Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Bài soạn triết học lớp cao hoc Quản trị kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.38 KB, 41 trang )

Bài soạn triết học lớp cao hoc QTKD 1
SOẠN CÂU HỎI TRIẾT HỌC
CHƯƠNG I + II + III + IV :
Câu 1 : Phân tích tính quy luật về sự hình thành, phát triển của triết học? Vận dụng tính
quy luật vào sự phát triển của triết học Mác ?
Khái niệm quy luật: là những mối liên hệ bản chất tất nhiên phổ biến và lặp đi lặp lại của
các sự vật trong thế giới quan.
1.1 Phân tích tính quy luật về sự hình thành, phát triển của triết học ?
Sự hình thành, phát triển của triết học có tính quy luật của nó. Trong đó, các tính
quy luật chung là:
Sự hình thành và phát triển của triết học gắn liền với điều kiện kinh tế xã hội, với
cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội: Mỗi giai đoạn phát triển khác
nhau của xã hội, mỗi giai cấp, mỗi lực lượng xã hội khác nhau sẽ xây dựng nên các hệ
thống triết học khác nhau. Sự phát triển và thay thế lẫn nhau giữa các hệ thống triết học
khác nhau. Sự phát triển và thay thế lẫn nhau giữa các chế độ xã hội, phản ánh cuộc đấu
tranh giữa các giai cấp, các lực lượng trong xã hội.
Sự hình thành và phát triển của triết học gắn liền với các thành tựu khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội : Sự phát triển của triết học, một mặt phải khái quát được các
thành tựu của khoa học, mặt khác nó phải đáp ứng được nhu cầu phát triển của khoa học
trong từng giai đoạn lịch sử. Vì vậy với mỗi giai đoạn phát triển của khoa học, nhất là
khoa học tự nhiên, thì triết học cũng có một bước phát triển. đúng như Ph. Ăng ghen đã
nhận định: “ Mỗi khi có những phát minh mới của khoa học tự nhiên thì chủ nghĩa duy
vật cũng thay đổi hình thức”. Do đó việc nghiên cứu các tư tưởng triết học không thể tách
rời các giai đoạn phát triển của khoa học, nhất là khoa học tự nhiên.
Sự hình thành và phát triển của triết học gắn liền với sự thâm nhập và đấu tranh
giữa các trường phái triết học với nhau: Trong lịch sử triết học luôn luôn diễn ra các
cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học, mà điển hình nhất là cuộc đấu tranh giữn
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Trong quá trình đấu tranh đó, các trường phái
triết học vừa gạt bỏ lẫn nhau, vừa kế thừa lẫn nhau, và mỗi trường phái đều không ngừng
biến đổi, phát triển lên một trình độ mới cao hơn. Chính cuộc đấu tranh giữa các trường
phái triết học đã làm cho triết học không ngừng phát triển.


1.2 Vận dụng tính quy luật vào sự phát triển của triết học Mác ?
a. điều kiện kinh tế xã hội : Triết học Mác cũng như các bộ phận cấu thành chủ nghĩa
Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Cùng với sự ra đời và phát triển của chủ
nghĩa tư bản, giai cấp vô sản thế giới hình thành và phát triển như một lực lượng chính trị
độc lập, một giai cấp cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Sự hình thành và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đã xuất
hiện những mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của sản xuất công nghiệp
với hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
NS: Cáp Trọng Biên 1
Bài soạn triết học lớp cao hoc QTKD 2
Câu 2 : Phân tích những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của TH Phật giáo đ/v đời sống
xã hội ở nước ta ?
A. về mặt tích cực
2.1 ảnh hưởng của triết học phật giáo đến đạo đức:
Hơn 20 thế kỷ qua Phật giáo đã chung sống với dân tộc ta. Triết lý nhân sinh của
phật giáo đã thấm thấu vào tinh thần dân tộc và có ảnh hưởng sâu sắc đến nhân sinh quan
con người Việt Nam, góp phần đắc lực tao nên nhân cách của nhiều người dân Việt Nam.
Phật giáo đề cập rất nhiều đến thuyết nhân duyên, đến quan hệ nhân quả, nhìn sự vật từ
kết quả để tìm nguyên nhân và từ kết quả này lại là nguyên nhân của kết quả khác trong
mối liên hệ khác. Luân hồi nghiệp báo là giáo lý phật giáo dựa trên luật nhân quả. Luật
nhân quả của phật giáo đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành phát triển nhân sinh
quan và đạo đức trong nhân dân ta.
Nhưng quan điểm ở hiền gặp lành, gieo gió gặp bão, nhân nào quả đấy, cha mẹ
hiền lành để đức cho con, bản chất từ bi hỷ xả trong triết lý nhân sinh phật giáo thấm sâu
vào đời sống tinh thần dân tộc hướng mọi tầng lớp nhân dân vào con đường thiện nghiệp
tu dưỡng đạo đức vì dân vì nước. Có tác giả nhận xét: cái sống đời đời trong đạo đức phật
giáo là từ bi và cứu khổ cứu nạn. Nó vượt thời gian, không gian, bởi vì nó nhằm bảo vệ,
phát huy dùy trì nhân bản “ làm điều lành”, “ hướng về điều lành” hoặc ít nhất “ đừng
làm điều ác”, “ đừng hướng về cái ác”.
Luật nhân quả theo phật giáo đề cập đến dòng biến động, sinh diệt nói tiếp nhau,

đã chỉ cho các tín đồ điều kiện để đạt đến đỉnh cao của trí tuệ, thì người tu hành phải có
đức độ, long từ bi không ỷ lại hay tự ty với chính mình. Luật nhân quả còn khẳng định
khi chúng ta gieo nhân tức là đã gây nghiệp, gây nghiệp lành được quả lành, gây nghiệp
dữ bị quả dữ Vì vậy hướng con người vào việc thiện, xa lánh điều ác. Nếu chúng ta gạt
bỏ điều kiện thần bí về kiếp người trong luật nhân quả, sẽ thấy được tinh thần nhân bản
trong việc giáo dục con người sống lành mạnh, làm việc tốt, từ đó góp phần vào việc xây
dựng xã hội yên lành và có nhân tính hơn. Ngoài ý nghĩa tích cực trong việc giáo dục và
xây dựng một gia đình tốt, một xã hội yên bình, phật giáo còn nhấn mạnh sự nỗ lực là
yếu tố quyết định của mỗi con người trong quá trình tu tập đi đến giác ngộ. Giáo lý nhân
quả của phật giáo không ra lệnh cũng không trừng phạt, mà đưa con người về vị trí thực
sự của họ, không tách khỏi ý thức trách nhiệm vai trò vị trí của mình trong gia đình và xã
hội.
Nhân sinh quan Phật giáo đã hòa đồng với các tôn giáo khác, cũng như tập quán
tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Việt Nam. Đạo lý từ - bi - hỉ - xả, bình đẳng, của
phật giáo đã ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống tính thần người Việt , là một trong những
yếu tố tham gia vào quá trình hình thành giá trị văn hóa dân tộc. Đạo đức xã hội coi trọng
chữ tâm là gốc để tạo nên sức mạnh và là động lực cho sự phát triển xã hội. Tư tưởng,
hành vi đạo đức phật giáo phù hợp với truyền thống nhân đạo, thương người như thể
thương thân của đạo lý người Việt Nam.
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Trong gia đình việc, việc thờ cúng tổ tiên là truyền thống của con người Việt
Nam. Truyền thống đó được cộng hưởng bởi đạo đức phật giáo. Cho đến tận ngày nay
trong mỗi gia đình người Việt Nam, thậm trí ở cả nước ngoài, khi mở đầu bài khấn lễ gia
tiên, hay trước khi tiến hành các thủ tục tế lễ thì bao giờ cũng mở đầu bằng câu “ Nam
mô a di đà phật”.
NS: Cáp Trọng Biên 2
Bài soạn triết học lớp cao hoc QTKD 3
Tóm lại mặt tích cực của nhân sinh quan phật giáo nói chung và đạo đức phật giáo
bao gồm nhiều khía cạnh. Trước hết, nó góp phần củng cố đạo đức xã hội, tôn vinh

những giá trị văn hóa dân tộc, khơi dậy tinh thần đoàn kết tương thân tương ái, lá lành
đùm lá rách góp phần tạo nên nhân cách con người Việt Nam.
2.2 ảnh hưởng của triết học phật giáo đến lối sống.
Lối sống con người Việt Nam có nhiều nét đặc thù. Về cơ bản, đời sống tinh thần
của con người Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nhiều của tư tưởng Tam giáo, trong đó có
các vấn đề nhận thức luận, thế giới quan và đặc biệt là nhân sinh quan trong phật giáo. Hệ
thống chùa – tháp, một bộ phận cấu thành giá trị vật chất và tinh thần của di sản văn hóa
dân tộc. Chùa là nơi biểu hiện quan niệm từ - bi - hỷ - xả … gợi cho con người sự hướng
thiện, hướng về những điều thanh cao trong cuộc sống.
Mái chùa che chở hồn dân tộc.
Nếp sống muôn đời của tổ tông.
Người Việt đến chùa với long thành kính cầu mong sự an bình, hạnh phúc cho cá
nhân và cho người thân, kể cả cầu mong sự thanh thản cho người đã quá cố ở cõi vĩnh
hằng mà không năng nề về phần cúng lễ để xin sự phú quý giàu sang.
Đạo lý “Thương người như thể thương thân” của người Việt được biểu hiện qua
hành động của từng cá nhân và lối sống của cộng đồng. Nhân sinh quan phật giáo quan
niệm cuộc đời chúng sinh tràn ngập trong khổ đau. Từ đó, đạo phật ( còn gọi là đạo từ
bi ) đòi hỏi tình thương nhân loại đối với tất cả mọi người, phải giúp đỡ, san sẻ, đùm bọc,
không vụ lợi, không đợi chờ sự đền đáp và hoàn toàn mang tính tự nguyện.
Nếp sống của con người Việt Nam nghiêng về nội tâm, hướng nội. Ngày nay, sau
khi đã trải qua nhiều mất mất, hy sinh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ, Người dân Việt Nam rất nhạy cảm trước mọi niềm vui, và nỗi buồn của mọi người,
sẵn sàng chia sẻ, đồng cam cộng khổ với những người xung quanh. Dân ta có câu “ hàng
xóm láng giềng những khi tối lửa, tắt đền có nhau” có ý nghĩa muốn đùm bọc, quan tâm
chu đáo, chia sẻ lẫn nhau khi gặp khó khăn . Đây là một nghĩa cử cao đẹp của con người
Việt Nam. Cho đến nay, đối với nhiều gia đình người Việt Nam thì mười điều tâm niệm
và mười bốn điều răn của phật được xem là những giá trị đạo đức . điều răn thứ sáu trong
mười bốn điều phật dạy có ghi: “ tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu. Cần phải
phụng dưỡng cha mẹ khi cha mẹ già yếu, thay mặt cha mẹ thực hiện những việc cần thiết
thuộc bổn phận của cha mẹ, duy trì bảo vệ làm vẻ vang truyền thống của gia đình, giữ gìn

