Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận Phép biện chứng Hegel và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Marx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.69 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
 
Môn học : Triết Học
Đề tài:
Phép biện chứng Hegel và vai trò của nó
đối với sự ra đời của triết học Marx
GV: TS. Bùi Văn Mưa
HVHV: Trần Hoàng Việt Dũng
MSHV: 7701220217
STT: 21
Nhóm: 1
Lớp: QTKD D1
Khóa: 22
TP. HCM, tháng 12 năm 2012
1
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến ngày nay đã có lịch sử gần 3000
năm.Trong đó, sự phát triển của những tư tưởng triết học của nhân loại là một
quá trình không hề đơn giản. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ
nghĩa duy vật, gắn liền với nó là cuộc đấu tranh giữa các phương pháp nhận
thức thực tiễn – phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng – tuy là cái
trục xuyến suốt lịch sử triết học, làm nên cái “logic nội tại khách quan” của sự
phát triển, nhưng lịch sử phát triển của nó lại hết sức phức tạp.
Trong đó, nền triết học cổ điển Đức là nền triết học được tạo nên từ cuối thế kỷ
XVIII - đầu thế kỷ XIX là thành tựu rực rỡ của nền văn minh Tây Âu và thế
giới, là đỉnh cao của thời kỳ triết học Tây Âu. Nó trở thành một trong ba nguồn
gốc hình thành chủ nghĩa Marx - nguồn gốc triết học (cùng với kinh tế chính trị
học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp).
Nền triết học cổ điển Đức với tiêu biểu là tư tưởng biện chứng thể hiện thông
qua một số đại biểu như: Kant, Hegel, Feuerbach. Tuy đứng trên lập trường


duy tâm nhưng các nhà triết học cổ điển Đức đã xây dựng nên các hệ thống
triết học độc đáo, đề xuất được tư duy biện chứng, logic biện chứng, học thuyết
về các quá trình phát triển mà tìm tòi lớn nhất trong tất cả các tìm tòi của họ đó
là phép biện chứng. Với cách nhìn tổng quát về phương pháp biện chứng, các
nhà triết học cổ điển Đức có ý đồ hệ thống hóa toàn bộ tri thức và thành tựu
mà nhân loại đã đạt được.
Trong số các nhà triết học tiêu biểu đó vĩ đại nhất không thể không nhắc tới
Georg Wilhelm Friedrich Hegel. Ông là nhà biện chứng lỗi lạc, phép biện
chứng của ông là một tiền đề lý luận quan trọng của triết học Marx. Triết học
của Hegel có ảnh hưởng rất mạnh đến tư tưởng của nước Đức và cả Châu Âu
đương thời, triết học của ông được gọi là "tinh thần Phổ". Phép biện chứng của
Hegel là phép biện chứng duy tâm, tức là phép biện chứng về sự vận động và
phát triển của các khái niệm được ông đồng nhất với biện chứng sự vật. Không
chỉ là đại biểu tiêu biểu của nền triết học cổ điển Đức mà Hegel đã đem lại cho
triết học địa vị vốn có và sứ mệnh cao cả của nó trong đời sống tinh thần nhân
loại. Với những luận cứ sâu sắc và có cơ sở khoa học, Hegel đã làm sáng tỏ đối
tượng, chức năng và phương pháp của triết học, mối quan hệ của triết học với
các khoa học khác và qua đó, trình bày một cách khúc chiết, đúng đắn bản chất
của triết học.
2
NỘI DUNG
1. Bối cảnh lịch sử và sơ lược về triết học cổ điển Đức:
Hệ thống triết học của Hegel là một bộ phần của triết học cổ điển Đức. Nó ra
đời trong điều kiện lịch sử hết sức đặc biệt. Nước Đức vào cuối thế kỷ XVIII
đến đầu thế kỷ XIX vẫn còn là một quốc gia phong kiến điển hình với 360 tiểu
vương quốc độc lập trong một liên bang Đức chỉ còn là hình thức, lạc hậu về
kinh tế và chính trị. Thủ công nghiệp, công nghiệp, nông nghiệp bị đình đốn.
Lúc này vương triều Phổ Phriđrich Vin Hem vẫn tăng cường quyền lực duy trì
chế độ quân chủ, cản trở đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Cả đất nước bao trùm bầu không khí bất bình của đông đảo quần chúng.

