Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Các dạng đề văn ôn thi Đại học bài ĐẤT NƯỚC của Nguyễn Khoa Điềm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.19 KB, 41 trang )

ĐẤT NƯỚC
Nguyễn Khoa Điềm
Đề 1: Phân tích đoạn thơ mở đầu đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa
Điềm.
“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó”.
MỞ BÀI
1. Dẫn dắt vào vấn đề:
- “Có mối tình nào cao hơn là Tổ quốc?” - Trần Mai Ninh. Bằng tình cảm yêu
thương sâu nặng ấy, các nhà thơ - chiến sĩ đã có biết bao bài thơ rất hay về Tổ quốc,
đất nước Việt Nam thương yêu.
- Nếu như các nhà thơ khác thường dùng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ mang tính
biểu tượng, tạo ra một khoảng cách để cảm nhận, chiêm ngưỡng về đất nước thì
Nguyễn Khoa Điềm lại cảm nhận về đất nước qua những gì hết sức gần gũi, đơn sơ,
bình dị .
2. Tác giả, tác phẩm:
- Vị trí: Nguyễn Khoa Điềm là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế
hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
- Phong cách điển hình:
+ Thơ ông giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, thể hiện tâm tư, ý thức của một
công dân yêu nước về vai trò, trách nhiệm của thế hệ trẻ trong cuộc chiến đấu chung
của cả dân tộc
+ Thơ ông còn thể hiện những nhận thức sâu sắc về nhân dân, đất nước qua
những trải nghiệm của chính mình.


3. Vấn đề nghị luận:
- Xuất xứ, vị trí của đoạn thơ:
Đoạn trích mang tên Đất Nước thuộc phần đầu chương V, trường ca Mặt đường
khát vọng được Nguyễn Khoa Điềm viết ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, in lần
đầu 1974.
- Nội dung cơ bản:
+ Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị bị tạm chiếm miền
Nam,
+ mở rộng ra là sự tự ý thức của tuổi trẻ Việt Nam, hướng về nhân dân, đất nước,
ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
- Nội dung đoạn trích:
+ Đất nước là nguồn cảm hứng chủ đạo trong sáng tác văn học, đặc biệt là trong
thơ ca hiện đại.
+ Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những cảm nhận, suy tư của mình về đất nước
một cách thật độc đáo.
+ Đoạn thơ mở đầu được xem là những cảm nhận riêng của tác giả về đất nước


qua những hình tượng cụ thể, sinh động, gợi cảm với một giọng thơ thiết tha, sôi nổi.
THÂN BÀI:
1. Đất Nước có từ bao giờ?
- Nguyễn Khoa Điềm tập trung thể hiện những khám phá mới mẻ về đất nước trên
ba phương diện: chiều dài của thời gian lịch sử, chiều rộng của không gian địa lí và
chiều sâu của truyền thống văn hóa dân gian.
- Khi khám phá đất nước ở chiều dài miên viễn của thời gian lịch sử, Nguyễn
Khoa Điềm không dựa vào sử liệu hay những khái niệm trừu tượng mà chọn những
hình ảnh tự nhiên, bình dị để cảm nhận về đất nước. Đất Nước, hai chữ thiêng liêng
cao cả ấy chẳng phải ở đâu xa mà ở ngay trong mỗi gia đình chúng ta: từ lời
kể
chuyện của mẹ, miếng trầu của bà, đến phong tục tập quán quen thuộc, tình nghĩa

thuỷ chung của cha mẹ, hạt gạo, hòn than, cái kèo, cái cột trong nhà…
- Bằng giọng tâm tình, dịu ngọt như lời kể truyện cổ tích, Nguyễn Khoa Điềm đã
thể hiện những cảm nhận, suy tưởng của mình về cội nguồn sâu xa của đất nước.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa…" mẹ thường hay kể”
+ Lịch sử sâu thẳm của đất nước ta được tác giả cắt nghĩa không phải bằng sự nối tiếp
của các vương triều hay các sự kiện lịch sử trọng đại như Nguyễn Trãi đã từng
viết trong “Bình Ngô Đại
Cáo”:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc – Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”
mà bằng những hình ảnh gần gũi, thân quen, bằng cách nói rất dung dị.
+ Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi. Hình như nhà thơ không cố tình làm thơ.
Nhà thơ như chỉ muốn nói lên điều mà bất kì ai cũng có thể nói lên. Nhà thơ nói lên
cho mình mà cũng cho tất cả mọi người, cho tất cả bạn bè cùng trang lứa với mình.
+ Lắng nghe cho kĩ, người đọc có thể nghe xôn xao trong câu thơ là cả một niềm
tự hào mãnh liệt và niềm biết ơn mênh mông.
. “Lớn lên” thì “Đất Nước đã có rồi”, Đất Nước có trong lịch sử hàng ngàn năm,
điều mà không phải bất kì Đất Nước nào trên mặt đất này cũng có được.
. “Đất Nước đã có rồi”: bất cứ con người Việt Nam khi sinh ra ngay lập tức đã
được bao bọc, đã được nâng niu, chở che trong một cái nôi ấm áp, thân yêu vô cùng là
Đất Nước.
. “Lớn lên” thì “Đất Nước đã có rồi”, ta đang có được Đất Nước từ công lao của
hàng ngàn thế hệ con người, với bao nhiêu hi sinh xương máu, bao nhiêu nước mắt và
mồ hôi.
+ Từ cảm xúc tự hào và biết ơn của mình, nhà thơ tìm cho mình những điều khẳng

định:
“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”
+ Giản dị và bất ngờ quá, Đất Nước bắt đầu từ “ngày xửa ngày xưa…” có nghĩa
là Đất Nước được bắt nguồn từ những câu chuyện truyền thuyết xa xưa. Từ chuyện
Lạc Long Quân dựng nên Đất Nước, chuyện Thánh Gióng đánh giặc… Ngoài ra, hình
ảnh “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể” gợi hình ảnh đất nước thanh bình
trong những câu chuyện cổ tích. Có tâm hồn Việt Nam nào mà không được nuôi
dưỡng từ những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa” ấy.
+ Nhưng thử hỏi: nếu không có Đất Nước từ “ngày xửa ngày xưa”, thì làm sao
có được những câu chuyện để cho bây giờ “mẹ thường hay kể”? Mà “ngày xửa ngày
xưa” là lúc nào? Là mấy trăm năm, mấy ngàn năm trước, từ thuở đất trời còn hồng
hoang.
- Đất nước còn được cảm nhận trong chiều sâu tâm hồn nhân dân, văn hoá và lịch
sử :
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
+ Trong khoảng thời gian mênh mông của Đất Nước, nhà thơ muốn tìm đến
những thuở đầu tiên khi Đất Nước tượng hình. Thì cũng giản dị vô cùng:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
+ Phát hiện thật bất ngờ nhưng cũng thật chính xác. Không biết ngày xưa, ai là
người đầu tiên ăn miếng trầu để rồi có “miếng trầu bây giờ bà ăn” . Có lẽ con người
không hề nghĩ rằng với miếng trầu ấy, cũng bắt đầu một tập tục Việt Nam, một nét
văn hóa Việt Nam. Bắt đầu tạo dựng văn hóa, cũng là bắt đầu tạo nên Đất Nước. Bởi
nếu không có nền văn hóa thì làm sao có thể gọi là Đất Nước.
+ Qua phát hiện đó, ta thấy Đất Nước còn là những gì gần gũi, thân quen ngay
trong đời sống con người. Hình ảnh “miếng trầu bây giờ bà ăn” gợi ta nhớ đến câu
chuyện cổ tích “Trầu cau”.
. Qua câu chuyện cổ tích ấy, ta thấy được những nét đẹp trong phong tục tập quán
của dân tộc: phong tục nhuộm răng ăn trầu, phong tục ăn trầu giao tiếp của nhân dân
“miếng trầu là đầu câu chuyện”, phong tục cưới hỏi “miếng trầu nên dâu nhà

