa dạng và sự cần thiết phải tính đến trình độ phát triển
khác nhau giữa các nền kinh tế. Các văn kiện kèm theo, gồm: Thúc đẩy chính sách
sáng tạo hiệu quả, không phân biệt đối xử và theo hướng thị trường, Tăng cường
tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào chuỗi sản xuất toàn cầu, Thương mại
và đầu tư trong lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ môi trường và Đẩy mạnh thực hiện các
điển hình tốt về quản lý cũng đã được Hội nghị thông qua.
Các diễn biến chính trị, kinh tế dồn dập và nhanh chóng trên thế giới cũng như


ngay tại một số thành viên APEC đã khiến cho Hội nghị lần này trở nên thực chất
hơn, tạo ra các định hướng lớn cho việc gia tăng liên kết của khu vực vốn đã chiếm
đến 44% thương mại toàn cầu.
Có thể nói, năm 2011 tiếp tục đánh dấu những bước tiến quan trọng trong tiến
trình xây dựng và phát triển của APEC, qua đó góp phần khẳng định vai trò và vị thế
của APEC tại khu vực và trong nền kinh tế toàn cầu. Hội nghị cấp cao sẽ là dịp để
các nhà lãnh đạo APEC trao đổi phương thức hợp tác trong tương lai, đề ra những
biện pháp nhằm thúc đẩy quá trình phục hồi kinh tế của khu vực, giúp các nền kinh
tế tăng trưởng và hướng tới phát triển bền vững, đặc biệt đối với những nước đang
phát triển, trong đó có Việt Nam.
Trong tiến trình hội nhập khu vực diễn đàn APEC có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với Việt Nam. APEC là khu vực dành viện trợ phát triển lớn nhất, chiếm
tới 65% tổng số vốn đầu tư nước ngoài, 60% giá trị xuất khẩu, 80% giá trị nhập
khẩu, và 75% tổng số khách du lịch quốc tế tới Việt Nam. Hầu hết các đối tác chiến
lược quan trọng và các đối tác kinh tế - thương mại hàng đầu của nước ta là các nền
kinh tế thành viên của APEC. Với những yếu tố trên, APEC ngày càng có vai trò
quan trọng trong đường lối chính sách đối ngoại đổi mới, hội nhập đã sâu rộng, toàn
diện phục vụ đắc lực cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta.
Kể từ khi trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn APEC, Việt Nam đã
và đang tiếp tục có những đóng góp quan trọng cho Diễn đàn. Chúng ta đã thật sự
tạo ấn tượng mạnh mẽ và hoàn thành tốt đẹp vai trò chủ nhà của APEC trong năm
2006, được xem là thành công của Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 14 tại Hà Nội,
một trong những Hội nghị có ý nghĩa bản lề,đã đưa ra những định hướng hợp tác dài
hạn cho APEC. Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc các cam kết hợp tác của APEC
như Báo cáo về Chương trình Hành động Quốc gia hằng năm, thực hiện Chương
trình Hành động tập thể, các kế hoạch hợp tác về thuận lợi hóa thương mại, đầu tư
nước ta cũng đảm nhận vị trí Chủ tịch và điều hành nhiều Nhóm công tác quan trọng
như Nhóm Công tác Y tế nhiệm kỳ 2009 - 2010, Nhóm công tác về Đối phó với tình
trạng khẩn cấp, Nhóm công tác về thương mại điện tử Việt Nam đã triển khai
thành công hơn 60 sáng kiến, đồng bảo trợ hàng trăm sáng kiến trên hầu hết các lĩnh

vực thương mại, đầu tư, hợp tác kinh tế kỹ thuật, y tế, đối phó với thiên tai, chống
khủng bố
Hội nghị cấp cao APEC là dịp để Việt Nam đóng góp những sáng kiến vì lợi
ích chung của khu vực, đồng thời tìm ra khả năng hợp tác với các nền kinh tế khác
trong APEC, nhằm đáp ứng những mục tiêu phát triển của ta, trong đó trước mắt ổn
định kinh tế vĩ mô của đất nước và những mục tiêu dài hạn trong Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2020. Việt Nam tiếp tục tham gia tích cực và triển
khai nghiêm túc những cam kết hợp tác của APEC. Điều này sẽ góp phần không nhỏ
giúp chúng ta tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và thực hiện thành
công Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020. Tuy nhiên, để tận
dụng những thuận lợi, trong quá trình tham gia APEC, Việt Nam cũng phải tập trung
xử lý tốt một số thách thức do biến động phức tạp của kinh tế thế giới và cục diện
quốc tế, sự khác biệt về trình độ phát triển, ưu tiên giữa các thành viên, sự đan xen
của các cam kết và các hiệp định thương mại tự do song phương và khu vực.
Với vị thế quốc tế ngày càng được nâng cao, cùng với chủ trương của Đảng và
Nhà nước về chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, Việt Nam sẽ tiếp tục sát cánh cùng
các nền kinh tế thành viên đóng góp vào sự phát triển của APEC trong thời gian tới,
vì một khu vực châu Á - Thái Bình Dương hòa bình, ổn định và thịnh vượng cho
mọi người dân.
Chính vì xuất phát từ ảnh hưởng, tầm quan trọng của APEC đối với sự phát
triển kinh tế - thương mại của các nước thành viên tham gia trong đó có Việt Nam
và hơn 10 năm tham gia APEC chúng ta đã từng bước trưởng thành và đã có những
đóng góp hết sức tích cực đối với sự phát triển của APEC ngày càng tăng cường,
hợp tác có hiệu quả trong APEC tiếp tục là một hướng ngoại giao đa phương quan
trọng của Việt Nam trong thời gian tới, từ những ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề
nêu trên nên em đã chọn “ Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương
(APEC) và sự tham gia, đóng góp của Việt Nam” làm đề tài báo cáo thực tập tốt
nghiệp đại học, chuyên ngành chính trị đối ngoại.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích rõ sự hình thành và phát triển, mục tiêu nguyên tắc hoạt động của

