Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tiểu Luận Các phương pháp giải quyết xung đột pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.75 KB, 19 trang )

1
MỞ ĐẦU
Trong xã hội hiện đại mọi việc không ngừng vẫn động và phát triển, mỗi
quốc gia đều tự xây dựng cho mình một hệ thống pháp luật riêng nhằm khẳng định
chủ quyền cũng như bảo vệ quyền lợi cho công dân nước mình. Tuy nhiên, dưới tác
động của quá trình toàn cầu hóa, đã tạo ra các mối quan hệ và phụ thuộc lẫn nhau
giữa các nền kinh tế, sự gia tăng của lưu thông hàng hóa và di chuyển dân cư…
khiến các quan hệ pháp lý phát sinh giữa công dân, pháp nhân của các quốc gia ngày
càng nhiều và đa dạng trong mọi lĩnh vực. Sự đan xen đa chiều của các quan hệ
pháp lý không còn bị giới hạn trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, mà còn liên quan
đến nhiều hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia khác nhau và có thể một quan hệ
pháp lý chịu sự chi phối điều chỉnh của hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau.
Tư pháp quốc tế gọi vấn đề này là quan hệ có “xung đột pháp luật”.
Trong xu thế hội nhập toàn cầu hiện nay, ít hay nhiều các quốc gia sẽ xích lại
gần nhau để cùng hợp tác và phát triển. Ở đó, xung đột pháp luật xảy ra khi hai hay
nhiều hệ thống pháp luật đồng thời đều có thể áp dụng đề điều chỉnh một quan hệ
pháp luật nào đó. Do vậy, sẽ có những cách thức để giải quyết các xung đột pháp
luật nói trên như: phương pháp xung đột, phương pháp thực chất.
I. Khái quát chung về xung đột pháp luật
1.1. Khái niệm về xung đột pháp luật
SVTH: Trần Nguyên Phương Khánh | GVHD: Th.s Trần Thị Ngọc Sương
2
Thuật ngữ “Xung đột pháp luật” (conflic of law)
(1)
là thuật ngữ riêng thuộc
chuyên ngành tư pháp quốc tế được sử dụng ở một số quốc gia để chỉ các quy định
pháp lý giải quyết các quan hệ luật tư có tính chất quốc tế.
Xung đột pháp luật là hiện tượng có hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác
nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ của Tư pháp quốc tế. Vấn
đề cần phải giải quyết là chọn một trong các hệ thống pháp luật đó để áp dụng giải
quyết các quan hệ pháp luật.


(2)
Khái niệm xung đột pháp luật có thể được hiểu trên hai phương diện:
Trong hệ thống nội luật, xung đột pháp luật có thể được hiểu là sự mâu thuẫn,
không thống nhất giữa các quy định của các văn bản luật khác nhau trong việc giải
quyết một vấn đề.
Trong tư pháp quốc tế, xung đột pháp luật được hiểu là một quan hệ pháp lý
có liên quan đến hai hoặc nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, một vấn đề pháp lý
khi phát sinh có thể chịu sự điều chỉnh của hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác
nhau.
Ví dụ: Một nam công dân Việt Nam muốn kết hôn với một nữ công dân Anh.
Lúc này, những vấn đề cần giải quyết là luật pháp nước nào sẽ điều chỉnh quan hệ
hôn nhân này hay nói chính xác hơn là họ sẽ tiến hành các thủ tục kết hôn theo luật
nước nào. Câu trả lời là hoặc luật của Anh hoặc luật của Việt Nam. Giả sử, hai công
dân này đều thỏa mãn các điều kiện về kết hôn của pháp luật Anh và Việt Nam. Lúc
đó, vấn đề chọn luật nước nào không còn quan trọng bởi vì luật nào thì họ cũng
được phép kết hôn. Nhưng, nếu nam công dân Việt Nam mới chỉ 19 tuổi, nữ công
dân Anh 17 tuổi thì theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình của Việt Nam,
1 Theo từ điển Tiếng Việt, “xung đột” là sự mâu thuẫn, đối kháng giữa các sự vật hiện tượng và chúng luôn có xu hướng
không thể cùng tồn tại và phát triển trong một thể thống nhất. Nhưng dưới góc độ pháp lý, xung đột pháp luật là sự “cạnh
tranh” giữa hai hoặc nhiều hệ thống pháp luật trong việc tham gia điều chỉnh một quan hệ pháp lý.
2 Trường Đại học Luật Hà Nội, 2011, Giáo trình tư pháp quốc tế, nhà xuất bản Công an Nhân dân Hà Nội, Hà Nội.
SVTH: Trần Nguyên Phương Khánh | GVHD: Th.s Trần Thị Ngọc Sương
3
cả hai đều chưa đủ độ tuổi kết hôn.
(3)
Trong khi đó, luật hôn nhân của Anh thì quy
định độ tuổi được phép kết hôn đối với nam và nữ là 16 tuổi. Như vậy, đều về độ
tuổi được phép kết hôn nhưng pháp luật của cả hai quốc gia đều có quy định khác
nhau. Đây chính là xung đột pháp luật.
1.2 . Nguyên nhân phát sinh của xung đột pháp luật