người”.
. Đất Nước thật lớn lao kì vĩ nhưng chẳng phải bắt đầu từ những điều bé nhỏ đó
sao!
+ Đất Nước còn lớn lên cùng truyền thống đấu tranh giữ nước của dân tộc.
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
+ Nhà thơ thật sâu sắc khi nói đến việc “dân mình đánh giặc” mà nhắc đến việc
“trồng tre”.
. Từ muôn đời nay, con người Việt Nam trồng tre là để có lũy tre bao bọc làng
quê, để có bóng tre xanh mát rượi con đường làng, để lấy cây tre làm nên nhà cửa,
làm nên những dụng cụ sinh hoạt hàng ngày như chiếc đòn gánh tre, cái cối xay tre,
cái chõng tre, chiếc nôi tre, con sáo diều tre lơ lửng lưng trời…
. Đúng như nhà thơ Nguyễn Duy đã viết:
“Tre xanh, xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”
+ Con người Việt Nam trồng nên cây tre còn để khi cần thì biến cây tre thành vũ
khí đánh giặc.
. Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm phải chăng gợi lên truyền thuyết Thánh Gióng -
Hình ảnh cậu bé vươn vai thành tráng sĩ nhổ tre đánh đuổi giặc Ân ra khỏi bờ cõi là
tinh thần yêu nước kiên cường, bất khuất chống ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập dân
tộc hơn bốn ngàn năm lịch sử.
. Truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân đã trở thành bài ca giữ
nước hào hùng của nhân dân ta, đã trở thành lịch sử đất nước:
“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép làm roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi”
(Tố Hữu)
+ Như vậy, lịch sử lâu đời của đất nước được kết tinh trong từng câu chuyện kể,

trong miếng trầu bà ăn thường ngày, trong “cây tre đánh giặc” thân quen quanh ta.
Với cái nhìn độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước đã nằm sâu trong tiềm thức
mỗi chúng ta, mỗi người dân; trong đời sống tâm hồn của nhân dân từ thế hệ này qua
thế hệ khác.
- Đất nước còn là phong tục búi tóc thành cuộn sau gáy rất quen thuộc của người
phụ nữ Việt Nam từ bao đời
nay:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu”
+ Bắt đầu tạo dựng, rồi Đất Nước lớn lên, trong khoảng thời gian đằng đẵng mấy
nghìn năm. Đất Nước đã làm nên biết bao điều, tạo nên biết bao giá trị từ vật chất cho
đến tinh thần. Những chuyện ấy hôm nay vẫn còn đó. Có những chuyện tưởng chừng
như rất nhỏ: “Tóc mẹ thì bới sau đầu”.
+ “Thì bới sau đầu”, hóa ra cái bới tóc sau đầu ấy là một một nét đẹp tự nhiên của
người mẹ Việt Nam, của người phụ nữ Việt Nam, một nét đẹp cần thiết bởi “cái răng
cái tóc là góc con người”.
+ Nét đẹp ấy cũng là nét đẹp góp phần làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam.
“Tóc ngang lưng vừa chừng em búi
Để chi dài bối rối lòng anh”
(Ca dao cổ)
- Đất nước Việt Nam còn mang vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam: tình nghĩa
đậm đà, thuỷ chung son sắt của cha mẹ:

“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.
Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:
“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Hay:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa đầy

Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa”
Gừng bao giờ cũng cay, muối bao giờ cũng mặn. Đó là một giá trị, một đạo lí
của gia đình Việt Nam. Ý thơ nhằm ca ngợi lối sống giàu tình nghĩa và tấm lòng thuỷ
chung son sắt của người Việt Nam.
- Tiếp tục suy nghĩ về những giá trị mà các thế hệ cha anh đã tạo dựng nên, đến
đây nhà thơ lại có một phát hiện bất ngờ mà thú vị:
“Cái kèo, cái cột thành tên”
+ “Cái kèo, cái cột” là tên gọi những bộ phận quan trọng trong cấu trúc ngôi nhà
truyền thống Việt Nam:
“Có cây thì dây mới leo,
Có cột có kèo mới có đòn tay”
(Ca dao)
+ Như vậy là, từ thuở xa xưa, con người Việt Nam, không chờ ai dạy bảo, đã biết
tự mình làm nên nhà cửa để che mưa trú nắng, ổn định nơi ăn chốn ở để có thể tồn
tại vững bền trên dải đất bên bờ biển Đông quanh năm đầy nắng mưa giông bão này.
+ Lại còn chuyện này nữa: “Cái kèo, cái cột thành tên”, bởi đó là những tên gọi
quen thuộc mà người Việt Nam ngày trước đã dùng để đặt tên cho con cái mình,
những tên gọi hồn nhiên lấy từ những sự vật quen thuộc, như tên Cột, Kèo, Chanh,
Khế, Nụ, Búp, Khoai, Sắn… Đó là những tên gọi không thể viết bằng chữ Hán,
những tên gọi hoàn toàn Việt Nam.
Như thế là từ mấy nghìn năm trước, không đợi tới người Hán đến đây, dân tộc ta
đã có tiếng nói riêng mà bây giờ ta gọi là tiếng mẹ đẻ.
- Tạo nơi ăn chốn ở, tạo nên tiếng nói, tạo nên Đất Nước, tổ tiên ta còn tạo nên
một điều vô cùng quan trọng:
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
+ Với người Việt Nam vốn gắn bó lâu đời với nền văn minh lúa nước, hạt
gạo trở thành gia bảo vô cùng cần thiết cho cuộc sống. Cho nên ngay khi còn là đứa
trẻ mới lớn, cảm nhận về vật chất đầu tiên phải là hạt gạo trải qua một quá trình lam
lũ, vất vả kết tinh mồ hôi, nước mắt của người lao động.
+ Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm như gói gọn cả quy trình lao động vất vả của

con người Việt Nam để làm nên hạt gạo qua nghìn đời nay. Để từ đất mà làm nên hạt
lúa, phải “một nắng hai sương”, bao nhiêu khó nhọc. Rồi từ hạt lúa mà có được hạt
gạo để có bát cơm ăn, còn bao nhiêu công việc phải đổ mồ hôi: “xay, giã, giần,
sàng…”, phải suốt ngày “bán mặt cho đất bán lưng cho trời”, “dầm mưa dãi nắng”.
+ Hình ảnh thơ của Nguyễn Khoa điềm làm ta gợi nhớ tới câu ca dao mẹ ru thuở
nào:
“Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”
+ Như vậy thì rõ ràng là từ mấy nghìn năm trước, con người ở đây đã biết tự mình
làm nên hạt gạo để có miếng ăn hàng ngày cho mình, để cho các thế hệ con cháu vững
vàng mà làm nên Đất Nước, để tạo dựng cho mình một nền văn minh riêng mà các
nhà nghiên cứu ngày nay gọi là “nền văn minh sông Hồng”!
- Kết lại đoạn thơ, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định:
“Đất Nước có từ ngày đó”.
+ Đất Nước của bây giờ là “Đất Nước có từ ngày đó”, thuở đó.
- Cách cảm nhận cội nguồn đất nước của Nguyễn Khoa Điềm thật gần gũi, thân
quen mà cũng không kém phần thi vị, độc đáo, dễ làm lay động trái tim hàng triệu
độc giả.