APEC, cơ cấu tổ chức và hợp tác APEC để qua đó nhận thức được tầm quan trọng,
ảnh hưởng của APEC đối với sự phát triển của các nước tham gia diễn đàn khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương và thế giới.
Làm rõ quá trình tham gia, những chủ chương chính sách của Đảng và nhà
nước ta, những mục tiêu, hoạt động và thành tựu của Việt Nam từ khi tham gia
APEC đến nay. Từ đó phân tích, đánh giá những đóng góp của Việt Nam đối với sự
phát triển của APEC thời gian qua đồng thời nêu rõ phương hướng, giải pháp để
Việt Nam tham gia có hiệu quả trong APEC thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu gồm
Lịch sử phát triển, hoàn cảnh ra đời, cơ chế hoạt động, những mục tiêu và
nguyên tắc hoạt động của APEC.
Tiến trình Việt Nam tham gia APEC: Chủ chương chính sách của Đảng và
nhà nước, Những thành tựu và đóng góp của Việt Nam đối với sự phát triển của diễn
đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của báo cáo sẽ tập trung phân tích lịch sử hình thành và
phát triển của APEC từ khi thành lập (11/1989) đến nay. Những đóng góp của Việt
Nam đối với sự phát triển của APEC từ khi gia nhập (11/1998) đến nay. Qua đó đề
ra phương hướng và mục tiêu trong những năm tiếp theo
4. Phương pháp biện chứng và khách quan
Kết hợp các phương pháp như phân tích tổng hợp, so sánh thống kê dự báo
những dữ kiện thực tiễn và kết quả đã được diễn ra và đăng tải trên các phương tiện
truyền thông, những tài liệu, sách báo và internet…
5. Kết cấu của báo cáo
Ngoài phần mở bài và kết luận, đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Sự ra đời và phát triển của APEC
Chương 2: Quá trình tham gia và những đóng góp của Việt Nam đối với sự
phát triển của APEC
Chương 3: Định hướng và một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò của Việt

Nam đối với sự phát triển của APEC trong thời gian tới
CHƯƠNG 1
SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA APEC
1.1. Bối cảnh quốc tế và nhân tố tác động tới sự ra đời của APEC
1.1.1. Sáng kiến của Ô-xtrây-lia về việc thành lập APEC
Ngay từ những năm 1960, ý tưởng về liên kết kinh tế khu vực đã được một số
học giả người Nhật Bản đưa ra. Năm 1965, hai học giả người Nhật Bản Kojima và
Kurimoto đã đề nghị thành lập một "Khu vực mậu dịch tự do Thái Bình Dương" mà
thành viên gồm năm nước công nghiệp phát triển, có thể mở cửa cho một số thành
viên liên kết là các nước đang phát triển ở khu vực lòng chảo Thái Bình Dương. Sau
đó, một số học giả khác như Tiến sĩ Saburo Okita (cựu Ngoại trưởng Nhật Bản) và
Tiến sĩ John Crawford (Đại học Tổng hợp Quốc gia Ôt-xtrây-lia) đã sớm nhận thức
được sự cần thiết phải xây dựng sự hợp tác có hiệu quả về kinh tế ở khu vực. Tư
tưởng này đã thúc đẩy những nỗ lực hình thành Hội đồng Hợp tác Kinh tế Thái Bình
Dương (PECC) năm 1980. Chính PECC sau này đã cùng với ASEAN đóng vai trò
quan trọng trong việc hình thành chế độ tư vấn kinh tế rộng rãi giữa các nền kinh tế
trong khu vực cũng như thúc đẩy ý tưởng thành lập APEC.
Vào cuối những năm 1980, một số quan chức chính phủ Nhật Bản, đặc biệt
Bộ trưởng Bộ Thương mại và Công nghiệp (MITI) lúc đó là Hajime Tamura, đã gợi
ý thành lập một diễn đàn hợp tác có tính chất kỹ thuật về các vấn đề kinh tế khu vực.
Mỹ lúc đầu tỏ ra ít quan tâm đến gợi ý này vì đang tập trung thúc đẩy tiến triển của
vòng đàm phán U-ru-goay của GATT và hình thành Khu vực Mậu dịch Tự do Bắc
Mỹ (NAFTA), trong khi chính phủ Công Đảng của Thủ tướng Bob Hawke ở Ôt-
xtrây-lia lúc đó đã nhận thức được tầm quan trọng thiết yếu của mối quan hệ kinh tế,
thương mại với châu Á đối với Ôt-xtrây-lia nên đã kịp thời nắm bắt và thúc đẩy ý
tưởng về một diễn đàn hợp tác kinh tế.
Tháng 1 năm 1989, tại Xê-un, Hàn Quốc, Thủ tướng Bob Hawke đã nêu ý
tưởng về việc thành lập một Diễn đàn tư vấn kinh tế cấp Bộ trưởng ở châu Á - Thái
Bình Dương với mục đích phối hợp hoạt động của các chính phủ nhằm đẩy mạnh
phát triển kinh tế ở khu vực và hỗ trợ hệ thống thương mại đa phương. Nhật Bản,

Ma-lai-xia, Hàn Quốc, Thái Lan, Phi-líp-pin, sing-ga-po, Bru-nây, In-đô-nê-xia, Niu
Di-lân, Ca-na-đa và Mỹ đã ủng hộ sáng kiến này. Tháng 11 năm 1989, các Bộ
trưởng Ngoại giao và Kinh tế của các nước nói trên đã họp tại Can-bê-ra, Ôt-xtrây-
lia quyết định chính thức thành lập APEC.
Sau đó, APEC kết nạp thêm Trung Quốc, Hồng Công và Đài Loan (với tên
gọi theo tiếng Anh là Chinese Taipei) vào tháng 11 năm 1991; Mê-hi-cô, Pa-pu-a
Niu Ghi-nê tháng 11 năm 1993; Chi-lê tháng 11 năm 1994 và tạm ngừng thời hạn
xét kết nạp thành viên trong ba năm. Đến tháng 11 năm 1998, APEC kết nạp thêm
ba thành viên mới là Pê-ru, Liên bang Nga và Việt Nam, đồng thời quyết định tạm
ngừng thời hạn xem xét kết nạp thành viên mới trong mười năm để củng cố tổ chức.
Đến nay, APEC đã có 21 nền kinh tế thành viên với khoảng 2,5 tỷ dân; GDP
mỗi năm đạt 19.000 tỷ đô la Mỹ và chiếm 47% thương mại thế giới. APEC bao gồm
cả hai khu vực kinh tế mạnh và năng động nhất thế giới: khu vực Đông Á và khu
vực Bắc Mỹ (gồm Mỹ, Ca-na-đa và Mê-hi-cô) với những nét đặc thù và vô cùng đa
dạng về chính trị, xã hội, kinh tế và văn hóa. Chỉ trong mười năm đầu tồn tại và phát
triển, các nền kinh tế thành viên APEC đã đóng góp gần 70% cho sự tăng trưởng
chung của nền kinh tế toàn cầu.
1.1.2. Quy chế thành viên và quan sát viên của APEC
Việc soạn thảo qui chế thành viên của APEC được giao cho các quan chức
cao cấp của APEC thực hiện và đệ trình lên Hội nghị Bộ trưởng xem xét và Hội nghị
các nhà Lãnh đạo Cấp cao APEC thông qua vào kỳ họp hàng năm tại Van-cu-vơ,
Ca-na-đa, tháng 11 năm 1997. Về cơ bản, nước hoặc vùng lãnh thổ kinh tế, muốn trở
thành thành viên APEC phải có đủ một số điều kiện cần thiết như sau:
Vị trí địa lý: Nằm ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tiếp giáp với bờ biển
Thái Bình Dương.
Quan hệ kinh tế: Có các mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với các nền kinh tế
thành viên APEC về thương mại hàng hóa và dịch vụ, đầu tư trực tiếp nước ngoài và
sự tự do đi lại của các quan chức.
Tương đồng về kinh tế: Chấp nhận chính sách kinh tế mở cửa theo hướng thị
trường.