tài sản của gia đình do cha mẹ tích lũy được, sau khi cha mẹ mất làm lễ thành phục theo
đúng lễ, tổ chức an tang trọng thể.
Vợ chồng phải chung thủy, kính trọng và thông cảm lẫn nhau. Cha mẹ phải
thương yêu con cái, “ phải tránh cho con rơi vào ác đạo, dạy con cái làm những công việc
hữu ích, đem lại cho con cái một sự giáo dục tốt đẹp, cưới vợ gả chồng cho con cái thành
hôn với con em những gia đình lương hảo …
B. về mặt tiêu cực
Triết học phật giáo đem lại nhiều giá trị tích cực đối với đời sống xã hội người
Việt Nam. Tuy nhiên, sẽ không đầy đủ nếu như chỉ nhấn mạnh những giá trị tích cực, mà
không thấy ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với đời sống tinh thần nói chung và đạo đức xã
hội của người Việt Nam.
Cũng như tôn giáo khác, phật giáo là niềm an ủi cho con người bằng sự đền bù hư
ảo, hay là đem lại sự thỏa mãn nhu cầu tâm linh một cách ảo tưởng, coi sự giải thoát khỏi
thế giới trần tục làm cứu cánh cho cuộc đời đau khổ của mình. Các Mác từng nói: “ Tôn
NS: Cáp Trọng Biên 3
Bài soạn triết học lớp cao hoc QTKD 4
giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bi áp bức, là trái tim của thế giới không trái tim, cũng
giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện
của nhân dân”.
Thuyết nhân quả của phật giáo tạo cho mọi người tính nhẫn nhục, cam chịu bằng
lòng với số phận của mình ở cuộc sống trần gian. Như vậy vô hình chung đã tạo điều kiện
thuận lợi để giai cấp thống trị lợi dụng ru ngủ nhân dân, loại bỏ ý thức vươn lên đấu tranh
của họ, dẫn đến sự cai trị của chúng dễ dàng hơn.
Mặt khác, trong thực tế chùa chiền trở thành nơi ẩn náu của một số người tỏ ra bất
mãn trước cuộc sống, gặp khó khăn hay thất bại trong cuộc sống và chưa làm chủ được
cuộc sống của mình, do vậy họ vào chùa nương nhờ cửa phật, lẩn chốn thực tại. Là một
tôn giáo có những yếu tố thần bí, phật giáo đã làm cho con người tin tưởng một cách mù
quáng, mà không thấy cuộc sống của mình do mình làm chủ, không dựa vào trí thức ,
không dựa vào khoa học để chiến thắng khổ nạn, cố gắng tự vươn lên làm chủ trong mọi
hoàn cảnh giành lấy hạnh phúc cho mình.

Quan niệm đời là bể khổ, cuộc sống là trần gian tạm bợ, là sự chuẩn bị bắt đầu
cho cuộc sống ở cõi Niết bản. Điều này làm con người xa lánh cuộc đời, an phận thủ
thường, thu mình trước mọi bất công, nảy sinh tâm trạng bi quan, yếu thế trước cuộc
sống. Đó là điều không phù hợp và thậm trí là sự cản trở đối với sự tiến bộ của nhân loại,
đặc biệt là trong điều kiện hiện nay. Con người sống trong thế giới thực tại càng phải có
niềm tin, lý tưởng, biết vươn lên trong mọi khó khăn , thử thách làm chủ cuộc sống của
mình cần thiết phải có thái độ lạc quan yêu đời, tin vào bản thân mình.
Mặt tiêu cực thêm nữa là nhìn đời một cách bi quan, có pha trộn chất hư vô chủ
nghĩa, nặng về tin tưởng ở quyền năng và phép màu nhiệm của một vị siêu nhiên mà nhẹ
về tin tưởng năng lực hoạt động của con người, nếp sống thì khổ hạnh và không tránh
khỏi nương theo những nghi lễ thần bí. Đặc biệt là có hiện tượng mê tín dị đoan như: Lên
đồng, đốt vàng mã, những đồ dùng bằng giấy. Những tư tưởng mê lầm đó vừa phung phí
tiền bạc, thời gian lại làm xuất hiện trong xã hội những loại người chỉ dựa vào những
nghề nghiệp ấy mà kiếm sống gây ra một sự bất công trong xã hội.
Câu 3: Phân tích phạm trù nhân, lễ, chính danh của TH Nho giáo. Từ đó trình bày
suy nghĩ của mình về sử dụng cán bộ hiện nay ở nước ta?
3.1 Phân tích phạm trù nhân, lễ, chính danh của TH Nho giáo.
a. Thuyết về “ nhân”:
Nhân là nguyên lý đạo đức cơ bản quy định bản tính con người thể hiện việc quan hệ
giữa người và người. Nhân có thể được xét theo hai khía cạnh:
+ Thứ nhất, về mặt thể, nhân là nhân tính, - cái tính tự nhiên trời cho, khiến con người
khác con vật “ nhân giả, nhân giã”, người thực hiện được tính nhân thì mới thực là người.
Nhưng nhân là nhân tính không chỉ thể hiện trong mỗi cá nhân mà còn thể hiện ở tính
cách nhân loại “ Đại đồng”, theo nghĩa “ tứ hải giai huynh đệ”. Hơn nữa, nhân là một
trong tam tài : “ Thiên - địa – nhân” ( thiên thời - địa lợi – nhân. Như vậy, biết được tính
nhân, thì biết được tính người, biết được tính vạn vật, biết được lẽ sinh trưởng biến hóa
của trời đất của con người.
+ Thứ hai, về mặt dụng, - nhân là long thương người, là sửa mình theo lễ, hạn chế dục
vọng, ích kỷ, hành động theo trật tự lễ nghi đạo đức. Muốn làm điều tốt và lam điều tốt
cho người khác, rằng: “ điều gì muốn thành công cho mình, thì nên giúp người khác

thành công”.
NS: Cáp Trọng Biên 4
Bài soạn triết học lớp cao hoc QTKD 5
Nhân là phạm trù cao nhất của luân lý, đạo đức, là phạm trù trung tâm trong học
thuyết đạo đức – chính trị của nho giáo. Nhân tùy thuộc vào phẩm hạnh, năng lực, hoàn
cảnh mà thể hiện. Trong xã hội luôn tồn tại hai hạng người đối lập nhau: quân tử - tiểu
nhân về chính trị, luân lý, đạo đức: “ Kẻ quân tử bất nhân thì cũng có, nhưng chưa bao
giờ lại có kẻ tiểu nhân lại có nhân cả”.
b. Thuyết về “ Lễ”:
Lễ đóng vai trò quan trọng nhất trong đời sống đạo đức và lối sống chính trị. Lễ theo
quan niệm của khổng tử vừa là nghĩa lễ vừa là tế lễ, vừa là thể chế chính trị vừa là quy
phạm đạo đức. Theo nghĩa rộng chữ lễ đã định ở trên, thì tác dụng của lễ có hể chia ra
làm bốn chủ đích như: là để hàm dưỡng tính tình, là để giữ những tình cảm cho thích hợp
đạo trung, là định lẽ phải trái và là tiết chế cái thường tình của con người.
Như vậy lễ là sự tôn trong lẫn nhau, ý nghĩa sâu xa của chữ lễ là cách đối nhân xử thế
trong đạo làm người, trong đó có cách đối xử kính cẩn với người khác và hàm dưỡng tinh
thần cho chính mình. Khổng tử nói : “ điều gì không phải thì đừng nhìn, không phải lễ thì
đừng nghe, không phải lễ thì đừng nói, không phải lễ thì đừng làm”.
Trong nho giáo, Nhân và Lễ không tách rời nhau, chúng có quan hệ mật thiết với
nhau. Nhân là nội dung, lễ là hình thức, lễ biểu hiện của nhân . Vì vậy, không thể người
có tính nhân mà vô lễ được. Khổng tử nói: “ Một ngày biết nén mình theo lễ thì thiên hạ
sẽ quay mình về nhân vậy”.
c. Thuyết về “ Chính danh”:
Khổng tử cho rằng thiên hạ bị rối loạn vì vua không ra vua, tôi không ra tôi, cha
không ra cha, con không ra con, …. Từ đó ông đưa ra học thuyết “ Chính danh định
phận” làm căn bản cho việc định quốc.
Chính danh là danh ( tên gọi, chức vụ, địa vị, thứ bậc, …) và phận ( phận sự, nghĩa
vụ, quyền lợi ) phải phù hợp với nhau. Danh không phù hợp là loạn danh. Danh và phận
của một người trước hết là do những mối quan hệ xã hội quy ( ngũ luân ( tam cương ),
ngũ thường ). Để chính danh, nho giáo không dung pháp trị mà dung đức trị, dung luân lý

đạo đức điều hành xã hội.
Ý nghĩa sâu xa của chính danh thường thể hiện ở mặt dụng với ba khía cạnh: trước
hết là phân biệt cho đúng với tên gọi. Mỗi sự vật cũng như con người phải thể hiện đúng
bản tính của mình, mỗi cái tên bao hàm thái độ, trách nhiệm, bổn phận … để thực hiện
bản tính vốn có của nó.Thứ hai, phân biệt cho đúng danh phận, ngôi vị. Thứ ba, danh
mang tính phê phán khẳng định chân lý, phân biệt đúng, sai, tốt, xấu, …
3.2 Trình bày suy nghĩ của mình về sử dụng cán bộ hiện nay ở nước ta.
( Phần này anh chi tự soạn, vì mỗi người phải có quan điểm riêng, không ai
giống ai được )

CHƯƠNG V : CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG – CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA
THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC.
Câu 4 : Phân tích nội dung và bản chất của Chủ nghĩa duy vật biện chứng
(CNDVBC) với tính cách là hạt nhân lý luận của Thế gới quan khoa học (TGQKH).
Trong các nội dung anh chi tâm đắc nội dung nào nhất vì sao?
NS: Cáp Trọng Biên 5
Bài soạn triết học lớp cao hoc QTKD 6
4.1 Nội dung: Có 2 nhóm quan điểm:
Quan điểm duy vật về thế giới:
Tồn tại của thế giới là tiền đề thống nhất thế giới: Trước khi thế giới có thể là
một thể thống nhất thì trước hết thế giới phải tồn tại. Tính thống nhất thật sự của thế giới
là ở tính vật chất của nó, tính vật chất này được chứng minh bằng một sự phát triển lâu
dài và khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên.
 Nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới, có nội dung như sau:
 Thế giới vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn, vô hạn, vô tận.
 Trong thế giới vật chất chỉ tồn tại các quá trình vật chất cụ thể, có mức độ
tổ chức nhất định; đang biến đổi chuyển hóa lẫn nhau là nguồn gốc, nguyên nhân của
nhau; cùng chịu sự chi phối bởi các quy luật khách quan của TGVC.
 Ý thức, tư duy con người chỉ là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ
chức cao; thế giới thống nhất và duy nhất.