- Trong đoạn thơ trên, tác giả sử dụng khéo léo các kiểu cấu trúc thơ “Đất nước
đã có…”, “Đất nước bắt đầu…”, “Đất nước lớn lên…”, “Đất nước có từ…” đã giúp
cho ta hình dung được cả quá trình hình thành và phát triển của đất nước trong
trường kì lịch sử nằm sâu trong tâm thức của con người Việt Nam qua bao thế hệ.
- Trường từ vựng: ông, bà, cha, mẹ gợi về tình cảm gia đình ruột thịt thân
thương.
+ Đất Nước hiện ra trong mối quan hệ với mẹ, với những câu chuyện “ngày xửa
ngày xưa” mà mẹ kể cho chúng ta nghe. Đất Nước hiện ra trong mối quan hệ với
người bà, với hình ảnh “miếng trầu bà ăn” hàng ngày. Đất Nước hiện ra trong mối

quan hệ nghĩa tình của cha mẹ “thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.
+ Đất Nước luôn hiện hữu trong hình ảnh của ông bà, cha mẹ, cháu con. Đó
cũng là khởi nguồn cho đất nước. Bởi nói như nhân vật chú Năm “con sông gia
đình cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm, rộng bằng nước ta” (Những đứa con
trong gia đình – Nguyễn Thi).
KẾT LUẬN
- Tóm lại, bằng những hình ảnh gần gũi, quen thuộc thường ngày, bằng chất liệu
văn hoá dân gian, truyền thuyết, cổ tích, chỉ qua một đoạn thơ ngắn, Nguyễn Khoa
Điềm đã trình bày được một ý niệm về đất nước thật độc đáo, hấp dẫn; vừa thiêng
liêng, vừa hiện hữu rõ ràng, vừa có chiều sâu văn hoá lịch sử , vừa bình dị thân
quen với cuộc sống nhân dân hàng ngày.
- Đó là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu thêm ý niệm
về đất
nước của nhân dân cho thơ ca hiện đại.
RA: Phân tích o n th sau trong bài th t N c c a Nguy nĐỀ đ ạ ơ ơ Đấ ướ ủ ễ
KHoa i m.Đề
Khi ta l n lên t N c ã có r iớ Đấ ướ đ ồ
t N c có trong nh ng cái “ngày x a ngày x a” m th ng hay k .Đấ ướ ữ ử ư ẹ ườ ể
t N c b t u v i mi ng tr u bây gi bà nĐấ ướ ắ đầ ớ ế ầ ờ ă
t N c l n lên khi dân mình bi t tr ng tre mà ánh gi cĐấ ướ ớ ế ồ đ ặ
Tóc m thì b i sau uẹ ớ đầ
Cha m th ng nhau b ng g ng cay mu i m nẹ ươ ằ ừ ố ặ
Cái kèo, cái c t thành tênộ
H t g oạ ạ ph i m t n ng hai s ng xay, giã, gi n, sàngả ộ ắ ươ ầ
t N c có t ngày ó…Đấ ướ ừ đ
H NG D N PHÂN TÍCHƯỚ Ẫ
I. M BÀIỞ
t N c là ngu n c m h ng b t t n c a th ca và ngh thu t. M i nhà Đấ ướ ồ ả ứ ấ ậ ủ ơ ệ ậ ỗ
th u có nh ng c m nh n r t riêng v t N c, b i th t N c, ơ đề ữ ả ậ ấ ề Đấ ướ ở ế Đấ ướ
T qu c hi n lên muôn màu muôn v . N u nh các nhà th cùng th i ổ ố ệ ẻ ế ư ơ ờ

th ng ch n i m nhìn v t N c b ng nh ng hình nh k v , m l ườ ọ để ề Đấ ướ ằ ữ ả ỳ ĩ ỹ ệ
hay c m h ng v l ch s qua các tri u i thì Nguy n Khoa i m l i ả ữ ề ị ử ề đạ ễ Đề ạ
ch n i m nhìn g n g i, quen thu c bình d miêu t v t N c. ọ đ ể ầ ũ ộ ị để ả ề Đấ ướ
n v i bài th t N c c a Nguy n Khoa i m ta nh ng tr c Đế ớ ơ Đấ ướ ủ ễ Đề ư đứ ướ
muôn màu v n hóa, truy n th ng, phong t c t i p vô ng n. V p ă ề ố ụ ươ đẹ ầ ẻ đẹ
y c hi n lên sâu s c nh t qua chín câu th u.ấ đượ ệ ắ ấ ơ đầ
Khi ta l n lên t N c ã có r iớ Đấ ướ đ ồ
t N c có trong nh ng cái “ngày x a ngày x a” m th ng hay k .Đấ ướ ữ ử ư ẹ ườ ể
t N c b t u v i mi ng tr u bây gi bà nĐấ ướ ắ đầ ớ ế ầ ờ ă
t N c l n lên khi dân mình bi t tr ng tre mà ánh gi cĐấ ướ ớ ế ồ đ ặ
Tóc m thì b i sau uẹ ớ đầ
Cha m th ng nhau b ng g ng cay mu i m nẹ ươ ằ ừ ố ặ
Cái kèo, cái c t thành tênộ
H t g oạ ạ ph i m t n ng hai s ng xay, giã, gi n, sàngả ộ ắ ươ ầ
t N c có t ngày ó…Đấ ướ ừ đ
II. THÂN BÀI
1. Khái quát tr c khi phân tích:ướ t n c là ngu n c m h ng b t t nĐấ ướ ồ ả ứ ấ ậ
c a th ca. bài th này, Nguy n Khoa i m ã ch n i m nhìn g n ủ ơ Ở ơ ễ Đề đ ọ đ ể ầ
g i miêu t m t t n c t nhiên, bình d mà không kém ph n ũ để ả ộ đấ ướ ự ị ầ
thiêng liêng, t i p. Hình nh t n c trong o n th u hi n lên ươ đẹ ả đấ ướ đ ạ ơ đầ ệ
muôn màu muôn v , sinh ng l th ng, l ng ng trong tâm t ng ta ẻ độ ạ ườ ắ đọ ưở
qua nh ng nét p v phong t c, t p quán, v n hóa, truy n th ng mang ữ đẹ ề ụ ậ ă ề ố
m d u n con ng i Vi t.đậ ấ ấ ườ ệ
2. Câu th m u c vi t theo th câu kh ng nhơ ở đầ đượ ế ể ẳ đị “Khi ta l n ớ
lên t N c ã có r i”. V i cách vào u r t t nhiên y, nhà th kh ngĐấ ướ đ ồ ớ đầ ấ ự ấ ơ ẳ
nh: t N c ã có t r t lâu, có tr c khi ta sinh ra vì th khi ta l n đị Đấ ướ đ ừ ấ ướ ế ớ
lên thì ta ã th y t N c.đ ấ Đấ ướ B n ch cu i c a câu th vang lên y t ố ữ ố ủ ơ đầ ự
hào “ t N c ã có r i”Đấ ướ đ ồ . ó là l i kh ng nh ch c n ch v s tr ng Đ ờ ẳ đị ắ ị ề ự ườ
t n c a t n c qua m y ngàn n m l ch s d ng n c và gi n c.ồ ủ đấ ướ ấ ă ị ử ự ướ ữ ướ
3. Hai câu th ti p theo nhà th di n t c th v s ra i c a t ơ ế ơ ễ ả ụ ể ề ự đờ ủ đấ