Trong khi đó ở nước Pháp đã tiến hành cuộc cách mạng tư sản. Ở nước Anh
thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp làm rung chuyển châu Âu, đưa châu Âu
bước vào nền văn minh công nghiệp. Tấm gương của các nước Tây Âu đã thức
tỉnh tinh thần cách mạng của giai cấp tư sản Đức và những bộ phận tiến bộ
khác của xã hội Đức. Nhưng vì giai cấp tư sản Đức lúc này tỏ ra hèn kém,
những lực lượng tiến bộ khác nằm rải rác ở những vương quốc nhỏ tách rời
nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu kém về kinh tế và chính trị nên không thể tiến
hành cách mạng tư sản trong thực tiễn mà chỉ tiến hành cách mạng về phương
diện tư tưởng. Người ta nói rằng tương lai của tư sản nước Đức vẫn còn rất xa
vời. Họ muốn thỏa hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ, giữ lập trường
cải lương trong việc giải quyết những vấn đề phát triển đất nước. Nhưng với
tinh thần cách mạng của mình, giai cấp tư sản Đức phải tìm cách nào đó để thể
hiện tinh thần đó và đã gửi gắm vào trong triết học cổ điển Đức. Đồng thời,
trước đòi hỏi của quá trình phát triển phương thức sản xuất tư bản ở các nước
Tây Âu, khoa học tự nhiên đã đạt nhiều thành tựu lớn: phát hiện ra điện, phát
hiện ra ôxy và bản chất sự cháy của Lavoadie; việc phát hiện ra tế bào của
Lơvenhuc; học thuyết về dưỡng khí của Pritski và Sielo Những thành tựu đó
chứng tỏ sự hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình trong việc lý giải bản
chất của các hiện tượng tự nhiên và thực tiễn xã hội đang diễn ra.
Triết học cổ điển Đức là tiếng nói của giai cấp tư sản Đức nhằm phê phán trật
tự xã hội đương thời. Tuy nhiên, tinh thần phê phán đó là tinh thần mang tính
ôn hòa. Triết học cổ điển Đức nhằm phê phán trật tự xã hội đương thời, vẫn còn
dưới sự thống trị của vương triều Phổ, nó được bao bọc bởi những vỏ sinh tâm
thần bí trong triết học của Hegel hay Canter, Phicter vì vậy tinh thần phê phán
đó không quyết liệt được. Triết học cổ điển Đức tiếp tục truyền thống đề cao lý
trí trong triết học phương Tây nhưng đề cao lý trí trong điều kiện kinh tế, xã
hội chưa thực sự phát triển đã dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa duy tâm. Triết
học cổ điển Đức có những đóng góp to lớn với sự phát triển văn hóa và khoa
học của nhân loại, đóng góp lớn nhất là đóng góp về phép biện chứng gắn liền
với tên tuổi của Hegel, đóng góp thứ hai là đóng góp về thế giới quan duy vật

(chủ nghĩa duy vật) gắn liền với tên tuổi của L.L.Feuerbach (1804 - 1872). Đây
là đặc điểm quan trọng nhất, nổi bật nhất và đáng lưu ý nhất của triết học cổ
3
điển Đức
2. Nội dung và giá trị phép biện chứng duy tâm của Hegel:
Georg Wilhelm Friedrich Hegel; 1770 - 1831), nhà triết học duy tâm khách
quan, đại biểu xuất sắc của triết học cổ điển Đức, người xây dựng nên phép
biện chứng duy tâm. Ông được sinh ra tại Stuttgart trong gia đình công chức
cao cấp. Sau khi tốt nghiệp đại học Tübingen. Năm 1801 ông bắt đầu giảng dạy
tại trường đại học Jena, nơi ông gặp lại người bạn cũ Schelling. Cả hai đã từng
công tác xuất bản tạp chí “Phê phán triết học”. Hegel bắt đầu xây dựng hệ
thống triết học duy tâm khách quan của mình trong tác phẩm “Hiện tượng luận
tinh thần”. Từ 1808-1816, ông là hiệu trưởng trường Đại học Nuremberg và
viết tác phẩm khoa học logic. Từ năm 1816, ông giảng dạy tại trường Đại học
Heidelberg, tại đây ông viết bách khoa toàn thư các khoa học triết học. Năm
1818, Chính phủ Phổ mời Hegel làm giáo sư triết học tại Đại học Berlin.Tại
đây, ông chính thức trở thành nhà triết học của nhà nước Phổ. Thời kỳ này, ông
xuất bản Triết học Pháp quyền.Sau khi Hegel mất, các tác phẩm của ông tiếp
tục được xuất bản như: Những bài giảng về lịch sử triết học (1836-1838); Triết
học về lịch sử (1837); Những bài giảng về mỹ học hay triết học về nghệ thuật
(1836 – 1838)…
Theo đánh giá các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx: Hegel không chỉ là một
thiên tài sáng tạo mà còn là nhà triết học có tri thức bách khoa nên tất cả mọi
lĩnh vực, Hegel đều là người của mọi thời đại. Triết học của Hegel là tinh hoa
của triết học cổ điển Đức và là nguồn gốc lý luận trực tiếp của cổ điển Marx.
Hegel đã để lại cho đời sau rất nhiều tác phẩm nổi tiếng. Hệ thống của Hegel
rất khó đọc. Thời kỳ nước Đức lên cơn sốt Hegel chứng tỏ trình độ tư duy của
người Đức rất cao. Lúc bấy giờ nước Đức hình thành hai phái: một Hegel già
và Hegel trẻ, đều ảnh hưởng trực tiếp của Hegel. Hegel từng tuyên bố: triết học
của Hegel là cuối cùng trong lịch sử, và sau này sẽ không tìm được bộ óc nào

vĩ đại hơn Hegel. Sự tuyên bố đó tất nhiên là không đúng nhưng có cơ sở của
nó. Tư tưởng của Hegel bao bọc bởi duy tâm huyền bí.
2.1 Nội dung phép biện chứng duy tâm của Hegel:
Phương pháp mà Hegel sử dụng để xây dựng hệ thống triết học duy tâm khách
quan của mình là phương pháp biện chứng. Phương pháp này đòi hỏi xem xét
sự vật trong tiến trình lịch sử của nó, trong sự vận động, phát sinh, biến đổi,
phát triển và diệt vong của nó. Phương pháp biện chứng là cơ sở phương pháp
luận để ông xây dựng phép biện chứng – “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt toàn bộ hệ
thống triết học của ông. Phép biện chứng không chỉ được thể hiện trong nội
dung các vấn đề nghiên cứu mà còn thể hiện trong hình thức trình bày các vấn
đề đó.
4
2.1.1 Phép biện chứng duy tâm khách quan về ý niệm tuyệt đối:
Đây là điểm khởi đầu và là nền tảng của triết học Hegel. Nó là thực thể tinh
thần sáng tạo ra giới tự nhiên và toàn thể nhân loại. Theo Hegel, mọi sự vật,
hiện tượng trong thế giới, kể cả những sản phẩm hoạt động của con người chỉ
là hiện thân của ý niệm tuyệt đối.
Ý niệm tuyệt đối là thực thể tinh thần, giống thượng đế sáng tạo ra giới tự
nhiên và toàn thể nhân loại. Theo Hegel, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới
đều được sinh ra bởi một thực thể tinh thần, ý thức, tinh thần có trước vật chất
nhưng đó không phải là ý thức, tinh thần của từng cá nhân, con người cụ thể
mà là một thực thể tinh thần bên ngoài con người và ông đặt tên là ý niệm tuyệt
đối. Điều đó chứng tỏ triết học của Hegel là duy tâm khách quan. Ông coi ý
niệm tuyệt đối là cái có trước. Trong quá trình vận động, phát triển, ý niệm
tuyệt đối tha hóa thành giới tự nhiên và xã hội, cuối cùng lại trở về với chính
mình trong tinh thần tuyệt đối.
Cho dù là nhà triết học duy tâm nhưng Hegel đặc biệt đề cao con người, không
hạ thấp con người xuống, đó là điểm sáng của triết học Hegel. Chính Hegel
khẳng định hoạt động của con người và nhận thức của con người là chìa khóa
để ý niệm tuyệt đối nhận thức bản thân mình trở về với chính bản thân mình.

