Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Các dạng đề văn ôn thi Đại học bài VIỆT BẮC của Tố Hữu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.13 KB, 26 trang )

ĐỀ 1: Cảm nhận về đoạn thơ sau đây trong bài thờ “Việt Bắc” của Tố Hữu:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi , nhìn song nhớ nguồn
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Aó chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.
* Định hướng 1 :
I. Mở bài :
- Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu của thơ ca Cách mạng Việt Nam.
- “Việt Bắc” là một trong những bài thơ được xếp vào hạng những bài thơ “tống
biệt” của Tố Hữu.Mặc dù là đề tài cũ,nhưng bài thơ vẫn mới mẻ bởi “Việt Bắc” ra
đời trong cuộc chia tay đặc biệt giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến vào
tháng 10/1954.
- Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ không mang cảnh trạng của một cuộc chia ly
với nỗi buồn đầy nước mắt, mà là nỗi niềm chia ly trong tình cảm giữa cán bộ và
nhân dân sâu đậm ân tình.
- Đoạn thơ mở đầu của bài thơ là sự thể hiện tinh tế và sâu sắc những rung động
trong trái tim của người đi và người ở trong giờ phút phân ly:
“Mình về mình có nhớ ta
….
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.
II. Thân bài:
1. Toàn đoạn thơ có 8 câu, được viết theo thể thơ lục bát với âm điệu nhẹ
nhàng tha thiết mang âm hưởng của ca dao dân ca, là lời ướm hỏi và sự giãi bày
nỗi niễm, cảm xúc của cả người đi lẫn người ở lại.
2 .
a. Trước hết, mở đầu đoạn thơ là 4 câu thơđầu là lời ướm hỏi chân thành
của Việt Bắc với cán bộ kháng chiến trong giây phút ban đầu của cuộc chia


tay:
“Mình về mình có nhớ ta.

Nhìn cây nhớ núi nhìn song nhớ nguồn”.
- Gịong thơ như chảy ra từ trong nguồn mạch của ca dao.
+ Cách xưng hô “mình- ta” cứ như lời bày tỏ tình yêu đôi lứa trong dân
gian .Đại từ “mình” trong dân gian chỉ thể hiện ở cao trào của tình yêu khi hai con
người hoá thân thành một. Ở đây, tác giả lấy phép màu nhiệm của tình yêu để
cắt nghĩa, lý giải cho mối quan hệ gắn bó giữa các bộ với nhân dân.
+ Điệp ngữ và kết cấu câu hỏi tu từ “ mình về mình có nhớ”được láy lại 2
lần như khơi vào trong kỷ niệm của người đi và người ở.
+ Cách dùng những từ ngữ gợi ý niệm về thời gian “mười lăm năm…”
làm cho nỗi nhớ càng như thăm thẳm .Con số mười lăm nămvừa mang nghĩa
thực, vừa mang nghĩa hư ảo : đó là mười lăm năm các mạng. mười lăm năm
chiến khu Việt Bắc nhưng đồng thời cũng là mười lăm năm gắn bó thuỷ
chung giữa cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc ( như mối tình Kim- Kiều
qua bao nhiêu năm thử thách vẫn hướng về nhau).
+Cách dùng hình ảnh gợi ý niệm về không gian “cây…núi”; “sông…
nguồn” làm cho nỗi nhớ bồng bềnh, thăm thẳm . Các cặp hình ảnh “ cây-núi”;
“sông-nguồn” cũng vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa ảo > gợi được không
gian núi rừng Việt Bắc với những nét riêng, đặc thù. Ngoài ra, nó còn gợi lên tình
cảm chung thuỷ trong mối quan hệ cội nguồn : Cán bộ từ dân mà ra. Nhớ về nhân
dân, như nhớ về cội nguồn

Cách liên tưởng so sánh trong bài thơ đã nới rộng về không gian của nỗi
nhớ, làm cho kỷ niệm cứ được tuôn ra tầng tầng lớp lớp.
b.Tiếp theo, 4 câu sau là sự thể hiện tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến, bịn
rịn của người đi với người ở lại
Tiếng ai tha thiết bên cồn
….

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.

-Giây phút chia li trong tưởng tượng diễn ra cực kỳ sâu sắc với những cảm xúc
ghìm nén trong tâm trạng của người đi :
+ Đại từ “ai” phiếm chỉ tạo nên một cõi mơ hồ, mông lung trong nỗi nhớ ( như
cách bày tỏ trong ca dao : Ai về ai có nhớ ai…).
+ Những từ láy “ tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn” diễ tả chính xác con
sóng lòng đang dấy lên trong tâm hồn nhà thơ lúc phân ly.
+ Hình ảnh hoán dụ “Aó chàm” ( chỉ người Việt Bắc) đã thể hiện tình cảm gắn
bó của nhà thơ với những người dân Việt Bắc giản dị, nghèo khổ mà sâu đậm ân
tình.
+ Cách ngắt nhịp 3/3; 3/3/2 ở hai câu thơ cuối đoạn diễn tả mộc cách thân tình
cái ngập ngừng , bịn rịn trong tâm trạng, trong cử chỉ của người đi kẻ ở.Kỷ vật trao
rồi mà mà lòng vẫn quyến luyến không thể rời xa.
III. Kết bài :
- Có thể nói, đây là đoạn thơ hay nhất của bản tình ca Việt Bắc, bởi lẽ :
+ Nhà thơ đã miêu tả rất đúng quy luật nỗi nhớ trong tình cảm của con người
ở vào giờ phút chia li : nỗi nhớ nào cũng làm cho thời gian đằng đẵng và không
gian mênh mông. Nhớ nhau , người ta tính từng khoảng cách. Có điều ở đây, chưa
chia li mà đã nhớ. Người còn đấy, cảnh còn đây, mặt đối mặt mà lòng đã bâng
khuâng , lưu luyến.
+ Dù miêu tả tình cảm mang tính chất chính trị, nhưng đoạn thơ không khô
khan, trừu tượng bởi tác giả nắm vững quy luật của tình đời, tình người.