Quan tâm và chấp thuận các mục tiêu của APEC: Tỏ rõ mối quan tâm mạnh
mẽ tới các lĩnh vực hoạt động của APEC bằng cách tham gia vào các Nhóm công tác
hoặc nghiên cứu độc lập và các hoạt động khác của APEC. Tuy nhiên, không có mối
liên quan đặc biệt nào giữa việc tham gia vào các Nhóm công tác của APEC và việc
trở thành thành viên. Nước muốn trở thành thành viên phải hoàn toàn chấp nhận
những mục tiêu và nguyên tắc cơ bản được đề ra trong các Tuyên bố và Quyết định
của APEC, kể cả các nguyên tắc đồng thuận và tự nguyện
Ngoài quy chế thành viên chính thức, APEC còn có quy chế quan sát viên
dành cho ba tổ chức khu vực là Ban Thư ký ASEAN, Hội đồng Hợp tác Kinh tế Thái
Bình Dương (PECC) và Diễn đàn Đảo Thái Bình Dương (PIF), không có quy chế
quan sát viên cho một nước hay vùng lãnh thổ riêng biệt. Quan sát viên có thể tham
dự các cuộc họp từ cấp Bộ trưởng trở xuống và tham gia vào các hoạt động của
APEC. Các nước không phải thành viên APEC có thể được tham gia các hoạt động
với tư cách khách mời tại các Nhóm công tác của APEC.
1.2. Mục tiêu và nguyên tắc hoạt động của APEC
1.2.1 Mục tiêu
Trong bối cảnh quá trình liên kết và hợp tác kinh tế ở các khu vực và trên
phạm vi toàn cầu phát triển mạnh, tự do hóa kinh tế, thương mại và đầu tư trở thành
xu hướng bao trùm, APEC ra đời như một sự đáp ứng đúng lúc đối với yêu cầu và
lợi ích của các nền kinh tế ở châu Á- Thái Bình Dương vốn đang ngày càng tuỳ
thuộc lẫn nhau hơn. Từ chỗ ban đầu hoạt động như là một nhóm đối thoại không
chính thức, APEC đã dần dần trở thành một thực thể khu vực đi đầu trong việc thúc
đẩy tự do hóa mậu dịch, đầu tư và hợp tác kinh tế. Ngày nay, APEC bao gồm tất cả
các nền kinh tế lớn trong khu vực và các nền kinh tế năng động nhất, tăng trưởng
nhanh nhất trên thế giới. Các nền kinh tế của các thành viên APEC cho thấy sự đa
dạng, phong phú của khu vực cũng như các trình độ và phương thức phát triển khác
nhau. Mặc dù giữa các nền kinh tế trong khu vực có nhiều điểm khác biệt nhưng
việc họ hợp tác được với nhau trong một diễn đàn đã phản ánh mục đích và quyết
tâm chính trị chung là thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững trong
khu vực và trên thế giới. Mục đích chung của APEC đã được xác định ngay từ Hội

nghị Bộ trưởng APEC lần thứ nhất ở Can-bê-ra, Ôt-xtrây-lia năm 1989. Mục tiêu
tăng trưởng và phát triển kinh tế của khu vực đòi hỏi phải thúc đẩy hệ thống thương
mại đa phương mở, tập trung giải quyết những vấn đề kinh tế nhằm tăng cường lợi
ích chung thông qua việc khuyến khích các luồng hàng hoá, dịch vụ, vốn đầu tư và
chuyển giao công nghệ giữa các thành viên.
Những yêu cầu cơ bản trên được đúc kết thành các mục tiêu cơ bản của APEC
tại Hội nghị Bộ trưởng lần thứ ba ở Xê-un, Hàn quốc năm 1991. Tại Hội nghị này,
các Bộ trưởng đã thông qua Tuyên bố Xê-un, đặt nền móng cho sự phát triển của
APEC như một khuôn khổ hợp tác khu vực với 4 mục tiêu là:
Duy trì sự tăng trưởng và phát triển của khu vực vì lợi ích chung của các dân
tộc trong khu vực, và bằng cách đó đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển của
nền kinh tế thế giới.
Phát huy các kết quả tích cực đối với khu vực và nền kinh tế thế giới do sự tuỳ
thuộc lẫn nhau ngày càng tăng về kinh tế tạo ra, khuyến khích các luồng hàng hoá,
dịch vụ, vốn và công nghệ.
Phát triển và tăng cường hệ thống thương mại đa phương mở vì lợi ích của các
nước châu Á - Thái Bình Dương và các nền kinh tế khác.
Cắt giảm những hàng rào cản trở việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ và đầu tư
giữa các thành viên phù hợp với các nguyên tắc của GATT/WTO ở những lĩnh vực
thích hợp và không làm tổn hại tới các nền kinh tế khác.
1.2.2.Nguyên tắc hoạt động của APEC
Nguyên tắc cùng có lợi
Tuyên bố Xê-un của Hội nghị Bộ trưởng lần thứ ba năm 1991 nêu rõ: "Việc
hợp tác trong APEC dựa trên nguyên tắc cùng có lợi, có tính đến sự khác biệt trong
các giai đoạn phát triển kinh tế trong các hệ thống chính trị - xã hội, và chú ý đầy đủ
đến các nhu cầu của những nền kinh tế đang phát triển".
Việc duy trì nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi đóng vai trò quyết định đối với
sự phát triển của APEC vì diễn đàn này là tập hợp lực lượng của các nền kinh tế rất
đa dạng về điều kiện địa lý, lịch sử và văn hoá, về chế độ chính trị - xã hội và đặc
biệt có sự chênh lệch rất lớn về trình độ phát triển. Trong điều kiện APEC bao gồm