n cướ .
t N c có trong nh ng cái “ngày x a ngày x a” m th ng hay k .Đấ ướ ữ ử ư ẹ ườ ể
t N c b t u v i mi ng tr u bây gi bà nĐấ ướ ắ đầ ớ ế ầ ờ ă
- Câu th th nh t, tác gi cho r ng t N c có trong cái “ngày x a ơ ứ ấ ả ằ Đấ ướ ử
ngày x a”. Ngh a là t N c có t r t lâu i, có t ngày x a. t ư ĩ Đấ ướ ừ ấ đờ ự ư Đấ
N c có t tr c khi nh ng câu truy n c ra i r i khi nh ng câu ướ ừ ướ ữ ệ ổ đờ ồ ữ
truy n c có m t trong i s ng tinh th n c a ta, ta l i th y t N c ệ ổ ặ đờ ố ầ ủ ạ ấ Đấ ướ
hi n di n trong truy n c . ó là t N c c a m t ệ ệ ệ ổ Đ Đấ ướ ủ ộ n n v n h c dân ề ă ọ
gian c s c v i nh ngđặ ắ ớ ữ câu chuy n c tích, th n tho i, truy n thuy t. ệ ổ ầ ạ ề ế
Chính nh ng câu chuy n c và nh ng bài hát ru thu ta còn n m nôi là ữ ệ ổ ữ ở ằ
ngu n s a ng t lành ch m b m cho ta cái chân thi n m và l n lên ta ồ ữ ọ ă ẵ ệ ĩ ớ
bi t yêu t n c con ng i. V ý ngh a c a truy n c v i i s ng tinh ế đấ ướ ườ ề ĩ ủ ệ ổ ớ đờ ố
th n con ng i, nhà th Lâm Th M D ã xúc ng mà vi t nên:ầ ườ ơ ị ỹ ạ đ độ ế
Tôi yêu truy n c n c tôiệ ổ ướ
V a nhân h u l i tuy t v i sâu xaừ ậ ạ ệ ờ
Th ng ng i r i m i th ng taươ ườ ồ ớ ươ
Yêu nhau dù m y cách xa c ng g nấ ũ ầ
(Truy n c n c mình)ệ ổ ướ
- Câu th th hai, nhà th di n t t N c có trong “mi ng tr u bây giơ ứ ơ ễ ả Đấ ướ ế ầ ờ
bà n”. G i nh c phong t c n tr u c a ng i Vi t.ă ợ ắ ụ ă ầ ủ ườ ệ Câu th g i nh v ơ ợ ớ ề
câu truy n c tích “S tích tr u cau” c xem là x a nh t trong nh ng ệ ổ ự ầ đượ ư ấ ữ
câu truy n c . T c n tr u c ng t câu truy n này mà nên. Nh v y là ệ ổ ụ ă ầ ũ ừ ệ ư ậ
th m th u vào trong mi ng tr u dung d y là 4000 n m phong t c, 4000 ẩ ấ ế ầ ị ấ ă ụ
n m dân ta gìn gi phong t c n tr u. Mi ng tr u là bi u t ng c a tình ă ữ ụ ă ầ ế ầ ể ượ ủ
yêu, v t ch ng cho l a ôi c ng là bi u t ng tâm linh c a ng i Vi t. ậ ứ ứ đ ũ ể ượ ủ ườ ệ
T phong t c n tr u, t c nhu m r ng en c ng ra i:ừ ụ ă ầ ụ ộ ă đ ũ đờ
Nh ng cô hàng xén r ng enữ ă đ
C i nh mùa thu t a n ngườ ư ỏ ắ
(Hoàng C m)ầ
4. Câu th th t , nhà th di n t s tr ng thành c a t N c. ơ ứ ư ơ ễ ả ự ưở ủ Đấ ướ

ó là s tr ng thành t truy n th ng ánh gi c gi n c qua Đ ự ưở ừ ề ố đ ặ ữ ướ
hình t ng Thánh Gióng và cây tre: “ượ t N c l n lên khi dân mình Đấ ướ ớ
bi t tr ng tre mà ánh gi c”ế ồ đ ặ
- Câu th g i nh c cho ta nh n truy n thuy t Thánh Gióng, chàng ơ ợ ắ ớ đế ề ế
trai Phù ng Thiên V ng nh tre làng Ngà ánh gi c, g i lên v p Đổ ươ ổ đ ặ ợ ẻ đẹ
kh e kho n c a tu i tr Vi t Nam kiên c ng, b t khu t:ỏ ắ ủ ổ ẻ ệ ườ ấ ấ
Ta nh thu x a th n Phù ngư ở ư ầ Đổ
V t l n lên ánh u i gi c Ânụ ớ đ đ ổ ặ
S c nhân dân kho nh ng a s tứ ẻ ư ự ắ
Chí c m thù ta rèn thép thành roiă
L a chi n u ta phun vào m tử ế đấ ặ
L sát nhân c p n c h i nòiũ ướ ướ ạ
(T H u)ố ữ
- Truy n th ng v vang y ã theo su t ch ng ng dài c a l ch s dânề ố ẻ ấ đ ố ặ đườ ủ ị ử
t c mãi n hôm nay trong th i i ch ng M bao t m g ng tu i tr ã ộ đế ờ đạ ố ỹ ấ ươ ổ ẻ đ
anh d ng chi n u b o v gi ng nòi. Ph i ch ng, ó chính là v p ũ ế đấ ả ệ ố ả ă đ ẻ đẹ
c a các ch , các anh ã t c vào l ch s Vi t Nam dáng ng kiêu hùng ủ ị đ ạ ị ử ệ đứ
b t khu t: Võ Th Sáu, Tr n V n n, Nguy n V n Tr i… V p y songấ ấ ị ầ ă Ơ ễ ă ỗ ẻ đẹ ấ
hành v i hình nh cây tre Vi t Nam. Cây tre hi n h u trên m i làng quê. ớ ả ệ ề ậ ỗ
Nó nh là s ng hi n nh ng ph m ch t trong c t cách con ng i Vi t ư ự đồ ệ ữ ẩ ấ ố ườ ệ
Nam: th t thà ch t phác, ôn h u thu chung, yêu chu ng hoà bình ậ ấ đ ậ ỷ ộ
nh ng c ng kiên c ng b t khu t trong tranh u. Treư ũ ườ ấ ấ đấ ng th ng hiên đứ ẳ
ngang b t khu t cùng chia l a v i dân t c "M t cây chông c ng ti n ấ ấ ử ớ ộ ộ ũ ế
công gi c M ", b i:ặ ỹ ở
"Nòi tre âu ch u m c congđ ị ọ
Ch a lên ã nh n nh chông l th ng".ư đ ọ ư ạ ườ
5. B n câu th ti p theo nhà thố ơ ế ơ mang n cho ng i c v p đế ườ đọ ẻ đẹ
thu nầ phong mỹ t cc a con ng i Vi t:ụ ủ ườ ệ
Tóc m thì b i sau uẹ ớ đầ
Cha m th ng nhau b ng g ng cay mu i m nẹ ươ ằ ừ ố ặ