Chính vì thế, đoạn thơ ( nói riêng) ; “Việt Bắc” ( nói chung) đã vượt qua
ranh giới của thời đại, thấm sâu vào hồn của người đọc qua nhiều thế hệ.
* Định hướng 2
I.Mở bài ( vận dụng cách mở bài của các đề trên)
II. Thân bài:
1.Bốn câu đầu là lời Việt Bắc tỏ bày với người cán bộ chiến sĩ khi chia

tay:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn ?
- Điệp từ “nhớ” luyến láy trong cấu trúc câu hỏi tu từ đồng dạng, tràn đầy
thương nhớ.
- Cách xưng hô ”mình – ta” mộc mạc, thân gần gợi liên tưởng ca dao:
“Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm dải áo, ta đề bài thơ”.
+ “15 năm” là chi tiết thực chỉ độ dài thời gian từ năm 1940 thời kháng Nhật và
tiếp theo là phong trào Việt Minh, đồng thời cũng là chi tiết gợi cảm – nói lên
chiều dài gắn bó thương nhớ vô vàn. Câu thơ mang dáng dấp một câu Kiều – Mười
lăm năm bằng thời gian Kim – Kiều xa cách thương nhớ mong đợi hướng về nhau.
(Những là rày ước mai ao – Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình). Cảm xúc đậm
đà chất dân gian, đậm đà chất Kiều.
- Âm điệu ngọt ngào, giọng thơ nồng ấm, tình cảm do vậy dạt dào thiết tha.
- Việt Bắc hỏi về :
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”.
Câu hỏi chất chứa tình cảm lưu luyến, bao hàm lời dặn dò kín đáo: đừng quên
cội nguồn Việt Bắc – cội nguồn cách mạng.
2.Bốn câu tiếp theo là nỗi lòng của người về:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
-“Bâng khuâng, bồn chồn” là hai từ láy gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lí tình
cảm buồn vui, luyến tiếc, nhớ thương, chờ mong… lẫn lộn cùng một lúc. Mười
lăm năm Việt Bắc cưu mang người cán bộ chiến sĩ, mười lăm năm gian khổ có

nhau, mười lăm năm đầy những kỉ niệm chiến đấu, giờ phải chia tay rời xa để làm
nhiệm vụ mới về tiếp quản tại thủ đô Hà Nội (10/1954), biết mang theo điều gì,
biết lưu lại hình ảnh nào, tâm trạng của người về do vậy không tránh khỏi là nỗi
niềm bâng khuâng khó tả.
-“Áo chàm đưa buổi phân li” vừa là một hoán dụ,vừa ẩn dụ : màu áo chàm,
màu áo xanh đen đặc trưng của người miền núi Việt Bắc – tác giả hướng nỗi nhớ
Việt Bắc qua hình ảnh cụ thể “áo chàm”, chiếc áo, màu áo bình dị, đơn sơ, mộc
mạc của vùng quê nghèo thượng du đồi núi nhưng sâu nặng nghĩa tình, đã góp
phần không nhỏ vào sự nghiệp kháng chiến cứu nước.
- Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”đầy tính chất biểu cảm – biết nói
gì không phải không có điều để giãi bày mà chính vì có quá nhiều điều muốn nói
không biết phải nói điều gì. Ba dấu chấm lửng đặt cuối câu là một dấu lặng trên
khuôn nhạc để tình cảm ngân dài, sâu lắng…
III. Kết bài:
- Tóm lại, đoạn thơ trên là nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của Việt
Bắc.
- Đoạn thơ trên tiêu biểu sắc thái phong cách Tố Hữu, giọng điệu thơ ngọt ngào
truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao dân gian, đề cập đến con người và cuộc
sống kháng chiến.
-Thông qua hình tượng Việt Bắc, tác giả ca ngợi phẩm chất cách mạng cao
đẹp của quân dân ta, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung son sắt của người cán
bộ, chiến sĩ đối với “Việt Bắc”.

Đề 2 : Phân tích đoạn thơ sau đây trong bài thơ “Việt Bắc ” của Tố Hữu:
“Nhớ gì nhơ nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi , nắng chiều lưng nương.
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Đáy, suối Lê vơi đầy

Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi”
* Định hướngI.
Mở bài ( vận dụng cách mở bài của đề 1):
- Giới thiệu ngắn gọn hoàn cảnh sang tác của bài thơ.
- Đoạn thơ “ Nhớ gì như nhớ người yêu……Mình đây , ta đó đắng cay ngọt
bùi thuộc phần 2 của bài thơ Việt Bắc
- Sau bối cảnh phân li là lời đối đáp của kẻ ở người đi : người ở lại nhắn nhủ người
ra đi mười hai dòng lục bát.Còn người đi đáp lại người ở lại những 72 dòng. Trong
72 dòng ấy, nỗi nhớ được khơi ra chồng chất; vàmột trong nhiều nỗi nhớ ấy có
nỗi nhớ da diết “ như nhớ người yêu” của người đi.
.II. Thân bài:
1. Trước hết, ở 2 câu đầu của đoạn thơ :
“Nhớ gì như nhớ người yêu.
Trăng lên đầu núi , nắng chiều lưng nương”
- Tố Hữu đã lấy thước đo giá trị của nỗi nhớ trong tình yêu để cắt nghĩa, lý giải
cho tình cảm của cán bộ đối với nhân dân. Không phải là nỗi nhớ của ý thức , của
nghĩa vụ mà nhớ bằng cả trái tim yêu thương chân thành và da diết.
- Câu thơ “Trăng lên đầu núi…” như được phân ra làm 2 nửa thời gian :vế đầu
là hình ảnh gợi tả đêm trăng hò hẹn của tình yêu; vế sau là hình ảnh gợi
không gian của buổi chiều lao động trên nương rẫy. Thời gian như chảy ngược
- nỗi nhớ như đi từ gần tới xa, thăm thẳm trong quá khứ. Tình yêu gắn liền với lao
động; lao động nảy sinh ra tình yêu .Câu thơ cùng lúc thể hiện hai không gian
của tình yêu và lao động, tạo nên sự hài hoà giữa nghĩa vụ và tình cảm.
2. Đến hai câu thơ tiếp, tình yêu như chuyển thành nỗi nhớ trong tình cảm gia
đình. Toàn không gian núi rừng Việt Bắc được gói gọn trong không khí gia
đình ấm áp tình thương.
“Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”
- Nỗi nhớ không còn mông lung, mơ mộng nữa mà đã cụ thể trong những bản

làng, những mái nhà thấp thoáng trong những làn khói sương hư ảo. ( Hình ảnh
khói sươnglà đặc điểm của cuộc sống Việt Bắc, vừa là khói sương của thiên nhiên,
đồng thời như là hơi ấm của tình đời, tình người toả ra) .Có hình ảnh của ai đó
đang chờ đợi bên bếp lửa suốt đêm dài thao thức ( cứ như cảnh vợ chờ cơm
chồng).
 Quan hệ giữa cán bộ và nhân dân như tụ họp ở ngọn lửa bất diệt thiêng
liêng ấy.
3.Kết thúc khổ thơ , tình cảm lại toả ra tràn ngập cả núi rừng Việt Bác.Những kỷ
niệm chung và riêng đan xen nhau, lần lượt hiện ra trong tưởng tượng của người
đi :
“Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày,
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi”
- Bằng phép liệt kê làm cho những kỷ niệm khơi ra tầng tầng lớp lớp, hết hình
ảnh này, đến hình ảnh khác.
+ Những hình ảnh “rừng nứa bờ tre” chính là nơi hẹn hò, gặp gỡ cái thở ban
đầu ,lúc mới quen nhau. Đây cũng là những danh từ chungmô tả đặc điểm của
không gian Việt Bắc với bao nét đẹp mơ mộng.
+ Còn “Ngòi Thia , sông Đáy , suối Lê … là những địa danh lịch sử , đã từng
khắc ghi trong lịch sử Cách mạng- nơi đã diễn ra nhiều chiến công oanh liệt .
 Những gắn bó gian khổ, ngọt bùi đã trở thành những kỷ niệm da diết trong
trái tim người đi khó có thể quên được.
III. Kết :Đoạn thơ là những hồi ức và nỗi nhớ thương da diết của người đi với Việt
Bắc > Tấm lòng của CBKC với Việt Bắc sâu đậm ân tình.Đoạn thơ còn là sự thể
hiện thành công phong cách thơ Tố Hữu : ngọt ngào tha thiết và đậm đà tính dân
tộc

ĐỀ 4: Phần tích ( hay cảm nhận) về đoạn thơ sau đây trong bài thơ Việt
Bắc của Tố Hữu: “Ta về mình có nhớ taTa về ta nhớ những hoa cùng

ngườiRừng xanh hoa chuối đỏ tươiĐèo nắng ánh dao gài thắt lưngNgày xuân
mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi giangVe kêu rừng phách
đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mìnhRừng thu trăng rọi hoà bìnhNhớ ai
tiếng hát ân tình thuỷ chung.”( Theo Văn học 12- tập 1- NXBGD)*
ĐỊNH HƯỚNG- Cách 1:lập ý phân tích theo cách cắt ngang ( bức tranh 4
mùa).I.Mở bài:
-Kể về những thành tựu xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì kháng
chiến chống thưc dân Pháp xâm lược, có lẽ chúng ta không thể nào không
nhắc đến “Việt Bắc” của Tố Hữu. Đây là một bài thơ mang đậm đà màu
sắc dân tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu. Thông qua đó, thể
hiện niềm nhớ thương tha thiết và tình cảm sắt son đầm thắm của
nhân dân Việt Bắc với cách mạng, với Đảng, với Bác Hồ, đồng thời
cũng thể hiện tình cảm của người cán bộ kháng chiến với thiên thiên,
núi rừng và con người Việt Bắc.
-Đoạn thơ gồm năm câu lục bát nhắc lại những cảnh thân thiết và
tươi đẹp nhất về cảnh và người Việt Bắc trong hồi ức của người cán bộ
cách mạng miền xuôi, ở đây chính là nhà thơ.
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
………………
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
II. Thân bài:Đoạn thơ có 10 câu, được viết theo thể thơ lục bát với giọng
thơ ngọt ngào tha thiết , diễn tả sâu sắc nỗi nhớ của người đi với Việt
Bắc:1.Trước hết là 2 câu thơ : Ta về mình có nhớ taTa về ta nhớ những
hoa cùng người.
- Đây là hai câu thơ mở đầu nhưng nó mang cảm xúc chung cho
toàn đoạn.
+ “Ta” là người ra đi cũng chính tác giả. Ở đây đoạn thơ kết cấu theo
lối đối đáp thông thường trong dân ca truyền thống. Do đó, đây chính là
lời hỏi ngọt ngào của người ra đi với người ở lại, dễ liên tưởng người