cả những nền kinh tế lớn và phát triển nhất, cũng như những nền kinh tế nhỏ và kém
phát triển hơn, APEC đã nhấn mạnh tới các mối quan tâm chung, lợi ích chung của
các thành viên và tập trung vào các vấn đề hợp tác kinh tế và phát triển. Nhờ vậy,
APEC có sức hấp dẫn lớn đối với các nước trong và ngoài khu vực. Chỉ gần mười
năm sau khi thành lập, APEC đã bao gồm 21 thành viên, trong đó có những nền kinh
tế hùng mạnh bậc nhất thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc.
Trong khi thừa nhận mối quan hệ hợp tác giữa các nước trong khu vực phải
dựa trên cơ sở cùng có lợi, để phù hợp với tính đa dạng của khu vực, nguyên tắc này
cũng nhấn mạnh cần chú ý tới sự khác biệt về trình độ phát triển, chế độ chính trị -
xã hội và yêu cầu của các nền kinh tế đang phát triển. Đây là điểm rất quan trọng
trong nguyên tắc hoạt động của APEC nhằm giải toả mối lo ngại của một số thành
viên là nước đang phát triển trong APEC rằng sự khác biệt lớn về trình độ phát triển
kinh tế, khoa học và công nghệ có thể dẫn tới sự lệ thuộc bất bình đẳng của họ vào
các nền kinh tế tiến tiến hơn, làm tăng mâu thuẫn và phân cực Bắc - Nam ngay trong
APEC.
Nguyên tắc đồng thuận (consensus)
Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của hợp tác trong APEC, như
Tuyên bố Xê-un đã nêu rõ, là dựa trên cam kết về sự đối thoại cởi mở và xây dựng
sự đồng thuận, bình đẳng, tôn trọng quan điểm của tất cả thành viên tham gia.
Khác với hoạt động trong GATT/WTO, trong đó các nước phải qua một quá
trình thương thuyết, đàm phán lâu dài và thường là gay gắt để đạt được những thoả
thuận và hiệp định có tính pháp lý quốc tế cao, APEC đi tới các quyết định thông
qua quá trình xây dựng sự đồng thuận. Tất cả các Hội nghị, từ Hội nghị Cấp cao đến
Hội nghị cấp Bộ trưởng hay cấp chuyên viên đều mang tính chất tư vấn, theo nghĩa
là các thành viên không tham gia vào những cuộc thương lượng, mặc cả thực sự để
đạt tới những quyết định có tính ràng buộc. Toàn bộ quyết định của các nhà Lãnh
đạo Cấp cao, các Bộ trưởng đều được đưa ra trong Tuyên bố chung phản ánh ý chí
của tất cả các thành viên
Nguyên tắc đồng thuận thể hiện một mô hình hợp tác tương đối thành công
trong khu vực do ASEAN khởi xướng. Do tính chất đa dạng của các nền kinh tế

trong khu vực, nguyên tắc đồng thuận tỏ ra khá hiệu quả. Thông qua nguyên tắc này,
APEC đã xây dựng được những nền tảng có ý nghĩa quan trọng và thực tế để đẩy
mạnh hợp tác, một chương trình làm việc toàn diện và một thoả thuận lịch sử về tự
do hóa thương mại và đầu tư trong khu vực tới năm 2020.
Nguyên tắc tự nguyện
Xuất phát từ đặc điểm của các nền kinh tế thành viên và các mối quan hệ kinh
tế quốc tế trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, sự hợp tác giữa các thành viên
trong APEC mang tính chất tự nguyện. Nguyên tắc tự nguyện thể hiện trên hai điểm:
Trước hết, APEC chỉ là một Diễn đàn tư vấn kinh tế, một cơ chế liên chính
phủ nhằm xúc tiến sự hợp tác, tăng trưởng và phát triển của khu vực. Ngay từ Hội
nghị đầu tiên, các Bộ trưởng APEC đã nhất trí coi APEC như một Diễn đàn tham
khảo ý kiến về các vấn đề kinh tế nhằm tăng cường trao đổi quan điểm giữa các
nước châu Á - Thái Bình Dương. Tính chất tự nguyện trong hoạt động của APEC
được thể hiện trong nguyên tắc Cun-ching do các nước ASEAN đề xướng: "APEC
cần cung cấp một Diễn đàn tư vấn kinh tế và không nhất thiết dẫn tới sự thông qua
các quyết định có tính chất bắt buộc bất cứ thành viên nào phải chấp nhận hay thực
hiện".
Thứ hai, do APEC chỉ là một Diễn đàn tư vấn kinh tế nên nó không đưa ra
những quyết định, nguyên tắc có tính bắt buộc đối với các thành viên. Mọi hoạt động
hợp tác đều dựa trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với lợi ích của các bên. Điều này
phản ánh tính đặc thù của quá trình hội nhập kinh tế trong khu vực. Trong khi đó, sự
hội nhập kinh tế ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương được dẫn dắt và thúc đẩy chủ
yếu bởi các lực lượng thị trường. Sự phát triển về cơ cấu tổ chức cho đến nay mới
chỉ mang tính chất hỗ trợ cho quá trình hợp tác trong APEC chứ không phải là mục
tiêu tự thân của nó. Con đường phát triển của APEC như vậy phù hợp với đặc điểm
đa dạng về chế độ chính trị - xã hội của khu vực vì nó cho phép trong khi khai thác
được những lợi ích từ sự hợp tác kinh tế, các thành viên vẫn giữ được chủ quyền
kinh tế, bảo đảm không có sự can thiệp từ bên ngoài vào chế độ chính trị - xã hội của
các thành viên.
APEC là diễn đàn mở, hoạt động phù hợp với các nguyên tắc của

GATT/WTO
APEC là một diễn đàn "mở" theo nghĩa APEC ủng hộ chế độ thương mại đa
phương, không tạo ra sự phân biệt đối xử giữa APEC với các nước và nhóm nước
khác trên thế giới, đồng thời APEC mở cửa cho các nền kinh tế không phải thành
viên APEC trong khu vực tham gia.
1.3. Cơ cấu tổ chức của APEC
1.3.1. Cấp chính sách
Hội nghị không chính thức các nhà Lãnh đạo Kinh tế APEC (AELM)
Hội nghị các nhà Lãnh đạo cao nhất của các thành viên APEC được tổ chức
hàng năm bắt đầu từ năm 1993. Tháng 11 năm 1993 tại Seattle (Mỹ) theo sáng kiến
của Tổng thống Mỹ Bin Clin-tơn, lần đầu tiên trong lịch sử, 14 vị nguyên thủ quốc
gia và đứng đầu chính phủ của các thành viên APEC đã gặp gỡ và trao đổi về các
vấn đề kinh tế. Hội nghị Cấp cao APEC lần thứ nhất đã nâng vị thế của APEC lên
tầm cao mới trên trường quốc tế, như Tuyên bố chung của các nhà Lãnh đạo khẳng
định: "Cuộc họp của chúng ta phản ánh sự nổi lên của một tiếng nói mới cho khu
vực châu Á - Thái Bình Dương trong các vấn đề quốc tế".
Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao
Kinh tế APECHội nghị Bộ trưởng APEC họp lần đầu tiên tại Can-bê-ra, Ôt-
xtrây-lia tháng 11 năm 1989 với sự tham gia của các Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ
trưởng Kinh tế của 12 nền kinh tế thành viên. Hội nghị Bộ trưởng được tổ chức hàng
năm theo nguyên tắc luân phiên giữa các nước thành viên APEC. Thành viên đăng
cai tổ chức Hội nghị Bộ trưởng hàng năm sẽ giữ ghế Chủ tịch Hội nghị.
1.3.2 Cấp làm việc
Hội nghị các Quan chức Cao cấp (SOM)
Hội nghị này được tổ chức thường kỳ giữa hai Hội nghị Bộ trưởng hàng năm
nhằm chuẩn bị và đưa ra các khuyến nghị trình Hội nghị Bộ trưởng về các vấn đề tổ
chức, chương trình hoạt động của APEC, chương trình hành động tiến tới tự do hóa
thương mại và đầu tư, kế hoạch hành động của các nền kinh tế thành viên và các
chương trình hợp tác kinh tế, khoa học - công nghệ của APEC, xem xét và điều phối
ngân sách và chương trình công tác của các Uỷ ban, các Nhóm công tác và Nhóm