 Phạm trù vật chất: vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác.
 Phạm trù ý thức, quan hệ giữa ý thức và vật chất: Ý thức của con người tồn tại
trước hết trong bộ óc con người, sau đó thông qua thực tiễn lao động nó tồn tại trong các
vật phẩm do con người sáng tạo ra. Ý thức gồm nhiều yếu tố: tri thức, tình cảm, niềm tin,
ý chí… trong đó tri thức và tình cảm có vai trò rất quan trọng. Thông qua hoạt động thực
tiễn, ý thức con người xâm nhập vào hiện thực vật chất tạo nên sức mạnh tinh thần tác
động lên thế giới góp phần biến đổi thế giới.
Quan điểm duy vật về xã hội:
 Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên, nó là kết quả phát triển lâu dài của tự
nhiên, có quy luật vận động, phát triển riêng, sự vận động, phát triển của xã hội phải
thông qua hoạt động thực tiễn.
 Sản xuất vật chất là cơ sở đời sống xã hội: Nền sản xuất vật chất trong từng giai
đoạn lịch sử gắn liền với một phương tiện sản xuất nhất định, sự thay đổi PTSX sẽ làm
thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội.
 Sự phát triển của xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên, là lịch sử phát triển các hình
thái kinh tế xã hội một cách đa dạng nhưng thống nhất từ thấp đến cao, mà thực chất là
lịch sử phát triển của xã hội.
LLSX ↑→ QHSX ↑→PTSX ↑→(CSHT + KTTT) ↑→HTKTXH ↑
 Quần chúng nhân dân (QCND) là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử: QCND
là lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, sáng tạo ra mọi giá trị tinh thần, quyết
định thành bại của mọi cuộc cách mạng. Vai trò chủ thể QCND biểu hiện khác nhau ở
những điều kiện lịch sử khác nhau và ngày càng lớn dần; sức mạnh của họ chỉ được phát
huy khi họ được hướng dẫn, tổ chức, lãnh đạo.
4.2. Bản chất của CNDVBC:
 CNDVBC đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm thực tiễn:
CNDV cũ thiếu quan điểm thực tiễn, máy móc → không thấy được tính năng động của ý
thức; riêng CNDVBC khẳng định vật chất có trước và quyết định ý thức; trong hoạt động
thực tiễn ý thức tác động tích cực làm biến đổi hiện thực vật chất theo nhu cầu của con

người.
 CNDVBC đã thống nhất TGQDV với phép biện chứng: CNDV cũ mang nặng
tính siêu hình, PBC được nghiên cứu trong hệ thống triết học duy tâm Æ Mác cải tạo
NS: Cáp Trọng Biên 6
Bài soạn triết học lớp cao hoc QTKD 7
CNDV cũ, giải thoát PBC ra khỏi tính thần bí, tư biện Æ xây dựng nên
CNDVBC; thống nhất giữa TGQDV với PBC.
 CNDVBC là CNDV triệt để; nó không chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên mà còn
trong lĩnh vực xã hội. CNDVLS là cống hiến vĩ đại của C.Mác cho kho tàng tư tưởng của
loài người: CNDV cũ không triệt để; CNDV lịch sử ra đời là kết quả vận dụng CNDV
vào nghiên cứu lĩnh vực xã hội, tổng kết lịch sử, kế thừa có phê phán toàn bộ tư tưởng xã
hội trên cơ sở khái quát thực tiễn mới của giai cấp vô sản. Với CNDVLS nhân loại tiến
bộ có được một công cụ vĩ đại trong nhận thức, cải tạo thế giới.
 CNDVBC mang tính thực tiễn - cách mạng, nó hướng dẫn con người trong hoạt
động thực tiễn cải tạo thế giới:
 CNDVBC là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản: Lợi ích giai cấp vô sản
phù hợp lợi ích nhân loại tiến bộ, được luận chứng bằng những cơ sở lý luận khoa học →
CNDVBC trở thành hệ tư tưởng của giai cấp vô sản có sự thống nhất tính khoa học và
tính cách mạng.
 CNDVBC không chỉ giải thích thế giới mà còn góp phần cải tạo thế giới.
 CNDVBC khẳng định sự tất thắng của cái mới: nó xóa bỏ cái cũ lỗi thời,
xây dựng cái mới tiến bộ.
 CNDVBC là một hệ thống mở, là kim chỉ nam cho mọi hành động.
Câu 5: Anh ( chị) hảy phân tích cơ sở lý luận, nêu ra các yêu cầu phương pháp luận
của nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đảng Cộng Sản Việt
Nam đã vận dụng như thế nào vào sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta?
* Cơ sở lý luận :
Nguyên tắc khách quan trong xem xét được xây dựng dựa trên nội dung của
nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới. Yêu cầu của nguyên tắc này
được tóm tắt như sau :khi nhận thức khách thể (đối tượng), sự vật, hiện tượng tồn

tại trong hiện thực – chủ thể tư duy phải nắm bắt, tái hiện nó trong chính nó mà
không được thêm hay bớt một cách tùy tiện .
- Vật chất là cái có trước tư duy. Vật chất tồn tại vĩnh viễn và ở một giai
đọan phát triển nhất định của mình nó mới sản sinh ra tư duy. Do tư duy phản ánh
thế giới vật chất, nên trong quá trình nhận thức đối tượng ta không được xuất phát
từ tư duy, từ ý kiến chủ quan của chúng ta về đối tượng.mà phải xuất phát từ chính
bản thân đối tượng, từ bản chất của nó, không được ”bắt” đối tượng tuân theo tư
duy mà phải “bắt” tư duy tuân theo đối tượng. Không ép đối tượng thỏa mãn một
sơ đồ chủ quan hay một “Lôgíc” nào đó, mà phải rút ra những sơ đồ từ đối tượng,
tái tạo trong tư duy các hình tượng, tư tưởng- cái lôgíc phát triển của chính đối
tượng đó.
- Toàn bộ “nghệ thuật” chinh phục bản chất của sự vật, hiện tượng được gói
ghém trong sự tìm kiếm, chọn lựa, sử dụng những con đường, cách thức, phương
tiện thâm nhập hữu hiệu vào “thế giới” bên trong của sự vật. “nghệ thuật” chinh
phục như thế không mang đến cho sự vật, hiện tượng một cái gì đó xa lạ với chính
nó. Điều này đặt ra cho chủ thể một tình thế khó khăn. Làm như thế nào để biết
chắc chắn những suy nghĩ của chúng ta về sư vật là khách quan, là phù hợp với
bản thân sự vật? Nguyên tắc khách quan đòi hỏi được bổ sung thêm yêu cầu phát
huy tính năng động sáng tạo của chủ thể và nguyên tắc tính đảng .
NS: Cáp Trọng Biên 7
Bài soạn triết học lớp cao hoc QTKD 8
- Giới tự nhiên và xã hội không bao giờ tự phơi bày tòan bộ bản chất của
mình ra thành các hiện tượng điển hình. Con người không phải chỉ nhận thức
những cái gì bộc lộ ra trước chủ thể. Do đó để phản ánh khách thể như một chỉnh
thể, chủ thể tư duy không thể không bổ sung những yếu tố chủ quan như đề xuất
các giả thuyết, đưa ra các dự đóan khoa học ….Thiếu những điều này tư duy sẽ
không mang tính biện chứng, sẽ không thể hiện bản tính sáng tạo thông qua trí
tưởng tượng của chính mình. Yêu cầu phát huy tính năng động sáng tạo của chủ
thể đòi hỏi chủ thể tư duy phải biến đổi, thậm chí cải tạo đối tượng để tìm ra bản
chất của nó. Những biến đổi, cải tạo đó là chủ quan nhưng không phải tùy tiện, mà

là những biến đổi và cải tạo đối tượng phù hợp quy luật của hiện thực thuộc lĩnh
vực nghiên cứu.
- Yêu cầu khách quan trong xem xét có ý nghĩa rất quan trọng trong nhận
thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội. Đối tượng nghiên cứu bao gồm cái vật
chất và cái tinh thần chứa đầy những cái chủ quan, những cái lý tưởng và luôn
chịu sự tác động của các lực lượng tự phát của tự nhiên lẫn lực lượng tự giác (ý
chí, lợi ích, mục đích, nhân cách, cá tính khác nhau) của con người. Ở đây đối
tượng, khách thể tư duy quyện chặt vào chủ thể tư duy bằng hệ thống những mối
liên hệ chằng chịt. Do đó cần phải cụ thể hóa nguyên tắc khách quan trong xem
xét các hiện tượng xã hội, tức là phải kết hợp nó với các yêu cầu phát huy tính
năng động, sáng tạo của chủ thể và nguyên tắc tính đảng. Điều này có nghĩa là
nguyên tắc khách quan trong xem xét không chỉ bao hàm yêu cầu xuất phát từ
chính đối tượng, từ những quy luật vận động và phát triển của nó, không được
thêm bớt tùy tiện chủ quan, mà nó còn phải biết phân biệt những quan hệ vật chất
với những quan hệ tư tưởng, các nhân tố khách quan với các nhân tố chủ quan,
thừa nhận các quan hệ vật chất khách quan tồn tại xã hội là nhân tố quyết định.còn
những hiện tượng tinh thần, tư tưởng được quy định bởi đời sống vật chất của con
người và các quan hệ kinh tế của họnhưng chúng có ảnh hưởng ngược lại tồn tại
xã hội. Phải coi xã hội là một là một cơ thể sống tồn tại và phát triển không ngừng
chứ không phải là cái gì đó kết thành một cách máy móc. Phân tích một cách
khách quan những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái kinh tế xã hội nhất
định và cần phải nghiên cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình thái
xã hội đó.
- Khi nhận thức các hiện tượng xã hội chúng ta phải chú trọng đến mức độ
quan tâm và năng lực nhận thức của các lực lượng xã hội đối với việc giải quyết
các vấn đề xã hội, đối với khuynh hướng phát triển của các hiện tượng xã hội, đối
với việc đánh giá tình hình xã hội … những đánh giá có giá trị hơn, những cách
giải quyết đúng hơn thường là những đánh giá, những cách giải quyết thuộc về các
lực lượng xã hội biết đứng trên lập trường của giai cấp tiên tiến, của những lực
lượng cách mạng của thời đại đó. Vì vậy tính khách quan trong xem xét các hiện

tượng xã hội nhất quán với nguyên tắc tính đảng. Việc xem thường nguyên tắc này
dễ dẫn đến vi phạm yêu cầu của nguyên tắc khách quan trong xem xét, dễ biến nó
thành chủ nghĩa khách quan, cản trở việc nhận thức đúng đắn các hiện tượng xã
hội phức tạp.
NS: Cáp Trọng Biên 8
Bài soạn triết học lớp cao hoc QTKD 9
* Những yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc khách quan trong xem xét:
Nguyên tắc khách quan trong xem xét có mối liên hệ mật thiết với các
nguyên tắc khác của lôgíc biện chứng. Nó thể hiện ở yêu cầu cụ thể sau:
 Trong hoạt động nhận thức, Chủ thể phải:
- Một là: Xuất phát từ hiện thực khách quan, tái hiện lại nó như nó vốn có
mà không được tùy tiện đưa ra những nhận định chủ quan.
- Hai là: Phải biết phát huy tính năng động, sáng tạo của chủ thể, đưa ra các
giả thuyết khoa học có giá trị về khách thể, đồng thời biết cách tiến hành kiểm
chứng các giả tuyết đó bằng thực nghiệm.
 Trong hoạt động thực tiễn, Chủ thể phải :
- Một là: Xuất phát từ hiện thực khách quan, phát hiện ra những quy luật
chi phối nó.
- Hai là: Dựa trên các quy luật khách quan đó, chúng ta vạch ra các mục
tiêu, kế họach, tìm kiếm các biện pháp, phương thức để tổ chức thực hiện. Kịp thời
điều chỉnh, uốn nắng họat động của con người đi theo lợi ích và mục đích đã đặt
ra.
Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức có nghĩa là phát huy vai trò tri
thức, tình cảm, ý chí, lý trí… tức là phát huy vai trò nhân tố con người trong họat
động nhận thức và họat động thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan, vươn lên làm
chủ thế giới.
* Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng như thế nào vào sự nghiệp cách mạng
của Việt Nam:
Phải tôn trọng hiện thực khách quan, tôn trọng vai trò quyết định của vật
chất. Cụ thể là:

