Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

đề tài tiểu luận triết học “GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.9 KB, 27 trang )

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM
A. MỞ ĐẦU
Thế giới phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của các hình thái kinh tế
xã hội. Trong xã hội có giai cấp luôn tồn tại mâu thuẫn giữa Lực lượng sản xuất
phát triển đến trình độ xã hội hoá cao với Quan hệ sản xuất cũ, lạc hậu; mâu
thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp lao động.
Trong sự chuyển biến của hình thái kinh tế trong xã hội, luôn tồn tại giai
cấp trung tâm, có nhiệm vụ phải thoả mãn các điều kiện như: là giai cấp đại
diện cho một Phương thức sản xuất tiên tiến; là giai cấp có hệ tư tưởng độc lập;
giai cấp này phải tiến hành thuyết phục, tập hợp và tổ chức quần chúng làm
cách mạng. Cùng với hai nhiệm vụ quan trọng là: tiến hành xoá bỏ chế độ xã
hội cũ; xây dựng hình thái kinh tế xã hội mới tiến bộ hơn.
C.Mác và Ph.Ăngghen khi nghiên cứu về các giai cấp, tầng lớp trong
hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa, đã rút ra kết luận:
Một là: Giai cấp tư sản trong chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra một lực lượng
sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn, với lực lượng sản xuất bằng tất cả các xã hội
trước để lại, tạo ra năng suất lao động cao hơn nhiều. Do đó giai cấp tư sản đã
từng đóng vai trò tích cực trong lịch sử là tạo năng suất lao động cao.
Hai là: Khi lực lượng sản xuất đạt đến trình độ xã hội hoá cao, xuất hiện
mâu thuẫn về quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mà tập trung là sở hữu tư bản
chủ nghĩa, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất
phát triển, quan hệ sản xuất như cũ thì xuất hiện giai cấp mới để giải phóng
quan hệ sản xuất cũ, đó chính là giai cấp công nhân.
Ba là: Việc giai cấp công nhân đứng lên đấu tranh để giải phóng giai cấp
không có nghĩa chỉ giải phóng giai cấp mà tập trung giải phóng xã hội và giải
phóng con người vì giai cấp công nhân có lợi ích phù hợp với nhân dân lao
động, với dân tộc và với nhân loại.
NGUYỄN THÀNH LONG | 11510106448
1


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM
Từ những kết luận của C.Mác và Ph.Ăngghen và những khẳng định về
giai cấp công nhân hiện đại là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để, có khả
năng tổ chức và lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động tiến hành cuộc cải biến
cách mạng, từ hình thái kinh tế xã hội tư bản sang hình thái kinh tế xã hội cộng
sản chủ nghĩa, giải phóng nhân loại khỏi áp bức, bất công và mọi hình thức bóc
lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội văn minh.
Do điều kiện lịch sử ở một nước thuộc địa, giai cấp công nhân Việt Nam
ra đời và trưởng thành gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và đi lên
xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Giai cấp công nhân Việt Nam có mối quan hệ tự
nhiên, máu thịt với giai cấp nông dân, với tầng lớp trí thức và nhân dân lao
động.
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn quan tâm lãnh đạo giai cấp công
nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam đồng hành cùng toàn thể dân tộc đấu
tranh giành độc lập, tự do, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Đường lối xây dựng Giai cấp công nhân đã được thể hiện trong nhiều
nghị quyết của Đảng. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khoá X) đã ban hành Nghị quyết 20/NQ-TW về “Tiếp tục xây dựng
Giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước”. Đây là nghị quyết quan trọng, khẳng định quan điểm, mục tiêu,
nhiệm vụ, tạo động lực mạnh mẽ trong toàn xã hội về chăm lo xây dựng Giai
cấp công nhân xứng tầm với sứ mệnh lịch sử và trách nhiệm vẻ vang của Giai
cấp công nhân trong tiến trình lịch sử dân tộc.
Chính vì tầm quan trọng của việc nhận thức đúng đắn vai trò của Giai cấp
công nhân hiện nay và tìm hiểu sâu sắc về những đường lối, chính sách nhằm
xây dựng Giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh, đoàn kết, xây dựng xã hội
văn minh, phát triển nên tôi chọn đề tài tiểu luận triết học: “GIAI CẤP CÔNG
NHÂN VIỆT NAM”.

NGUYỄN THÀNH LONG | 11510106448
2
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG
I. Khái niệm giai cấp công nhân:
Chính C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Vấn đề là ở chỗ tìm hiểu xem giai
cấp vô sản thực ra là gì và phù hợp với tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô
sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử ”. Để chỉ giai cấp công nhân, các nhà kinh
điển dùng nhiều khái niệm như: giai cấp vô sản, giai cấp xã hội, giai cấp công
nhân hoàn toàn chỉ dựa vào việc bán sức lao động của mình và lao động làm
thuê ở thế kỷ XIX, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai
cấp công nhân đại công nghiệp như những cụm từ đồng nghĩa để biểu thị một
khái niệm.
Trong các thuật ngữ này, tuỳ từng điều kiện mà ta sử dụng. Tuy nhiên, các
thuật ngữ đó đều nói lên: Giai cấp công nhân - con đẻ của nền đại công nghiệp
tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương
thức sản xuất hiện đại. Ngoài các thuật ngữ trên, C.Mác và Ph.Ăngghen còn
dùng những thuật ngữ có nội dung hẹp hơn để chỉ các loại công nhân trong các
ngành khác nhau, trong các giai đoạn khác nhau của công nghiệp như: công
nhân cơ khí là công nhân làm trong ngành cơ khí; công nhân dệt là công nhân
làm trong ngành dệt; công nhân công trường thủ công là công nhân làm trong
các công trường; công nhân nông nghiệp là công nhân làm trong ngành nông
nghiệp có sử dụng các trang thiết bị của công nghiệp
NGUYỄN THÀNH LONG | 11510106448
3
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT

NAM
Mặc dù các thuật ngữ trên có nhiều tên gọi khác nhau như thế nào đi nữa
thì theo C.Mác và Ph.Ăngghen chúng vẫn chỉ mang hai thuộc tính căn bản.
Thứ nhất, về phương thức lao động, phương thức sản xuất: Giai cấp công
nhân là lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính
chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao.
Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: đó là những
người lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản
và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư.
Trong hai tiêu chí này, C.Mác và Ph.Ăngghen nhắm tới tiêu chí một đó là
công nhân công xưởng, được coi là bộ phận tiêu biểu cho giai cấp công nhân
hiện đại. Hai ông cho rằng: “Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng
với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của
nền đại công nghiệp”; “công nhân cũng là một phát minh của thời đại mới,
giống như máy móc cũng vậy công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền
đại công nghiệp hiện đại”.
Với tiêu chí thứ hai, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đặc biệt nhấn mạnh vì
chính điều này khiến cho người công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai
cấp tư sản: “giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai
cấp công nhân hiện đại- tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm đ-
ược việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư
bản- cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm
ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ
một món hàng nào khác, vì thế họ phải chịu hết sự may rủi của cạnh tranh, mọi
sự lên xuống của thị trường”. Tiêu chí này đã nói lên một trong những đặc tr-
ưng cơ bản nhất của giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản, do đó C.Mác và
Ph.Ăngghen còn gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản.
NGUYỄN THÀNH LONG | 11510106448
4
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM
Tại sao C.Mác và Ph.Ăngghen lại đặc biệt nhấn mạnh hai tiêu chí trên? Sở
dĩ như vậy vì đây chính là hai vị trí phân biệt giai cấp công nhân với các giai
cấp khác trong xã hội. Họ phải kiếm việc làm và họ phải kiếm được việc làm
khi họ bán được sức lao động.
Giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân có sự khác nhau. Hai khái
niệm về hai giai cấp này khác nhau ở chỗ: Nông dân sử dụng tất cả các công cụ
sản xuất để tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh; sản phẩm của nông dân mang tính
chất cá nhân và công cụ sản xuất của họ còn thô sơ.
Còn giai cấp công nhân có khác: công cụ sản xuất hiện đại; mỗi công nhân
là một mắt khâu của công việc sản xuất; sản phẩm của họ mang tính chất xã hội.
Giai cấp công nhân cũng khác với vô sản lưu manh. Đó là giai cấp công
nhân không có tư liệu sản xuất, họ tồn tại được là nhờ bị bóc lột giá trị thặng
dư. Còn giai cấp tư sản, họ có nhiều tư liệu sản xuất nhưng lại không có sức lao
động, họ phải thuê giai cấp công nhân và bóc lột sức lao động của giai cấp công
nhân để tồn tại. Đây chính là hai mặt của một vấn đề.
Dưới chế độ chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân lại là những người lao
động tự do, những người bán sức lao động để sống, họ là những người làm công
ăn lương (hay làm thuê), là lao động trong lĩnh vực công nghiệp.
Ngày nay, với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong nửa sau của thế kỷ
XX, bộ mặt của giai cấp công nhân hiện đại có nhiều thay đổi khác trước. Từ dự
kiến của C.Mác và Ph.Ăngghen, giai cấp công nhân xét về diện mạo có nhiều
biến đổi. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội hiện nay đã vượt xa
trình độ văn minh công nghiệp trước đây, sự xã hội hoá và phân công lao động
xã hội mới, cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại; các hình thức bóc lột giá trị
thặng dư đã làm cho diện mạo của giai cấp công nhân hiện đại không còn
giống với những mô tả của C.Mác trong thế kỷ XIX. Tuy thế nhưng giai cấp
công nhân hiện đại vẫn tồn tại, vẫn có sứ mệnh lịch sử của mình trong xã hội tư
NGUYỄN THÀNH LONG | 11510106448

5
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM
bản hiện đại; những thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân mà C.Mác đã phát
hiện ra vẫn còn nguyên giá trị.
Hiện nay, cơ cấu ngành nghề của giai cấp công nhân đã có nhiều thay
đổi to lớn. Bên cạnh lực lượng công nhân truyền thống, xuất hiện công nhân
trình độ tự động hoá với việc áp dụng phổ biến công nghệ thông tin vào sản
xuất. Bên cạnh những ngành công nghiệp truyền thống, xuất hiện công nhân
hoạt động ở lĩnh vực dịch vụ. Thực tế, ở các nước tư bản, công nhân trong các
ngành dịch vụ này chiếm 50% đến 70% lao động.Tuy nhiên, điều này không hề
làm giảm vai trò của giai cấp công nhân trong nền kinh tế và ngay cả tỷ trọng
của giai cấp công nhân trong dân cư. Bởi vì những người làm thuê trong các
ngành dịch vụ gắn liền với công nghiệp và hoạt động theo lối công nghiệp vẫn
là công nhân xét cả trên hai thuộc tính về giai cấp công nhân. Mặt khác, bên
cạnh trình độ thấp của giai cấp công nhân truyền thống đã xuất công nhân có
trình độ cao, có xu hướng “tri thức hoá” và cũng ngày càng tiếp thu thêm đông
đảo những người thuộc tầng lớp trí thức vào hàng ngũ của mình. Mặc dù vậy,
bản chất về giai cấp công nhân cũng không hề thay đổi. Nếu trước kia, công
nhân bán sức lao động chân tay là chủ yếu thì nay, họ bán cả sức lao động chân
tay và lao động trí óc, giá trị ngày càng lớn và do đó càng bị bóc lột giá trị thặng
dư theo chiều sâu. Giai cấp công nhân bắt đầu có sự thay đổi về tài sản. Phần
lớn, họ không còn là những người vô sản trần trụi với hai bàn tay trắng, mà họ
đã có một số tư liệu sản xuất phụ có thể cùng gia đình làm thêm; một số công
nhân đã có cổ phần, cổ phiếu ở xí nghiệp. Tuy vậy nhưng nó cũng không làm
thay đổi toàn bộ lực lượng sản xuất cơ bản nhất, quyết định nhất đối với nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa, họ vẫn bị bóc lột dưới những hình thức khác nhau.
Giai cấp công nhân hiện nay không những trong lĩnh vực công nghiệp
mà trong mọi ngành nghề khác nhau, có trình độ sản xuất khác nhau của nền