Xung đột pháp luật phát sinh do các nguyên nhân chính sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ tính chất đặc thù của các quan hệ xã hội do Tư pháp
quốc tế điều chỉnh là các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Do đó trong rất
nhiều trường hợp khi một quan hệ của Tư pháp quốc tế phát sinh đã làm phát sinh
tình trạng pháp luật của các nước liên quan đều có thể được áp dụng và làm nảy sinh
vấn đề chọn luật của một nước cụ thể để áp dụng. Từ đó làm phát sinh hiện tượng
xung đột pháp luật. Trong khi đó, đối với các quan hệ hình sự, hành chính, tố tụng…
là các quan hệ mang tính lãnh thổ, các nhà nước không thừa nhận khả năng áp dụng
pháp luật nước ngoài, do đó không thừa nhận xung đột pháp luật. Như vậy, xung đột
pháp luật chỉ có thể phát sinh trong các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Tuy
nhiên, một số quan hệ dân sự là các quan hệ mang tính chất lãnh thổ ví dụ quan hệ
sở hữu trí tuệ chịu sự điều chỉnh của pháp luật, hình sự, hành chính, do đó không
phải các nhà nước không chấp nhận áp dụng pháp luật nước ngoài trong tất cả các
quan hệ sở hữu trí tuệ.
Thứ hai, có sự quy định khác nhau trong pháp luật các nước khi điều chỉnh
một quan hệ dân sự cụ thể. Vì nếu chúng ta giả định là pháp luật các nước qui định
giống nhau khi giải quyết các quan hệ dân sự cụ thể thì hiện tượng xung đột pháp
luật sẽ không xảy ra vì trong trường hợp này việc áp dụng pháp luật nước nào cũng
mang lại hệ quả pháp lý như nhau, do đó, cơ quan có thẩm quyền sẽ không phải
đứng trước việc lựa chọn pháp luật áp dụng. Nhưng xuất phát từ điều kiện phát triển
3 Điều 9, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định độ tuổi kết hôn với nam – 20 tuổi, nữ - 18 tuổi).
SVTH: Trần Nguyên Phương Khánh | GVHD: Th.s Trần Thị Ngọc Sương
4
kinh tế xã hội, từ quan điểm chính trị, từ phong tục tập quán, từ đặc điểm của hệ
thống pháp luật nên pháp luật các nước kể cả các nước có cùng một hình thái kinh tế
xã hội cũng không thể giống nhau hoàn toàn.
Ví dụ: một cuộc hôn nhân có thể được thừa nhận có hiệu lực theo pháp luật
nước A, nhưng chưa chắc đã được thừa nhận tại nước B; hay một hành vi bị cấm
theo pháp luật nước A, nhưng lại không vi phạm pháp luật nước B (như hành vi
đánh bạc, sở hữu một loại tài sản đặc thù…) và đây là nguyên nhân dẫn đến hiện

tượng xung đột pháp luật.
Tuy nhiên, cần chú ý hiện tượng này xuất phát do cả hai nguyên nhân nói
trên. Xung đột pháp luật là “xung đột” xảy ra giữa các hệ thống pháp luật cạnh tranh
nhau, chứ không phải khi hệ thống pháp luật các nước khác nhau có quy định khác
nhau về cùng một vấn đề thì phát sinh xung đột pháp luật. Ngay cả khi các nước đã
xây dựng được một hệ thống pháp luật chung thống nhất như mô hình các nước
thuộc Liên minh châu Âu (EU) để điều chỉnh các quan hệ tư của các nước này thì
cũng không có nghĩa là không có vấn đề xung đột pháp luật đặt ra.Vì vậy, hai
nguyên nhân này cần phải gắn bó chặt chẽ với nhau vì nếu quan hệ có yếu tố nước
ngoài phát sinh cần được điều chỉnh nếu quan hệ đó không phải là quan hệ dân sự
thì xung đột pháp luật không phát sinh cho dù pháp luật các nước có khác nhau. Với
lại nếu cần giải quyết một tranh chấp dân sự nhưng nội dung pháp luật các nước quy
định giống nhau thì cũng không làm phát sinh hiện tượng xung đột pháp luật.
1.3. Phạm vi xung đột pháp luật
Xác định phạm vi các vấn đề có xung đột pháp luật là cần thiết bởi chỉ trong
trường hợp có xung đột pháp luật thì khi giải quyết, cơ quan có thẩm quyền có thể
phải áp dụng pháp luật nước ngoài – điều không bao giờ xảy ra khi giải quyết các
quan hệ pháp lý trong nước khác.
SVTH: Trần Nguyên Phương Khánh | GVHD: Th.s Trần Thị Ngọc Sương
5
Hiện nay, các quan điểm đều thống nhất rằng, xung đột pháp luật chỉ phát
sinh trong các quan hệ “luật tư” như các quan hệ dân sự, thương mại, hay hôn nhân
gia đình… có yếu tố nước ngoài, mà không có xung đột pháp luật trong lĩnh vực luật
công (lĩnh vực hình sự, hành chính…). Trong trường hợp này, mặc dù các quan hệ
“có yếu tố nước ngoài” nhưng cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam sẽ chỉ áp dụng
pháp luật Việt Nam mà không có lựa chọn khác.
Xung đột pháp luật không xuất hiện trong các quan hệ thuộc lĩnh vực “luật
công”
(4)
, bởi luật công có mục đích bảo vệ “trật tự công” của chính mỗi quốc gia