- Xuất phát từ hiện thực khách quan của đất nước, của thời đại để họach
định các đường lối, chiến lược, sách lược nhằm xây dựng và phát triển đất nước.
- Biết tìm kiếm, khai thác và sử dụng những lực lượng vật chất để hiện thực
hóa đường lối, chiến lược, sách lược nhằm xây dựng và phát triển đất nước.
- Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, coi đại đòan kết tòan dân tộc
là động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Biết kết hợp hài hòa các lợi ích khác
nhau (lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, lợi ích cá
nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội ) thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy công cuộc
đổi mới.
- Đảng ta rút ra những bài học kinh nghiệm từ những sai lầm, thất bại trước
đổi mới, Đảng ta kết luận: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ
thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”.
Biết phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của các
yếu tố chủ quan (tri thức, tình cảm…) tức phát huy vai trò nhân tố con người trong
họat động nhận thức và thực tiển:
- Coi sự thống nhất giữa tình cảm (nhiệt tình cách mạng, lòng yêu nước, ý
chí quật cường…) và tri thức (kinh nghiệm dựng nước và giữ nước, hiểu biết khoa
học) là động lực tinh thần thúc đẩy công cuộc đổi mới. Chống lại thái độ ỷ lại, trì
trệ, chỉ biết làm theo cách cũ mà không biết dũng cảm làm theo cái mới, biết khơi
NS: Cáp Trọng Biên 9
Bài soạn triết học lớp cao hoc QTKD 10
dậy lòng yêu nước, ý chí quật cường… phải phổ biến tri thức khoa học, công nghệ
hiện đại cho đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân, biết nâng cao dân trí, đào
tạo và bồi dưỡng nhân tài.
- Coi trọng công tác tư tưởng, đẩy mạnh giáo dục tư tưởng. Đặc biệt là giáo
dục chủ nghĩa Mác –Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho đông đảo người Việt
Nam chúng ta. Phải nâng cao và đổi mới tư duy lý luận mà trước hết là chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Kiên quyết khắc phục và ngăn ngừa tái diễn bệnh chủ quan, duy ý chí,lối
suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng

mà bất chấp quy luật khách quan, coi thường tình hình thực tế.
III.NHỮNG NGUYÊN TẮC PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA
DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ VIỆC VẬN DỤNG NÓ VÀO SỰ NGHIỆP CÁCH
MẠNG Ở VIỆT NAM. ( thêm)
1.Tôn trọng khách quan.
Tôn trọng khách quan là tôn trọng vai trò quyết định của vật chất. Điều này đòi hỏi con
người trong nhận thức và hành động của mình phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy
khách quan làm cơ sở, phương tiện cho hành động của mình.
Một số biểu hiện của việc tôn trọng khách quan là:
-Mục đích, đường lối, chủ trương con người đặt ra không được xuất phát từ ý muốn chủ
quan mà phải xuất phát từ hiện thực, phản ánh nhu cầu chín muồi và tính tất yếu của đời
sống vật chất trong từng giai đoạn cụ thể.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, việc nhận định đúng thời cơ cách mạng để phát động quần
chúng nổi dậy giành thắng lợi quyết định cho cách mạng là vấn đề hết sức quan trọng.
Nếu phát động sớm, không đúng thời cơ, cách mạng sẽ gặp nhiều khó khăn, chiu nhiều
tổn thất, nhưng trái lại nếu bỏ lỡ thời cơ lại là lỗi lầm lịch sử nguy hại cho cách mạng.
Thời cơ có thể do hoàn cảnh bên ngoài đưa lại mang nhiều yếu tố bất ngờ; song nó phải
được xem xét trong tương quan lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng ở trong
nước. Một trong những bài học kinh nghiệm về phương pháp cách mạng của Đảng ta là
nắm vũng phương châm chiến lược lâu dài, đồng thời biết tạo thời cơ và nắm vững thời
cơ mở những cuộc tiến công chiến lược làm thay đổi cục diện chiến tranh, tiến lên thực
hiện tổng tiến công và nổi dậy đè bẹp quan địch giành thắng lợi cuối cùng.
Trong khoảng 10 năm sau khi thống nhất đất nước, bên cạnh những thành tực đã đạt
được, chúng ta nôn nóng, tách rời hiện thự, vi phạm nhiều quy luật khách quan trong đó
quan trọng nhất là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, nên đã phạm những sai lầm trong việc xác định mục tiêu, xác định
các bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế.
Hiện nay thực trạng trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta còn thấp; cơ sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội chưa đủ, chưa vững chắc, đời sống của nhân dân chưa cao,
trong khi chúng ta còn nhiều tiềm năng cả về tài nguyên thiên nhiên, con người cũng như

các quan hệ trong và ngoài nước mà chúng ta chưa khai thách một cách tốt nhất thì việc
Đảng và Nhà nước chủ trương thực hiện công ngh hoá, hiện đạ hoá; thực hiện chủ trương
nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là nhằm phát huy tối ưu tài lực, trí lực, nhân lực còn tiềm tàng ấy, nhằm tạo ra sự
chuyển hoá về chất trong toàn bộ đời sống xã hội để đáp ứng nhu cầu thực tiễn cách
mạng Việt Nam đang đặt ra.
-Khi đã có mục đích, đường lối, chủ trương đúng, phải tổ chức được lượng vật chất để
NS: Cáp Trọng Biên 10
Bài soạn triết học lớp cao hoc QTKD 11
thực hiện nó.
Mục đích, đường lối, chủ trương thuộc lĩnh vực tư tưởng. Tự bản thân tư tưởng không thể
trở thành hiện thực mà phải thông qua hoạt động của con người. Mặt khác, khi lịch sử đặt
ra cho con người những nhiệm vụ phải giải quyết thì nó cũng đã sản sinh ra những điều
kiện vật chất để giải quyết nhiệm vụ đó nên vấn đề trọng yếu trước tiên, quyết định con
người thành công hay thất bại là con người có tìm ra, có huy dộng được, có tổ chức được
những yếu tố vật chất thành lực lượng vật chất để thực hiện mục đích, đường lối, chủ
trương của mình hay không.
Thời kỳ chiến tranh, chúng ta rất thành công trong việc huy động, tổ chức sức mạnh của
mỗi người, mỗi vùng, sức mạnh của cả nước, sức mạnh trong và ngoài nướx, sức mạnh
quá khứ và tương lai tạo nên một lực lượng vật chất khổng lồ của chiến tranh nhân dân,
đánh bại những thế lực hơn chúng ta nhiều lần về tiềm lực kinh tế và quân sự để bảo vệ
độc lập, chủ quyền hoàn toàn thống nhất đất nước.
Ngày nay với quan điểm cách mạng là sự nghiệp của toàn dân, chúng ta xác định:” động
lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công
nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập
thể và xã hội phát huy mọi tiềm năng và mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế và của
toàn xã hội” chúng ta kêu gọi kiều bào ở nước ngoài về xây dựng đất nước và bằng chứng
là đã có rất nhiều kiều bào ta ở nước ngoài đã trở về quê hương để kinh doanh góp phần
xây dựng và phát triển đất nước. Đây chính là tạo lực lượng vật chất để thực hiện nhiệm
cách mạng trong giai đoạn mới.

2.Phát huy tính năng động chủ quan.
Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý
thưc và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa những tính chất ấy.
Một số biểu hiện cơ bản:
-Phải tôn trọng tri thức khoa học.
Tri thức khoa học là tri thức chân thực về thế giới được khái quát từ thực tiễn và được
thực tiễn kiểm nghiệm. Tri thức khoa học giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống
con người vì nó là một trong những động lực phát triển xã hội. Mọi bước tiến trong lịch
sử nhân loại đều gắn liền với những thành tựu mới của tri thức khoa học.
Tri thức khoa học thể hiện trong các khoa học khác nhau phản ánh những lĩnh vực khác
nhau của thế giới, song bản thân các lĩnh vực khác nhau này không tồn tại cô lập, tách rời
nhau nên tri thức khoa học phản ánh chúng không cô lập, tách rời nhau. Việc phân chia
khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ, khoa học xã hội, khoa học nhân văn hay khoa
học cơ bản, khoa học ứng dụng, v.v. chỉ có tính tương đối. Vì vậy tôn trọng tri thức khoa
học không chỉ là chống sự tuyệt đối hóa vai trò của kinh nghiệm, xem thường khoa học
mà còn là không tuyệt đối hóa một loại khoa học nào trong hệ thống các khoa học. Đây là
tiền đề giúp con người không chỉ hoạt động có hiệu quả trong ngành nghề của mình mà
còn giúp con người thực hiện hoạt động ấy theo những giá trị nhân văn của xã hội.
Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của khoa học, đối với cách mạng Việt Nam, Đảng
và nhà nước ta khẳng định:” Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc
sách hàng đầu”; trong đó, “nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có
tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng” nhằm “đào tạo con người toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe,
thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng đậc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
NS: Cáp Trọng Biên 11
Bài soạn triết học lớp cao hoc QTKD 12
hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu
cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đối với khoa học, Đảng và Nhà nước chủ trương “thực
hiện cơ chế kết hợp chặt chẽ giữa khoa học xã hội và nhân văn với khoa học tự nhiên,
khoa học công nghệ… phát huy tính sáng tạo, tính dân chủ trong hoạt động khoa học và

công nghệ. Đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ trí thức, trọng dụng và tôn
vinh nhân tài, kể cả người Việt Nam ở nước ngoài. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận
lợi mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ, thu hút chuyên gia giỏi
của thế giới đóng góp vào sự phát triển của đất nước bằng nhiều hình thức thích hợp”.
-Phải làm chủ tri thức khoa học và truyền bá tri thức khoa học vào quần chúng để nó trở
thành tri thức, niềm tin định hướng cho quần chúng hành động.
Từ tôn trọng khoa học đến làm chủ khoa học là cả một quá trình. Nó liên quan đến quan
niệm của con người về khoa học mà còn liên quan đến năng lực, nghị lực, quyết tâm của
con người và những điều kiện vật chất để thực hiện nó. Mặt khác sức mạnh và hiệu quả
của tri thức khoa học phụ thuộc vào mức độ thâm nhập của nó vào quần chúng, nên sự
thâm nhập này trở thành một trong những điều kiện trực tiếp để phát huy vai trò nhân tố
con người trong hoạt động vật chất hóa tri thức.
Ở nước ta hiện nay, việc khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát
huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu,
việc đầu tư có trọng điểm trong hệ thống giáo dục và nghiên cứu khoa học; việc chủ
trương xã hội hoá giáo dục, cả nước trở thành cả một xã hội học tập, chủ trương sử dụng
tối ưu những phương tiện thông tin đại chúng cũng như đa dạng hóa các hình thức tuyên
truyền; việc động viên các nhà khoa học bám sát cơ sở sản xuất, hướng dẫn nhân dân
nắm bắt và làm chủ những tri thức mới về khoa học và công nghệ mà Đảng, Nhà nước và
toàn dân đang tiến hành là những hoạt động sống động về việc phát huy tính năng động
chủ quan phù hợp với yêu cầu và điều kiện của xã hội hiện tại.
Câu 6: Đảng ta khẳng định: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất
phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Anh chị hãy chỉ ra và phân
tích cơ sở triết học của khẳng định đó?
Trả lời:
Ở Việt Nam, do bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ & hành động giản
đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng đã xuất hiện trước Đổi
mới có nguyên nhân và gây ra tác hại lớn.
Xuất phát từ hiện thực khách quan của nước ta yếu kém về năng lực tư duy,
lạc hậu về lý luận, ít kinh nghiệm trong xây dựng và quản lý đất nước; Đồng thời