được hỏi ở đây là một thiếu nữ địa phương. Và câu hỏi tu từ này là cái cớ
bày tỏ tình yêu của một chàng trai miền đồng bằng với cô gái miền cao.
+ “Hoa và người” thực là nỗi nhớ về thiên nhiên và con người Việt
Bắc. Ở đây, thiên nhiên hòa điệu với con người, giữa chúng ngoài mối
quan hệ tương hỗ còn có mối tương sinh lẫn nhau. Việt Bắc sinh ra
con người và con người làm nồng ấm quê hương Việt Bắc.
2.Tiếp theo , tám dòng lục bát còn lại như là một bức tranh tứ bình về
thiên và con người Việt Bắc. Với bốn dòng lục, nhà thơ đã miêu tả phong
cảnh núi rừng qua bốn mùa, mỗi mùa là một bức tranh thiên thiên có nét
đẹp riêng biệt. Qua đây, ta thấy chỉ riêng đoạn thơ này đã thấm đậm tính
chất dân gian.
a.Đầu tiên là bức tranh tả cảnh và khơi gợi cho chúng ta tình
cảm mến thương của mùa đông Việt Bắc. Tại sao lại là mùa đông? Vì
đây là hồi ức của tác giả trong giờ phút chia tay. Chúng ta còn nhớ, vào
một đêm mùa đông 1946, Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân kháng chiến.
Đặc biệt ở Hà Nội, những người lính lặng lẽ rời thành phố, bí mật theo
chân cầu sông Hồng ngược xuôi lên căn cứ cách mạng Việt Bắc. Sự kiện
này, đến tận bây giờ vẫn còn chứng minh bởi một khúc hát quen thuộc:
“Đêm cái đêm rét quá chân cầu
Anh, anh đã hẹn ngày mai trở lại
Sông, sông Hồng bên bờ hát mãi
Tỏ niềm tin khúc khải hoàn ca”.
Lưu Trọng Lưu trong “Một mùa đông” đã từng viết :
“Đôi mắt em lặng buồn,
Nhìn tôi mà không nói.
Tình đôi ta vời vợi,
Có nói cũng vô cùng
Trời hết một mùa đông
Không một lần đã nói…”
Thế vậy mà, ở chốn núi rừng heo hút này Mùa đông rừng biếc

xanh đột ngột bùng lên màu đỏ tươi của hoa chuối rừng như những
bó đuốc thắp lên sáng rực. Vẻ đẹp nên thơ và rực rỡ của Việt Bắc vào
mùa đông gợi những người đọc những rung động sâu xa. Thông qua bức
tranh, ta thấy, dù mùa đông lạnh giá nhưng sự sống núi rừng vẫn cứ như
tuôn trào, cảm giác đem đến cho lòng người sự ấm áp lại.
Thiên thiên đáng yêu như thế, còn con người thì sao? Ta xét tiếp câu
hát:
“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
b.Thời gian được xác định bởi yếu tố “ngày xuân”.Chính ấn
tượng thời gian này tạo sự vật vận động, sinh sôi nảy nở. Không gian ở
đây như là cổ tích. Mới vừa rồi màu xanh bạt ngàn điểm hoa chuối đỏ, bây
giờ nở bung ra những rừng mơ trắng muốt thoảng hương thơm. Cái màu
trắng dìu dịu tinh khiết ấy phủ lên cả cánh rừng, gợi lên trong lòng ta
một cảm giác thơ mộng bâng khuâng. Ngoài ra màu trắng của hoa mơ
gợi cho người ta cái thanh thoát hơn, đem lại cho lòng người sự thanh
thản, thảnh thơi. Câu thơ làm cho ta thấy dường như màu xanh đã bị lấn
lướt. Mùa xuân ở đây không tưng bừng như mùa xuân của Xuân Diệu mà
nó đến một cách lặng lẽ, âm thầm nhưng không kém niềm vui.
“Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
+ Mùa xuân miêu tả trong câu thơ rất đặc trưng cho mùa xuân
Việt Bắc. Sợi giang là sản phẩm của Việt Bắc. Do vậy người lao động đó
là người Việt Bắc chứ không phải là người miền xuôi. Nhìn thấy được từng
sợi giang, tức là con người được nhìn ở tầm gần. Việc làm này có nhàn
nhã như chính mùa xuân, mùa xuân làm cho người ta cảm thấy thơ thới và
đem đến cho họ dáng điệu sống như thế.
c.Thế rồi, khoảnh khắc nhàn hạ của mùa xuân cũng qua mau,
qua mau, con người tiếp tục sống cuộc sống của họ vào mùa hạ :
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
- Bức tranh gợi sự chú ý cho người đọc bằng thị giác, lẫn thính giác.