không có sự “lựa chọn”, hay “cạnh tranh” giữa hai hay nhiều hệ thống pháp luật
khác nhau trong việc giải quyết quan hệ đó. Mỗi quốc gia có lợi ích công và trật tự
công khác nhau cần bảo vệ.
Tính chất các quy phạm thuộc lĩnh vực luật công luôn thể hiện tính lãnh thổ
tuyệt đối, nên có tính chất mệnh lệnh, áp dụng bắt buộc đối với mọi đối tượng, một
hành vi vi phạm luật công của một quốc gia luôn áo dụng quy phạm luật công của
chính quốc gia đó để điều chỉnh.
Trong khi đó, các quan hệ luật tư, sở dĩ có xung đột là bởi vì các quan hệ này
dựa trên sự bình đẳng giữa các bên trong quan hệ pháp lý nên các hệ thống pháp luật
liên quan cũng bình đẳng trong “khả năng” được đưa ra áp dụng giải quyết các vấn
đề, nhằm thuận lợi và đảm bảo lợi ích cho các bên trong quan hệ pháp lý đó. Trình
độ phát triển, mức độ hoàn thiện của các hệ thống pháp luật của các quốc gia khác
nhau không phải là điều kiện để lựa chọn áp dụng chúng.
1.4. Các phương pháp giải quyết xung đột pháp luật
Tư pháp quốc tế là một ngành luật có chức năng giải quyết các vấn đề pháp lý
có xung đột pháp luật. Mục đích của việc giải quyết xung đột pháp luật là chọn ra
4 Chương I, Th.S Bùi Thị Thu, Giáo trình Luật tư pháp quốc tế, nhà xuất bản giáo dục Việt Nam
SVTH: Trần Nguyên Phương Khánh | GVHD: Th.s Trần Thị Ngọc Sương
6
(hoặc xác định) được một hệ thống pháp luật phù hợp nhất trong hai hay nhiều hệ
thống pháp luật có liên quan trong một tình huống cụ thể. Vì vậy, để giải quyết xung
đột pháp luật trước hết được thực hiện ở giai đoạn lập pháp thông qua việc xây dựng
các quy phạm của tư pháp quốc tế. Giai đoạn tiếp theo, việc giải quyết xung đột
pháp luật chủ yếu được thực hiện tại các cơ quan áp dụng và thực thi pháp luật, chủ
yếu là tại hệ thống tòa án công của quốc gia. Như vậy, đối với một quốc gia có hai
cách tiếp cận để giải quyết xung đột pháp luật: Thứ nhất là xây dựng các quy phạm
luật nội dung hoặc xây dựng các quy phạm xung đột; Thứ hai là giai đoạn áp dụng
các quy phạm nội dung hoặc các quy phạm xung đột để giải quyết xung đột pháp
luật. Giai đoạn xây dựng các quy phạm thực chất hoặc quy phạm xung đột thuộc
thẩm quyền cơ quan lập pháp và phương pháp này tương tự như phương pháp điều

chỉnh của tư pháp quốc tế. Nội dung dưới đây là cách tiếp cận dưới góc độ của cơ
quan thi hành, áp dụng pháp luật, thì có hai phương pháp giải quyết xung đột pháp
luật chính sau:
+ Phương pháp thực chất
+ Phương pháp xung đột
Nhìn chung, mỗi phương pháp lại có những ưu thế và hạn chế nhất định tác
động hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Do đó, việc phối hợp các phương pháp này một cách
mềm dẻo, linh hoạt vào việc giải quyết các quan hệ Tư pháp quốc tế sẽ mang lại
những tác động tích cực không chỉ đối với quan hệ đó nói riêng mà lớn hơn là tình
hữu hảo, giao lưu, phát triển lâu dài giữa các quốc gia với nhau nói chung.
1.4.1. Phương pháp thực chất
SVTH: Trần Nguyên Phương Khánh | GVHD: Th.s Trần Thị Ngọc Sương
7
Phương pháp thực chất
(5)
là phương pháp mà nhà nước xây dựng hoặc công
nhận các quy phạm luật nội dung, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ của tư pháp
quốc tế.
Phương pháp được xây dựng trên cơ sở hệ thống các quy phạm thực chất trực
tiếp giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế, điều này có ý nghĩa là nó trực tiếp phân
định quyền và nghĩa vụ rõ ràng giữa các bên tham gia quan hệ.
Các quy phạm thực chất có thể được xây dựng trong các điều ước quốc tế
người ta gọi là các quy phạm thực chất thống nhất, còn các quy phạm thực chất xây
dựng trong các văn bản pháp quy của mỗi nhà nước được gọi là quy phạm thực chất
trong nước.
1.4.1.1. Các quy phạm thực chất thống nhất trong các điều ước quốc tế
Trong quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế của các quốc gia trên thế giới,
nhất là sự liên kết kinh tế cũng như nhất thể hóa nền kinh tế trên cùng khu vực và
nhất thể hóa nền kinh tế toàn cầu thì vai trò và vị trí của tư pháp quốc tế ngày càng
quan trọng. Quá trình này luôn được tiến hành song song đồng thời với việc nâng