đặc trách.
Uỷ ban Thương mại và Đầu tư
Uỷ ban Thương mại và Đầu tư (CTI) được thành lập năm 1993 trên cơ sở
Tuyên bố về "Khuôn khổ hợp tác và đầu tư" của Hội nghị Bộ trưởng. Uỷ ban
Thương mại và Đầu tư có nhiệm vụ thúc đẩy hợp tác về tự do hóa thương mại và tạo
môi trường đầu tư cởi mở hơn giữa các nền kinh tế thành viên. Uỷ ban Thương mại
và Đầu tư soạn thảo báo cáo hàng năm trình Hội nghị Bộ trưởng về các vấn đề liên
quan tới thương mại và đầu tư trong khu vực đồng thời chỉ đạo các Tiểu ban và
nhóm chuyên gia trong việc giải quyết những vấn đề cụ thể. Uỷ ban Thương mại và
Đầu tư là một trong số các cơ quan chủ chốt của APEC giúp thực hiện Kế hoạch
Hành động Ô-xa-ca và Kế hoạch Hành động Manila (MAPA) trong một số lĩnh vực
như Thuế quan và các biện pháp phi quan thuế, Dịch vụ, Giảm bớt các quy định,
Hoà giải tranh chấp, Thực hiện kết quả Vòng đàm phán U-ru-goay, Đầu tư, Thủ tục
Hải quan, Tiêu chuẩn và Hợp chuẩn, Đi lại của Doanh nhân, Sở hữu trí tuệ, Chính
sách Cạnh tranh, Chi tiêu chính phủ, Quy định nguồn gốc xuất xứ. Để có thể thực
hiện tốt vai trò của mình trong 15 lĩnh vực hợp tác quan trọng trên của APEC, mỗi
năm Uỷ ban Thương mại và Đầu tư nhóm họp ba lần và đây đã thực sự trở thành
một diễn đàn hiệu quả đối với các nền kinh tế thành viên để trao đổi các vấn đề về
thương mại và chính sách
Uỷ ban SOM về Hợp tác Kinh tế-Kỹ thuật
Tiểu ban SOM về Hợp tác Kinh tế-Kỹ thuật (ESC) được thành lập năm 1998
nhằm hỗ trợ Hội nghị Quan chức Cao cấp (SOM) trong việc phối hợp và quản lý các
hoạt động hợp tác kinh tế-kỹ thuật (ECOTECH) và triển khai các sáng kiến hợp tác
trong lĩnh vực này của các nền kinh tế thành viên APEC. Mới đầu đây chỉ là Tiểu
ban về ECOTECH, năm 2002 đổi tên thành Uỷ ban SOM về Hợp tác Kinh tế-Kỹ
thuật (ESC). Bằng việc thúc đẩy hợp tác và xác định những lĩnh vực ưu tiên trong
khuôn khổ hợp tác ECOTECH, Uỷ ban SOM về Hợp tác Kinh tế-Kỹ thuật cùng với
các diễn đàn khác trong APEC giữ vai trò quan trọng đối với việc thực hiện các mục
tiêu tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững của APEC.
Uỷ ban Kinh tế

Uỷ ban Kinh tế (EC) được thành lập tại Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ sáu
tháng 11 năm 1994 để thực hiện việc nghiên cứu các xu hướng và vấn đề kinh tế
thông qua các chỉ số kinh tế cơ bản. Uỷ ban Kinh tế là một diễn đàn thúc đẩy đối
thoại giữa các nền kinh tế thành viên về các vấn đề kinh tế, dự báo, xu hướng kinh tế
trong khu vực để tạo ra một khung cảnh rộng hơn cho sự hợp tác trong APEC. Hoạt
động của Uỷ ban đóng vai trò quan trọng, hỗ trợ cho việc soạn thảo chính sách trong
các diễn đàn khác của APEC.
Uỷ ban Ngân sách và Quản lý
Uỷ ban Ngân sách và Quản lý (BMC) được thành lập năm 1993, có chức năng
tư vấn cho các quan chức cao cấp về những vấn đề ngân quỹ, quản lý và điều hành.
Uỷ ban này được trao quyền đánh giá cơ cấu chung của ngân sách hàng năm và xem
xét các ngân sách hoạt động do các Nhóm công tác, các Uỷ ban đưa ra, và ngân sách
hành chính do Ban thư ký đưa ra. Uỷ ban có quyền đánh giá về hoạt động của các
Nhóm công tác và khuyến nghị với các quan chức cao cấp APEC về các biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả; xem xét các khoản chi tiêu của Nhóm công tác và dự án
của các Nhóm đặc trách. Uỷ ban Ngân sách và Quản lý họp mỗi năm hai lần thường
vào cuối tháng ba và tháng bảy.
Các Nhóm công tác
Các Nhóm công tác có chức năng thực hiện nhiệm vụ do các nhà Lãnh đạo,
Bộ trưởng và quan chức cao cấp giao cho. Cho tới nay trong APEC đã lập ra 11
Nhóm công tác phụ trách các lĩnh vực sau: Hợp tác Kỹ thuật Nông nghiệp, Năng
lượng, Nghề cá, Phát triển Nguồn nhân lực, Khoa học và công nghệ, Bảo vệ tài
nguyên biển, Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Thông tin và Viễn thông, Du lịch, Xúc tiến
thương mại, Vận tải. Phần lớn hoạt động của các Nhóm là khảo sát tiềm năng phát
triển và thúc đẩy sự tăng trưởng trong các lĩnh vực do từng Nhóm phụ trách. Thông
qua các hoạt động này, các thành viên APEC xây dựng những mối liên hệ thực sự
giữa các đại diện chính giới, giới doanh nghiệp và học giả.
Các Nhóm đặc trách của SOM
Bên cạnh các Nhóm công tác, Hội nghị Quan chức Cao cấp (SOM) đã lập ra
ba Nhóm đặc trách nhằm xác định các vấn đề và đưa ra khuyến nghị về những lĩnh