do sai lầm ấu trĩ “tả” khuynh, xảy ra trong một điều kiện lịch sử rất đặc biệt của
dân tộc ta (Biết phát huy tối đa sức mạnh tinh thần, khao khát thoát ra khỏi cuộc
sống lầm than, nô lệ ) nhưng lại không xuất phát từ hiện thực, bất chấp quy luật,
coi thường tri thức KH,… Nên tạo ra những chính sách sai lầm, gây ra những hậu
quả về nhiều mặt (kinh tế, xã hội…) rất nghiêm trọng & kéo dài.
Để có thể khắc phục triệt để chủ nghĩa chủ quan phải quán triệt thực hiện
nguyên tắc khách quan. Vì nguyên tắc khách quan là nguyên tắc đầu tiên của tư
duy biện chứng, Vận dụng nguyên tắc khách quan kết hợp với chủ quan trong hoạt
động nhận thức sẽ tránh được những sai lầm trong chính sách phát triển đất nước.
Trên cơ sở quy luật khách quan đó, Đảng ta khẳng định “Mọi đường lối chủ
trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Để làm
NS: Cáp Trọng Biên 12
Bài soạn triết học lớp cao hoc QTKD 13
được điều đó Phải tôn trọng hiện thực kh.quan, tôn trọng vai trò quyết định của
VC, tức:
 Xuất phát của hiện thực kh.quan của đất nước, của thời đại để hoạch
định chiến lược, sách lược phát triển đất nước;
 Biết tìm kiếm, khai thác, tổ chức những lực lượng vật chất (cá nhân – cộng
đồng, kinh tế – quân sự, trong nước – ngoài nước, quá khứ – tương lai,…) để hiện
thực hóa chúng.
 Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; Coi đại đoàn kết toàn dân tộc
là động lực chủ yếu phát triển đất nước. Biết kết hợp hài hòa các dạng lợi ích khác
nhau (kinh tế, chính trị, tinh thần, ; cá nhân, tập thể, xã hội) thành động lực thúc
đẩy công cuộc đổi mới
Đồng thời phải phát huy tính năng động, sáng tạo của YT, ph.huy vai trò của các
yếu tố chủ quan (t.thức, t.cảm, ý chí, lý trí, ), tức ph.huy vai trò nhân tố CN trong
h.động nhận thức & thực tiễn cải tạo đất nước. Cụ thể:
 Coi sự thống nhất nhiệt tình CM & tri thức KH là động lực tinh thần
thúc đẩy công cuộc Đổi mới; Chống lại thái độ thụ động, ỷ lại, bảo thủ trì trệ; Bồi
dưỡng nhiệt tình, phẩm chất cách mạng; Khơi dậy lòng yêu nước, ý chí quật

cường, tài trí người Việt Nam,…
 Coi trọng công tác tư tưởng, đẩy mạnh giáo dục tư tưởng (chủ nghĩa
Mác–Lênin, tư tưởng HCM); Nâng cao và đổi mới tư duy lý luận (về CNXH &
con đường đi lên CNXH);
 Phổ biến tri thức KH cho cán bộ, đảng viên, nhân dân.
 Kiên quyết khắc phục & ngăn ngừa tái diễn bệnh chủ quan, duy ý
chí, lối suy nghĩ, hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan
ảo tưởng; bất chấp quy luật khách quan.
CHƯƠNG VI : PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT PHƯƠNG PHÁP LUẬN NHẬN
THỨC KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN.
Câu 7: Những nội dung cơ bản của phép biến chứng duy vật ? việc vận dụng
những nội dung này sẽ khắc phục những hạn chế gì trong hoạt động nhận
thức và trong hoạt động thực tiễn?
7.1 Phân tích nội dung, ý nghĩa nguyên lý mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự
phát triển.
a. Nguyên lý mối liên hệ phổ biến :
Khái niệm : Mối liên hệ là phạm trù triết học dung để chỉ sự quy định, sự tác động qua
lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật ,
của một hiện tượng trng thế giới.
Tính chất:
Mọi mối liên hệ của sự vật hiện tượng là khách quan, là vốn có của sự vật hiện
tượng. Tuy nhiên mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan, mà nó còn mang tính phổ
biến. Tính phổ biến mối liên hệ thể hiện:
+ Thứ nhất, bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng khác.
Không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại ngày này không
một quốc gia nào không có quan hệ, không có liên hệ với các quốc gia khác về mọi mặt
NS: Cáp Trọng Biên 13
Bài soạn triết học lớp cao hoc QTKD 14
đời sống xã hội. Chính vì thế hiện nay trên thế giới đã và đang xuất hiện xu hướng toàn
cầu hóa, khu vực hóa, khu vực hóa moi mặt đời sống xã hội. Nhiều vấn đề đã và đang trở

thành vấn đề toàn cầu như: đói nghèo, bệnh hiểm nghèo, môi trường sinh thái …
+ Thứ hai, mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể tùy theo
điều kiện nhất định. Song, dù dưới hình thức nào, chúng cũng chỉ là biểu hện của mối
liên hệ phổ biến nhất, chung nhất. Những hình thức liên hệ riêng rẽ, cụ thể được các nhà
khoa hoc cụ thể nghiên cứu. Phép biện chứng duy vật chỉ nghiên cứu những mối liên hệ
chung nhất, bao quát nhất thế giới. Bởi thế ăng ghen viết : “ Phép biện chứng là khoa học
về sự liên hệ phổ biến”. Cùng với những lý do nêu trên, triết học gọi mối liện hệ đó là
mối liên hệ phổ biến. Nghiên cứu mối liên hệ của sự vật, hiện tượng trng thế giới còn
thấy rõ tính đá dạng, nhiều vẻ của nó. Nhờ vào tính đa dạng đó có thể phân chia ra các
mối liên hệ khác nhau theo từng cặp: Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, mối
liên hệ chủ yếu và mối liên hệ tứ yếu, mối liên hệ bản chất và mối liên hệ ko bản chất,
mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên, mối liên hệ chug bao quát toàn bộ thế
giới và mối liên hệ riêng bao quát một lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực của thế giới, mối
liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp, trong sự tác động qua lại phải thông qua trung
gian mới thực hiện được, mối liên hệ giữa các sự vật và mối liên hệ giữa các mặt hay
giữa các giai đoạn phát triển của sự vật để tạo thành lịch sử phát triển của sự vật.
Phân loại :
Mỗi loại mối liên hệ nêu ra trên đây có vai trò khác nhau đối với sự vận động và
phát triển của sự vật
Mối liên hệ bên trong là sự tác động qua lại, sự quy định sự chuyển hóa lẫn nhau
giửa các yếu tố, các thuộc tính các mặt của sự vật. Mối liên hệ này giữ vai trò quyết định
tới sự tồn tại và phát triển của sự vật . Mối liên hệ bên ngoài là là mối lên hệ giữa các sự
vật, hiện tượng. Mối liên hệ này nói chung không giữ vai trò quyết định đối với sự tồn
tại, sự vận động và phát triển của sự vật. Nó thường thông qua mối liên hệ bên trong mới
có thể tác động đối với sự tồn tại, sự vận động và sự phát triển của sự vật.
Mối liên hệ bản chất và không bản chất, mối liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên cũng co
tính chất tương tự như nêu trên, ngoài ra chúng còn có những nét đặc thù. Chẳng hạn cái
là ngẫu nhiên khi xem xét trong quan hệ này lại là tất nhiên, khi xem xét trong một mối
quan hệ khác ; ngẫu nhiên lại là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của cái tất yếu, hiệ
tượng là hình thức biểu hiện ít nhiều đầy đủ của bản chất. Đó là những hình thức đặc thù

của sự biểu hiện những mối liên hệ tư tưởng.
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật hiện tượng
chúng ta cần rút ra quan điểm toàn diện trong việc nhận thức, xem xét các sự vật và hiện
tượng cũng như trong hoạt động thực tiễn. Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phân
tích về sự vật phải đặt nó trong mối quan hệ với sự vật khác. Đồng thời phải nghiên cứu
tất cả những mặt, những yếu tố, những mối liên hệ vốn có của nó. Qua đó có thể xác định
được mối liên hệ bên trong, bản chất, … để từ đó có thể nắm được bản chất, quy luật của
sự vật và hiện tượng.
Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi khi nghiên cứu vật phải thấy sự tồn tại vận động
và phát triển của bản thân các sự vật, hiện tượng là một quá trình có tính giai đoạn, tính
lịch sử cụ thể. Cho nên khi phân tích tính toàn diện về các mối liên hệ của các sự vật phải
đặt nó trong mối quan hệ cụ thể, với những điều kiện lịch sử cụ thể của các mối quan hệ
đó.
b. Nguyên lý về sự phát triển :
NS: Cáp Trọng Biên 14
Bài soạn triết học lớp cao hoc QTKD 15
Khái niệm : Phát triển là một phạm trù triết học dung để khái quát quá trình vận động
tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn
Tính chất:
Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì, theo quan điểm duy vật
biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là quá trình
giải quyết lien tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận động sự vật. Nhờ đó
sự vật luôn luôn phát triển. Vì thế sự phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc
vào ý muốn nguyện vọng, ý chí, ý thức của con người. Dù con người có muốn hay không
muốn, sự vật vẫn luôn phát triển theo khuynh hướng chung của thế giới vật chất.
Sự phát triển mang tính phổ biến. Tính phổ biến của sự phát triển được hiểu là nó
diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy, ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế
giới khách quan. Ngay cả các khái niệm, các phạm trù phản ánh hiện thực cũng nằm
trong quá trình vận động và phát triển, hoặc đúng hơn, mọi hình thức của tư duy cũng
luôn phát triển. Chỉ trên cơ sở của sự phát triển, mọi hình thức của tư duy, nhất là các

khái niệm, các phạm trù, mới có thể phản ánh đúng đắn hiện thực luôn vận động và phát
triển.
Ngoài tính khách quan và tính phổ biến, sự phát triển còn có tính đa dạng, phong
phú. Khung hướng phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, mọi hiện tượng.
Song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau. Tồn tại ở
không gian khác nhau, ở thời gian khác nhau, sự vật phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời
trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu nhiều sự tác động của các sự vật, hiện
tượng khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện. Sự tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm
sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật,
thậm trí làm cho sự vật thụt lùi.
Phân loại và vị trí của nó:
+ Mối quan hệ bên trong và bên ngoài: bên trong chuyển hóa bên ngoài và ngược lại. Cái
nào quyết định cái nào, cái nào có trước cái nào có sau.
+ Mối quan hệ Trực tiếp và gián tiếp : tùy mối quan hệ mà sử dụng hình thức trực tiếp
hay gián tiếp.
+ Mối quan hệ cơ bản và không cơ bản
+Mối quan hệ chủ yếu và không chủ yếu
7.2 Phân tích nội dung, ý nghĩa những cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng
duy vật.
Các mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng được phép duy vật biện chứng
khái quát thành các cặp phạm trù cơ bản như sau:
- Cặp phạm trù Cái chung - cái riêng - cái đơn nhất
- Cặp phạm trù Tất nhiên - ngẫu nhiên
- Cặp phạm trù Bản chất - hiện tượng
- Cặp phạm trù Nguyên nhân - kết quả
- Cặp phạm trù Khả năng - hiện thực
- Cặp phạm trù Nội dung - hình thức
NS: Cáp Trọng Biên 15
Bài soạn triết học lớp cao hoc QTKD 16
Các cặp phạm trù này được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động nhận

thức, hoạt động cải tạo tự nhiên, xã hội.
A. Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
A.1 Khái niệm: Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng,
một quá trình riêng lẻ nhất định. Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt,
những thuộc tínhchung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn lặp đi
lặp lại trong nhiều sự vật hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác. Cái đơn nhất là phạm trù
để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính… chỉ có một sự vật, một kết cấu vật chất,
mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác.
A.2 Quan hệ biện chứng giữa “ cái riêng” “ cái chung” và cái đơn nhất.
Phép biện chứng duy vật cho rằng cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại
khách quan, giữa chúng có mối lien hệ hữu cơ với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện
sự tồn tại của mình. Nghĩa là không có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái riêng. Rõ
ràng cái chung tồn tại thực sự, nhưng không tồn tại ngoài cái riêng mà phải thông qua cái
riêng. Chẳng hạn không có cái cây nói chung tồn tại bên cạnh cây cam, cây quýt, cây đào
cụ thể. Nhưng cây cam, cây quýt, cây đào nào cũng có rễ, có thân, có lá, có quá trình
đồng hoá, dị hoá để duy trì sự sống. Những đặc tính chung này lặp lại ở những cái cây
riêng lẻ,và được phản ánh trong khái niệm “cây”. Đó là cái chung của những cái cây cụ
thể. Rõ ràng cái chung tồn tại thực sự, nhưng không tồn tại ngoài cái riêng mà phải thông
qua cái riêng.
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối lien hệ với cái chung. Nghĩa là không có
cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có lien hệ với cái chung, Ví dụ nền kinh tế
của mỗi quốc gia , dân tộc với tất cả những đặc điểm phong phú của nó là một cái riêng.
Nhưng nền kinh tế nào cũng bị chi phối bởi quy luật cung – cầu, quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với tính chất và phát triển của lực lượng sản xuất, đó là cái chung. Như vậy,
sự vật, hiện tượng riêng nào cũng bao hàm cái chung.
Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ
phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài những
đặc điểm chung. Cái riêng còn có cái đơn nhất.
Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh những thuộc tính, những