Hegel cho rằng: ban đầu trong vũ trụ bao la không có cái gì cả, chỉ có một thực
thể duy nhất, ông gọi là ý niệm tuyệt đối, là một thực thể tinh thần với bản tính
ham hiểu biết. Muốn thỏa mãn bản tính ham hiểu biết này cần phải tha hóa
thành khác mình nhưng cũng chính là mình. Vậy sự tồn tại của thế giới vật chất
xung quanh ta là nhằm thỏa mãn bản tính ham hiểu biết của con người mà thôi.
Ông khẳng định: giới tự nhiên này nằm trong quá trình phát triển vô cơ, hữu cơ
cho đến con người, và khi con người phản ánh đầy đủ về giới tự nhiên, tức là
con người quay trở lại điểm khởi đầu là ý niệm tuyệt đối. Vì vậy, trong triết học
của Hegel, điểm khởi đầu là ý niệm tuyệt đối, điểm kết thúc cũng là ý niệm
tuyệt đối mà tồn tại ý thức của mỗi cá nhân, con người chúng ta. Thông qua tư
tưởng này, Hegel đặc biệt đề cao con người, trí tuệ con người, chứng tỏ Hegel
là nhà triết học duy tâm khách quan.
2.1.2 Phép biện chứng duy tâm về triết học:
Theo Hegel, đối tượng nghiên cứu của triết học là ý niệm tuyệt đối, lịch sử
nhân loại là giai đoạn phát triển cao nhất. Đây là quan điểm duy tâm. Triết học
nghiên cứu lịch sử nhân loại, mà lịch sử nhân loại là giai đoạn cao nhất của ý
niệm tuyệt đối. Thật ra, triết học là ngành khoa học nghiên cứu ý niệm tuyệt
đối.
5
Hegel là người có công khôi phục lại quan điểm triết học là khoa học của mọi
khoa học. Hegel muốn xây dựng triết học mang tính vạn năng, đóng vai trò nền
tảng cho tất cả các ngành khoa học, nghĩa là toàn bộ khoa học cụ thể phải nằm
trong triết học. Quan niệm này ra đời trong thời buổi trình độ nhận thức con
người chưa cao nên triết học là một lý luận mang tính phổ quát, bao trùm và
thậm chí là duy nhất. Nó có tham vọng giải thích tất cả lĩnh vực khoa học cụ
thể mà trong thời kỳ đó còn mang tính chất tảng mạn và sơ khai. Thời kỳ đó,
khoa học chưa phân ngành, người ta không thể tìm thấy tri thức về khoa học tự
nhiên trong khoa học cụ thể như ngày hôm nay mà chỉ có thể tìm thấy những tư
tưởng khoa học tự nhiên trong hệ thống triết học tự nhiên của các nhà triết học.
Triết học là tinh hoa của thời đại thể hiện ở dạng tinh thần. Lịch sử triết học đã

khái quát lại toàn bộ lịch sử tư tưởng nhân loại. Hệ thống triết học cuối cùng
trong lịch sử là kết quả của các hệ thống triết học trước đó. Theo Hegel, triết
học là sự thể hiện thời đại mình ở dạng tinh thần và là tinh hoa của thời đại.
Ông đặc biệt đề cao vai trò của triết học theo nghĩa rộng. Ông nói các trường
phái triết học tưởng là khác nhau nhưng thật ra là một vì tất cả chúng đều là
triết học và mang tính kế thừa. Từ đó khẳng định hệ thống triết học cuối cùng
trong lịch sử là kết quả của toàn bộ hệ thống triết học trước đó, đồng thời tuyên
bố triết học của Hegel là cuối cùng trong lịch sử.
2.1.3 Phép biện chứng duy tâm trong khoa học logic:
Để xây dựng logic học mới với tính cách là logic biện chứng, Hegel đã nghiên
cứu toàn bộ quá trình phát triển của logic hình thức cổ điển trước đây. Trên cơ
sở đó, Hegel đã sáng tạo ra một hệ thống logic học mới - logic biện chứng
nhằm đem lại cho con người một cách hiểu mới về bản chất của tư duy và trang
bị cho các ngành khoa học một phương pháp nhận thức mới, đó chính là
phương pháp biện chứng.
Phương pháp tư duy biện chứng là phương pháp tư duy khảo sát đối tượng
trong sinh thành, biến đổi và phát triển. Chính Hegel là người đã khai sinh ra
phương pháp tư duy biện chứng này, trở thành phương pháp khoa học, làm
công cụ khoa học khám phá ra chân lý. Hegel đồng nhất tư duy với hoạt động
của ý niệm tuyệt đối với tư cách là cơ sở của mọi sự vật, hiện tượng của thế
giới. Hơn nữa tư duy đồng thời vừa là khách thể, vừa là chủ thể, nó vừa là
những gì đang tư duy, vừa là những gì được tư duy. Tuy nhiên, Hegel cũng
thừa nhận cảm giác, trực giác, biểu tượng, mong muốn là những hình thức của
ý thức con người. Nhưng tất cả chúng đối với ông chỉ là những thể hiện không
đầy đủ, là những nét hoa văn bên ngoài của tư duy, tư tưởng. Vì vậy, vật chất
theo ông cũng thuộc về tư duy, tư tưởng mà thôi. Hegel cho rằng, đối tượng
đúng đắn của tư tưởng chính là bản thân tư tưởng vì tư tưởng là chân lý của
mọi sự vật, cho nên sự phát triển cũng cần phải được tiến hành theo những quy
6
luật của tư tưởng, theo những quy luật của logic học. Chủ nghĩa duy tâm tuyệt