công nghiệp hiện đại. Họ là những người trực tiếp đứng máy, không nằm trong
dây truyền sản xuất tự động, không kiểm tra hoạt động máy móc mà đó là
NGUYỄN THÀNH LONG | 11510106448
6
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM
những chuyên gia trực tiếp chăm lo nghiên cứu, sáng chế để không ngừng cải
tiến máy móc nhằm nâng cao chất lợng sản phẩm, năng suất lao động. Họ là
những người hoạt động ở các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ cho sản xuất như
bưu điện, viễn thông, giao thông vận tải, Họ còn là những người lao động làm
thuê trong các ngành dịch vụ đang trở thành những ngành công nghiệp thực sự
như du lịch, ngân hàng, thông tin Đó còn là những nhân viên thừa hành làm
công ăn lương phục vụ cho hệ thống quản lý của các công ty.
Đối với giai cấp công nhân ở thời kỳ đế quốc ta còn thấy bộ phận làm
thuê trong các doanh nghiệp tư nhân. Xét về tư cách giai cấp, họ còn là những
người làm chủ, nhưng xét về góc độ cá nhân, những người này vẫn bị bóc lột
giá trị thặng dư, do đó họ vẫn mang hai thuộc tính cơ bản của giai cấp công
nhân. Do vậy họ vẫn nằm trong giai cấp công nhân.
Tóm lại, căn cứ vào hai tiêu chí cơ bản của giai cấp công nhân, ta có thể
nói: những người lao động trong các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ công
nghiệp là công nhân, còn những người làm công ăn lương phục vụ trong các
ngành khác như y tế, giáo giục, văn hoá, dịch vụ( không liên quan đến sản xuất
công nghiệp) là những người lao động nói chung, họ đang được thu hút vào
các tổ chức công đoàn nghề nghiệp nhưng họ không phải là công nhân.
Dưới chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân trở thành giai cấp nắm chính
quyền, thành giai cấp thống trị nhưng không thành giai cấp bóc lột, họ có nhiệm
vụ lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, đại biểu cho
toàn thể nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất cơ bản đã được công
hữu hoá.

Sau khi xoá bỏ được mọi giai cấp, giai cấp công nhân sẽ không còn nữa.
Lúc đó, công nhân sẽ như mọi lao động được giải phóng, đều có điều kiện phát
triển tự do và toàn diện.
NGUYỄN THÀNH LONG | 11510106448
7
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM
Có thể nói, những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về hai tiêu chí
cơ bản của giai cấp công nhân cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị, vẫn là cơ sở
phương pháp luận để chúng ta nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại, đặc biệt
là để làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày
nay. Từ hai tiêu chí trên ta có thể định nghĩa: “Giai cấp công nhân là một tập
đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình hình thành và
phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng
sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ bản
tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải
vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch
sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”.
Vậy, ta có thể rút ra kết luận tổng quát về giai cấp công nhân như sau:
Giai cấp công nhân là những tập đoàn người lao động trực tiếp hay gián
tiếp vận hành những công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện
đại, ngày càng có trình độ xã hội hoá cao.
Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử vô cùng trọng đại, xóa bỏ xã hội
cũ, lạc hậu, xây dựng xã hội mới tiến bộ, giải phóng giai cấp mình đồng thời
giải phóng toàn nhân loại trên phạm vi toàn thế giới.
Giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động ra của cải vật
chất trong lĩnh vực công nghiệp với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng
hiện đại. Sản phẩm thặng dư do họ làm ra là nguồn gốc chủ yếu cho sự giàu có
và sự phát triển của xã hội.

Giai cấp công nhân vừa là người lãnh đạo, đồng thời cùng với nông dân,
trí thức và các giai cấp, tầng lớp lao động khác họp thành lực lượng tổng hợp
của quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử đó.
II. Giai cấp công nhân Việt Nam:
NGUYỄN THÀNH LONG | 11510106448
8
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM
1. Sự ra đời, đặc điểm và điều kiện giai cấp công nhân vươn lên thành
giai cấp lãnh đạo Cách mạng Việt Nam:
Với chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam, giai
cấp công nhân Việt Nam đã ra đời từ đầu thế kỷ này, trước cả sự ra đời của giai
cấp tư sản Việt Nam và là giai cấp trực tiếp đối kháng với tư bản thực dân
Pháp. Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, dưới sự thống trị
của đế quốc Pháp, một thứ chủ nghĩa tư bản thực lợi không quan tâm mấy đến
phát triển công nghiệp ở các nước thuộc địa, nên giai cấp công nhân Việt Nam
phát triển chậm.
Mặc dù số lượng ít, trình độ nghề nghiệp thấp, còn mang nhiều tàn dư của
tâm lý và tập quán nông dân, song giai cấp công nhân Việt Nam đã nhanh
chóng vươn lên đảm đương vai trò lãnh đạo cách mạng ở nước ta do những điều
kiện sau đây:
- Giai cấp công nhân Việt Nam sinh ra trong lòng một dân tộc có truyền
thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm. Ở giai cấp công nhân, nỗi nhục mất
nước cộng với nỗi khổ vì ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản đế quốc làm cho
lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc kết hợp làm một, khiến động cơ cách mạng,
nghị lực cách mạng và tính triệt để của cách mạng của giai cấp công nhân được
nhân lên gấp bội.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và từng bước trưởng thành trong
không khí sôi sục của một loạt phong trào yêu nước và các cuộc khởi nghĩa

chống thực dân Pháp liên tục nổ ra từ khi chủ nghĩa đế quốc Pháp đặt chân lên
đất nước ta: phong trào Cần Vương và cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng,
Hoàng Hoa Thám, các cuộc vận động yêu nước của Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh, Nguyễn Thái Học,… đã có tác dụng to lớn đối với việc cổ vũ tinh thần
yêu nước, ý chí bất khuất và quyết tâm đập tan xiềng xích nô lệ của toàn thể
nhân dân ta. Nhưng tất cả phong trào ấy đều thất bại và sự nghiệp giải phóng
dân tộc đều lâm vào tình trạng bế tắc về đường lối.
NGUYỄN THÀNH LONG | 11510106448
9
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM
- Vào lúc đó, phong trào cộng sản và công nhân thế giới phát triển, cuộc
Cách mạng tháng Mười Nga bùng nổ, thắng lợi và ảnh hưởng đến phong trào
dân tộc dân chủ ở nước khác, nhất là ở Trung Quốc, trong đó có phong trào
cách mạng ở nước ta. Chính vào lúc đó, nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc trên
hành trình tìm đường cứu nước đã đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin và tìm thấy ở
Chủ nghĩa Mác – Lênin bí quyết thần kỳ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc ta.
Từ đó, Người đã đề ra con đường duy nhất đúng đắn cho Cách mạng Việt Nam
– con đường Cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân và chuyển Cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân lên Cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tấm gương Cách mạng Nga và phong trào cách mạng ở nhiều nước khác
đã cổ vũ giai cấp công nhân non trẻ Việt Nam đứng lên nhận lấy sứ mệnh lãnh
đạo cách mạng nước ta và đồng thời cũng là chất xúc tác khích lệ nhân dân ta
lựa chọn, tiếp nhận con đường cách mạng của Chủ nghĩa Mác – Lênin và đi
theo con đường cách mạng của giai cấp công nhân. Từ đó giai cấp công nhân là
giai cấp duy nhất lãnh đạo Cách mạng Việt Nam.
- Giai cấp công nhân Việt Nam, mà tuyệt đại bộ phận là xuất thân từ nông
dân lao động và những tầng lớp lao động khác, nên có mối liên hệ tự nhiên với
đông đảo nhân dân lao động bị mất nước, sống nô lệ nên cũng là điều kiện thuận