vực quan trọng cần xem xét trong khuôn khổ hợp tác của APEC. Hiện đang có ba
Nhóm đặc trách của SOM là: Nhóm đặc trách về Mạng các điểm liên hệ về giới
(Gender Focal-Points Network), Nhóm chỉ đạo về thương mại điện tử (Electronic
Commerce Steering Group) và Nhóm đặc trách về Chống khủng bố (Counter-
Terroism Task Force).
Ban thư ký APEC
Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ tư ở Băng Cốc năm 1992 nhận thấy cần
phải có một cơ chế giúp việc hiệu quả để hỗ trợ và phối hợp các hoạt động trong
APEC nhằm tăng cường vai trò và hiệu quả của APEC trong xúc tiến hợp tác kinh tế
khu vực, đã nhất trí thành lập Ban Thư ký APEC, đặt trụ sở tại Xinh-ga-po, và lập
một quỹ chung của APEC.
Ban Thư ký APEC đứng đầu là một Giám đốc Điều hành, do nước giữ ghế
Chủ tịch APEC cử với thời hạn một năm. Một phó giám đốc điều hành do nước sẽ
giữ chức Chủ tịch APEC vào năm tiếp theo cử. Đây là các quan chức của Chính phủ
mang hàm Đại sứ. Ngoài ra, Ban Thư ký APEC hiện có khoảng 20 Giám đốc
chương trình do các nền kinh tế thành viên tiến cử, 25 nhân viên chuyên nghiệp
(cũng được biệt phái từ các nước thành viên) và các nhân viên phục vụ.
1.4 Một số cột mốc trong lịch sử phát triển của APEC
1989, tại Can-bê-ra, Ôx-trây-li-a: APEC đựơc thành lập với 12 thành viên
trong một nhóm đối thoại không chính thức cấp Bộ trưởng.
1993, tại đảo Blêch, Hoa Kỳ: Các nhà lãnh đạo kinh tế APEC lần đầu tiên họp
và phác thảo tầm nhìn APEC: “ổn định, an ninh và thịnh vượng cho nhân dân chúng
ta”.
1994, tại Bô-go, In-đô-nê-xia: APEC đề ra mục tiêu Bô-go: “Thương mại và
đầu tư mở cửa và tự do trong Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương vào năm 2010
đối với các nền kinh tế công nghiệp phát triển và vào năm 2020 đối với các nền kinh
tế đang phát triển”
1995, tại Ô-sa-ka, Nhật Bản: APEC thông qua Chương trình hành động Ô-sa-
ka (OAA), tạo khuôn khổ để thực hiện mục tiêu Bô-go.
1996, tại Ma-ni-la, Phi-lip-pin: Thông qua kế hoạch hành động Ma-ni-la

(MAPA), đề ra các biện pháp tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại và đầu tư để
thực hiện mục tiêu Bô-go.
1997, tại Van-cu-vơ, Ca-na-da: APEC thông qua đề xuất về việc tự do hoá
sớm và tự nguyện theo lĩnh vực (EVSL) trong 15 lĩnh vực và quyết định cập nhật
hàng năm các kế hoạch hành động riêng lẻ.
1998, tại Ku-a-la Lăm-pua, Ma-lai-xi-a: APEC nhất trí về 9 lĩnh vực đầu tiên
trong EVSL và cố gắng đạt được thoả thuận về EVSL với các nền kinh tế ngoài
APEC trong WTO.
1999, tại Óoc-kơ-lân, Niu Di-lân: APEC cam kết phát triển thương mại phi
giấy tờ vào năm 2005 ở các nền kinh tế phát triển và 2010 ở các nền kinh tế đang
phát triển.
2000, tại Ban-đa Sê-ri Bê-ga-oan, Bru-nây Đa-ru-sa-lam: APEC thiết lập hệ
thống điện tử dành cho kế hoạch hành động riêng lẻ (e-IAP), giúp cung cấp các IAP
trực tuyến và cam kết thực hiện Kế hoạhc hành động vì nền kinh tế mới với nhiều
mục tiêu, trong đó có việc tăng gấp 3 lần số người được tiếp cận Internet trong toàn
khu vực APEC vào năm 2005.
2001, tại Thượng Hải, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa: APEC thông qua Thoả
thuận Thượng Hải, chú trọng vào việc mở rộng tầm nhìn của APEC, làm rõ lộ trình
hướng tới Bô-go và tăng cường cơ chế thực thi. APEC cũng đã thông qua Chiến
lược APEC điện tử (e-APEC) và tuyên bố đầu tiên về chống khủng bố.
2002, tại Lôx ca-bôx, Mê-hi-cô: APEC thông qua Kế hoạch hành động thuận
lợi hoá thương mại, các Chính sách thương mại, Nền kinh tế số và tiêu chuẩn về
minh bạch hoá; thông qua Sáng kiến về an toàn thương mại trong khu vực và bản
tuyên bố thứ hai về chống khủng bố.
2003, tại Băng-cốc, Thái Lan: APEC nhất trí thúc đẩy vòng đàm phán Đô-ha
của WTO; thông qua các biện pháp để ngăn chặn nguy cơ khủng bố từ tên lửa vác
vai, thực hiện Kế hoạch hành động của APEC đối phó với dịch SARS…
2004, tại San-ti-a-go, Chi-lê: APEC thông qua Nhóm các cách làm mẫu mực
đối với RTA và FTA, Sáng kiến San-ti-a-gô về mở rộng thương mại, Thoả thuận
khung về bảo vệ dữ liệu cá nhân và Phương hướng hành động chống lại nạn tham