mối lien hệ ổn định, tất nhiên lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy cái chung là cái
gắn liền với bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng.
Thứ tư, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát
triển của sự vật. sở dĩ như vậy vì trong hiện thực cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ
ngay, mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng đơn nhất. Về sau theo quy luật, cái mới hoàn thiện
dần và thay thế cái cũ, trở thành cái chung, cái phổ biến. Ngưộc lại cái cũ lúc đầu là cái
chung, cái phổ biến, nhưng về sau không phù hợp với điều kiện mới nên mất dần đi trở
thành cái đơn nhất. Như vậy sự chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện
của quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ. Ngược lại sự chuyển hóa từ từ cái chung
thành thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định. Thí dụ,
sự thay đổi một đặc tính nào đấy của sinh vật trước sự thay đổi của môi trường diễn ra
bằng cách, ban đầu xuất hiện một đặc tính ở một cá thể riêng biệt. Do phù hợp với điều
kiện mới, đặc tính đó được bảo tồn, duy trì ở nhiều thế hệ và trở thành phổ biến của nhiều
cá thể. Những đặc tính không phù hợp với điều kiện mới, sẽ mất dần đi và trở thành cái
đơn nhất.
NS: Cáp Trọng Biên 16
Bài soạn triết học lớp cao hoc QTKD 17
A.2 ý nghĩa phương pháp luận.
Muốn nhận thức được cái chung, phải nghiên cứu cái riêng và ngược lại muốn
nhận thức được cái riêng, một mặt phải nghiên cứu cái đơn nhất, nhưng đồng thời cũng
phải nghiên cứu cái chung, để thấy được vai trò quyềt định của cái chung với cái riêng.
Muốn vận dụng cái chung cho từng trường hợp của cái riêng, nếu không chú ý
đến những tính cá biệt và điều kiện lịch sử và cái riêng thì cũng chỉ là nhận thức giáo
điều, áp dụng rập khuôn máy móc. Nhưng ngược lại, trong hoạt động thực tiễn nếu không
hiểu biết những nguyên lý chung phổ biến thì hoạt động của con người cũng mang tính
mù quáng, kinh nghiệm và cảm tính.
Phê phán những quan điểm phủ nhận sự tồn tại khách quan của cái chung và cái
riêng, tuyệt đối hóa cái chung hoặc cái riêng, không thấy được quan hệ biện chứng giữa
cái chung cái riêng, đó duy thực và duy danh trong triết học.
B. Nguyên nhân và kết quả

B.1 Khái niệm nguyên nhân và kết quả:
Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong sự vật hoặc
giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó. Còn kết quả là những
biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong sự vật hoặc giữa các sự vật
với nhau gây ra.
B.2 Tính chất của mối lien hệ nhân quả
Phép biện chứng duy vật khẳng định mối lien hệ nhân quả có tính khách quan,
tính phổ biến, tính tất yếu.
Tính khách quan thể hiện ở chỗ: mối lien hệ nhân quả là cái vốn có của bản thân
sự vật. Không phụ thuộc vào ý thức con người. dù con gnười biết hay không biết, thì các
sự vật vẫn tác động lẫn nhau và sự tác động đó tất yếu gây nên biến đổi nhất định.
Tính phổ biến thể hiện ở chỗ : mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên và trong xã
hội đều có nguyên nhân nhất định gây ra. Không có hiện tượng nào không có nguyên
nhân, chỉ có điều là nguyên nhân đó đã được nhận thức hay chưa mà thôi. Không nên
đồng nhất vấn đề nhận thức của con người về mối lien hệ nhân quả với vấn đề tồn tại của
mối luên hệ đó trong hiện thực.
Tính tất yếu thể hiện ở chỗ: cùng một nghuyên nhân nhất định. Trong điều kiện
giống nhau sẽ gây ra kết quả như nhau. Tuy nhiên trong thực tế không thể có sự vật nào
tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh hòan toàn giống nhau. Do vậy tính tất yếu của
mối lien hệ nhân quả trên thực tế phải được hiểu là: nguyên nhân tác động trong những
điều kiện và hòan cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì kết quả do chúng gây ra càng
giống nhau bấy nhiêu.
B.2 Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:
a. Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn luôn có trước kết
quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện.
Nguyên nhân sinh ra kết quả rất phức tạp, bởi vì nó còn phụ thuộc vào nhiều điều
kiện và hoàn cảnh khác nhau. Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Mặt
khác, một nguyên nhân trong những điều kiện khác nhau cũng có thể sinh ra những kết
quả khác nhau. VD chặt phá rừng có thể gây ra nhiều hậu quả như lũ lụt hạn hán , thay
đổi khí hậu của một vùng …, nếu nhiều nguyên nhân cùng tồn tại và tác động cùng chiều

đến sự hình thành kết quả, làm cho kết quả xuất hiện nhanh hơn. Ngược lại nếu những
nguyên nhân tác động đồng thời theo các hướng khác nhau, thì sẽ cản trở tác dụng của
nhau. Điều đó ngăn cản sự xuất hiện của kết quả. Do vậy trong hoạt động thực tiễn cần
NS: Cáp Trọng Biên 17
Bài soạn triết học lớp cao hoc QTKD 18
phải phân tích vai trò của từng loại nguyên nhân , để có thể chủ động tạo ra điều kiện
thuận lợi cho những nguyên nhân quy định sự xuất hiện của kết quả ( mà con người
mong muốn) phát huy tác dung.
b. Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân:
Kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng sau khi xuất hiện, kết quả lại có ảnh
hưởng trở lại đối với nguyên nhân. Sự ảnh hưởng đó thể hiện dưới hai hướng: thúc đẩy
sự hoạt động của nguyên nhân( hướng tính cực), hoặc cản trở sự hoạt động của nguyên
nhân ( hướng tiêu cực). VD trình độ dân trí thấp do kinh tế kém phát triển, ít đầu tư cho
giáo dục. Nhưng dân trí thấp lại là nhân tố cản trở việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất, vì vậy lại kìm hãm sản xuất phát triển. Ngược lại trình độ dân trí cao là kết
quả của chính phát triển kinh tế và giáo dục đúng đắn. Đến lượt nó, dân trí cao lại tác
dụng tích cực đến sự phát triển kinh tế và giáo dục.
c.Nguyên nhân và kết quả có thể thay đội vị trí cho nhau.
Điều này có nghĩa là một sự vật, hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là
nguyên nhân, nhưng tong mối quan hệ khác lại là kết quả và ngược lại. Vì vậy PH.
Ăngghen nhận xét rằng: Nguyên nhân và kết quả là những khái niệm chỉ có ý nghĩa là
nguyên nhân và kết quả khi được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt nhất định.
Nhưng một khi ta nghiên cứu trường hợp riệng biệt ấy trong mối lien hệ chung của nó với
toàn bộ thế giới, thì những khái niệm ấy lại gắn với nhau trong một khái niệm về sự tác
động qua lại một cách phổ biến , trong đó nguyên nhân và kết quả luôn thay đổi vị trí cho
nhau.
B.3 Ý nghĩa phương pháp luận:
Căn cứ phân biệt các loại nguyên nhân và những điều kiện khách quan lịch sử cụ
thể của nó, cũng như phân biệt nguyên nhânvà nguyên cớ.
Muốn xóa bỏ một sự vật, hiện tượng và một kết quả nào đó, thì cần phải loại bỏ

các nguyên nhân sinh ra nó( thông qua quy luật khách quan vốn có của nó). Ngược lại,
muốn làm xuất hiện một sự vật, hiện tượng và một kết quả nào đó, thì phải phát hiện
nguyên nhân, tạo điều kiện cần thiết cho nguyên nhân sinh ra nó phát huy được tác dụng.
Phê phán những quan điểm duy tâm, siêu hình về mối quan hệ nhân quả.
C. Tất Nhiên và ngẫu nhiên
C.1 Khái niệm tất nhiên và ngẫu nhiên:
Tất nhiên (tất yếu) là cái do những nguyên nhân cơ bản bên trong của kết cấu vật
chất quyết định và trong những điều kiện nhất định nó phải xảy ra như thế chứ không thể
khác được.
Ngẫu nhiên là cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong kết cấu vật chất, bên
trong sự vật quyệt định mà do các nhân tố bên ngoài, do sự ngẫu hợp nhiều hoàn cảnh
bên ngoài quyết định. Do đó nó có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất như
thế này, hoặc có thể xuất hiện như thế khác.
C.2 Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
a. Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con
người và đều có vị trí nhất định đối với sự phát triển của sự vật.
Trong quá trình phát triển của sự vật không phải chỉ có cái tất nhiên mới đóng vai
trò quan trọng mà cả tất nhiên và ngâu nhiên đều có vai trò quan trọng. Nếu cái tất nhiên
có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật thì cái ngẫu nhiên có tác dụng làm làm cho
sự phát triển của sự vật diễn ra nhanh hoặc chậm. Thí dụ, cá tính của lãnh tụ một phong
trào là yếu tố ngẫu nhiên, không quyết định xu hứớng phát triển của phong trào, nhưng
NS: Cáp Trọng Biên 18
Bài soạn triết học lớp cao hoc QTKD 19
lại có ảnh hưởng làm cho phong trào phát triển nhanh hoặc trậm, mức độ sâ sắc của
phong trào đạt được như thế nào …
b. Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại, nhưng chúng không tồn tại biệt lập dưới
dạng thuẩn túy cũng như không có cái ngẫu nhiên thuần túy.
Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống
nhất hữu cơ này thể hiện ở chỗ: cái tất nhiên bao giờ cũng thể hiện sự tồn tại của mình
thông qua vô số cái ngẫu nhiên. Còn cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất

nhiên, đồng thời là cái bổ sung cho cái tất nhiên, như Ph.Ăngghen nhận xét: sự xuất hiện
các nhân vật xuất sắc trong lịch sử là tất nhiên do nhu cầu xã hội phải giải quyết những
nhiệm vụ chin muồi của lịch sử tạo nên. Nhưng nhân vật đó là ai lại không phải là cái tất
nhiên, vì cái đó không phụ thuộc vào tiến trình chung của lịch sử. Thí dụ sự xuất hiện
lãnh tụ của của giai cấp vô sản có quan điểm duy vật về lịch sử giữa thế kỷ XIX là nhu
cầu tất yếu của sự phát triển của thực tiễn xã hội. Nhưng người đầu tiên đó là C.Mác và
Ph.Ăngghen lại là điều ngẫu nhiên.
C. tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau.
Tất nhiên và ngẫu nhiên không nằm yên ở trạng thái cũ mà thay đổi cùng với sự
thay đổi của sự vật và trong những điều kiện nhất định tất nhiên có thể chuyển hóa thành
ngẫu nhiên và ngược lại.
Sự chuyển hóa giữa tất nhiên và ngẫu nhiên còn thể hiện ở chỗ, khi xem xét trong
mối quan hệ này, thông qua mặt này thì sự vật, hiện tượngđó là cái ngẫu nhiên, nhưng khi
xem xét trong mối quan hệ khác , thông qua mặt khác thì sự vật hiện tượng đó lại là cái
tất yếu
C.3 Ý nghĩa phương pháp luận
Trong hoạt động thực tiễn, phải căn cứ vào cái tất nhiên, chứ không thể dựa vào
cái ngẫu nhiên và dừng lại ở cái ngẫu nhiên. Bởi vì cái tất nhiên là cái tất yếu phải xảy ra
thì ngược lại, cái ngẫu nhiên là cái có thể xảy ra hoặc không.
Muốn nhận thức được cái tất nhiên, phải nghiên cứuvố số cái ngẫu nhiên. Bởi vì,
vái tất nhiên thể hiện ra bên ngoài cái ngẫu nhiên, định hướng cho sự phát triển của mình
đi qua vô số cái ngẫu nhiên.
D. Nội dung và hình thức:
D.1 Khái niệm nội dung và hình thức:
Nội dung là tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật. Còn
hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ
tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật đó.
D.2 Mối liên hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức.
a. Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức.
Vì nội dung là những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật, còn hình