cao vị trí, vai trò của các quy phạm thực chất được hình thành và xây dựng trong các
điều ước quốc tế (kể cả song phương và đa phương).
Việc xây dựng và hình thành các quy phạm thực chất thống nhất trong các
điều ước quốc tế điều chỉnh các quan hệ thương mại, sản xuất, dịch vụ, khoa học kỉ
thuật, giao thông…và các quan hệ khác giữa các công dân, pháp nhân của các quốc
gia khác nhau là điều rất cần thiết, nó làm giảm hoặc thậm chí triệt tiêu sự khác biệt
trong luật pháp của các quốc gia và có tính chất đơn giản hóa và hữu hiệu hóa trong
điều chỉnh các quan hệ Tư pháp quốc tế.
Khi đã có các điều ước quốc tế mà trong đó có các quy phạm thực chất thống
nhất, cơ quan có thẩm quyền giải quyết cũng như các bên tham gia quan hệ Tư pháp
5 Th.S Bùi Thị Thu, Giáo trình Luật tư pháp quốc tế, nhà xuất bản giáo dục Việt Nam
SVTH: Trần Nguyên Phương Khánh | GVHD: Th.s Trần Thị Ngọc Sương
8
quốc tế sẽ chiếu theo đó để xem xét và giải quyết thực chất vấn đề trên cơ sở áp
dụng ngay các quy phạm đó. Nó cũng loại trừ việc phải chọn luật và áp dụng luật
nước ngoài nữa, mà áp dụng ngay các quy phạm điều ước đó.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX này của chúng ta đã có rất nhiều điều ước
loại trên đây được ký kết và thực hiện, trước đó cũng có nhưng không phải nhiều, có
thể dẫn ra đây một số điều ước quan trọng như Công ước Pari 1883 về bảo hộ quyền
sở hữu công nghiệp; Công ước Bécnơ 1886 về bảo hộ quyền tác giả; Công ước La
hay về mua bán quốc tế về động sản 1955… Rất nhiều vấn đề được đề cập trong các
công ước này, được giải quyết trực tiếp thực chất một cách chóng vánh và dứt điểm.
Đây cũng chính là mục đích chính của các công ước này.
Các quy phạm thực chất thống nhất còn được ghi nhận trong các tập quán
quốc tế. Có thể lấy các quy tắc tập quán trong Incoterms (International commercial
terms) 1990 làm ví dụ, đó là các điều kiện mua bán, vận chuyển, bảo hiểm và các
phương thức giao hàng như FOB (free on broad) giao hàng trên tàu, CIF (cost and
freight) tiền hàng và cước phí…
Hệ thống các quy phạm thực chất thống nhất dù là trong điều ước quốc tế hay
trong tập quán quốc tế không phải là “luật pháp” đứng trên luật quốc gia xây dựng

hoặc chấp nhận các quy phạm đó và chúng tỏ rõ khả năng thuận tiện và hữu hiệu
trong việc điều chỉnh các quan hệ của Tư pháp quốc tế.
Ngoài ra có thể nói trong một chừng mực nào đó các quy phạm thực chất
thống nhất được hình thành trên cơ sở các quyết định của trọng tài thương mại quốc
tế. Luật pháp của các nước đều thừa nhận trọng tài là công cụ giải quyết hữu hiệu
các tranh chấp thương mại quốc tế và các nước cũng ban hành văn bản pháp quy để
công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài nước ngoài, thậm chí các quyết
định đó là quyết định hòa giải.
1.4.1.2. Các quy phạm thực chất trong luật của quốc gia
SVTH: Trần Nguyên Phương Khánh | GVHD: Th.s Trần Thị Ngọc Sương
9
Đã từ lâu trong luật pháp của không ít quốc gia cũng như ở nước ta quy chế
pháp lý của người nước ngoài được nhà nước ban hành trong các quy phạm pháp
quy trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ người nước ngoài. Các quy phạm này là
quy phạm thực chất của Tư pháp quốc tế, chúng trực tiếp điều chỉnh các quan hệ đã
được ấn định và tất nhiên xung đột pháp luật không tồn tại trong việc giải quyết các
vấn đề này. Điều này cũng có nghĩa là các quy phạm thực chất của luật quốc nội
hoàn toàn được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Trong giai đoạn hiện nay, ở các nước đang phát triển cũng như ở nước ta quy
phạm thực chất thường được quy định trong Luật đầu tư, Luật về chuyển giao công
nghệ… Trong Luật đầu tư hầu như hoàn toàn là các quy phạm thực chất điều chỉnh
các quan hệ đầu tư có yếu tố nước ngoài. Trong rất ít trường hợp còn quy định các
quy phạm xung đột như là cho phép các bên tham gia hợp đồng cụ thể nào đó được
phép thỏa thuận chọn luật áp dụng, cũng như thỏa thuận chọn trọng tài giải quyết.
1.4.1.3. Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp thực chất
* Ưu điểm:
Nhìn chung việc sử dụng phương pháp thực chất chính là việc các cơ quan có
thẩm quyền giải quyết cũng như các bên tham gia quan hệ Tư pháp quốc tế sẽ chiếu
theo các quy phạm thực chất đã được quy định sẵn trong các điều ước quốc tế hoặc
đã được quy định trong luật quốc gia để chiếu xem xét và giải quyết các xung đột.