đối của Hegel vì vậy còn được xác định như là chủ nghĩa duy tâm logic. Ý
niệm tuyệt đối là tư duy về tư duy, đồng thời cũng có nghĩa là tự nhận thức, là
sự mở rộng những xác định logic vốn có đối với nó.
Hegel đã mang lại cho con người một cách hiểu mới về bản chất của tư duy.
Trước Hegel, người ta chỉ hiểu tư duy ở trạng thái bất biến, cô lập, một tư
tưởng hoặc đúng, hoặc sai, không có khả năng thứ ba. Ví dụ nói: đồng dẫn điện
thì tư tưởng này hoặc đúng hoặc sai, nghĩa là tư duy bất biến, không thay đổi.
Nhưng Hegel chỉ ra rằng ngay cả tư duy của con người cũng nằm trong sự sinh
thành, biến đổi và phát triển.
Những phạm trù là những xác định logic này, hơn nữa chúng còn thể hiện sự
phát triển của ý niệm tuyệt đối. Theo Hegel, những phạm trù không phải là sự
phản ánh thế giới hiện thực khách quan mà là những khái niệm thuần túy.
Hegel cho rằng những phạm trù của tư duy phải mang tính sống động, nó cũng
nằm trong trạng thái sinh thành, biến đổi và phát triển. Như vậy, phép biện
chứng là linh hồn của logic học, nhờ đó logic học trở thành cơ thể sống sống
động, không phải bất động như logic học trước đây. Điều này chứng tỏ rằng
Hegel là người đầu tiên đã trang bị cho khoa học một phương pháp nhận thức
mới, đó chính là phương pháp biện chứng. Theo Hegel, những phạm trù logic
không phải là cái gì khác hơn là những trừu tượng được tách ra từ bản thân
hiện thực, cho nên chúng có nội dung sinh động, phong phú, từ đó tạo nên nội
dung sâu sắc của khoa học logic. Tuy nhiên, dưới góc độ duy tâm, Hegel đã
đánh giá những phạm trù cao hơn thế giới khách quan khi ông coi chúng là
những tấm vải mộc, còn mọi hiện tượng, quá trình của thế giới chỉ là những
hoa văn được trang trí trên những tấm vải này. Hegel đồng nhất khoa học logic
với logic học duy tâm. Logic học này sử dụng những kết quả phát triển của
những khoa học tự nhiên. Theo Hegel, những khoa học này có nhiệm vụ chuẩn
bị tài liệu cho logic học nhằm phát hiện những quy luật, những khái niệm
chung. Logic học duy tâm của Hegel đã coi những khoa học này dưới những
hình thức khác nhau và đặt đấu ấn vào chúng. Nó chỉ ra rằng những quy luật và
những khái niệm của các khoa học tự nhiên là sự thể hiện không đầy đủ của

những phạm trù lý tính thuần tuý. Chính trong khoa học logic cũng như logic
học, Hegel đã trình bày một cách đầy đủ và sâu sắc phép biện chứng trên cơ sở
duy tâm. Theo Marx, phép biện chứng của Hegel (hay như chính Hegel gọi là
phương pháp tuyệt đối) là sự trừu tượng của vận động, trừu tượng của phát
triển của thế giới hiện thực khách quan. Phép biện chứng này được Hegel hình
dung như là sự vận động dưới hình thức cực kỳ trừu tượng, sự vận động của lý
tính thuần tuý.
2.1.4 Phép biện chứng duy tâm:
Đây là một trong những cống hiến vĩ đại của Hegel trong lịch sử khoa học của
nhân loại. Phép biện chứng của Hegel bao gồm những nội dung:
7
Phép biện chứng của Hegel có hạt nhân là tư tưởng về sự phát triển. Phép biện
chứng của Hegel là phép biện chứng của những khái niệm mà Hegel đồng nhất
với bản thân sự vật. Đáng lẽ khái niệm phản ánh sự vật thì trong tư tưởng
Hegel, ý niệm, khái niệm có trước sự vật. Đáng lẽ phép biện chứng của sự vật
sinh biện chứng của tư tưởng nhưng theo Hegel biện chứng của tư tưởng lại
sinh biện chứng của sự vật, phép biện chứng đó là duy tâm. Ý thức của tư duy
con người phản ánh sự vật trong thế giới, nhưng nếu bản thân sự vật là liên hệ,
biến đổi thì tư duy con người phản ánh nó cũng liên hệ, biến đổi. Đó là tư
tưởng biện chứng mang tính duy vật. Theo Hegel, ý niệm tuyệt đối có trước tự
nhiên và sinh ra giới tự nhiên, biện chứng của ý niệm tuyệt đối sinh ra biện
chứng của sự vật, do đó phép biện chứng của Hegel là duy tâm.
Luận điểm xuyên suốt toàn bộ phép biện chứng của Hegel là tất cả những gì
hiện thực đều hợp lý, tất cả những gì hợp lý đều là hiện thực. Hiện thực là sự
tồn tại trong tính tất yếu. Đây là tư tưởng tuyệt vời của Hegel. Đằng sau vỏ duy
tâm hợp lý đó, ông cho rằng tất cả sự vật trên thế giới, kể cả tư duy của con
người đều vận động, phát triển theo các quy luật, chính Hegel là người đầu tiên
khái quát nên quy luật đó.
Theo phép biện chứng của Hegel, các sự vật, hiện tượng trên thế giới không cô
lập, tách rời nhau mà liên hệ tác động qua lại với nhau và không ngừng chuyển