thức là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nội dung. Nên
nội dung và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau trong một thể thống nhất. Không có
hình thức nào tồn tại thuần túy không chứa đựng nội dung, ngược lại không có nội dung
nào lại không tồn tại trong một hình thức xác định. Nội dung nào có hình thức đó.
Nội dung và hình thức không tồn tại tác rời nhau, nhưng không phải vì thế mà lúc nào nội
dung và hình thức cũng phù hợp với nhau. Không phải một nội dung bao giờ cũng chỉ
được thể hiện ra trong một hình thức nhất định và một hình thức luôn chỉ chứa một nội
dung nhất định, mà một nội dung trong quá trình phát triển có nhiều hình thức thể hiện,
ngược lại, một hình thức có thể thể hiện nhiều nội dung khác nhau. Ví dụ, quá trình sản
NS: Cáp Trọng Biên 19
Bài soạn triết học lớp cao hoc QTKD 20
xuất ra một sản phẩm có thể bao gồm những yếu tố nội dung giống nhau như: con người,
công cụ, vật liệu nhưng cách tổ chức, phân công quá trình sản xuất có thể khác nhau.
Như vậy nội dung quá trình sản xuất được diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Hoặc
cùng một hình thức tổ chức sản xuất như nhau nhưng được thực hiện trong những ngành,
những khu vực, với những yếu tố vật chất khác nhau, sản xuất ra những sản phẩm khác
nhau. Vậy là một hình thức có thể chứa đựng nhiều nội dung khác nhau.
b. Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức trong quá trình vận động và phát
triển của sự vật.
Vì khuynh hướng chủ đạo của nội dung là biến đổi, còn khuynh hướng chủ đạo
của hình thức là tương đối bền vững, chậm biến đổi hơn so với nội dung. Dưới sự tác
động lẫn nhau của những mặt trong sự vật, hoặc giữa các sự vật với nhau trước hết làm
cho yếu tố của nội dung biến đổi trước; còn những mối liên kết giữa các yếu tố nội dung,
tức hình thức thì chưa biến đổi ngay, vì vậy hình thức sẽ trở lên lạc hậu hơn so với nội
dung và sẽ trở thành nhân tố kìm hãm nội dung phát triển. Do xu hướng chung của sự
phát triển của sự vật, hình thức không thể kìm hãm mãi sự phát triển của nội dung và sẽ
phải thay đổi cho phù hợp với nội dung mới . Ví dụ: quan hệ giữa lực lượng sản xuất (nội
dung của phương thức sản xuất) với quan hệ sản xuất (hình thức của quá trình sản xuất).
C. Sự tác động trở lại của hình thức với nội dung.
Hình thức do nội dung quyết định, nhưng hình thức có tính độc lập tương đối và

tác động trở lại nội dung. Sự tác động của hình thức đến nội dung thể hiện ở chỗ: nếu phù
hợp với nội dung thì hình thức sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy nội dung phát triển; nếu
không phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ ngăn cản, kìm hãm sự phát triển của nội
dung.
D3. Ý nghĩa phương pháp luận:
Trong hoạt động thực tiễn cần chống những khuynh hướng tách rời nội dung với
hình thức, hoặc tuyệt đối hóa nội dung và hình thức. Phải thấy được sự thống nhất biện
chứng giữa nội dung và hình thức ở trong sự vật . Muốn hình thức thay đổi , trước hết
phải chú ý đến sự thay đổi của nội dung. Mặt khác phải biết sử dụng hình thức phù hợp
với nội dung, tác động tích cực đến nội dung, phục vụ sự phát triển của nội dung theo yêu
cầu của thực tiễn
D4. Ý nghĩa của nó đối với cách mạng Việt Nam.
Vì nội dung và hình thức luân gắn bó với nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự
vật, do vậy trong lãnh đạo cách mạng Đảng ta đã không tách rời, tuyệt đối hóa giữa nội
dung và hình thức của cuộc cách mạng cũng như trong xây nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; chủ động sử dụng nhiều hình thức khác nhau, đáp ứng yêu cầu thực tiễn
của hoạt động cách mạng trong những giai đoạn cách mạng khác nhau.
Ví dụ: trong cơ chế bao cấp ở nước ta trước đây, do quan hệ sản xuất chưa phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nên không kích thích được tính tích cực của
người sản xuất, không phát huy được năng lực sản xuất của chúng ta. Nhưng với nhận
thức đúng đắn Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, từ nền
kinh tế tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần và định hướng
xã hội chủ nghĩa do đó kết quả trong hơn hai mươi năm qua đã là minh chứng cho sự vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và quan hệ biện chứng giữa nội dung và
hình thức nói riêng.
E. Bản chất và hiện tượng :
E1. Khái niệm bản chất và hiện tượng:
NS: Cáp Trọng Biên 20
Bài soạn triết học lớp cao hoc QTKD 21
Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn

định bên trong, quy định sự tồn tại vận động và phát triển của sự vật. Hiện tượng là
những biểu hiện bên ngoài của sự vật.
E.2 Mối liên hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ thừa nhận sự tồn tại khách quan của bản
chất và hiện tượng, mà còn cho rằng giữa bản chất và hiện tượng có quan hệ biện chứng
vừa thống nhất vừa gắn bó chặt chẽ với nhau, vừa mâu thuẫn đấi lập nhau.
a. Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng trước hết thể hiện ở chỗ: bản chất luôn
luôn được bộc lộ ra qua hiện tượng, còn hiện tượng nào cũng có sự biểu hiện của bản
chất ở mức độ nhất định. Sự thống nhất này, V.I Lenin viết: “Bản chất hiện ra, hiện tượng
là có tinh thần bản chất”.
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng về căn bản là phù hợp với nhau. Bản
chất được bộc lộ ở những hiện tượng tương ứng. Bản chất nào thì có hiện tượng ấy, bản
chất khác nhau sẽ bộc lộ những hiện tượng khác nhau. Bản chất thay đổi thì thì hiện
tượng của nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến mất thì hiện tư tưởng biểu hiện nó
cũng mất theo.
b. Tính chất mâu thuẫn của thống nhất giữa bản chất và hiện tượng.
Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, nhưng đây là sự thống nhất của hai
mặt đối lập. Do vậy không phải bản chất và hiện tượng phù hợp nhau hoàn toàn mà luôn
bao hàm cả sự mâu thuẫn nhau. Mâu thuẫn này thể hiện ở chỗ:
Bản chất phản ánh cái chung, cái tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật,
còn hiện tượng phản ánh cái riêng, cái cá biệt. Cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ở
nhiều hiện tượng khác nhau tùy theo sự thay đổi của điều kiện và hoàn cảnh. Vì vậy hiện
tượng phong phú hơn bản chất, còn bản chất sâu sắc hơn hiện tượng. Bản chất là cái
tương đối ổn định, ít biến đổi, còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi. V.I. Lênin
viết: "Cái không bản chất, cái bề ngoài, cái trên mặt thường biến mất, không bám "chắc",
không "ngồi vững" bằng "bản chất".
Mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng còn thể hiện ở chỗ, bản chất là mặt bên
trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan; còn hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện
thực khách quan đó. Bản chất không được biểu lộ hoàn toàn ở một hiện tượng mà biểu

hiện ở rất nhiều hiện tượng khác nhau. Hiện tượng không biểu hiện hoàn toàn bản chất
mà chỉ biểu hiện một khía cạnh của bản chất, biểu hiện bản chất dưới hình thức đã biến
đổi, nhiều khi xuyên tạc bản chất. Thí dụ, bản chất của giai cấp tư sản là bóc lột giá trị
thặng dư, bản chất đó được thể hiện ở rất nhiều thủ đoạn của giai cấp tư sản như tích cực
áp dụng khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, đổi mới phương pháp quản lý, thậm chí
tăng lương và cải thiện điều kiện sống, điều kiện làm việc cho công nhân để nhằm mục
đích nâng cao giá trị thặng dư cho giai cấp tư sản, cho nên nếu không tìm hiểu kỹ sẽ
không thấy được bản chất thật sự của giai cấp tư sản mà chỉ thấy những biểu hiện bề
ngoài của nó, không có được sự đánh giá toàn diện đúng đắn về giai cấp tư sản và chủ
nghĩa tư bản.
E3. Một số kết luận về mặt phương pháp luận
Bản chất không tồn tại thuần túy mà tồn tại trong sự vật và biểu hiện qua hiện
tượng, vì vậy muốn nhận thức được bản chất của sự vật phải xuất phát từ những sự vật,
hiện tượng, quá trình thực tế. Hơn nữa bản chất của sự vật không được biểu hiện đầy đủ
NS: Cáp Trọng Biên 21
Bài soạn triết học lớp cao hoc QTKD 22
trong một hiện tượng nhất định nào và cũng biến đổi trong quá trình phát triển của sự vật.
Do vậy phải phân tích, tổng hợp sự biến đổi của nhiều hiện tượng, nhất là những hiện
tượng điển hình mới hiểu rõ được bản chất của sự vật. Nhận thức bản chất của sự vật là
một quá trình phức tạp đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất
sâu sắc hơn. V.I. Lênin cũng viết rằng: "Tư tưởng của người ta đi sâu một cách vô hạn, từ
hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp một, nếu có thể nói như vậy, đến bản chất cấp
hai, v.v cứ như thế mãi".
Vì bản chất là cái tất nhiên, cái tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự
vận động phát triển của sự vật, còn hiện tượng là cái không ổn định, không quyết định sự
vận động phát triển của sự vật. Do vậy nhận thức không chỉ dừng lại ở hiện tượng mà
phải tiến đến nhận thức được bản chất của sự vật. Còn trong hoạt động thực tiễn, phải
dựa vào bản chất của sự vật để xác định phương thức hoạt động cải tạo sự vật không
được dựa vào hiện tượng.
F. Khả năng và hiện thực :