Điều này có nghĩa là sẽ trực tiếp áp dụng quy phạm đó để giải quyết mà loại trừ việc
phải chọn luật và áp dụng luật nước ngoài.
 Phương pháp điều chỉnh thực chất là giải quyết trực tiếp các quan hệ và nó chỉ áp
dụng trong các quan hệ, lĩnh vực cụ thể. Do đó, mà phương pháp này sẽ giúp cho
việc giải quyết các xung đột được nhanh chóng hơn, do không phải qua giai đoạn
chọn hệ thống luật và các quy phạm của hệ thống luật đó để giải quyết.
 Phương pháp điều chỉnh trực tiếp thực chất chỉ sử dụng đối với các bên tham gia
quan hệ cụ thể trong các không gian giới hạn và đôi khi chỉ áp dụng với các chủ thể
SVTH: Trần Nguyên Phương Khánh | GVHD: Th.s Trần Thị Ngọc Sương
10
cụ thể. Hơn thế, các chủ thể đó lại thường biết trước các điều kiện pháp lý đó, để
hợp tác với nhau trong các quan hệ, tránh được các xung đột xảy ra.
 Phương pháp này còn điều chỉnh trực tiếp bằng cách các quốc gia kí kết điều ước
quốc tế mà trong các điều ước quốc tế đó tồn tại các quy phạm thực chất thống nhất,
vì vậy nó đã làm tăng khả năng điều chỉnh hữu hiệu của luật pháp, tính khả thi cao
hơn, loại bỏ được sự khác biệt, thậm chí mâu thuẫn trong luật pháp giữa các nước
với nhau.
* Nhược điểm:
 Các quy phạm thực chất, do tính cụ thể và trực tiếp của phương pháp mà đôi khi nó
không thể trù liệu được hết các lĩnh vực cũng như quan hệ phát sinh.
 Không những thế, phần lớn giữa các quốc gia có điều kiện kinh tế-chính trị-xã hội
khác nhau do đó việc xây dựng một quy phạm thực chất thống nhất chung giữa các
quốc gia là điều không hề đơn giản. Vì để đi đến thống nhất ý chí giữa các bên còn
phải tốn rất nhiều thời gian và công sức.
1.4.1.4. Lĩnh vực áp dụng
Trong điều kiện gia tăng các liên kết kinh tế quốc tế và giao lưu dân sự quốc
tế và giao lưu dân sự quốc tế giữa công dân, pháp nhân các nước ngày càng phát
triển thì việc kí kết điều ước quốc tế có nội dung trực tiếp điều chỉnh các quan hệ
pháp lý trong nhiều lĩnh vực trở nên tất yếu. Nhìn chung, phương pháp thực chất
thường được sử dụng trong các lĩnh vực mà các quốc gia có thể dễ dàng đạt được sự

thống nhất, đạt được lợi ích chung. Cụ thể, phương pháp thực chất được sử dụng
trong các điều ước quốc tế và trong pháp luật quốc gia, chủ yếu trong các lĩnh vực
sau:
Phương pháp thực chất trong điều ước quốc tế
 Lĩnh vực thương mại quốc tế: Dưới tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
các quốc gia đã đồng thuận xây dựng nhiều điều ước quốc tế lớn trong lĩnh vực
thương mại
(6)
. Đây là lĩnh vực thể hiện rõ nét nhất sự thống nhất hóa các quy phạm
6 Cho đến năm 2010, Việt Nam đã ký kết hàng trăm Hiệp định thương mại song phương (BTA) với các quốc gia và vùng
lãnh thổ…Các Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư, là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế lớn như APEC,
SVTH: Trần Nguyên Phương Khánh | GVHD: Th.s Trần Thị Ngọc Sương
11
pháp luật nội dung trên phạm vi quốc tế. Là thành viên của các tổ chức quốc tế lớn,
Việt Nam đương nhiên phải tuân thủ các quy phạm pháp luật quốc tế trong lĩnh vực
thương mại như: Hiệp định của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Hiệp định
chung về thương mại dịch vụ (GATS)…
 Lĩnh vực sở hữu trí tuệ: Hiện nay, có thể kế đến ba trụ pháp lý chính trong lĩnh vực
này là Công ước Bener 1886 về bảo hộ quốc tế quyền tác giả, Công ước Paris 1883
về bảo hộ quốc tế quyền sở hữu công nghiệp, Hiệp định về các khía cạnh liên quan
đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ TRIPS năm 1995 của Tổ chức thương mại
thế giới.
 Lĩnh vực hợp đồng quốc tế: Hiện nay, các quy phạm này vẫn giữ vai trò quan trọng
không thể thay thế như các nguyên tắc về luật hợp đồng thương mại quốc tế (PICC)
của UNIDROIT, hoặc bộ quy tắc các điều kiện thương mại quốc tế (INCOTERMS)
2000, 2008… có tính chất là các quy phạm thực chất thống nhất. Đặc biệt, sự ra đời
của các điều ước quốc tế đã trở thành công cụ hữu hiệu để các quốc gia thực hiện
việc pháp điển hóa các quy phạm luật thực chất, như Công ước Viên 1980 về mua
bán hàng hóa quốc tế, Công ước Lahaye 1955 về mua bán quốc tế các động sản hữu
hình…