nhũng và đảm bảo sự minh bạch.
2005, tại Bu-san, Hàn Quốc: APEC thông qua lộ trình Bu-san và hoàn thành
kiểm điểm giữa kỳ cho thấy APEC đang đi đúng hướng trong việc hoàn thành các
mục tiêu Bô-go và Thoả thuận khung về bảo mật thông tin cá nhân; đưa ra tuyên bố
ủng hộ kết quả của Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 6 của WTO, thống nhất đối phó với
nguy cơ dịch bệnh và đấu tranh chống khủng bố.
2006, tại Hà Nội, Việt Nam: “Hướng tới một cộng đồng năng động vì sự phát
triển bền vững và thịnh vượng” với bốn chủ đề: Tăng cường thương mại và đầu tư
thông qua thực hiện lộ trình Busan và thúc đẩy vòng đàm phán Doha. Tăng cường
hợp tác kinh tế kỹ thuật để thu hẹp khoảng cách và phát triển bền vững. Thúc đẩy
môi trường kinh doanh an toàn và thuận lợi. Thúc đẩy gắn kết trong cộng đồng
APEC.
2007, tại Sydney, Úc: Các nhà lãnh đạo APEC đã nhất trí thông qua "Tuyên
bố Sydney về biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng và phát triển sạch" và "Tuyên bố
riêng của các nhà lãnh đạo APEC về Vòng đàm phán Doha"
2008, tại Lima, Peru: Với chủ đề ‘Một cam kết mới cho sự phát triển của châu
Á-Thái Bình Dương’, APEC 2008 đã thu hút đông đảo thành viên các quốc gia.
Trong đó Mỹ có số lượng thành viên tham gia đông nhất, tiếp đến là Nhật Bản và
Trung Quốc. APEC 2008 chủ yếu bàn thảo vấn đề khủng hoảng kinh tế toàn cầu mà
phần chính là ủng hộ vòng đàm phán Doha của Tổ chức Thương mại Thế giới.
2009, tại Singapore: chủ đề Hội nghị thượng đỉnh APEC năm 2009 là bàn
thảo các biện pháp nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, đối phó với khủng hoảng tài
chính thế giới, đẩy nhanh hội nhập kinh tế khu vực và ngăn ngừa chủ nghĩa bảo hộ.
2010, tại Yokohama, Nhật Bản: Tại hội nghị APEC 2010, các lãnh đạo cùng
bàn bạc về xây dựng một chiến lược tăng trưởng kinh tế mới; biện pháp phát triển tự
do thương mại và biện pháp khắc phục tình trạng hồi phục kinh tế không đồng đều
trong khu vực cùng một số vấn đề liên quan đến an ninh nhân loại.
2011, tại Hawaii , Mỹ: Hội nghị tập trung thảo luận các vấn đề quan trọng đối
với khu vực hiện nay, đặc biệt là nâng cao hợp tác khu vực trong bối cảnh mới, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo thuận lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ,

ứng phó thiên tai và quản trị mở. Một điểm mới của hội nghị năm nay là các bộ
trưởng đã có một số phiên đối thoại cùng đại diện các doanh nghiệp về các chủ đề
được quan tâm nhiều tại khu vực.
Nhận thức được tầm quan trọng của APEC đối với sự phát triển của các nước
thành viên, Việt Nam đã tham gia và với những nỗ lực, đường lối chính sách đúng
đắn của Đảng, Việt Nam đã đạt được những thành tựu và đóng góp đáng kể vào
thành công chung của APEC.
CHƯƠNG 2
QUÁ TRÌNH THAM GIA VÀ ĐÓNG GÓP CỦA VIỆT NAM
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA APEC
2.1 Chủ trương, chính sách của Việt Nam khi tham gia APEC
Khi mới được thành lập vào năm cuối cùng của thập niên 80, APEC thực chất
chỉ là một diễn đàn đối thoại khu vực về hợp tác thương mại và đầu tư mà không có
vai trò như một tổ chức hợp tác kinh tế với những cam kết ràng buộc về nghĩa vụ đối
với các thành viên. Các thỏa thuận hợp tác trong khuôn khổ APEC vì vậy không
mang tính ràng buộc cao như trong ASEAN, NAFTA hay WTO. Hợp tác APEC dựa
trên các nguyên tắc cơ bản là tự nguyện, linh hoạt, không ràng buộc và đồng thuận.
Là tập hợp của 21 nền kinh tế thành viên, APEC bao gồm các nền kinh tế năng động
thuộc 4 châu lục với 2,6 tỷ dân, chiếm khoảng 40% dân số thế giới; tổng GDP đạt
trên 19 ngàn tỷ USD, xấp xỉ 60% GDP toàn cầu và tổng giá trị giao dịch thương mại
đạt 5,5 ngàn tỷ USD, chiếm hơn 57% thương mại thế giới. Thành viên của APEC rất
đa dạng, bao gồm các nền kinh tế phát triển nhất thế giới như: Mỹ, Nhật, Úc, Canada
cũng như những nền kinh tế đang phát triển như: Trung Quốc, Nga và Việt Nam
Những số liệu nói trên cho thấy rằng APEC thực sự là một khu vực kinh tế đóng vai
trò đầu tàu trong quá trình ổn định và phát triển của thương mại quốc tế.
Mục tiêu cơ bản đặt ra của hợp tác APEC là “tiến hành tự do hóa thương
mại, đầu tư vào năm 2010 đối với các thành viên phát triển và năm 2020 đối với các
thành viên đang phát triển”. Để thực hiện đuợc mục tiêu này, các thành viên có thể
tùy ý, căn cứ vào thực tiễn và điều kiện cụ thể của nước mình để đưa ra Kế hoạch
hành động quốc gia (IAP) trong đó vạch rõ lộ trình cắt giảm thuế quan và các biện

pháp phi quan thuế khác cũng như những rào cản đối với đầu tư. Nhận thức được
tính linh hoạt, không ràng buộc của hợp tác APEC như đã phân tích ở trên, đồng thời
nhằm tăng cường sự hội nhập của nền kinh tế Việt Nam vào kinh tế khu vực và thế
giới, Việt Nam đã quyết định tham gia APEC với một số chủ trương cơ bản sau:
Một là, mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng quan hệ
đối tác kinh doanh, tăng cường xuất khẩu. Như đã phân tích ở trên, APEC là thị
truờng của hơn 2,5 tỷ dân với sức mua lớn như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc,
Australia APEC cũng có nhiều bạn hàng truyền thống, gần gũi về vị trí địa lý như
khối ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản cũng như các thị trường xa xôi như
Chi Lê, Mexicô, Peru và Canađa… Hơn nữa, do có vị trí địa lý trải trên diện rộng
nên thị trường APEC cũng là một thị trường có nhu cầu các loại hàng hóa vô cùng
đa dạng. Với những đặc điểm như trên, APEC thực sự là một thị truờng có tiềm
năng xuất khẩu lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Theo thống kê, thị trường các
thành viên APEC chiếm hon 70% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong những
năm qua. Tham gia APEC, các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều điều kiện và cơ hội
tham dự các Hội chợ thương mại, Hội chợ đầu tư cùng hàng loạt hội thảo, hội nghị
khác trong khu vực để có thể nắm bắt tình hình, mở rộng quan hệ kinh doanh với các
đối tác khu vực. Hơn nữa, khi Việt Nam tham gia APEC trên cơ sở tự nguyện và
linh hoạt, các doanh nghiệp cũng sẽ vào sân chơi khu vực với một tâm lý thoải mái
hơn so với các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực khác.
Hai là, tham gia APEC để tận dụng sự ủng hộ của các thành viên khu vực
trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. Có thể thấy thành viên APEC bao gồm
nhiều cường quốc kinh tế, có tiếng nói quan trọng trong Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO) như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Canada, Australia… Sau khi nộp đơn
xin gia nhập WTO 3 năm (năm 1995), Việt Nam đã chính thức gia nhập APEC cùng
với Liên bang Nga và Pê-ru năm 1998, nâng tổng số thành viên chính thức của
APEC lên con số 21, trong đó có 2 thành viên chưa phải thành viên WTO là Liên
Bang Nga và Việt Nam. Phương châm của APEC là luôn ủng hộ các cuộc đàm phán
trong WTO bằng những nỗ lực chung của cả khu vực. Chính vì vậy, APEC luôn lên
tiếng ủng hộ sự gia nhập nhanh chóng vào WTO của Nga và Việt Nam ở cấp Bộ