+ Đầu tiên, cái độc đáo ở đây chính là âm thanh, âm thanh mùa hạ,
tiếng “ve kêu”. Câu thơ tạo ra hình ảnh nhân hóa. Con ve là loài vật, vậy
mà nó biết kêu, biết gọi, nó xui khiến rừng phách đổ vàng ở đây, chúng ta
nên dành một ít thời gian để tìm hiểu cái rừng phách kì lạ này. Rừng phách
là những cây lạ ở miền Bắc. Nó không mọc riêng rẽ mà mọc thành rừng,
rất nhạy cảm với thời tiết. Tiếng ve kêu râm ran đây đó đã báo hiệu mùa
hạ, nhưng lúc này đã là cuối hạ.
+Tiếp theo, Á nh nắng đang tràn ngập núi rừng, lá cây bắt đầu chuyển
sang màu vàng, cả rừng phách thay áo mới, chiếc áo vàng óng ánh dưới
ánh nắng mặt trời.
+ Cảnh thiên nhiên đẹp và rực rỡ thế lại càng lãng mạn hơn,vì trong
cánh rừng bạt ngàn ấy có thêm bóng dáng của một sơn nữ ”hái măng
một mình”. Đọc tới đây khiến ta liên tưởng đên một hình ảnh tương tự
trong thơ Nguyễn Bính, một nhà thơ của đồng quê:
“Thơ thẩn đường chiều một khách thơ
Say nhìn ra rặng núi xanh lơ
Khí trời lặng lẽ và trong trẻo
Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ”
Đây là khổ thơ thứ nhất trong bài thơ”Cô hái mơ”. Ta thấy có
sự giống nhau rất ngẫu nhiên: cũng là rừng núi và cô gái đang làm việc.
Chỉ có điều ở đây là “hái mơ” chớ không phải “hái măng”.
Từ “hái” ở đây dường như không thể thay thế bằng một động từ
nào khác: bẻ, đốn… vì chỉ có nó mới phù hợp nét dịu dàng, uyển chuyển,
mềm mại của cô gái mà thôi. Ta hãy thử tưởng tượng bức tranh mùa hạ
như thế này đẹp biết bao. Cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ như thế lại khảm
chạm thêm vào hình ảnh một người thiếu nữ nhẹ nhàng làm việc. Quả thật
bức tranh vừa đẹp vừa có thần nữ.
=>Rõ ràng thiên nhiên và con người đã hòa quyện vào nhau, tô
điểm cho nhau.
d.Cuối cùng đoạn thơ kết thúc bằng hình ảnh mùa thucũng

không kém phần thơ mộng:
”Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
- Câu thơ đã xác định rõ, đây là mùa thu. Thiên nhiên mùa thu
được miêu tả bằng ánh trăng. Việc sử dụng hình ảnh trăng thật ra cũng
không có gì độc đáo và mới mẻ. Tuy nhiên đặt vào hoàn cảnh Việt Bắc lúc
bấy giờ ta thấy được niềm mơ ước hòa bình của người cán bộ cũng như
toàn dân Việt Bắc. Tất cả đều nói lên niềm tin tưởng chiến thắng sẽ đến
với cách mạng với đất nước.
- Câu thơ thiếu cụ thể nên con người ở đây cũng thiếu cụ thể. Từ
“ai” nhòa đi để tạo nền cho cả đoạn và cũng nhằm trả lời cho câu hỏi đầu
tiên: “Mình về có nhớ ta chăng?”. Tuy hỏi thế nhưng trong lòng họ vẫn biết
rằng con người ấy vẫn thủy chung, son sắt. Đây là lời đồng vọng trong
tâm hồn của cả hai người yêu nhau cùng nhớ, cùng thương” “nhớ ai
tiếng hát ân tình thủy chung”.
* Qua đây, ta thấy bao trùm cả đoạn thơ là tình cảm nhớ thương tha
thiết tiếp tục âm hưởng chung của nghệ thuật ca dao:
+ Câu thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển, ý nọ gợi ý kia cứ trào lên
dào dạt trong lòng người ra đi và người ở lại.
+ Đặc biệt là qua cách xưng hô “mình” với “ta”. Ở đây điệp từ “nhớ”
dùng để xoáy sâu vào cảm hứng chủ đạo là hồi ức.Từ “rừng” lặp lại là
khoảng không gian cho nỗi nhớ tồn tại. Màu sắc cũng ảnh hưởng không ít
tới bức tranh, đỏ lặng lẽ, nhưng có sức sống. Màu con dao thể hiện sự
hoạt động. Màu trắng làm thanh thoát con người và màu vàng làm cho bức
tranh rực rỡ trong hoàng hôn. Rõ ràng bức tranh đã có sự hòa điệu của
màu sắc.
+ Bên cạnh đó,nhạc đệu dịu dàng trầm bổng khiến cả đoạn thơ mang
âm hưởng bâng khuâng, êm êm như một khúc hát ru – khúc hát ru kỉ niệm.
=> Có lẽ khúc hát ru này không của ai khác là của ”ta” và cho người
nhận là “mình”. Cả ”ta” và “mình” đều cùng chung nỗi nhớ, cùng