Phương pháp thực chất trong pháp luật quốc gia
Có thể tìm thấy phương pháp này được sử dụng khá phổ biến tại các quy định
của pháp luật Việt Nam. Cần chú ý là các quy định của pháp luật trong nước trước
hết được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ pháp luật trong nước. Tuy nhiên, các
quy phạm luật thực chất trong nước cũng có thể được áp dụng để điều chỉnh các
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Theo quy định tại Khoản 3, Điều 2, Bộ luật
Dân sự về hiệu lực áp dụng Bộ luật quy định:
“Bộ luật Dân sự được áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài,
trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác”.
1.4.2. Phương pháp xung đột
ASEAN, WTO…
SVTH: Trần Nguyên Phương Khánh | GVHD: Th.s Trần Thị Ngọc Sương
12
Phương pháp xung đột
(7)
là phương pháp mà nhà nước xây dựng các quy
phạm xung đột nhằm xác định hệ thống pháp luật cụ thể sẽ được áp dụng điều chỉnh
các quan hệ của tư pháp quốc tế.
Phương pháp xung đột được hình thành khá sớm và được xây dựng trên nền
tảng hệ thống các quy phạm xung đột của quốc gia. Điều này có nghĩa là cơ quan có
thẩm quyền giải quyết phải chọn pháp luật của nước này hay nước kia liên đới tới
các yếu tố nước ngoài để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự. Công
việc tiến hành lựa chọn hệ thống pháp luật nước nào được áp dụng để giải quyết
phải dựa trên cơ sơ qui định của các quy phạm xung đột.
Phương pháp này được áp dụng chủ yếu và rộng rãi hiện nay trong tư pháp
quốc tế của các nước trên thế giới. Nó cũng là công cụ chủ yếu để thiết lập và bảo
đảm một trật tự pháp lý trong quan hệ pháp luật dân sự quốc tế.
1.4.2.1. Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp xung đột
* Ưu điểm:
 Bản chất của việc dùng phương pháp xung đột là phương pháp điều chỉnh gián tiếp,

theo nghĩa không trực tiếp đưa ra giải pháp về nội dung, chỉ xác định hệ thống pháp
luật được áp dụng. Ưu điểm của phương pháp này thể hiện tính khách quan, trung
lập trong việc chọn luật áp dụng đối với quan hệ pháp lý nảy sinh. Cụ thể, các quy
phạm xung đột chủ yếu dựa trên tính chất của các quan hệ pháp lý cụ thể để lực
chọn hệ thống pháp luật áp dụng. Thông thường, đây thường là các hệ thống pháp
luật có mối quan hệ gần nhất với các quan hệ pháp lý nhất định. Cụ thể, đối với các
vấn đề liên quan đến quy chế pháp lý tài sản sẽ dựa trên hệ thống pháp luật nước
“Luật nơi có tài sản” như tại Điều 766, Bộ luật Dân sự: “Tài sản là bất động sản chịu
sự điều chỉnh của pháp luật nước nơi có bất động sản”.
7 Th.S Bùi Thị Thu, Giáo trình Luật tư pháp quốc tế, nhà xuất bản giáo dục Việt Nam
SVTH: Trần Nguyên Phương Khánh | GVHD: Th.s Trần Thị Ngọc Sương
13
 Phương pháp xung đột giúp cho việc giải quyết các vấn đề dân sự có yếu tố nước
ngoài một cách thuận lợi, dễ dàng hơn. Qua đó, tránh được những tranh chấp giữa
các quốc gia, gây bất ổn đến quan hệ giữa các nước với nhau, quan trọng nhất là
điều hòa được lợi ích giữa các quốc gia.
*Nhược điểm:
Bên cạnh những ưu điểm của phương pháp này, còn phải nói đến những hạn
chế nhất định không thể tránh khỏi.
 Pháp luật của các nước có những quy định khác nhau, việc sử dụng quy phạm xung
đột để giải quyết xem ra là giải pháp tốt nhất. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù và
riêng biệt của quy phạm xung đột mà vẫn có những trường hợp Tòa án không chọn
được luật thực chất để áp dụng bởi chưa có quy phạm xung đột trong lĩnh vực đó.
Lúc này Tòa án cần xem xét hệ thống luật pháp của nước mình để tìm ra các quy
định cần thiết để giải quyết vụ việc.
 Phương pháp xung đột được áp dụng trong hệ thống luật Anh – Mỹ còn phức tạp
hơn nhiều. Ở đây, Tòa án có thẩm quyền rất rộng, còn các quy phạm xung đột lại
được hình thành trên cơ sở án lệ (thực tiễn tòa án và trọng tài). Điều này dẫn đến rất
nhiều khả năng xảy ra trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại trong quan hệ
hợp đồng mà các bên khi tham gia các quan hệ đó không thể lường trước được.

 Trong quan hệ thương mại quốc tế hiện đại, người ta thường áp dụng loại hệ thuộc
xung đột mới là tự do lựa chọn luật áp dụng. Chính sự tự do này đôi khi khiến cho
các bên đương sự lạm dụng khi tránh không phải áp dụng một hệ thống pháp luật mà
đáng lẽ nó phải được áp dụng. Do đó, phải xem xét yếu tố trung lập. Khách quan, có
còn tồn tại không, hay vi phạm pháp luật xung đột, như chính quy phạm pháp luật,
cũng chỉ là sản phẩm của con người trong quá trình hoạt động nhận thức hiện thực
quanh mình, từ đó hình thành nên quy tắc ứng xử cho hành vi.
1.4.2.2. Lĩnh vực áp dụng
SVTH: Trần Nguyên Phương Khánh | GVHD: Th.s Trần Thị Ngọc Sương
14
Phương pháp xung đột được áp dụng khá phổ biến trong tư pháp quốc tế và
được coi là phương pháp cơ bản, truyền thống của ngành luật này. Những lĩnh vực
khó xây dựng quy phạm thực chất thống nhất, vì vậy cần tìm ra một giải pháp khách
quan và dung hòa được lợi ích của các bên trong quan hệ quốc tế. Hiện nay, trong tư
pháp quốc tế Việt Nam, phương pháp xung đột cũng được sử dụng như trong các
Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam ký kết với các nước và trong các văn bản
luật tư trong nước như Phần VII, Bộ luật Dân sự, một số quy định tại Luật Hôn nhân
gia đình… Nhìn chung các nguyên tắc trong Hiệp định này thống nhất với các quy
định của pháp luật trong nước. Các lĩnh vực sử dụng phương pháp xung đột phổ biến
là các quan hệ về dân sự, hôn nhân gia đình, cụ thể như:
 Lĩnh vực quy chế pháp lý nhân thân: Để xác định năng lực chủ thể trong quan hệ dân
sự có yếu tố nước ngoài, tư pháp quốc tế, chủ yếu xây dựng các quy phạm xung đột
để lựa chọn luật áp dụng (từ Điều 761 đến Điều 765, Bộ luật Dân sự 2005; Điều 6 đến
Điều 10, Nghị định 138 NĐ/CP năm 2006 quy định chi tiết thi hành phần thứ bảy của
Bộ luật Dân sự).
 Lĩnh vực quy chế pháp lý tài sản: Điều 766, Bộ luật Dân sự; Điều 11, Nghị định 138
NĐ/CP năm 2006 về quyền sở hữu. Đây là lĩnh vực mà mỗi quốc gia có quan niệm về
chế độ sở hữu khác nhau nên khó có thể xây dựng được các quy định về sở hữu chung
thống nhất trên phạm vi quốc tế. Hiện có hai nhóm: các nước tư bản chủ nghĩa và các
nước thuộc hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cần dựa trên phương pháp