trưởng và Cấp cao để hai thành viên còn lại này có thể cùng APEC đóng góp vào
những nỗ lực chung của khu vực trong quá trình ủng hộ WTO. Thực tế quá trình
đàm phán đã cho thấy quá trình tham gia APEC của Việt Nam đã góp phần đáng kể
vào đẩy nhanh tiến trình đàm phán song phương với các thành viên APEC. Nhiều
cuộc đàm phán song phương của Việt Nam với các đối tác đã được tuyên bố kết thúc
bên lề các Hội nghị APEC, ví dụ: với Chi lê bên lề Hội nghị Bộ trưởng Thương mại
APEC 2004, với Hàn Quốc và Australia bên lề Hội nghị Bộ trưởng Thương mại
APEC 2005… Tại các Hội nghị cấp Bộ trưởng và Cấp cao APEC, Chủ tịch nước,
Thủ tướng cũng như các Bộ trưởng ta đều tích cực vận động các thành viên APEC,
đặc biệt là các thành viên quan trọng như Mỹ, Australia, New Zealand… để đẩy
nhanh đàm phán song phương và vận động trong đàm phán đa phương. Vì vậy, khi
gia nhập APEC, Đảng và Nhà nuớc và Chính phủ nước ta đã xác định đây là cơ hội
lớn để Việt Nam hòa nhập hơn nữa với kinh tế khu vực và trên thế giới. Sự tham gia
tích cực của Việt Nam trong APEC sẽ là cơ sở quan trọng trong việc tạo lập lòng tin
cho các bạn bè khu vực và quốc tế, tạo thuận lợi cho quá trình đàm phán gia nhập
WTO của ta.
Ba là, tham gia APEC nhằm tạo điều kiện cho các cán bộ làm công tác
hoạch định chính sách và tham gia đàm phán quốc tế cũng như cộng đồng doanh
nghiệp của Việt Nam có cơ hội cọ xát, tập duợt trong diễn đàn khu vực truớc khi
chính thức bước vào sân chơi quốc tế với các luật chơi khắt khe hơn rất nhiều như
ASEAN và WTO. Có thể nói, APEC là một trong những diễn đàn khu vực có số
lượng lĩnh vực hợp tác vô cùng đa dạng, nếu không muốn nói là đa dạng nhất trong
số các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế mà Việt Nam đã và đang tham gia. Những
lĩnh vực hợp tác của APEC trải rộng từ các lĩnh vực quan trọng như thuế, phi thuế,
dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ đến các lĩnh vực mang tính chuyên môn ngành như
nghề cá, bảo tồn tài nguyên biển, khoa học công nghệ, thương mại điện tử… Vì thế,
khi tham gia APEC, Việt Nam có thể học hỏi đuợc rất nhiều kinh nghiệm quý báu
của các thành viên trong những lĩnh vực trên. Đội ngũ cán bộ tham gia đàm phán có
thể thông qua diễn đàn APEC để tập dượt đàm phán, trau dồi kiến thức và kinh
nghiệm đàm phán nhằm phục vụ cho những cuộc đàm phán quan trọng hơn với

những nghĩa vụ ràng buộc hơn trong ASEAN và WTO.
Bốn là, tham gia APEC để tận dụng các nguồn lực APEC để phục vụ
cho công tác đào tạo và xây dựng năng lực trong nước. Có thể thấy, một trong ba trụ
cột hợp tác cơ bản của APEC là Hợp tác Kinh tế Kỹ thuật (Ecotech), đây là chương
trình xây dựng năng lực chủ yếu có lợi cho các thành viên đang phát triển. Hàng
năm, APEC dành gần 7 triệu Đô la Mỹ để tài trợ cho các dự án xây dựng năng lực
trong hầu hết các lĩnh vực hợp tác của APEC. Đây là một nguồn ngân sách không
nhỏ để các thành viên APEC, đặc biệt là các thành viên đang phát triển có thể khai
thác và tận dụng. Việt Nam là một trong những thành viên non trẻ và kém phát triển
nhất trong APEC nên việc đề xuất các dự án của ta luôn được nhiều thành viên
APEC quan tâm và dành những ưu tiên đáng kể. Nếu biết tận dụng tốt APEC, diễn
đàn này sẽ là một nguồn tài chính cũng như kỹ thuật rất lớn để Việt Nam có thể khai
thác, phục vụ mục tiêu phát triển trong nước.
Cuối cùng, tham gia APEC để tăng cường thế và lực của Việt Nam trên
trường quốc tế, đặc biệt là củng cố vị thế và mối quan hệ kinh tế, thương mại giữa
Việt Nam và các nước trong khu vực. Thật vậy, mặc dù APEC tuyên bố thực hiện
chủ nghĩa khu vực mở (open regionalism) song trên thực tế, các thành viên APEC
đều nỗ lực hợp tác tạo nên vị thế cạnh tranh mới của cả một tập thể các nền kinh tế
APEC trong mối quan hệ với các trung tâm kinh tế toàn cầu như EU, Bắc Mỹ, Đông
Nam Á… Đây cũng chính là mối quan tâm của các thành viên khi quyết định tham
gia APEC để tạo đuợc cho mình một thế đứng trong một tập thể lớn, tránh bị cô lập
và làm đối trọng với các nuớc khác và chủ trương tham gia của Việt Nam cũng
không nằm ngoài mục tiêu này.
2.2 Sự tham gia của Việt Nam vào hoạt động của APEC
Tháng 6/1996, Việt Nam chính thức nộp đơn xin gia nhập APEC và
Hội nghị Thượng đỉnh thường niên APEC tại Vancuvo, Canada, tháng 11/1997 đã
quyết định kết nạp Việt Nam, Nga, Peru là thành viên chính thức của APEC vào
tháng 11/1998, nâng tổng số thành viên lên 21 nước và vùng lãnh thổ. Tại Hội nghị
bộ trưởng APEC lần thú 10 tổ chức tại Kuala Lumpur, ngay 14/11/1999, Việt Nam
chính thức trở thành thành viên APEC. Hiện nay APEC đã ngừng kết nạp thành viên

mới để chấn chỉnh tổ chức.

×