chung ”Tiếng hát ân tình “ và ân tình sâu nặng ấy mãi còn lưu luyến
vấn vương trong những tâm hồn chung thủy.
III. Kết bài : Có thể nói đây là đoạn thơ hay và có giá trị nhất trong bài
“Việt Bắc”. Cảnh thiên nhiên và con người trong đây được miêu tả hết sức
tuyệt vời và tươi đẹp, tràn ngập sức sống. Và với giọng thơ ngọt ngào, tâm
tình khiến đoạn thơ như một bản tình ca về lòng chung thủy sắt son của
người cách mạng đối với cả nhân dân, quê hương Việt Bắc.
- Cách 2 : lập ý kết hợp cắt ngang và bổ dọc :
I. Mở bài ( như cách 1).
II. Thân bài:
1. Hai câu đầu : Khái quát nỗi nhớ.
- Hoa và người là những gì đẹp nhất của núi rừng Việt Bắc.“Hoa” là
cách nói của nghệ thuật tượng trưng cho thiên nhiên và cũng là một bộ
phận của thiên nhiên.
- Trong nỗi nhớ của người về, hoa và người là hai hình ảnh đồng
hiện, soi chiếu vào nhau. Hoa là hình ảnh đẹp nhất của thiên nhiên; người
là sản phẩm kỳ diệu tuyệt vời của tạo hoá. Vì vậy, khi nhớ người thì hiện
lên bong hoa, khi nhớ hoa thì hiện lên bóng người  ngụ ý ngợi ca vẻ đẹp
người ở lại.
2. Tám câu sau : Một bức tranh thiên nhiên Việt Bắc phong phú, rực
rỡ, tươi thắm tượng trưng cho vẻ đẹp của bốn mùa:
a.Trước hết, bức tranh mùa đông với “Rừng xanh hoa chuối đỏ
tươi”:
- Mùa đông xuất hiện bằng màu một gam màu lạnh- nền xanh mênh
mông tĩnh lặng của rừng già  gợi ra một xứ sở êm đềm, lặng lẽ, xa
vắng…Trên cái nền màu lạnh ấy lại nổi lên một gam màu nóng của “hoa
chuối đỏ tươi” ( ở đây có thể liên tưởng : màu đỏ của hoa chuối gợi ra ý
nghĩa tượng trưng cho màu đỏ của cách mạng mới được nhen nhóm, như
xua đi cái lạnh ngàn năm của núi rừng mùa đông ).
b.Tiếp theo,bức tranh mùa xuân với “Mơ nở trắng rừng” - một mùa

xuân tràn ngập màu trắng của hoa mơ gợi sự dịu dàng, tinh khiết, thanh
bạch, mộng mơ của tạo vật.Hai tiếng “trắng rừng” như làm cho khắp núi
rừng bừng sang hẳn lên.Đây là hình ảnh giàu tính hiện thực nhưng thấp
thoáng ý nghĩa tượng trưng : nó như gợi lên nét đẹp trong sang trong tâm
hồn của con người Việt Bắc. Có thể nói, màu trắng của hoa mơ là màu sắc
đặc trưng của núi rừng Việt Bắc.
c. Bức tranh mùa hè hiện lên trong nỗi nhớ người đi không chỉ có
màu sắc, đường nét, ánh sang mà còn có cả âm thanh ngân vang của
tiếng ve gọi hè:”ve kêu rừng phách…” . Ve kêu gọi hè, hè về là rừng
phách chuyển màu .Sống ở Việt Bắc, con người thường hay có cảm xúc
bang khuâng trước những hình ảnh kỳ lạ của rừng phách : trong những
ngày cuối xuân, nụ hoa vẫn náu kín trong những kẽ lá. Khi tiếng ve cất lên
thì chúng nhất loạt trổ hoa vàng. Cách dùng từ “đổ”khá tinh tế, nhấn mạnh
sự mau lẹ đột ngột của quá trình chuyển đổi của cây lá, nó diễn tả sức
mạnh của những trận mưa hoa vàng khi gió thổi, ve kêu gọi hè.
d. Bộ bức tranh bốn mùa kết thúc bằng bức tranh thu : đêm thu có
ánh trăng rọi qua vòm lá tạo thành khung cảnh huyền ảo. Cảnh tượng này
thích hợp với việc bộc lộ tâm tư thầm kín dành cho bộc lộ tâm tư thầm kín
dành cho thời điểm kết thúc những cuộc hát giao duyên . Câu thơ gợi
không khí thanh bình,yên ả, báo hiệu sự bắt đầu cuộc sống yên vui. Câu
thơ cũng gợi sự hoà hợp giữa thiên nhiên ( rừng thu) với vũ trụ ( trăng) với
cuộc sống thanh bình yên vui trong sự hoà hợp của những tấm lòng nhân
ái giữa người đi và người ở lại.
3. Hình ảnh con người Việt Bắc :
- Bên cạnh nỗi nhớ thiên nhiên là nỗi nhớ con người Việt Bắc.Con
người là hình ảnh luôn được đan cài, xen kẽ, hoà hợp với thiên
nhiên. Sau mỗi câu lục nói về hoa là đến câu bát nói về người . Con
người gắn bó khăng khít với thiên nhiên làm cho thiên nhiên bớt vẻ hoang
sơ và thêm có hồn. Giữa thiên nhiên gợi cảm, con người hiện lên thật bình
dị, đáng yêu và luôn gắn bó với lao động :