xung đột để xác định hệ thống pháp luật về sở hữu phù hợp nhất, trong từng tình
huống cụ thể.
 Lĩnh vực hôn nhân gia đình, thừa kế…: Đây cũng là một lĩnh vực chịu ảnh hưởng và
tác động của phong tục tập quán, truyền thống, văn hóa… của các nước khác nhau
nên quy định pháp luật các nước trong lĩnh vực này cũng rất khác nhau. Do vậy,
không thể xây dựng các quy định thống nhất về điều kiện kết hôn, phân chia di sản
thừa kế cho công dân các nước khác nhau.
Ví dụ: các quy phạm xung đột trong Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam –
Lào (Điều 36 đến Điều 38 về thừa kế; Điều 25 đến Điều 32 về hôn nhân gia đình);
Điều 103 đến Điều 105, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000…
II. Thực tiễn áp dụng phương pháp giải quyết xung đột pháp luật tại
Việt Nam
2.1. Thực tiễn áp dụng phương pháp xung đột
SVTH: Trần Nguyên Phương Khánh | GVHD: Th.s Trần Thị Ngọc Sương
15
Để thấy rõ hơn việc áp dụng phương pháp xung đột ở Việt Nam như thế nào,
ta xem xét trên những vấn đề sau:
 Vấn đề dẫn chiếu tới pháp luật của quốc gia chưa được công nhận: Quan điểm
của Việt Nam được thể hiện rõ nét trong Hiến pháp 1992 cũng như trong các văn
bản pháp quy của nhà nước và cả trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia
kí kết đều nhất quán không có sự phân biệt, kì thị nào giữa các quốc gia chưa được
công nhận với các quốc gia khác. Theo đó, trong trường hợp phải áp dụng pháp luật
của những quốc gia này để giải quyết các quan hệ pháp luật phát sinh thì Việt Nam
vẫn chấp nhận.
 Vấn đề bảo lưu trật tự công: Các quy định về “bảo lưu trật tự công” được Việt Nam
thừa nhận thể hiện thông qua các văn bản pháp lý quan trọng như: Hiến pháp 1992,
Bộ luật dân sự 2005, Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam 2000… Ví dụ: khoản 4
Điều 759 BLDS, Điều 101 Luật hôn nhân và gia đình… Bên cạnh đó, vấn đề này
còn được ghi nhận trong một số điều ước quốc tế như: Công ước NewYork 1958
(Điều 5), Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Ba Lan 1993 (Điều 12)…

Việc áp dụng bảo lưu trật tự công thể hiện tính chất chủ quyền của quốc gia
trong việc bảo đảm, giữ gìn an ninh, kinh tế, đạo đức, lối sống… của nước mình.
Tuy nhiên, cần phải hiểu đó không phải là việc phủ nhận các hệ thống luật nước
ngoài trên thế giới mà chỉ là không áp dụng các quy định liên quan không phù hợp.
 Vấn đề lẩn tránh pháp luật: Đây là hiện tượng đương sự dùng những biện pháp, thủ
đoạn để thoát khỏi hệ thống pháp luật đáng nhẽ phải được áp dụng để điều chỉnh các
quan hệ của họ và thay bằng một hệ thống pháp luật khác có lợi hơn cho mình
(VD:thay đổi quốc tịch, thay đổi nơi cư trú…). Về vấn đề này, Việt Nam nghiêm
khắc phản đối, không chấp nhận các hành vi lẩn tránh pháp luật.
 Vấn đề dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu pháp luật của nước thứ ba: Hiện nay có hai
quan điểm: một là không xảy ra dẫn chiếu ngược và luật thực chất của nước được
dẫn chiếu sẽ được áp dụng và quan điểm ngược lại là chấp nhận dẫn chiếu ngược trở
lại, cũng như dẫn chiếu đến luật pháp của nước thứ ba. Quan điểm rõ ràng của Việt
Nam về vấn đề này là chấp nhận việc dẫn chiếu ngược trở lại. Cụ thể: Theo điều 103
SVTH: Trần Nguyên Phương Khánh | GVHD: Th.s Trần Thị Ngọc Sương
16
Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam 2000 quy định: “Trong việc kết hôn giữa công
dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước
mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định của
Luật này về điều kiện kết hôn”. Như vậy, công dân nước nào sẽ tuân thủ pháp luật
của nước đó.
Tuy nhiên, trong trường hợp pháp luật nước ngoài dẫn chiếu trở lại pháp luật
Việt Nam mà xảy ra xung đột (VD: tuổi kết hôn của Việt Nam là 18, 20 còn tuổi kết
hôn ở Anh là 16) thì căn cứ vào khoản 3 Điều 759 BLDSVN 2005: “…trường hợp
pháp luật nước đó dẫn chiếu trở lại pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thì áp dụng pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
2.2. Thực tiễn áp dụng phương pháp thực chất
Các quy phạm thực chất luôn thế hiện những ưu thế hơn của nó so với quy
phạm xung đột. Tuy nhiên, việc khó xây dựng các quy phạm thực chất giải thích tại