hóa cho nhau, nghĩa là vạn vật liên hệ với nhau một cách phổ biến. Vạn vật
không những liên hệ, tác động qua lại với nhau mà còn không ngừng vận động
và phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện cho
đến hoàn thiện hơn. Nguồn gốc của động lực và phát triển là sự đấu tranh của
những mặt đối lập. Cách thức phát triển là chuyển hóa từ những thay đổi về
lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại (quy luật vật chất). Nguyên
nhân phát triển là theo con đường xoắn ốc mà mỗi vòng khâu của nó là một
mắc xích quá trình phủ định của phủ định. Phủ định biện chứng là một dây
chuyền diễn ra liên tục và vô tận trong tất cả lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư
duy. Liên tục diễn ra cái mới hay cái cũ nhưng nó kế thừa cái cũ những mặt
tích cực, còn khả năng thúc đẩy sự phát triển. Cũng theo Hegel, giữa cái chung
và cái riêng, nguyên nhân và kết quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình
thức, bản chất hiện tượng, khả năng và hiện thực nó không cô lập nhau, cũng
không tách rời nhau mà chuyển hóa cho nhau. Đây là tư tưởng hoàn toàn bình
đẳng, hợp lý. Đây cũng là quan điểm của triết học Marx sau này.
Hegel là người đầu tiên trình bày giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một
quá trình, đồng thời hiểu phát triển là quá trình phủ định biện chứng, trong đó
cái mới ra đời thay thế cái cũ nhưng vẫn kế thừa của cái cũ những mặt tích cực
có thể thúc đẩy sự phát triển. Tự nhiên, lịch sử và tư duy theo Hegel trình bày ở
dạng quá trình, tức là trong sự sinh thành, biến đổi và phát triển. Khác với siêu
hình cho rằng phát triển là sự tăng giảm đơn thuần về lượng, Hegel hiểu rằng
phát triển là quá trình phủ định từ thấp đến cao, đó là quá trình phủ định biện
chứng. Phủ định biện chứng có hai đặc điểm: khách quan và kế thừa, kế thừa
có sự chọn lọc, phê phán. Học thuyết của Hegel chứng minh: con cái ra đời từ
8
cha mẹ sẽ kế thừa những mặt tích cực của cha mẹ, loại bỏ những mặt tiêu cực.
Ví dụ: chế độ tư bản ra đời dưới chế độ phong kiến, nó không phủ định sạch
trơn tất cả những chế độ, hệ tư tưởng, những tư tưởng mà chế độ phong kiến đã
tạo ra, nó cũng kế thừa những mặt tích cực, chọn lọc phát triển chủ nghĩa tư
bản.

Với tinh thần biện chứng, khi đánh giá bất kỳ sự vật nào đó phải thấy hai mặt:
tích cực và tiêu cực để từ đó loại bỏ những mặt tiêu cực và kế thừa những mặt
tích cực. Như vậy, người đầu tiên khái quát lên tinh thần của biện chứng là
Hegel. Nếu thừa nhận phủ định biện chứng này thì đánh giá của các nhà chủ
nghĩa tư bản đa số đều khách quan.
Theo Hegel, con người vừa là chủ thể, vừa là kết quả hoạt động của mình, nhận
thức và tư duy của con người được hình thành trong chừng mực con người
nhận thức và cải tạo thế giới. Ý thức của mỗi cá nhân là sự khái quát lại toàn bộ
ý thức mà nhân loại đã trải qua. Quan điểm con người là sản phẩm, là chủ thể
của chính bản thân mình là quan điểm hoàn toàn đúng đắn. Hegel đã thấy được
vai trò của lao động đối với sự hình thành và phát triển của ý thức. Lao động đã
giải phóng hai tri thức của loài người, đưa con người đi lên thẳng đứng, tách
con người ra khỏi thế giới loài vật. Cũng chính lao động, con người đã tạo thức
ăn mới hoàn thiện não bộ. Trong lao động, con người tác động vào thế giới
xung quanh, bộc lộ những đặc điểm, tính chất để con người nhận thức. Cũng
chính trong quá trình lao động, con người tự hoàn thiện chính bản thân mình.
Vậy không có quá trình lao động, con người không tách khỏi loài vật, bộ óc
con người không hoàn thiện, không nảy sinh nhu cầu nhận thức về thế giới,
không có ý thức của con người. Hegel khẳng định ý thức và tư duy của con
người hình thành trong chừng mực con người nhận thức và cải tạo thế giới,
chứng tỏ rằng đã bắt đầu thấy vai trò của lao động đối với sự hình thành và
phát triển ý thức và tư duy. Từ đó Hegel cho rằng: bằng cách đó, con người tác
động vào giới tự nhiên, tạo ra giới tự nhiên thứ hai cho mình và làm chủ giới tự
nhiên. Chân lý là sự thống nhất của tinh thần và vật chất là cả một quá trình.
Chân lý là tri thức có nội dung phản ánh phù hợp với hiện thực khách quan.
Theo Hegel, con người là sản phẩm của lịch sử, lịch sử lại mang tính kế thừa.
Vì vậy, ý thức của mỗi cá nhân, của mỗi con người là khái quát lại toàn bộ lịch
sử mà tư tưởng nhân loại đã trải qua. Như vậy, trong ý thức của ta có ý thức
của nhân loại trong quá khứ và trong hiện tại. Những quan hệ xã hội hình thành
nên bản chất của ta, không chỉ trong hiện tại mà còn trong cả quá khứ. Nếu