Cái kèo, cái c t thành tênộ
H t g oạ ạ ph i m t n ng hai s ng xay, giã, gi n, sàngả ộ ắ ươ ầ
- ó là v p gi n d c a ng i ph n Vi t Nam. Không ai khác là Đ ẻ đẹ ả ị ủ ườ ụ ữ ệ
nh ng ng i m v i phong t c “búi tóc sau u” (tóc cu n thành búi sauữ ườ ẹ ớ ụ đầ ộ
gáy t o cho ng i ph n m t v p n tính, thu n h u r t riêng). Nét ạ ườ ụ ữ ộ ẻ đẹ ữ ầ ậ ấ
p y g i nh ca dao:đẹ ấ ơ ớ
Tóc ngang l ng v a ch ng em b iư ừ ừ ớ
chi dài cho r i lòng anhĐể ố
- Nguy n Khoa i m ti p t c g n dòng suy t ng n con ng i ngàn ễ Đ ề ế ụ ắ ưở đế ườ
i c trú, lao ng, chi n u trên m nh t Vi t gi gìn tôn t o đờ ư độ ế đấ ả đấ ệ để ữ ạ
m nh t thân yêu. ó o lí ân ngh a th y chung ã tr thành truy n ả đấ Ở đ đạ ĩ ủ đ ở ề
th ng ngàn i c a dân t c: "Cha m th ng nhau b ng g ng cay mu i ố đờ ủ ộ ẹ ươ ằ ừ ố
m n". Ý th c toát lên t nh ng câu ca dao p:ặ ơ đượ ừ ữ đẹ
“Tay b ng a mu i chén g ngư đĩ ố ừ
G ng cay mu i m n xin ng quên nhau”ừ ố ặ đừ
- Thành ng “g ng cay mu i m n” c v n d ng m t cách c s c ữ ừ ố ặ đượ ậ ụ ộ đặ ắ
trong câu th nh nhàng mà th m m bi t bao ân tình. Nó g i lên ơ ẹ ấ đượ ế ợ
c ân ngh a th y chung i: g ng càng già càng cay, mu i càng lâuđượ ĩ ủ ở đờ ừ ố
n m càng m n, con ng i s ng v i nhau lâu n m thì tình ngh a càng ă ặ ườ ố ớ ă ĩ
ong y. Có l chính vì v y mà t N c còn ghi d u n c a cha c a đ đầ ẽ ậ Đấ ướ ấ ấ ủ ủ
m b ng Hòn tr ng mái, núi V ng Phu, Hòn Tr ng Mái… i vào n m ẹ ằ ố ọ ố đ ă
tháng.
- Câu th "Cái kèo cái c t thành tên", g i nh c cho ng i c nh n ơ ộ ợ ắ ườ đọ ớ đế
t c làm nhà c c a ng i Vi t. ó là t c làm nhà s d ng kèo c t gi ng ụ ổ ủ ườ ệ Đ ụ ử ụ ộ ằ
gi vào nhau làm cho nhà v ng chãi, b n ch t tránh c m a gió, thú ữ ữ ề ặ đượ ư
d . ó c ng là ngôi nhà t m cho m i gia ình oàn t bên nhau; siêng ữ Đ ũ ổ ấ ọ đ đ ụ
n ng tích góp m màu d n thành s s ng. T ó, t că ỡ ồ ự ố ừ đ ụ t tên con “cái đặ
Kèo, cái C t” c ng ra i.ộ ũ đờ
- âu ch có nh ng v p trên, dân t c ta còn có truy n th ng lao ng Đ ỉ ữ ẻ đẹ ộ ề ố độ
c n cù, ch u th ng ch u khó “H t g o ph i m t n ng hai s ng xay giã ầ ị ươ ị ạ ạ ả ộ ắ ươ

d n sàng”.ầ
Thành ng “M t n ng hai s ng” g i nên s c n cù ch m ch c a cha ữ ộ ắ ươ ợ ự ầ ă ỉ ủ
ông ta nh ng ngày long ong, l n n trong i s ng nông nghi p l c ữ đ ậ đậ đờ ố ệ ạ
h u. ó là truy n th ng lao ng c n cù, ch u th ng ch u khó. Các ậ Đ ề ố độ ầ ị ươ ị
ng t “Xay – giã – d n – sang” là quy trình s n xu t ra h t g o. độ ừ ầ ả ấ ạ ạ Để
làm ra h t g o ta n h ng ngày, ng i nông dân ph i tr i qua bao n ng ạ ạ ă ằ ườ ả ả ắ
s ng v t v gieo c y, xay giã, gi n sàng. Th m vào trong h t g o bé ươ ấ ả ấ ầ ấ ạ ạ
nh y là m hôi v m n nh c nh n c a giai c p nông dân. B i v y, n ỏ ấ ồ ị ặ ọ ằ ủ ấ ở ậ ă
h t g o d o th m ta ph i nh công n ng i ã làm ra nó:ạ ạ ẻ ơ ả ớ ơ ườ đ
Ai i b ng bát c m yơ ư ơ đầ
D o th m m t h t ng cay muôn ph n.ẻ ơ ộ ạ đắ ầ