lợi để giai cấp công nhân xây dựng nên khối liên minh công – nông vững chắc
và khối đoàn kết dân tộc rộng rãi đảm bảo cho sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân trong suốt quá trình cách mạng của nước ta.
2. Vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong Cách mạng Việt Nam:
Lịch sử Việt Nam cũng chứng minh rằng , giai cấp công nhân Việt Nam
ra đời chưa được bao lâu ngay cả khi nó chưa có Đảng mà đã tổ chức một cách
tự phát nhiều cuộc đấu tranh chống bọn tư bản thực dân và được nhân dân ủng
hộ. Cuộc bãi công của 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn năm 1922 mà Nguyễn Ái
NGUYỄN THÀNH LONG | 11510106448
10
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM
Quốc cho đó chỉ mới là “do bản năng tự vệ” của những người công nhân
“không được giáo dục và tổ chức” nhưng đã là “dấu hiệu… của thời đại”. Năm
1927 có gần chục cuộc bãi công với hàng trăm người tham gia. Năm 1928-1929
có nhiều cuộc bãi công khác với hàng nghìn người tham gia, trong đó tiêu biểu
nhất là cuộc đấu tranh của công nhân xi măng Hải Phòng, sợi Nam Định, xe lửa
Trường Thi (Vinh), AVIA (Hà Nội), Phú Riềng (Bình Phước). Những cuộc đấu
tranh như thế không chỉ giới hạn trong công nhân mà còn tác động sâu sắc đến
các tầng lớp khác, đặc biệt là đến giai cấp nông dân, các tầng lớp nhân dân lao
động, thanh niên, sinh viên làm cho bọn thống trị thực dân hoảng sợ.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp Chủ nghĩa
Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta vào
đầu năm 1930 của thế kỷ XX. Đảng đã đem yếu tố tự giác vào phong trào công
nhân, làm cho phong trào cách mạng nước ta có một bước phát triển nhảy vọt về
chất.
Giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo Cách mạng thong qua đội tiên
phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi nói giai cấp công nhân lãnh đạo
là nói đến toàn bộ giai cấp như một chỉnh thể chứ không phải từng nhóm, từng

người. Để có thể lãnh đạo, giai cấp công nhân phải có lực lượng, có tổ chức tiêu
biểu cho sự tự giác và bản chất giai cấp của mình. Lực lượng đó là Đảng Cộng
sản. Xét về thành phần xuất thân thì nước ta có nhiều đảng viên không phải là
công nhân. Nhưng, bất cứ đảng viên nào cũng phải đứng trên lập trường giai
cấp công nhân thể hiện ở lý tưởng, ở lý luận Mác – Lênin và đường lối cách
mạng, ở tinh thần kiên quyết cách mạng trong cuộc đấu tranh để thực hiện sứ
mệnh cách mạng của giai cấp công nhân vì lợi ích giai cấp công nhân, của nhân
dân lao động và của cả dân tộc. Điều này được Đảng ta khẳng định rất rõ:
“Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời
là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”.
NGUYỄN THÀNH LONG | 11510106448
11
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM
Đảng của giai cấp công nhân nước ta đã lãnh đạo toàn dân hoàn thành thắng lợi
trọn vẹn cuộc Cách mạng giải phóng dân tộc và đang tiến hành công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đây là nhiệm vụ
lịch sử khó khăn, phức tạp nhất.
CHƯƠNG II : LÝ LUẬN THỰC TIỄN
III. Giai cấp công nhân hiện nay:
1 . Giai cấp công nhân hiện nay có sự thay đổi lớn:
Cũng như các khái niệm khoa học khác, khái niệm giai cấp công nhân
cũng có sự thay đổi nội hàm của nó cùng với tiến trình vận động của lịch sử. Do
tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nên cơ cấu kinh
tế, cơ cấu xã hội đã có những biến đổi mới làm cho “giai cấp công nhân hiện
đại” khác với “giai cấp công nhân cổ điển” ở thế kỷ XIX. Giai cấp công nhân
thế kỷ XIX chủ yếu là lao động chân tay, điều kiện sản xuất lúc đó còn hạn chế.
NGUYỄN THÀNH LONG | 11510106448

12
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM
Đặc trưng chủ yếu giai cấp công nhân thế kỷ XIX, theo Ph.Ăngghen, đó
là “ những người lao động không có tư liệu sản xuất, không có của cải, không
có tài sản gì khác ngoài tài sản sức lao động của bản thân; phải bán sức lao
động, đi làm thuê trong các lĩnh vực lao động sản xuất vật chất nặng nhọc để
được nhận một khoản giá trị sức lao động gọi là tiền lương nhằm tái sản xuất
sức lao động của mình.”
Ngày nay trong điều kiện mới, khi lực lượng sản xuất đang trên đà phát
triển mạnh, giai cấp công nhân không chỉ bao gồm những người lao động chân
tay mà còn cả lao động trí óc thông qua các máy điện toán với những thành tựu
của tin học. Giai cấp công nhân có sự phát triển về chất lượng để đảm đương
được nhiệm vụ của mình trong điều kiện mới, hay nói cách khác “công nhân
hóa trí thức” và “trí thức hóa công nhân” là xu thế tất yếu của nền đại công
nghiệp, của quá trình tự động hóa, tin học hóa. Giai cấp công nhân đang lớn lên
với đội ngũ trí thức của mình và giai cấp công nhân luôn luôn là người trực tiếp
sản xuất, tham gia vào quá trình tạo ra những giá trị vật chất, của cải to lớn cho
xã hội.
2 . Sự thay đổi của giai cấp công nhân không làm thay đổi bản chất, vai
trò của giai cấp công nhân:
Giai cấp công nhân luôn có sự thay đổi về chất và lượng cho phù hợp với
thời đại.
Giai cấp công nhân bao gồm những người lao động trong lĩnh vực công
nghiệp, dịch vụ công nghiệp; những nhà nghiên cứu, sáng chế, áp dụng những
thành tựu của khoa học công nghệ phục vụ cho sản xuất; những kỹ sư, kỹ thuật
viên, cán bộ kỹ thuật thực hiện chức năng của công nhân lành nghề trong sản
NGUYỄN THÀNH LONG | 11510106448
13