tách con người hiện tại ra khỏi liên hệ lịch sử thì con người trong hiện tại phát
triển phiến diện và bề ngoài.
Hegel là người nâng phép biện chứng từ trình độ tự phát lên trình độ lý luận và
là người đầu tiên trình bày phép biện chứng ở dạng nguyên lý, quy luật, phạm
trù. Toàn bộ hai nguyên lý: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, nguyên lý sự
phát triển; ba quy luật cơ bản: quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng chất, quy luật
phủ định của phủ định và sáu quy luật phạm trù: cái chung cái riêng, nguyên
nhân kết quả, tất nhiên ngẫu nhiên, nội dung hình thức, bản chất hiện tượng,
9
khả năng hiện thực đã được Hegel khái quát. Nhưng vì phép biện chứng của
Hegel mang tính duy tâm nên toàn bộ những nguyên lý, quy luật phạm trù đó
được Hegel trình bày trên lập trường duy tâm.
2.2 Giá trị phép biện chứng duy tâm của Hegel:
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Hegel đã tạo ra được một lý luận biện
chứng phát triển với tư cách logic học và là phương pháp. Ông đã kết hợp phép
biện chứng và logic học thành một quan niệm thống nhất về logic biện chứng.
Phép biện chứng là linh hồn của logic học, nhờ đó khoa học logic trở thành một
cơ thể sống chứ không phải là những phạm trù khô cứng như logic học trước
đây. Công lao của Hegel so với những bậc tiền bối chính là ở chỗ ông đã đưa ra
được một sự phân tích biện chứng, khái quát tất cả những phạm trù quan trọng
nhất của triết học và đã hình thành nên ba quy luật cơ bản của tư duy trên cơ sở
duy tâm. Không nghi ngờ gì nữa có thể khẳng định rằng: "Tính chất thần bí mà
phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hegel tuyệt nhiên không ngăn cản
Hegel trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức hình
thái vận dụng chung của phép biện chứng đó”. Dù logic biện chứng duy tâm
của Hegel không phải là một khoa học thật sự nhưng nó có nhiều giá trị to lớn
đối với quá trình xây dựng tư duy biện chứng. Do đó, nó đã làm thay đổi sâu
sắc quan niệm của con người về logic học.
Phép biện chứng của Hegel là một trong những cống hiến vĩ đại của ông trong
quá trình phát triển văn hóa khoa học của nhân loại, đặc biệt là trong sự ra đời

của triết học Marx. Từ đó cho thấy rằng hạt nhân phép biện chứng của Hegel là
tư tưởng về sự phát triển. Hegel đã mang lại phong cách tư duy mới, đó là
phong cách tư duy biện chứng. Marx và Engels đánh giá cực kỳ cao Hegel và
không phải ngẫu nhiên Marx và Engels thừa nhận Hegel là người thầy vĩ đại
của mình. Không có phép biện chứng của Hegel thì không có phép biện chứng
của Marx và Engels giữa thế kỷ XIX. Người thầy vĩ đại nhất Marx phải thừa
nhận chính là Hegel. Marx tuyên bố rằng: “Hegel là người thầy vĩ đại của tôi
về phép biện chứng”.
3. Vai trò của phép biện chứng duy tâm Hegel trong sự ra đời của triết
học Marx:
3.1 Các mâu thuẫn trong phép biện chứng duy tâm Hegel:
Mặc dù Hegel là một cái đầu bách khoa nhất của thời đại mình song ông vẫn bị
hạn chế.
- Một là bởi những giới hạn không thể tránh được của sự hiểu biết của bản thân
10
ông.
- Hai là bởi những kiến thức và những quan niệm của thời đại ông cũng có tính
chất hạn chế như thế cả về khối lượng lẫn về chiều sâu.
- Ba là Hegel là một nhà duy tâm, nghĩa là đối với Hegel, những tư tưởng trong
đầu óc của mình không phải là những phản ánh ít trừu tượng của những sự vật
và quá trình hiện thực, mà ngược lại, đối với ông, những sự vật và phát triển
của chúng chỉ là những phản ánh vốn là hiện thân của một "ý niệm" tồn tại ở
một nơi nào đó ngay trước khi có thế giới. Như vậy, tất cả đều bị đặt lộn ngược
và mối liên hệ hiện thực của thế giới đều hoàn toàn bị đảo ngược.
Tuy rằng Hegel đã nắm được một cách đúng đắn và thiên tài một số liên hệ cá
biệt giữa các hiện tượng nhưng do những nguyên nhân nói trên, về chi tiết,
nhiều cái trong hệ thống của ông ta nhất định phải có tính chất gò ép, giả tạo,
hư cấu, tóm lại là bị giải thích sai lệch đi. Hệ thống Hegel chứa đựng một mâu
thuẫn bên trong không thể cứu chữa được: mâu thuẫn trong triết học Hegel
chính là mâu thuẫn giữa hệ thống và phương pháp mâu thuẫn giữa phép biện