6. Câu th cu i cùng khép l i m t câu kh ng nh v i ni m t hàoơ ố ạ ộ ẳ đị ớ ề ự :
“ t N c có t ngày ó”.Đấ ướ ừ đ
- “Ngày ó” là ngày nào ta không rõ nh ng ch c ch n “ngày ó” là ngày đ ư ắ ắ đ
ta có truy n th ng, có phong t c t p quán, có v n hóa mà có v n hóa ề ố ụ ậ ă ă
ngh a là có t n c. úng nh l i Bác d n tr c lúc i xa “R ng mu n ĩ đấ ướ Đ ư ờ ặ ướ đ ằ ố
yêu t qu c mình, ph i yêu nh ng câu hát dân ca”. Dân ca, ca dao là ổ ố ả ữ
c tr ng v n hóa c a Vi t Nam, mu n yêu t N c tr c h t ph i đặ ư ă ủ ệ ố Đấ ướ ướ ế ả
yêu và quý tr ng v n hóa n c nhà. B i v n hóa chính là t N c. ọ ă ướ ở ă Đấ ướ
Th t áng yêu áng quý, áng t hào bi t bao l i th dung d , ng t ngàoậ đ đ đ ự ế ờ ơ ị ọ
c a Nguy n Khoa i m.ủ ễ Đ ề
7. Ngh thu t:ệ ậ
- Thành công c a o n th trên là nh vào vi c v n d ng khéo léo ch t ủ đ ạ ơ ờ ệ ậ ụ ấ
li u v n hóa dân gian nh phong t c n tr u, t c búi tóc, truy n th ng ệ ă ư ụ ă ầ ụ ề ố
ánh gi c, truy n th ng nông nghi p. Nhà th sáng t o thành ng dân đ ặ ề ố ệ ơ ạ ữ
gian, ca dao t c ng , thành ng … i p ng t ụ ữ ữ Đ ệ ữ Đấ N c c nh c l i ướ đượ ắ ạ
nhi u l n. Nhà th luôn vi t hoa hai t t N c t o nên s thànhi ính, ề ầ ơ ế ừ Đấ ướ ạ ự
thiêng liêng… T t c làm nên m t o n th m à không gian v n hóa ấ ả ộ đ ạ ơ đậ đ ă
ng i Vi t. Ngôn ng m c m c, gi n d , l i th nh nhàng úng gi ng ườ ệ ữ ộ ạ ả ị ờ ơ ẹ đ ọ

th th tâm tình nh ng v n mang m h n th tri t lí.ủ ỉ ư ẫ đậ ồ ơ ế
III. K T BÀIẾ
Tóm l iạ , o n th ta v a phân tích trên là o n th hay nh t trong bàiđ ạ ơ ừ ở đ ạ ơ ấ
th t N c. Qua o n th , nhà th ã mang n cho ng i c v ơ Đấ ướ đ ạ ơ ơ đ đế ườ đọ ẻ
p c a m t t N c giàu v n hóa c truy n. t N c c a truy n đẹ ủ ộ Đấ ướ ă ổ ề Đấ ướ ủ ề
th ng, phong t c t i p mang m d u n c a t t ng t N c ố ụ ươ đẹ đậ ấ ấ ủ ư ưở Đấ ướ
c a nhân dân.ủ
ĐẤT NƯỚC
Nguyễn Khoa Điềm
Phân tích đoạn thơ sau để làm rõ tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” trong đoạn
trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút non Nghiên
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sống ta…”
MỞ BÀI
1. Dẫn dắt vào đề:
Hình ảnh đất nước đã khơi nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao thi sĩ Cách
mạng để sáng tạo nên những vần thơ đẹp tuyệt vời. Nhà thơ Chế Lan Viên đã nhìn
suốt chiều dài lịch sử oanh liệt để khẳng định: “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này
chăng?”. Lê Anh Xuân đã tạc vào thơ một dáng đứng Việt Nam với hình ảnh: “Từ
dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất; Tổ quốc bay lên bát ngát mùa

xuân”. Tố Hữu với hình ảnh đất nước sáng ngời: “Ôi! Việt Nam từ trong biển máu;
Người vươn lên như một thiên thần”.
Với chương Đất Nước trong Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm đã
nói lên những cảm nhận sâu sắc về đất nước, về nhân dân, về dân tộc và trách nhiệm
lớn lao của tuổi trẻ Việt Nam trước non sông đấtnước.

2. Vài nét về tác giả và tác phẩm.
- Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 ở Thừa Thiên Huế, là con nhà
phê bình văn học Hải Triều, một nhà phê bình xuất sắc đã từng chủ trì lý thuyết
“nghệ thuật vị nhân sinh” trong cuộc tranh luận với Hoài Thanh năm 1936 – 1969.
- Đất Nước thuộc chương V của trường ca Mặt đường khát vọng (1974). Bản
trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ sinh viên các đô thị tạm chiếm ở miền
Nam trước năm 1975 trước vận mệnh hiểm nghèo của đất nước; kêu gọi họ hướng
về nhân dân mà xuống đường đấu tranh hoà nhập với cuộc kháng chiến của toàn
dân tộc.
- Trong các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy
tưởng, xúc cảm dồn nén, thể hiện một chiều sâu văn hoá, đặc trưng của thế hệ
các nhà thơ thời kỳ chống Mỹ cứu nước đã có một hành trang văn hóa chuẩn bị khá
chu đáo trước khi bước vào chiến trường.
- Chương Đất Nước khai triển có vẻ phóng túng, tự do như một thứ tuỳ bút
thơ, nhưng thật ra tứ thơ vẫn tập trung thể hiện tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”
qua các bình diện chủ yếu: Đất Nước trong chiều dài thời gian lịch sử, Đất Nước
trong chiều rộng không gian lãnh thổ địa lý, Đất Nước trong bề sâu truyền thống
văn hoá, phong tục, lối sống tâm hồn, cốt cách dân tộc.
- Tư tưởng “đất nước của nhân dân” là một tư tưởng rất tiến bộ của thơ ca
thời đại Cách mạng. Đoạn trích bình giảng trên đây đã thể hiện một cách sâu sắc và
cụ thể sự “ hoá thân ” của nhân dân vào đất nước muôn đời.

THÂN BÀI
Trọng tâm của đoạn thơ nằm ở phần lí giải: “Ai làm nên Đất Nước?” và bằng

lí giải đầy sức thuyết phục của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định: Nhân dân
làm nên đất nước, “Đất Nước này là đất nước của nhân dân”.
a. Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ về thiên nhiên địa
lí của đất nước:
- Để nói lên công lao to lớn của nhân dân trong quá trình dựng nước và giữ
nước, nhà thơ đã nhắc đến những danh lam thắng cảnh, những tên đất, tên làng trên
mọi miền đất nước từ Nam chí Bắc.
+ Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn thấy hình sông, thế núi là sự kết tinh đời sống
tâm hồn của nhân dân. Xuất phát từ quan niệm của nhà Phật (hóa thân), tác giả đã
trình bày những cảm xúc, suy tưởng của mình: chính nhân dân đã hoá thân thành
đất nước “hóa thân cho dáng hình xứ sở” làm nên đất nước vĩnh hằng.
+ Qua cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, những danh lam thắng cảnh không
còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa mà đã được cảm nhận thông qua
những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của
nhân dân, sự “hoá thân” của những con người không tên không tuổi.
Chúng chỉ trở thành thắng cảnh khi đã gắn liền với cuộc sống của nhân dân,
với con người, được tiếp nhận, cảm thụ quan tâm hồn nhân dân và qua lịch sử của
dân tộc.
- Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” khiến cho những địa danh ngàn đời của
Tổ quốc qua cái nhìn sắc sảo đầy khám phá của nhà thơ chính là sự hoá thân của
những con người bình dị, vô danh những con người “không ai nhớ mặt đặt tên”
“nhưng họ đã làm ra đất nước”:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”
+ Những địa danh, những hình sông thế núi mang hình người, linh hồn dân
tộc. Chúng là sự tượng hình kết tinh đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân mang
đậm chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo Việt Nam.
+ Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định…, hòn Trống Mái ở
Sầm Sơn là do "những người vợ nhớ chồng" hoặc những "cặp vợ chồng yêu nhau"
mà "góp cho", "góp thêm", làm đẹp thêm, tô điểm cho Đất Nước. Núi Vọng Phu,