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM
xuất và tái sản xuất của cải vật chất. Giai cấp công nhân có mặt trong các ngành
kinh tế: Công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải,
trong đó công nhân công xưởng, nhà máy sản xuất công nghiệp hiện đại, tiên
tiến là bộ phận nòng cốt, tiêu biểu cùng với quá trình phát triển của giai cấp
công nhân, bộ phận trí thức gắn trực tiếp với lao động công nghiệp, với quy
trình sản xuất công nghiệp tạo ra của cải vật chất cho xã hội cũng nằm trong nội
dung khái niệm giai cấp công nhân.
Trong điều kiện ngày nay, cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại rất đa
dạng, có nhiều trình độ khác nhau và không ngừng biến đổi theo hướng không
thuần nhất: Công nhân kỹ thuật ngày càng tăng công nhân ngày càng được nâng
cao về trình độ, đóng vai trò chính trong quá trình phát triển, công nhân truyền
thống giảm dần. ở các nước tư bản phát triển, công nhân làm việc trong các
ngành dịch vụ tăng lên xấp xỉ 50% tổng số công nhân. Mặc dù một số ít trong
giai cấp công nhân có cổ phần trong các xí nghiệp của tư bản, nhưng về cơ bản
giai cấp công nhân vẫn bị bóc lột, mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, sự phân
biệt giàu nghèo và tình trạng bất công xã hội vẫn tăng lên, bản chất bóc lột giá
trị thặng dư vẫn tồn tại, dù được biểu hiện dưới hình thức tinh vi hơn. Cả sự bần
cùng hóa tuyệt đối lẫn bần cùng hóa tương đối của giai cấp công nhân vẫn đang
tồn tại. Tuy đại bộ phận tầng lớp trí thức và lao động có kỹ năng đang có việc
làm được cải thiện mức sống và gia nhập vào tầng lớp trung lưu, nhưng vẫn
không xóa được sự phân hóa giàu nghèo. Chính những nhà xã hội học tư sản
tiến bộ đã chứng minh ở các nước tư bản hiện nay sự bóc lột còn cao hơn và với
cơ chế càng tinh vi hơn thời Mác. Tỉ lệ m/v thời Mác là 1/1 thì thời nay là 3/1.
Như vậy dù mức sống có cao hơn trước, dù công nhân có được tham gia
quản lý thông qua đại biểu trong hội đồng xí nghiệp theo “chế độ tham dự” và
“chế độ ủy nhiệm”' nhưng họ vẫn là người làm thuê bán sức lao động, ý chí của
chủ nghĩa tư bản vẫn là quyền lực chi phối, tầng lớp “nhà quản lý” vẫn chỉ là kẻ

phụ thuộc vào giới chủ. Giai cấp công nhân vẫn luôn là lực lượng sản xuất cơ
bản và trực tiếp, vẫn là giai cấp tiên phong trong xã hội. Sứ mệnh lịch sử của
NGUYỄN THÀNH LONG | 11510106448
14
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM
giai cấp công nhân không thể chuyển vào tay một giai cấp hay tầng lớp xã hội
nào khác: Những chỉ dẫn cơ bản về đặc trưng bản chất của giai cấp công nhân
của Mác - ăng Ghen - Lênin đưa ra vẫn là cơ sở phương pháp luận để xem xét,
phân tích giai cấp công nhân hiện đại trong các quốc gia tư bản chủ nghĩa phát
triển hay trong những nước đang tiếp tục con đường cách mạng xã hội chủ
nghĩa, các nước thế giới thứ ba và toàn thế giới nói chung, trước đây cũng như
hiện nay.
IV. Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay:
1. Vai trò:
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội hiện
nay, đội ngũ công nhân Việt Nam bao gồm những người lao động chân tay và
lao động trí óc hoạt động trong ngành sản xuất công nghiệp và dịch vụ thuộc
các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, hay thuộc khu vực tư nhân, hợp tác liên
doanh với nước ngoài, tạo thành một lực lượng giai cấp công nhân thống nhất
đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam được vũ trang bằng Chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh đang lãnh đạo công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Họ là lực lượng
đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cơ sở xã hội chủ yếu
nhất của Đảng và Nhà nước ta, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công nhân
– nông dân – trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc.
2. Hạn chế:
Tuy nhiên, do hoàn cảnh hình thành, điều kiện kinh tế - xã hội quy định,
giai cấp công nhân Việt Nam còn có những nhược điểm (như số lượng còn ít,

chưa được rèn luyện nhiều trong công nghiệp hiện đại, trình độ văn hoá và tay
nghề còn thấp,…) Nhưng điều đó không thể là lý do để phủ nhận sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân Việt Nam.
3. Khắc phục:
NGUYỄN THÀNH LONG | 11510106448
15
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM
Để khắc phục những nhược điểm ấy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban
Chấp hành Trung ương khoá VII của Đảng ta, một Nghị quyết gắn trực tiếp vấn
đề Công nghiệp hoá, hiện đại hoá với vấn đề xây dựng và phát triển giai cấp
công nhân đã chỉ rõ phương hướng xây dựng giai cấp công nhân trong nước ta
hiện nay là: “Cùng với quá trình phát triển công nghiệp và công nghệ theo xu
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần xây dựng giai cấp công
nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư
tưởng, có trình độ học vấn và tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo
công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, vươn lên làm
tròn sứ mệnh lịch sử của mình!”.
Công cuộc đổi mới đất nước, định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta
khởi xướng và lãnh đạo đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan
trọng. Giai cấp công nhân đang đi đầu trong xây dựng xã hội mới, nhất là trong
việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của Chủ nghĩa Xã hội nhằm thực hiện
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là bằng chứng
chỉ rõ năng lực lãnh đạo của giai cấp công nhân nước ta, vai trò không có lực
lượng xã hội nào có thể thay thế được trong sự nghiệp “lãnh đạo thành công
công cuộc xây dựng một xã hội mới, trong đó nhân dân lao động làm chủ, đất
nước độc lập và phồn vinh, xoá bỏ áp bức, bất công, mọi người đều có điều
kiện phấn đấu cho cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”.
V. Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá –

hiện đại hoá đất nước:
Xin nhắc lại, do điều kiện lịch sử ở một nước thuộc địa, giai cấp công
nhân Việt Nam ra đời và trưởng thành gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc và đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Giai cấp công nhân Việt Nam có
mối quan hệ tự nhiên, máu thịt với giai cấp nông dân, với tầng lớp trí thức và
nhân dân lao động.
NGUYỄN THÀNH LONG | 11510106448
16
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM
Đó là những cơ sở để xây dựng khối liên minh công - nông - trí thức bền
vững ở nước ta. Đó cũng là cơ sở kinh tế - xã hội vững chắc bảo đảm vị trí lãnh
đạo của Đảng trong điều kiện hiện nay.
Sau hơn hai mươi năm tiến hành đổi mới, từ một nước nông nghiệp là
chủ yếu, chúng ta đang chuyển dần thành một nước công nghiệp theo xu hướng
hiện đại. Tham gia vào đủ các thành phần kinh tế. Giai cấp công nhân Việt Nam
là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội
nhập kinh tế quốc tế và đã có nhiều cố gắng để phát huy vai trò nòng cốt trong
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới
sự lãnh đạo của Đảng.
Trong những năm đổi mới, giai cấp công nhân nước ta đã có những bước
phát triển tích cực, mạnh mẽ, đang tăng nhanh về số lượng, ngày càng đa dạng
về cơ cấu, đồng thời chất lượng đội ngũ được nâng lên, đã xuất hiện bộ phận
công nhân trí thức. Cùng với các giai cấp, giai tầng xã hội khác trong khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp công nhân đã có đóng góp to lớn vào quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Về mặt sản xuất, giai cấp công nhân là lực lượng cơ bản, chủ yếu, có vai
trò to lớn trong nền kinh tế quốc dân. Mặc dù về số lượng, giai cấp công nhân ở
nước ta chiếm tỷ lệ không lớn trong tổng số dân cư (khoảng 13%) nhưng nắm

giữ những cơ sở vật chất và các phương tiện sản xuất hiện đại nhất của xã hội,
quyết định phương hướng phát triển chủ yếu của nền kinh tế. Giai cấp công
nhân là lực lượng lao động đóng góp nhiều nhất vào ngân sách nhà nước. Hằng
năm, giai cấp công nhân đóng góp khoảng 50% tổng sản phẩm xã hội và bảo
đảm hơn 60% ngân sách nhà nước. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là nhân
tố quan trọng để đưa công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết Hội nghị Trung Ương 6 (khóa X)
khẳng định: "Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp
lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai
cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự
NGUYỄN THÀNH LONG | 11510106448
17
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của
Đảng". Mục tiêu phấn đấu của chúng ta đến năm 2020 là đưa Việt Nam cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong thời gian từ nay
đến mốc thời gian đó, kinh tế thế giới chuyển mạnh sang nền kinh tế tri thức,
tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ cao, khoảng cách giữa các nước giàu và nghèo sẽ
ngày càng gia tăng.
Do vậy, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải đẩy mạnh
hơn, Công nghiệp hoá phải gắn với kinh tế tri thức để rút ngắn thời gian, bảo
đảm kinh tế phát triển bền vững, môi trường được bảo vệ, an sinh xã hội được
tăng cường, xã hội phát triển hài hòa, nguồn nhân lực ngày càng có chất lượng,
trình độ cao. Trong bối cảnh đó, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, nhiều
hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta, với

đầy đủ những mặt tích cực và cả những mặt trái của nó đặt ra cho giai cấp công
nhân Việt Nam những đòi hỏi mới, những thử thách mới phải vượt qua.
Tuy vậy, việc nhận thức đúng và phát huy vai trò của giai cấp công nhân
trong thời kỳ mới còn nhiều bất cập. Nghị quyết Hội nghị T.Ư 6 (khóa X) chỉ
rõ: "Đảng có chú trọng xây dựng giai cấp công nhân, nhưng quan tâm chưa
đầy đủ, chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ
mới. Nhà nước ban hành nhiều chính sách, pháp luật xây dựng giai cấp công
nhân, nhưng chính sách, pháp luật này vẫn còn hạn chế "; "tỷ lệ đảng viên và
cán bộ lãnh đạo xuất thân từ công nhân còn thấp Lợi ích một bộ phận công
nhân được hưởng chưa tương xứng với những thành tựu của công cuộc đổi mới
và những đóng góp của chính mình; việc làm, đời sống vật chất và tinh thần
của công nhân đang có nhiều khó khăn, bức xúc ". Địa vị chính trị của giai cấp
công nhân chưa được thể hiện đầy đủ. Sự phát triển của giai cấp công nhân cũng
chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, về cơ cấu và trình độ học vấn, về
NGUYỄN THÀNH LONG | 11510106448
18
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cho sự nghiệp công nghiẹp hoá, hiện đại hoá
và hội nhập kinh tế quốc tế.
Chúng ta vẫn còn thiếu nghiêm trọng đội ngũ chuyên gia kỹ thuật, cán bộ
quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động ở
một bộ phận công nhân còn nhiều hạn chế; những nông dân và các tầng lớp lao
động xã hội khác mới gia nhập hàng ngũ giai cấp công nhân chưa được đào tạo
cơ bản và có hệ thống.
Nhằm khắc phục những tồn tại yếu kém để xây dựng giai cấp công nhân
đủ sức đảm nhiệm được sứ mệnh của mình là lực lượng chủ yếu đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đảng ta yêu cầu: Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực
tiễn, phát triển lý luận về giai cấp công nhân trong điều kiện kinh tế thị trường

định hướng Xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề,
từng bước trí thức hóa giai cấp công nhân; quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình
độ chính trị, ý thức giai cấp, tính dân tộc cho công nhân; sửa đổi, bổ sung, xây
dựng hệ thống chính sách, pháp luật để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng của công nhân; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò công
đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong xây dựng giai cấp công nhân.
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết hữu cơ với xây
dựng, phát huy sức mạnh của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, giữa giai cấp công
nhân với tất cả các tầng lớp xã hội trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc - động
lực chủ yếu của sự nghiệp phát triển đất nước, đồng thời tăng cường quan hệ
đoàn kết, hợp tác quốc tế với giai cấp công nhân trên thế giới. Chiến lược xây
dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế
quốc tế.
Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội và chăm lo xây dựng giai cấp công nhân; bảo đảm hài hòa
lợi ích giữa công nhân và người sử dụng lao động, Nhà nước và toàn xã hội;
NGUYỄN THÀNH LONG | 11510106448
19
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM
không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân, quan tâm giải
quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, cấp bách đang đặt ra của giai cấp công
nhân.
VI. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự phát triển của
giai cấp công nhân – động lực phát triển đất nước:
1. Phương hướng lãnh đạo:
25 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo,