chứng có tính cách mạng với chủ nghĩa duy tâm bảo thủ thần bí.
- Một mặt, phép biện chứng của Hegel khẳng định sự phát triển không ngừng
của của Ý niệm tuyệt đối; nhưng mặt khác, lại lại coi triết học của mình là điểm
tận cùng trong sự phát triển của ý niệm tuyệt đối.
- Một mặt Hegel khẳng định nhận thức là một quá trình phát triển chứa đầy
mâu thuẫn; nhưng mặt khác ông lại coi triết học của mình là viên mãn kết thúc
triết học như là chân lý tuyệt đối không thể phát triển hơn được nữa.
- Một mặt, tiền đề cơ bản của nó là một quan điểm lịch sử cho rằng lịch sử
nhân loại là một quá trình phát triển mà xét về bản chất thì không thể tìm được
đỉnh cao của nó về mặt trí tuệ trong việc phát hiện ra cái gọi là chân lý tuyệt
đối. Nhưng mặt khác, hệ thống Hegel lại khẳng định rằng nó là hiện thân của
chính ngay chân lý tuyệt đối ấy. Một hệ thống nhận thức về tự nhiên và lịch sử
bao quát tất cả và hoàn tất một lần là xong vĩnh viễn, là mâu thuẫn với những
quy luật cơ bản của hệ tư duy biện chứng; nhưng điều đó hoàn toàn không loại
trừ mà trái lại còn bao hàm việc cho rằng sự hiểu biết có hệ thống về toàn bộ
thế giới bên ngoài có thể đạt được những bước tiến khổng lồ từ thế hệ này qua
thế hệ khác.
- Một mặt Hegel thừa nhận tính phổ biến và khách quan của mâu thuẫn; song
mặt khác ông lại coi triết học của mình như là một hệ thống hoàn toàn hài hoà,
không còn mâu thuẫn. Khi có mâu thuẫn cần giải quyết thì ông không sử dụng
phương pháp đấu tranh mà lại chủ trương điều hoà, dung hoà mâu thuẫn. Điều
này phản ánh một tình hình, một tâm trạng của giai cấp tư sản Đức đầy mâu
thuẫn - vừa muốn cách mạng, lại vừa sợ cách mạng.
11
3.2 Vai trò trong sự ra đời của triết học Marx:
Phép biện chứng của Hegel là một trong những cống hiến vĩ đại của ông trong
quá trình phát triển văn hóa khoa học của nhân loại, đặc biệt là trong sự ra đời
của triết học Marx. Người khái quát nên những quy luật phủ định của phủ định,
lượng chất hay quy luật mâu thuẫn, đầu tiên chính là Hegel. Triết học Hegel
chính là cội nguồn của triết học Marx. Không có phép biện chứng của Hegel thì

không có phép biện chứng của Marx và Engels vào giữa thế kỷ XIX. Cứu lấy
phép biện chứng, giải phóng hat nhân biện chứng ra khỏi lớp vỏ duy tâm thần
bí của hệ thống Hegel là một yêu cầu cấp bách của triết học mà sau này Marx
đã thực hiện. Cải tạo pháp biện chứng duy tâm Hegel theo tinh thần duy vậy
của triết học Feuerbach, Marx đã xây dựng nên nên phép biện chứng duy vật –
phép biện chứng của sự vật – thế giới khách quan, mà phép biện chứng của ý
niệm chỉ là hình ảnh biện chứng trong bộ óc con nguồi phản ánh pháp biện
chứng của sự vật – thế giới khách quan.
Trải qua nhiều bước thăng trầm của lịch sử, phép biện chứng tồn tại dưới ba
hình thức cơ bản, đó là:
- Phép biện chứng chất phác trong thời kỳ cổ đại.
- Phép biện chứng duy tâm gắn liền tên tuổi Hegel.
- Phép biện chứng duy vật do Marx - Engels sáng lập vào giữa thế kỷ XIX.
Trong thời kỳ cổ đại, các nhà tư tưởng đã khái quát một bức tranh chung về thế
giới mang tính biện chứng dựa trên sự quan sát mang tính trực quan cảm tính.
Tuy nhiên, cả thế giới vận động, phát triển theo quy luật biện chứng nào thì tư
tưởng biện chứng ở thời cổ đại không trả lời câu hỏi đó. Phương pháp biện
chứng ở thời kỳ cổ đại mang tính chất sơ và thời kỳ này phép biện chứng chưa
thật sự trở thành khoa học. Chính vì vậy ở thế kỷ XVII - XVIII, khi phong kiến
phát triển thì phép biện chứng đã bị phủ định bởi phép siêu hình. Sự phát triển
của khoa học tự nhiên thế kỷ XVII và XVIII, đặc biệt là sự phát triển của vật lý
học và toán học khiến người ta nhìn nhận thế giới ở trong trạng thái bất biến và
cô lập. Từ đó người ta có thói quen nhìn nhận các sự vật, hiện tượng nghiên
cứu trong trạng thái bất biến và cô lập, dẫn đến sự ra đời và thống trị của
phương pháp siêu hình trong triết học.
Đến nửa đầu thế kỷ XIX, phép biện chứng đã phát triển lên trình độ lý luận
trong phép biện chứng duy tâm của Hegel, chính Hegel làm sống lại tư tưởng
biện chứng. Hegel là người đầu tiên có công nâng phép biện chứng từ trình độ
tự phát lên trình độ lý luận và và chính ông là người đầu tiên đã khái quát được
đầy đủ phép biện chứng dưới dạng nguyên lý, quy luật, phạm trù. Nhưng vì