sao lại không nhiều các quy phạm thực chất trong hệ thống pháp luật của các quốc
gia hoặc các điều ước quốc tế. Mặc dù vậy, trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện
nay, Việt Nam nên xây dựng thêm các quy phạm thực chất là điều cần thiết, nó làm
giảm hoặc thậm chí triệt tiêu sự khác biệt trong luật pháp của các quốc gia và có tính
chất đơn gian hóa và hữu hiệu hóa trong điều chỉnh các quan hệ TPQT.
Pháp luật Việt Nam đã chỉ rõ các phương thức giải quyết tranh chấp mà không
cần phải dẫn chiếu áp dụng luật của quốc gia nào. Ví dụ: khoản 1 Điều 4 của Luật về
chuyển giao công nghệ quy định: “Tranh chấp liên quan đến hoạt động đầu tư tại
Việt Nam được giải quyết qua thương lượng, hòa giải, Trọng tài hoặc Tòa án”.
Bên cạnh đó, Việt Nam còn áp dụng các quy phạm thực chất từ nguồn quốc
tế. Ví dụ: Việt Nam đã gia nhập Công ước Becner 1886 về bảo hộ quyền tác giả;
Công ước Liên hiệp quốc về hợp đồng mua bán quốc tế (Công ước Viên 1980)…
SVTH: Trần Nguyên Phương Khánh | GVHD: Th.s Trần Thị Ngọc Sương
17
KẾT LUẬN
SVTH: Trần Nguyên Phương Khánh | GVHD: Th.s Trần Thị Ngọc Sương
18
Có thể thấy, phương pháp xung đột và việc áp dụng các quy phạm xung đột
là phương pháp chủ yếu được sử dụng hiện nay bởi nó xuất phát từ thực tiễn áp
dụng trong TPQT, khả năng dễ xây dựng cũng như ít tốn kém vể chi phí vì chỉ thông
qua thỏa thuận giữa hai bên mà thôi. Mặc dù, đi sâu vào nghiên cứu hai phương
pháp trên, ta thấy phương pháp thực chất thể hiện được tính ưu việt hơn hẳn so với
phương pháp xung đột bởi sự nhanh chóng, cụ thể trong việc áp dụng luật điều
chỉnh một quan hệ pháp luật nào đó. Tuy nhiên, phương pháp thực chất khó có thể
xây dựng và đi đến thống nhất giữa các bên bởi hầu hết các quốc gia không có sự
tương đồng về lịch sử, dân tộc, trình độ phát triển và lợi ích… Do đó, việc xây dựng
được một quy phạm thực chất quả rất khó khăn.
Việt Nam, một quốc gia đang trên đà phát triển cũng không nằm ngoài xu
hướng đó. Xét về cơ sở lý luận cũng như thực tiễn, TPQT ở các quốc gia khác nhau
còn có nhiều sự khác biệt, điều này tạo ra những rào cản, hạn chế sự giao lưu, hợp

tác giữa các quốc gia. Sự hợp tác quốc tế về mọi mặt giữa các quốc gia là hiện thực
tất yếu khách quan trong mọi thời đại, nhất là trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa
hiện nay. Do đó, TPQT Việt Nam phải không ngừng củng cố và hoàn thiện hơn nữa,
nhất là với việc xây dựng ra một phương pháp giải quyết XĐPL khách quan, hợp lý.
Có như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức trong nước cũng
như nước ngoài tham gia vào các quan hệ pháp luật tư pháp, góp phần thúc đẩy nền
kinh tế – xã hội đất nước ngày càng phát triển.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Sách tham khảo
SVTH: Trần Nguyên Phương Khánh | GVHD: Th.s Trần Thị Ngọc Sương
19
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, 2011, Giáo trình tư pháp quốc tế, Nhà xuất bản
Công an Nhân dân Hà Nội, Hà Nội.
2. Ths.Lê Thị Nam Giang,Tư pháp quốc tế,NXB Đại Học Quốc gia Hồ Chí
Minh.
3. TS. Đỗ Văn Đại, Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật
trong Tư pháp quốc tế Việt Nam .
4. Th.S Bùi Thị Thu, Giáo trình Luật tư pháp quốc tế, Nhà xuất bản giáo dục
Việt Nam
* Tài liệu từ Website
1. Th.S Phan Trung Hoài, Tản mạn về xung đột pháp luật
/>%C4%91%E1%BB%99t-ph%C3%A1p-lu%E1%BA%ADt

SVTH: Trần Nguyên Phương Khánh | GVHD: Th.s Trần Thị Ngọc Sương

×