giai cấp công nhân Việt Nam không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất
lượng, đang có mặt trong tất cả các ngành nghề, các thành phần kinh tế, là lực
lượng quan trọng, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước. giai cấp công nhân Việt Nam đang ngày đêm lao động cần cù, sáng tạo,
sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cho xã hội và xuất khẩu
với chất lượng và hiệu quả ngày càng cao. Với số lượng chỉ chiếm 21% tổng số
lao động và 11% dân số cả nước, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam đã đóng
góp hơn 60% tổng sản phẩm xã hội và 70% ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, đời sống người công nhân hiện còn rất nhiều khó khăn. Hiện
nay, giai cấp công nhân Việt Nam đang đứng trước những thách thức to lớn:
Yêu cầu cao của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và hội nhập
quốc tế, trong điều kiện khoa học công nghệ ngày càng phát triển nhanh, cạnh
tranh gay gắt, tình hình thế giới có những thay đổi nhanh chóng, âm mưu “diễn
biến hoà bình” của các thế lực thù địch đối với nước ta vẫn còn phức tạp. Tác
động mặt trái của kinh tế thị trường và sự du nhập của các luồng văn hoá độc
hại đang từng ngày, từng giờ tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội nói chung, đến giai cấp công nhân nói riêng. Việc làm của công nhân, lao
động không ổn định; thời gian làm việc kéo dài và cường độ làm việc cao, điều
kiện làm việc ít được cải thiện, nên nguy cơ tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp vẫn gia tăng.
NGUYỄN THÀNH LONG | 11510106448
20
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM
Mặc dù Đảng đã có Nghị quyết về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá, nhưng việc thể chế hóa nghị
quyết thành chính sách, pháp luật chưa được thực hiện. Vì vậy, trên thực tế,
nhiều vấn đề bức xúc của giai cấp công nhân chưa được giải quyết thỏa đáng.
Hàng vạn công nhân lao động ở các khu công nghiệp, khu chế xuất phải thuê

nhà ở trong điều kiện tạm bợ thiếu thốn và không đảm bảo các điều kiện sống
tối thiểu. Ở nhiều khu công nghiệp, tình trạng nữ công nhân lao động không lập
được gia đình có xu hướng gia tăng, nhà trẻ, trường mầm non thiếu trầm trọng.
Tiền lương, thu nhập của người lao động chưa tương xứng với cường độ và thời
gian lao động, có nơi lương công nhân không đủ để tái tạo sức lao động, nên đời
sống vật chất và tinh thần của công nhân viên chức lao động gặp rất nhiều khó
khăn, thiếu thốn. công nhân lao động không có thời gian, điều kiện sinh hoạt
học tập nâng cao nhận thức chính trị và trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Do vậy,
trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp của một bộ phận công nhân còn
thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước; ý
thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp, ý thức chính trị, hiểu biết pháp luật
còn hạn chế.
Công tác phát triển Đảng trong công nhân chưa thực sự được quan tâm,
nên ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước, có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), tỉ lệ
Doanh nghiệp có tổ chức cơ sở Đảng rất thấp. Hiện nay, cả nước mới có 1,2%
số Doanh nghiệp tư nhân, Cty TNHH, Cty cổ phần và Doanh nghiệp FDI có chi
bộ Đảng, với số đảng viên chỉ bằng 0,84% tổng số đảng viên của cả nước. Từ
năm 2006 đến nay, tỉ lệ đảng viên là công nhân trong số đảng viên mới kết nạp
chưa năm nào vượt quá 10%. Với trách nhiệm của mình, Đảng đoàn Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam đã kiến nghị tại Điều 4 của Điều lệ Đảng: Công đoàn
cơ sở có quyền giới thiệu đoàn viên ưu tú của mình đứng trong hàng ngũ của
Đảng để phát triển Đảng ngày càng vững mạnh.
NGUYỄN THÀNH LONG | 11510106448
21
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM
2. Vấn đề Chính sách đối với C ông nhân viên chức lao động chưa được
thực hiện nghiêm túc
Nguyên nhân cơ bản của tình hình trên là do sự lãnh đạo của một số cấp

ủy Đảng địa phương chưa được quyết liệt, sát sao; chính sách, pháp luật của
Nhà nước đối với công nhân viên chức lao động chưa được thực hiện nghiêm
túc; vai trò, trách nhiệm của tổ chức Công đoàn chưa được phát huy đầy đủ; sự
phối kết hợp của cả hệ thống chính trị đối với việc xây dựng giai cấp công nhân,
chăm lo đến đời sống chưa đạt hiệu quả cao; chưa thường xuyên quan tâm tổ
chức các cuộc tiếp xúc, gặp gỡ và đối thoại trực tiếp giữa cán bộ của Đảng, Nhà
nước với công nhân lao động; ít có hình thức tôn vinh công nhân lao động tiêu
biểu, nhằm kịp thời động viên những người lao động trực tiếp làm ra của cải vật
chất cho đất nước. Hệ thống cơ chế, chính sách đối với giai cấp công nhân chưa
đồng bộ, có những chủ trương chính sách không còn phù hợp, nhưng chậm
được sửa đổi, bổ sung kịp thời, v.v
Tình trạng người sử dụng lao động vi phạm pháp luật lao động vẫn còn
diễn ra phổ biến nhưng chưa được xử lý nghiêm. Sự phân hoá giàu nghèo giữa
công nhân lao động với cán bộ quản lý trong Doanh nghiệp và một số giai tầng
trong xã hội ngày càng tăng. Một số địa phương chỉ chú trọng đưa ra các cơ chế,
chính sách ưu đãi kêu gọi đầu tư, mà chưa chú ý đúng mức đến sự phát triển bền
vững, bảo vệ môi trường, chăm lo đời sống, thu nhập, nhà ở, cải thiện môi
trường sống, điều kiện lao động cho công nhân nên đã xảy ra nhiều vụ tranh
chấp lao động, đình công, ngừng việc tập thể trong thời gian qua.
Công tác đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ công nhân lao động, đào
tạo cán bộ xuất thân từ công nhân ưu tú, công tác phát triển Đảng trong công
nhân lao động - nhất là trong công nhân lao động khu vực kinh tế ngoài nhà
nước cũng chưa được quan tâm đúng mức.
Nhận thức của các cấp ủy Đảng ở một số địa phương về vai trò công nhân
và Công đoàn Việt Nam chưa đầy đủ, trong khi nhiều công nhân lao động trình
độ còn thấp, ý thức tổ chức kỷ luật còn hạn chế, quan hệ lao động còn có diễn
NGUYỄN THÀNH LONG | 11510106448
22
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT

NAM
biến phức tạp; việc thu hút, tập hợp người lao động tham gia các tổ chức chính
trị - xã hội trong doanh nghiệp còn khó khăn.
3. Kiến nghị sửa đổi và khắc phục, giải quyết vấn đề:
Để xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, xứng đáng là giai cấp tiên
phong trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, làm
cơ sở xã hội, chỗ dựa vững chắc cho Đảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, chúng tôi có 4 kiến nghị với đại hội như sau:
Một là, Đảng cần tiếp tục kiên định lập trường giai cấp công nhân, tăng
cường và giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng; xây dựng và lãnh đạo
thực hiện có hiệu quả chiến lược về giai cấp công nhân gắn với chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá; xây dựng giai cấp
công nhân vững mạnh, xứng đáng là giai cấp lãnh đạo cách mạng, thông qua đội
tiên phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam; làm cho giai cấp công nhân
thực sự là nòng cốt của liên minh công nhân - nông dân - trí thức, nền tảng của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm thất bại mọi âm mưu diễn biến hoà bình, đòi
thành lập công đoàn độc lập chia rẽ giai cấp công nhân, đòi đa nguyên, đa đảng.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng cần chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa
phương triển khai quyết liệt, đồng bộ và có hiệu quả Nghị quyết 20-NQ/TW của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X); phải sử dụng tổng hợp các biện
pháp thực sự đưa nghị quyết của T.Ư Đảng vào cuộc sống, làm cho công nhân
viên chức lao động cảm nhận được những thay đổi tích cực khi thực hiện nghị
quyết.
Hai là, Đảng lãnh đạo Chính phủ phát huy mạnh mẽ hiệu lực quản lý của
Nhà nước trong việc xây dựng, thực hiện các chính sách đối với công nhân lao
động; Nhà nước sớm thể chế hoá những quan điểm, chủ trương lớn đã được thể
hiện trong nghị quyết của Đảng thành cơ chế chính sách cụ thể, nhằm giải quyết
có hiệu quả những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân, tạo chuyển
biến mạnh mẽ và rõ rệt trong việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
NGUYỄN THÀNH LONG | 11510106448

23
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM
công nhân viên chức lao động tương xứng với những thành quả của công cuộc
xây dựng, phát triển đất nước và những đóng góp của giai cấp công nhân. Trước
mắt, cần giải quyết những bức xúc hiện nay đối với công nhân như: Nhà ở, nhà
trẻ tại các khu công nghiệp, tiền lương và thu nhập, bảo hiểm xã hội, nơi sinh
hoạt văn hoá, an toàn vệ sinh lao động và bảo vệ môi trường.
Quan tâm lãnh đạo sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật có liên quan
trực tiếp tới người lao động và tổ chức Công đoàn, nhất là Bộ luật Lao động,
Luật Công đoàn, Luật Bảo hiểm xã hội. Việc sửa đổi, bổ sung các luật trên vừa
phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, vừa phải tạo điều kiện để tổ chức Công
đoàn năng động, tự chủ và sáng tạo trong hoạt động, thực sự trở thành người đại
diện tin cậy, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao
động - đối tượng yếu thế nhất trong quan hệ lao động. Tăng cường hơn nữa
công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật lao động, xử lý nghiêm
những vi phạm pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền lợi người lao động, không
vì thu hút đầu tư mà xem nhẹ người lao động - yếu tố có tính quyết định đến sự
tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp, nhằm xây dựng quan hệ lao động hài
hoà, tiến bộ trong Doanh nghiệp.
Ba là, cần triển khai một cách có hiệu quả chủ trương từng bước trí thức
hoá giai cấp công nhân. Chất lượng giai cấp công nhân có vai trò quyết định đến
năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh
tranh của Doanh nghiệp và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vì vậy,
cần đầu tư mạnh hơn cho đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng nâng cao trình độ
học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề cho công nhân, đặc biệt là công nhân trẻ,
công nhân xuất thân từ nông dân, công nhân nữ, nhằm phát triển về số lượng,
nâng cao về chất lượng, hợp lý về cơ cấu.
Chú trọng hơn nữa công tác bồi dưỡng, phát triển Đảng trong công nhân,

thành lập tổ chức cơ sở Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong các loại
hình Doanh nghiệp, nhất là Doanh nghiệp khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Có
cơ chế, chính sách đẩy mạnh việc tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng
NGUYỄN THÀNH LONG | 11510106448
24
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM
những cán bộ ưu tú xuất thân từ công nhân, nhất là công nhân trực tiếp sản xuất,
tăng dần tỉ lệ cán bộ xuất thân từ công nhân trong bộ máy lãnh đạo các cấp, góp
phần tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Quan tâm tạo điều kiện
về mọi mặt cho công đoàn các cấp, đặc biệt là công đoàn cơ sở hoạt động có
hiệu quả. Đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và tạo cơ hội phát triển cho cán bộ công
đoàn trẻ có trình độ, đạo đức tốt, xuất thân từ công nhân.
Bốn là, Đảng cần quan tâm bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, ý thức
giai cấp, tinh thần dân tộc cho công nhân lao động, để họ luôn gắn bó với sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, có ý chí vươn lên thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu, tinh thần phấn đấu vươn lên trong điều kiện phát triển kinh tế tri
thức và hội nhập quốc tế; xây dựng tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động,
lương tâm nghề nghiệp.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng với hoạt động của tổ chức
Công đoàn trong công tác tuyên truyền, giáo dục công nhân lao động, đảm bảo
định hướng thống nhất nội dung và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền,
giáo dục từ trung ương đến cơ sở, nhằm tăng cường quan hệ mật thiết giữa
Đảng với công nhân và công đoàn. Nhà nước cần đầu tư và có chính sách ưu đãi
đầu tư xây dựng thiết chế văn hóa và tổ chức hoạt động của các nhà văn hoá lao
động, câu lạc bộ công nhân, hệ thống truyền thông đại chúng, tạo môi trường
lành mạnh để xây dựng đời sống văn hóa trong công nhân lao động, góp phần
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
C. KẾT LUẬN

Giai cấp công nhân Việt Nam đang đứng trước những yêu cầu mới của sự
nghiệp cách mạng. Để xứng đáng là lực lượng đi đầu, giai cấp công nhân phải
vươn lên về mọi mặt. Xây dựng giai cấp công nhân nước ta lớn mạnh, ngang
tầm với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chủ động vững bước vào quá
NGUYỄN THÀNH LONG | 11510106448
25

×