F1. Khái niệm khả năng và hiện thực:
Phạm trù hiện thực và khả năng được dùng để phản ánh mối quan hệ biện chứng
giữa những gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự (hiện thực) với những gì hiện chưa có,
nhưng sẽ có, sẽ tới khi các điều kiện tương ứng.
F.2 Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực:
Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách
rời nhau, thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật. Điều
đó có nghĩa là trong sự vật hiện đang tồn tại chứa đựng khả năng, sự vận động phát triển
của sự vật chính là quá trình biến khả năng thành hiện thực. Trong hiện thực mới đó lại
nảy sinh khả năng mới, khả năng mới này nếu có những điều kiện lại biến thành hiện
thực mới. Quá trình đó được tiếp tục, làm cho sự vật vận động, phát triển một cách vô tận
trong thế giới vật chất.
Cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật có thể tồn tại nhiều khả
năng chứ không phải chỉ một khả năng. Thí dụ: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng, sau khi phân tích tình hình trong nước, tình hình thế giới và khu vực đã
nhận định rằng, đất nước ta hiện nay đang "có cả cơ hội lớn và thách thức lớn", những cơ
hội lớn tạo điều kiện để chúng ta có khả năng "tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so
sánh, tranh thủ ngoại lực - nguồn vốn, công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý và mở rộng
thị trường, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những thách thức lớn đó là
4 nguy cơ mà Đảng ta đã từng chỉ rõ như nguy cơ tụt hậu về kinh tế, chệch hướng xã hội
chủ nghĩa, nạn tham nhũng và quan liêu, "diễn biến hòa bình" do thế lực thù địch gây ra.
Như vậy chúng ta thấy hiện nay đang cùng tồn tại rất nhiều khả năng (cả thuận lợi, cả
khó khăn) phát triển đất nước ta. Điều đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải nhận thức
rõ để chủ động tranh thủ thời cơ vượt qua thách thức đưa đất nước vững bước đi lên theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ngoài những khả năng vốn sẵn có, trong những điều kiện mới thì sự vật sẽ xuất
hiện thêm những khả năng mới, đồng thời bản thân mỗi khả năng cũng thay đổi theo sự
thay đổi của điều kiện. Thí dụ: Nước ta vốn là nước kinh tế kém phát triển, mức sống của
nhân dân còn thấp, nhưng lại phải trải qua cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt
để hội nhập. Nếu chúng ta không nhanh chóng vươn lên thì khả năng càng tụt hậu xa hơn

về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới và sự bất lợi về mở rộng sản
xuất kinh doanh, trao đổi buôn bán càng lớn.
NS: Cáp Trọng Biên 22
Bài soạn triết học lớp cao hoc QTKD 23
Để khả năng biến thành hiện thực, thường cần không phải chỉ một điều kiện mà là
một tập hợp nhiều điều kiện. Thí dụ để một hạt thóc có khả năng nảy mầm, cần một tập
hợp các điều kiện như nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, áp suất
Trong đời sống xã hội, hoạt động có ý thức của con người có vai trò hết sức to lớn
trong việc biến khả năng thành hiện thực. Nó có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm quá trình
biến khả năng thành hiện thực; có thể điều khiển khả năng phát triển theo chiều hướng
nhất định bằng cách tạo ra những điều kiện tương ứng. Không thấy vai trò của nhân tố
chủ quan của con người sẽ rơi vào sai lầm hữu khuynh chịu bó tay, khuất phục trước
hoàn cảnh. Tuy nhiên cũng không được tuyệt đối vai trò của nhân tố chủ quan mà xem
thường những điều kiện khách quan. Như vậy chúng ta dễ rơi vào sai lầm chủ quan, mạo
hiểm, duy ý chí.
F3. Một số kết luận về mặt phương pháp luận
Vì hiện thực là cái tồn tại thực sự, còn khả năng là cái hiện chưa có, nên trong
hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực, không được dựa vào khả năng để định ra chủ
trương, phương hướng hành động của mình.
Khả năng là cái chưa tồn tại thật sự nhưng nó cũng biểu hiện khuynh hướng phát
triển của sự vật trong tương lai. Do đó, tuy không dựa vào khả năng nhưng chúng ta cũng
phải tính đến các khả năng để việc đề ra chủ trương, kế hoạch hành động sát hợp hơn.
Khi tính đến khả năng phải phân biệt được các loại khả năng gần, khả năng xa, khả năng
tất nhiên và ngẫu nhiên Từ đó mới tạo được các điều kiện thích hợp để biến khả năng
thành hiện thực, thúc đẩy sự vật phát triển.
Việc chuyển khả năng thành hiện thực trong giới tự nhiên được thực hiện một
cách tự động, nhưng trong xã hội, điều đó phụ thuộc nhiều vào hoạt động của con người.
Vì vậy, trong xã hội, chúng ta phải chú ý đến việc phát huy nguồn lực của con người, tạo
ra những điều kiện thuận lợi cho việc phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi con
người đề biến khả năng thành hiện thực thúc đẩy xã hội phát triển. Tuy nhiên cũng cần

tránh hai thái cực sai lầm, một là: tuyệt đối hóa vai trò nhân tố chủ quan; hai là: hạ thấp
vai trò nhân tố chủ quan trong việc biến khả năng thành hiện thực.
7.3 Phân tích nội dung các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
1. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi
về chất và ngược lại.
A. Khái niệm về chất và khái niệm về lượng
a. Khái niệm về chất
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật nó chứ không phải là
cái khác.
b. Khái niệm về lượng
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số
lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính
của sự vật. Lượng là cái khách quan, vốn có của sự vật, quy định sự vật ấy là nó.
Lượng của sự vật không phụ thuộc vào ý chí, ý thức của con người.
B. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất.
Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và mặt lượng.
Chúng tác động qua lại lẫn nhau. Trong sự vật, quy định về lượng không bao giờ tồn tại
nếu không có tính quy định về chất và ngược lại.
NS: Cáp Trọng Biên 23
Bài soạn triết học lớp cao hoc QTKD 24
Sự thay đổi về lượng và về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận động và phát
triển của sự vật. Nhưng sự thay đổi đó có quan hệ chặt chẽ với nhau chứ không tách rời
nhau. Sự thay đổi về lượng của sự vật có ảnh hưởng sự thay đổi về chất của sự vật và
ngược lại, sự thay đổi về chất của sự vật tương ứng với thay đổi về lượng của nó. Sự thay
đổi về lượng có thể làm thay đổi ngay lập tức về chất của sự vật. Mặt khác, có thể trong
một giới hạn nhất định khi lượng của sự vật thay đổi , nhưng chất của sự vật chưa thay
đổi cơ bản. Chẳng hạn khi ta nung một thỏi thép đặc biệt ở trong lò, nhiệt độ của lò nung
có thể lên tới hàng trăm độ, thậm chí có thể lên tới hàng ngàn độ, song thỏi thép vẫn ở
trạng thái rắn chứ chưa chuyển sang trạng thái lỏng. Khi lượng của sự vật được tích luỹ

vượt quá giới hạn nhất định gọi là độ, thì chất cũ sẽ mất đi, chất mới sẽ thay thế chất cũ.
Chất mới ấy tương ứng với lượng mới tích luỹ được.
Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về
lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về
lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
Sự vật tích luỹ đủ về lượng tại điểm nút sẽ làm cho chất mới của nó ra đời. Lượng
mới và chất mới của sự vật thống nhất với nhau tạo nên độ mới và điểm nút mới của sự
vật ấy . Quá trình đó liên tiếp diễn ra trong sự vật và vì thế sự vật luôn phát triển chừng
nào nó còn tồn tại.
Chất của sự vật thay đổi do lượng của nó thay đổi trước đó gây ra gọi là bước
nhảy. Vậy bước nhảylà phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự vật
do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu
của một giai đoạn phát triển mới. Nó là sự gián đoạn trong quá trình vận động và phát
triển liên tục của sự vật. Có thể nói, trong quá trình phát triển của sự vật, sự gián đoạn là
tiền đề cho sự liên tục và sự liên tục là sự kế tiếp của hàng loạt sự gián đoạn.
Như vậy sự phát triển của bất cứ của sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ về
lượng trong độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất. Song điểm nút
của quá trình ấy không cố định mà có thể có những thay đổi do tác động của những điều
kiện khách quan và chủ quan quy định. Chẳng hạn thời gian để hoàn thành sự nghiệp
công nghiệp hoá ở mỗi nước là khác nhau. Có những nước mất 150 năm, có những nước
mất 60 năm nhưng cũng có những nước chỉ mất 15 năm.
Chất mới của sự vật chỉ có thể xuất hiện khi sự thay đổi về lượng của nó đạt tới
điểm nút. Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng đã thay đổi của sự vật. Chất
mới ấy có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát
triển của sự vật. Chẳng hạn khi sinh viên vượt qua điểm nút là kỳ thi tốt nghiệp, tức là
thực hiện bước nhảy, sinh viên sẽ được nhận bằng cử nhân. Trình độ văn hoá của sinh
viên đã cao hơn trước và sẽ tạo điều kiện cho họ thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ tri
thức, giúp họ tiến lên trình độ cao hơn.

Các hình thức cơ bản của bước nhảy.
Bước nhảy để chuyển hoá về chất của sự vật hết sức đa dạng và phong phú với
những hình thức rất khác nhau. Những hình thức bước nhảy khác nhau được quyết định
bởi bản thân của sự vật, bởi những điều kiện cụ thể trong đó sự vật thực hiện bước nhảy.
Chúng ta nghiên cứu một số hình thức cơ bản của bước nhảy.Dựa trên nhịp điệu thực
hiện bước nhảy của bản thân sự vật có thể phân chia thành bước nhảy đột biến và bước
nhảy dần dần.
NS: Cáp Trọng Biên 24
Bài soạn triết học lớp cao hoc QTKD 25
Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn làm
thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.
.Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách tích
luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi.
Chẳng hạn quá trình chuyển hoá từ vượn thành người diễn ra rất lâu dài, hàng vạn năm.
Quá trình cách mạng đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là một thời kỳ lâu dài qua nhiều bước nhảy dần dần
Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các yếu tố
cấu thành sự vật. Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của từng mặt, những
yếu tố riêng lẻ của sự vật.
Trong hiện thực, các sự vật có thuộc tính đa dạng, phong phú nên muốn thực hiện
bước nhảy toàn bộ phải thông qua những bước nhảy cục bộ. Sự quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta đang diễn ra từng bước nhảy cục bộ để thực hiện bước nhảy toàn bộ, tức là
chúng ta đang thực hiện những bước nhảy cục bộ ở lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị,
lĩnh vực xã hội và lĩnh vực tinh thần xã hội để đi đến bước nhảy toàn bộ - xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.Từ những sự phân tích ở trên có thể rút ra nội
dung của quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về
chất và ngược lại như sau: Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay
đổi dần dần về lượng trong khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất
của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng
mới. Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển, biến

đổi.
C. Ý nghĩa phương pháp luận.
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những
thay đổi về chất và ngược lại có thể rút ra các kết luận có ý nghĩa phương pháp luận sau
đây:
Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần
dần về lượng đến một giới hạn nhất định thực hiện bước nhảy để chuyển về chất. Do đó
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải biết từng bước tích luỹ về
lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật. Trong hoạt động của mình, ông cha ta đã rút
ra những tư tưởng sâu sắc như “ tích tiểu thành đại”, “năng nhặt chặt bị”, “góp gió thành
bão”…. Những việc làm vĩ đại của con người bao giờ cũng là sự tổng hợp của những việc
làm bình thường của con người đó. Phương pháp này giúp cho chúng ta tránh được tư
tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng,” đốt cháy giai đoạn” muốn thực hiện những bước
nhảy liên tục
Quy luật của tự nhiên và quy luật của xã hội đều có tính khách quan. Song quy
luật của tự nhiên diễn ra một cách tự phát, còn quy luật của xã hội chỉ được thực hiện
thông qua ý thức của con người.
Trong hoạt động thực tiễn, chúng ta còn phải biết vận dụng linh hoạt các hình
thức của bước nhảy. Sự vận dụng linh hoạt đó sẽ tuỳ thuộc vào việc phân tích đúng đắn
những điều kiện khách quan và những nhân tố chủ quan cũng như sự hiểu biết sâu sắc về
quy luật này. Tùy theo từng trường hợp cụ thể, từng điều kiện cụ thể hay quan hệ cụ thể
chúng ta lựa chọn hình thức bước nhảy phù hợp để đạt tới chất lượng và hiệu quả hoạt
động của mình. Song con người và đời sống xã hội của con người rất đa dạng phong phú
do rất nhiều yếu tố cấu thành, do đó để thực hiện bước nhảy toàn bộ, trước hết, phải thực
hiện những bước nhảy cục bộ làm thay đổi về chất của từng yếu tố.
NS: Cáp Trọng Biên 25

×