- Hình ảnh con người trong mùa đông hiện lên với một dáng vẻ, tư
thế hiên ngang trong lao động “ dao gài thắt lưng”; mùa xuân lại gắn
với bàn tay dịu dàng, cần mẫn của các cô gái“chuốt từng sợi giang”
( hình ảnh giống như cảnh phim quay chậm, không chỉ giúp người đọc thấy
rõ đường nét, hình khối, động tác của người lao động mà còn thấy cả ý
nghĩ đắn đo, thận trọng, tỉ mỉ trong từng công việc).
- Hình ảnh “Cô gái hái măng một mình” trong mùa hạ vừa gợi sự cần
cù, chăm chỉ, kiên nhần lại vừa gợi cái không gian bao la, mênh mông của
núi rừng Việt Bắc.
- Nhớ người Việt Bắc, người về còn nhớ cả “ tiếng hát ân tình thuỷ
chung” . Đó là tâm hồn, là tình cảm của những con người miệt mài, chăm
chỉ với công việc, lặng lẽ cưu mang trong mình những rung động, cảm xúc
trước đất trời, trước cuộc đời.
III. Kết bài :
- Trong bộ tranh bốn màu này, hoa- người đều đẹp lung linh, rạng rỡ,
gắn bó mật thiết với nhau : hoa đứng cạnh người, người đứng cạnh hoa
…tất cả như càng làm tôn lên vẻ đẹp của nhau.
- Bức tranh như in rõ dấu ấn của tấm lòng nhà thơ với cái nhìn chứa
chan tình yêu thiên nhiên, tình yêu con người của nhà thơ.
=============================
Đề 5: Phân tích đoạn thơ trích trong “Việt Bắc” của Tố Hữu
Mình về mình có nhớ ta
(…)
Tân trào, Hồng Thái, mái đình cây đa.
* ĐỊNH HƯỚNG :
I.Mở bài ( vận dụng cách mở bài của các đề trên)
II. Thân bài:
1.Bốn câu đầu là lời Việt Bắc tỏ bày với người cán bộ chiến sĩ
khi chia tay:
Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn ?
- Điệp từ “nhớ” luyến láy trong cấu trúc câu hỏi tu từ đồng dạng,
tràn đầy thương nhớ.
- Cách xưng hô ”mình – ta” mộc mạc, thân gần gợi liên tưởng ca
dao: “Mình về ta chẳng cho về – Ta nắm dải áo, ta đề bài thơ”.
- “15 năm” là chi tiết thực chỉ độ dài thời gian từ năm 1940 thời
kháng Nhật và tiếp theo là phong trào Việt Minh, đồng thời cũng là chi
tiết gợi cảm – nói lên chiều dài gắn bó thương nhớ vô vàn. Câu thơ
mang dáng dấp một câu Kiều – Mười lăm năm bằng thời gian Kim –
Kiều xa cách thương nhớ mong đợi hướng về nhau. (Những là rày ước
mai ao – Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình). Cảm xúc đậm đà chất
dân gian, đậm đà chất Kiều.
- Âm điệu ngọt ngào, giọng thơ nồng ấm, tình cảm do vậy dạt dào
thiết tha. Việt Bắc hỏi về : “Mình về mình có nhớ không – Nhìn cây nhớ
núi, nhìn sông nhớ nguồn?”. Câu hỏi chất chứa tình cảm lưu luyến, bao
hàm lời dặn dò kín đáo: đừng quên cội nguồn Việt Bắc – cội nguồn cách
mạng.
2.Bốn câu tiếp theo là nỗi lòng của người về:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
-“Bâng khuâng, bồn chồn” là hai từ láy gợi cảm, diễn tả trạng thái
tâm lí tình cảm buồn vui, luyến tiếc, nhớ thương, chờ mong… lẫn lộn cùng
một lúc. Mười lăm năm Việt Bắc cưu mang người cán bộ chiến sĩ, mười
lăm năm gian khổ có nhau, mười lăm năm đầy những kỉ niệm chiến đấu,
giờ phải chia tay rời xa để làm nhiệm vụ mới về tiếp quản tại thủ đô Hà Nội
(10/1954), biết mang theo điều gì, biết lưu lại hình ảnh nào, tâm trạng của

người về do vậy không tránh khỏi là nỗi niềm bâng khuâng khó tả.
-“Áo chàm đưa buổi phân li” vừa là một hoán dụ,vừa ẩn dụ :
màu áo chàm, màu áo xanh đen đặc trưng của người miền núi Việt Bắc –
tác giả hướng nỗi nhớ Việt Bắc qua hình ảnh cụ thể “áo chàm”, chiếc áo,
màu áo bình dị, đơn sơ, mộc mạc của vùng quê nghèo thượng du đồi núi
nhưng sâu nặng nghĩa tình, đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp kháng
chiến cứu nước.
- Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”đầy tính chất biểu
cảm – biết nói gì không phải không có điều để giãi bày mà chính vì có quá
nhiều điều muốn nói không biết phải nói điều gì. Ba dấu chấm lửng đặt
cuối câu là một dấu lặng trên khuôn nhạc để tình cảm ngân dài, sâu lắng…
3.12 câu tiếp theo kết thúc đoạn trích, là lời tâm tình của Việt
Bắc:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa
- Điệp từ “nhớ” lập đi lập lại nhiều sắc thái ý nghĩa: nhớ là nỗi
nhớ, ghi nhớ, nhắc nhở. Hàng loạt những câu hỏi tu từ bày tỏ tình cảm
tha thiết đậm đà của Việt Bắc. Tình cảm lưu luyến của người đưa tiễn, gửi
đi nỗi nhớ mong, gửi lại niềm thương theo cách:
“Thuyền về có nhớ bến chăng

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
- Việt Bắc nhắc người cán bộ chiến sĩ đừng quên những năm
tháng gian lao vất vả, hoạt động chiến đấu trong điều kiện trang bị
tiếp tế còn thô sơ, thiếu thốn.

Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
+“Miếng cơm chấm muối” là chi tiết thực, phản ánh cuộc sống kháng
chiến gian khổ. Và cách nói “mối thù nặng vai” nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ
chống thực dân cướp nước, đè nặng vai dân tộc ta.
Cảm xúc thương nhớ xa vắng thả vào không gian rừng núi, gợi nỗi niềm
dào dạt:
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
+Hình ảnh “Trám bùi để rụng, măng mai để già” gợi nỗi buồn thiếu
vắng – “Trám rụng – măng già ” không ai thu hái. Nỗi ngùi nhớ bức bối như
thúc vào lòng kẻ ở lại.
+Tiễn người về sau chiến thắng và chính trên cái nền của sự chiến
thắng đó, đã làm cho nỗi buồn nhớ trở nên trong sáng. Việt Bắc vẫn “một
dạ khăng khăng đợi thuyền”, đồng thời nhắc nhở khéo léo tấm “lòng
son” của người cán bộ chiến sĩ. Xin đừng quên thời kỳ “kháng Nhật
thuở còn Việt Minh”, đừng quên cội nguồn cách mạng, đừng quên để
chăm lo giữ gìn sự nghiệp cách mạng.
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa.
III. Kết bài:
Tóm lại, đoạn thơ trên là nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của
Việt Bắc. Đoạn thơ trên tiêu biểu sắc thái phong cách Tố Hữu, giọng điệu
thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao dân gian, đề
cập đến con người và cuộc sống kháng chiến. Thông qua hình tượng

Việt Bắc, tác giả ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp của quân dân
ta, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung son sắt của người cán bộ, chiến
sĩ đối với “Việt Bắc”.
ĐỀ RA: Bình giảng bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
BÀI LÀM
Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cội nguồn của cách mạng, nhắc đến
mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình - nơi đã in sâu bao
kỉ niệm của một thời kì cách mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến
khi chia xa, lòng ta sao khỏi xuyến xao bồi hồi. Và cứ thế sợi nhớ, sợi
thương cứ thế mà đan cài xoắn xuýt như tiếng gọi "Ta - mình" của đôi lứa
yêu nhau. Đúng như lời thơ Chế Lan Viên từng viết " Khi ta ở đất chỉ là
nơi ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn".Vâng! Việt Bắc đã hóa tâm hồn
dào dạt nghĩa yêu thương trong thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng
nhạc ngân nga, với cảnh với người ăm ắp những kỉ niệm ân tình có bao
giờ quên được.
"Ta về mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve keo rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, thơ ông diễn tả những tình cảm
cách mạng thật nhẹ nhàng mà cũng thật đậm sâu. Việt Bắc là đỉnh cao của
thơ Tố Hữu nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài
thơ được viết vào tháng 10/1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác
Hồ và cán bộ kháng chiến từ giã "Thủ đô gió ngàn" về với "Thủ đô Hoa

vàng nắng Ba Đình". Cả bài thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương tuôn
chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui
tươi hào hùng. Nhưng có lẽ để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong bài ca Việt
Bắc có lẽ là đoạn thơ về bức tranh tứ bình với bốn mùa xuân - hạ - thu -
đông.
Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm
xúc chung của đoạn thơ:
"Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người"
Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ "mình có nhớ ta", câu thơ
thứ hai là tự trả lời, điệp từ "ta" lặp lại bốn lần cùng với âm "a" là âm mở
khiến câu thơ mang âm hưởng ngân xa, tha thiết nồng nàn. Với Tố Hữu,
người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ "bát
cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng", mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu
của Hoa cùng Người. Ở đây, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt
Bắc. Còn con người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ
nhưng đậm đà lòng son. Hoa và Người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp
hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất
này.Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ.Trong
bốn cặp lục bát còn lại câu sáu dành cho nhớ hoa, nhớ cảnh, câu tám
dành cho nhớ người.Cảnh và Người trong mỗi câu lại có những sắc thái
đặc điểm riêng thật hấp dẫn.
Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái
ảm đạm của những ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất.
Nhưng đến với Việt Bắc trong thơ Tố Hữu thì thật lạ. Mùa đông bỗng ấm
áp lạ thường:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu
hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông

tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với
đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa,vừa cổ điển vừa hiện đại.Cái
màu "đỏ tươi" - gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát
ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm
áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn
có của núi rừng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong
thơ Nguyễn Trãi:
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương
Từ liên tưởng ấy ta thấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa
hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa
chuối cũng như đang phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng.
Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của
vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai
cung cấp cho kháng chiến "Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng" .Trước
thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng
tráng hơn.Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét
thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở
ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang
ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh
sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất - "
đèo cao". Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự
do " Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là của chúng ta". Đấy
là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi: Giữa núi và nắng, giữa
trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh
hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Đông qua, xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến
sức sống mới của cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang cựa mình thức dậy
sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt bắc cũng vậy:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh
khiết của hoa mơ nở khắp rừng: "Ngày xuân mơ nở trắng rừng". "trắng
rừng" được viết theo phép đảo ngữ và từ "trắng" được dùng như động từ
có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả
mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ
màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ . Động từ "nở" làm sức sống
mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Đây không phải là lần đầu tiên Tố
Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong màu
sắc hoa mơ:
Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ
Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình
ảnh con người với hoạt động " chuốt từng sợi giang". Con người đẹp tự
nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ "chuốt" và hình ảnh thơ đã nói
lên được bàn tay của con người lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài
hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con
người Việt Bắc.
Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc
lại sống động hơn bao giờ hết:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ "đổ" là
động từ mạnh, diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu
của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của
mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây
là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm, nên lung linh ánh
sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh.Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc

miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả sự
vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà
ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu
mùa hè đến và cây Phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một
biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.
Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô
gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng
chiến: "Nhớ cô em gái hái măng một mình". Hái măng một mình mà không
gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ
trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết.
Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái.
Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.
Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh
trăng xanh huyền ảo lung lunh dịu mát:
"Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do,
của hòa bình dọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc.
Ta cũng từng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở
chiến khu:
Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận liên khu báo về
Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên
tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc
nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi
rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng.
Vâng! Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt
mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát "ân tình thủy chung"

gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu
quê hương đất nước.
KẾT LUẬN
Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại,
đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người
qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô
điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen, sống động

×