hòn Trống Mái cũng là kết tinh tình yêu thuỷ chung của biết bao người vợ chờ chồng
trong chiến tranh liên miên, của sự gắn kết muôn đời, bất chấp mọi bão tố của thời
gian:
“Không hoá thạch kẻ ra đi mà hóa thạch kẻ đợi chờ
Đợi một dáng hình trở lại giữa đơn côi”
- Tác giả không chỉ chiêm ngưỡng những hình ảnh núi Bút, non Nghiên mà
còn nhìn ra trong đó phẩm chất, truyền thống hiếu học và khát vọng trí tuệ của dân
tộc ta từ bao đời nay.
+ Những núi Bút, non Nghiên phô bày vẻ đẹp mỹ lệ giữa đất trời nước Việt
hay là hình tượng những người học trò nghèo đã gửi gắm quyết tâm, ước vọng của
mình vào đấy:
“Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút non Nghiên”
"Nghèo" nhưng “người học trò” vẫn góp cho đất nước ta “núi Bút non Nghiên”, làm
rạng rỡ nền văn hiến Đại Việt, văn hiến Việt Nam. Đó cũng chính là truyền thống hiếu
học, vượt khó vươn lên của nhân dân ta.
- Nhà thơ đã tìm về cội nguồn để cảm nhận sâu sắc dáng hình đất nước.
Những hình ảnh thân quen của non sống đất nước gợi lên quá khứ hào hùng với
truyền thống đánh giặc ngoại xâm oanh liệt của nhân dân ta qua truyền thuyết Thánh
Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân:
“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi”
(Tố Hữu)
cùng với sự nghiệp dựng nước đầy gian lao của vua Hùng:
“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”
Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm đã ca ngợi vẻ đẹp của Đất Nước về mặt lịch sử

và truyền thống. Chính cái "gót ngựa của Thánh Gióng" đã "để lại" cho đất nước
bao ao đầm ở vùng Hà Bắc ngày nay. "Chín mươi chín" núi con Voi đã quần tụ,
chung sức chung lòng "góp mình dựng đất tổ Hùng Vương”.
- Cho đến “những con rồng nằm im” cũng góp phần làm nên “dòng sông
xanh thẳm”, “con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”
và cả những địa danh thật nôm na, bình dị “những ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà
Điểm”.
+ “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”. Những dòng sông
trên đất nước ta là do rồng "nằm im" từ bao đời nay. Nhờ đó mà quê hương ta có
"dòng sông xanh thẳm", thơ mộng cho nước ngọt phù sa, nhiều tôm cá, mênh mông
biển lúa bốn mùa.
+ Tư tưởng "Đất Nước của nhân dân" cũng thể hiện trong kì quan nổi tiếng,
những tên tuổi có công với dân với nước:
"Con cóc con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm"
Theo cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, Hạ Long trở thành kì quan, thắng
cảnh là nhờ có "con cóc, con gà quê hương cùng góp cho".
Những tên làng, tên núi, tên sông như "Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà
Điểm " là do những con người vô danh, bình dị làm nên.
+ Nguyễn Khoa Điềm đã đặt cái nhìn trân trọng của mình vào nhân dân
không tên không tuổi, “những người dân nào” không ai biết cũng làm nên tên núi,
tên sông và tất cả những cái bình thường trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân
cũng hoá thân thành “dáng hình xứ sở”. Những địa danh ở vùng cực Nam đất nước
xa xôi này tượng trưng cho tinh thần xả thân vì cộng đồng, đức tính cần cù, siêng
năng, dũng cảm trong lao động sáng tạo của nhân dân ta.
+ Để khẳng định và nhấn mạnh tư tưởng "Đất nước của nhân dân " và chính
nhân dân vô tận, những người vô danh không tên không tuổi đã làm nên đất nước, ở
đoạn thơ trên tác giả đã sử dụng rất thành công điệp từ "góp", một động từ diễn đạt
hành động "cùng mọi người đưa cái riêng của mình vào thành cái chung" (Từ điển
Tiếng Việt - trang 758)

+ Đọc đoạn thơ này ta cảm thấy ngạc nhiên thích thú trước những lí giải của
Nguyễn Khoa Điềm. Ai ngờ những điạ danh, thắng cảnh quá thân quen lại có khả
năng nói được nhiều điều sâu xa như thế. Số phận, cảnh ngộ, công lao của mỗi người
đã đóng góp, hoá thân vào Đất Nước. Đất Nước thấm sâu vào tâm hồn, máu thịt của
nhân dân.
b. Từ đó, Nguyễn Khoa Điềm đi đến kết luận mang tính khái quát sâu
sắc giàu chất suy tư và triết luận về sự hoá thân của nhân dân vào đất nước:
- Tính khái quát của hình tượng thơ cứ được nâng dần lên. Đó là một hình
dáng của tư thế truyền thống Việt Nam, truyền thống văn hiến của dân tộc có bốn
nghìn năm lịch sử:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sống ta…”
+ Thì ra trên mọi miền Đất Nước của Tổ quốc Việt Nam, những tên núi, tên sông,
tên làng, tên bản, tên ruộng đồng , gò bãi… đều mang đậm “một dáng hình, một ao
ước, một lối sống ông cha”.
+ Chính cuộc đời của cha ông ta – những người dân không tên tuổi – đã làm nên Đất
Nước. Tất cả đều do nhân dân tạo ra, đều kết tinh từ công sức và khát vọng của nhân
dân - những con người bình thường, vô danh.
+ Nhưng tầm vóc của Đất Nước và nhân dân không chỉ trên bình diện địa lí "mênh
mông" mà còn ở dòng chảy thời gian lịch sử “bốn nghìn năm” "đằng đẵng".
KẾT BÀI
- Đoạn thơ có kết cấu chặt chẽ, tự nhiên và được viết theo thể tự do. Câu thơ
mở rộng kéo dài nhưng không nặng nề mà biến hoá linh hoạt làm cho đoạn thơ giàu
sức biểu hiện và sức khái quát cao.
- Đó là hình ảnh “Đất Nước của nhân dân” – nhân dân đã hoá thành đất
nước. Bởi trên khắp ruộng đồng gò bãi, núi sông đâu đâu cũng là hình ảnh của
văn hoá, của đời sống tâm hồn, cốt cách của Việt Nam.
BÀI THƠ ĐẤT NƯỚC- NGUYỄN KHOA ĐIỂM.

A.TÁC GIẢ
– Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà
thơ trẻ, có những đóng góp nổi bật cho thơ ca Việt Nam trong những năm kháng
chiến chống Mỹ cứu nước.
– Thơ ông giàu chất suy tư, trầm lắng, cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư của
người trí thức tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến.
– Tác phẩm tiêu biểu: Đất ngoại ô, trường ca Mặt đường khát vọng, Ngôi
nhà có ngọn lửa ấm…
B. Đoạn trích ĐẤT NƯỚC
1. HOÀN CẢNH SÁNG TÁC:
- Sáng tác vào mùa đông năm 1971, tại chiến trường Trị – Thiên. Đây
là thời điểm mà cuộc chiến tranh chống Mỹ đang hồi quyết liệt.
- Trích chương V trong trường ca “Mặt đường khát vọng” (1971).
- “ Mặt đường khát vọng” là bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi
trẻ các thành thị vùng tạm bị chiếm miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm
lược của Đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân, đất nước, xuống đường đấu
tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chung của dân tộc.
2. ĐỀ TÀI:
- ĐẤT NƯỚC là đề tài quen thuộc, phổ biến trong thơ ca, nhạc họa…
- Đối với các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ, đề tài Đất nước được cảm
nhận theo cách riêng mang dấu ấn của sự trải nghiệm bằng cuộc sống
của chính mình.
- Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã dóng góp một tiếng nói rất riêng về
đề tài quen thuộc này.
C. NỘI DUNG
1. Cảm nhận và lý giải của nhà thơ về đất nước
a. Đất nước có từ bao giờ? Đất nước ở đâu?
– Đất nước có trong nhận thức, tình cảm của mỗi người như một
điều hiển nhiên “Khi ta lớn lên dất nước đã có rồi”.
– Đi tìm nguồn cội của Đất nước nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm

cảm nhận đất nước có từ xa xưa:
· Từ trong những câu chuyện cổ tích Ngày xửa ngày xưa mẹ
thường hay kể.
· Đất nước bắt đầu với những phong tục rất đẹp của dân tộc khi
nền văn minh sông Hồng mới hình thành “ miếng trầu bà ăn”,
“ tóc mẹ thì búi sau đầu”.
+ Hình ảnh “ miếng trầu” tượng trưng cho phong tục tập quán đẹp của của
người Việt _ đó là miếng trầu của lòng hiếu khách “ Miếng trầu là đầu câu
chuyện”, miếng trầu tình duyên thắm đượm” Miếng trầu nên dâu nhà
người”, miếng trầu của tình vợ chồng, tình anh em…trong Sự tích trầu cau.
+ Hình ảnh “búi tóc” không chỉ là phong tục tập quán của người Việt mà còn
là một quan niệm về thẩm mỹ của người Việt xưa.
· Đất nước “lớn lên” từ những ngày đầu đánh giặc giữ nước của
chàng trai Phù Đổng thuở xưa “ Đất nước lớn lên khi dân mình biết
trồng tre đánh giặc”
· Đất nước bắt nguồn từ những vần ca dao tình nghĩa, từ lới
sống ân nghĩa thủy chung của dân tộc ta “ cha mẹ thương nhau
bằng gừng cay muối mặn”à Lấy ý từ:
Tay bưng đĩa muối chấm gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
Muối ba năm muối đương còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng nỏ xa
– Đất nước có trong những sự vật gần gũi, thân thương, bình dị
gắn bó với đời sống của con người Việt Nam (Miếng trầu, búi tóc,cái
kèo, cái cột, hạt gạo…).
ð Nhận xét:
- Với những chất liệu lấy từ văn học dân gian, văn hóa dân tộc, từ
nhũng sự vật nhỏ bé, quen thuộc trong đời sống, Nguyễn Khoa Điềm đã

cảm nhận Đất nước có cội nguồn từ xa xưa, có trong chiều sâu của nền
văn hóa dân tộc, trong bề dày của văn học dân gian và ngay trong
những sự vật gần gũi với mỗi người, mỗi gia đình. Đất nước trong cảm
nhận của nhà thơ thật gần gũi, dung dị, đời thường.
- Qua đoạn thơ, tác giả bày tỏ niềm tự hào về một đất nước có một nền
văn hóa lâu đời mang những nét đặc thù riêng.
b. Đất nước là gì?
v Đất nước là không gian địa lý mênh mông, bao la:
- Trong không gian cụ thể, gần gũi, gắn bó với kỷ niệm, với tình yêu
của mỗi người:
+ Đất là nơi anh đến trườngà không gian quen thuộc gắn liền với
thời thơ ấu của mỗi người.
+ Nước là nơi em tắm à Không gian nhỏ bé,gần gũi trong đời sống,
phải chăng còn gợi liên tưởng những giếng làng, những ao hồ, sông
nước của làng quê VN?
+Đất nước là nơi ta hò hẹn…là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong
nỗi nhớ thầmàKhông gian gần gũi gắn liền với kỉ niệm tình yêu đôi
lứa. Câu thơ mang hơi thở dân gian, gợi nhớ bài ca dao Khăn thương
nhớ ai…
- Trong không gian mênh mông, bao la gắn liền với đời sống của một
dân tộc àLà những không gian quen thuộc mà thiêng liêng, lớn lao:
+ Lãnh thổ của một quốc gia: Đất là nơi “con chim phượng hoàng
bay về hòn núi bạc”/ Nước là nơi “con cá như ông móng nước biển
khơi”àMượn lời bài dân ca Bình Trị Thiên nhà thơ cảm nhận về đất
nước với niềm tự hào vô hạn về một quốc gia có chủ quyền. Ý thơ
gợi nhớ bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên trong văn học nước nhà “
Sông núi nước Nam” của Lý Thường kiệt.
+ Không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc “ Đất nước là nơi dân
mình đoàn tụ”.
v Đất nước là thời gian lịch sử “ đằng đẵng” của quá khứ, hiện

tại và tương lai:
- Là nơi phát sinh, phát triển của một cộng đồng dân tộc từ thuở sơ khai
“ Đất là nơi Chim về/ Nước là nơi Rồng ở/ Lạc Long Quân và Âu
Cơ/Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” àLấy chất liệu từ những huyền
thoại của văn học dân gian.
- Là bề dày lịch sử dân tộc trong quá khứ của Những ai đã
khuất/Những ai bây giờ…Dặn dò con cháu chuyện mai sauà Đất nước
mang tính chất kế tục và vĩnh hằng.
v Nhà thơ còn nhắn nhủ “ Hằng năm ăn đâu… cúi đầu nhớ ngày
giỗ Tổ”à Ý thơ không chỉ là lời nhắn nhủ mà còn là “cầu nối” cho
đoạn thơ sau.
v Nét đặc sắc về nghệ thuật của đoạn thơ:
- Lấy chất liệu từ văn học dân gian ( ca dao, dân ca, huyền thoại…)
- Tách rời hai thành tố ĐẤT/NƯỚC sau đó kết hợp lại để khẳng định
đất nước rất bình dị, gần gũi với mọi người nhưng đồng thời cũng rất
thiêng liêng, cao quý,toàn vẹn.
- Chất trữ tình- chính luận, hiện đại với thể thơ tự do.
c. Trách nhiệm của mỗi người đối với Đất nước “ Trong anh … làm
nên Đất nước muôn đời”
- Đất nước có trong anh và em, trong bản thân của mỗi con người “
Trong anh và em…hài hòa nồng thắm/ Khi chúng ta…vẹn tròn to
lớn”à Đất nước được cụ thể hóa bằng những hình ảnh thơ gợi cảm, là
lời kêu gọi tinh thần đoàn kết dân tộc, là lời nhắc nhở về ý thức trách
nhiệm của mỗi người đối với Đất nước.
- Đất nước là máu xương của mỗi người “Em ơi em Đất nước là máu
xương của mình”àcách cảm, cách nghĩ mới mẻ của những nhà thơ thời
kháng chiến:

×