phép biện chứng của Hegel mang tính duy tâm nên toàn bộ những nguyên lý,
12
quy luật phạm trù đó được Hegel trình bày trên lập trường duy tâm, vì vậy, vai
trò khám phá chân lý của nó bị giảm đi. Sau này giữa thế kỷ XIX, chính Marx
và Engels đã phải cải tạo phép biện chứng của Hegel, đặt nó trên nền tảng của
chủ nghĩa duy vật và sáng tạo ra hình thức thứ ba của phép biện chứng, đó
chính là phép biện chứng duy vật.
Nói đến phép biện chứng của Marx và Engels không thể không nói đến phép
biện chứng của Hegel. Đánh giá của Marx đối với phép biện chứng của Hegel
vì chính Marx không những đã chỉ phê phán một cách sâu sắc phép biện chứng
của Hegel mà còn cải tạo phép biện chứng đó, xây dựng nên phép biện chứng
duy vật duy nhất và thực sự khoa học với mẫu mực tuyệt vời của nó là tác
phẩm chủ yếu của ông - bộ "Tư bản". Marx viết: “Tính chất thần bí mà phép
biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hegel tuyệt nhiên không ngăn cản Hegel
trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những hình
thái vận động chung. Phép biện chứng của Hegel bị lộn ngược đầu xuống đất,
chỉ cần dựng ngược lại là tiền nhân nhân hợp lý của nó đằng lớp vỏ thần đó.
Phép biện chứng của Hegel nếu đặt trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật giống
như con người đi bằng hai chân vậy, nhưng vì đặt trên nền tảng của chủ nghĩa
duy tâm, bao bọc bởi những lời thông thái thông thường giống một người lộn
ngược đầu xuống đất, chân trỏng lên trời”. Nhiệm vụ của Marx là dựng ngược
lại, tìm hạt nhân hợp lý. Chính Marx và Engels đã làm điều đó. Hai ông loại bỏ
chủ nghĩa duy tâm và kế thừa hạt nhân hợp lý, đó chính là phép biện chứng.
Trong triết học của Marx phép biện chứng duy vật, nội dung gồm hai nguyên
lý, ba quy luật và sáu phạm trù. Người đầu tiên khái quát nên những nguyên lý,
quy luật và phạm trù đó không phải là Marx mà là Hegel. Marx và Engels đã
cải tạo lại phép biện chứng của Hegel, đặt nó trên nền tảng của chủ nghĩa duy
vật và từ đó sáng tạo nên phép biện chứng duy vật. Nhà sáng lập chủ nghĩa
Marx không bao giờ coi công việc của mình nhằm chỉnh lý và cải tạo một cách
duy vật đối với phép biện chứng của Hegel đã hoàn tất. Trái lại, cho đến tận

cuối đời, các ông vẫn không ngừng nhắc nhở rằng cần phải có những nghiên
cứu chuyên sâu và những khái quát mới về phép biện chứng của Hegel.
13
KẾT LUẬN
Trong nền triết học cổ điển Đức, phép biện chứng duy tâm của Hegel là một
trong những thành tựu quan trọng nhất. Hegel là người có nhiều công lao trong
việc phát triển phép biện chứng. Ông là người có công phê phán tư duy siêu
hình và ông cũng là người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư
duy dưới dạng một quá trình, nghĩa là trong sự liên hệ, vận động, biến đổi và
phát triển không ngừng. Trong triết học Hegel, phép biện chứng biểu hiện ra là
lý luận nhận thức và là hình thức cao nhất của logic học, của tư duy logic. Tuy
rằng phép biện chứng của Hegel là phép biện chứng duy tâm, hệ thống triết học
của ông là hệ thống triết học duy tâm nhưng nó lại là phương pháp biện chứng
đầy đủ nhất và có căn cứ vững chắc cho đến thời đó, là phương pháp chưa từng
thấy trong lịch sử triết học trước Marx. Do tính hạn chế của các điều kiện lịch
sử và thiên hướng động hòa với trật tự xã hội Phổ hiện tồn thời đó mà Hegel đã
có những kết luận mâu thuẫn và không nhất quán. Trái với các nguyên tắc xuất
phát của mình, Hegel đã đặt ra một giới hạn cho sự phát triển của nhân loại, kể
cả cho sự phát triển của triết học sau khi tuyên bố rằng học thuyết của mình là
sự kết thúc tuyệt đối hoàn thiện của tư tưởng triết học. Nhưng ngay cả những
điều ấy cũng không làm mất đi ý nghĩa tiến bộ của các nguyên tắc biện chứng
xuất phát của Hegel. Marx một mặt vừa đã phê phán một cách triệt đồng thời
cũng kế thừa, tiếp thu những mặt tiến bộ trong phép biện chứng ấy để hình
thành phép biện chứng duy vật. Do đó, công lao của Hegel đối với sự phát triển
của triết học là vô cùng to lớn, triết học của Hegel thực sự là một hệ thống đồ
sộ, kỳ vĩ nhất trong lịch sử trước Marx nói chung và trong triết học cổ điển Đức
nói riêng.
14
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình triết học (tập 1) – TS. Bùi Văn Mưa (Chủ biên) – Trường Đại

học kinh tế Tp Hồ Chí Minh
2. Ludwig Feuerbach và sự cáo chung của triết học cổ điển đức - Friedrich
Engels
3. “Hạt nhân duy lý” trong triết học Hegel – Trần Đức Thảo - 1956
4. Hiện tượng Luận Tinh Thần - G. W. G. Hegel - Bùi Văn Nam Sơn (dịch
và chú giải) - Nxb. Văn học, 2006
5. Vài lời về biện chứng pháp Hegel – Ngô Văn Tao
15
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 3
1. Bối cảnh lịch sử và sơ lược về triết học cô điển Đức :
4
2. Nội dung và giá trị phép biện chứng duy tâm của Hegel :
2.1 Nội dung phép biện chứng duy tâm của Hegel: 5
2.1.1 Phép biện chứng duy tâm khác quan về ý niệm tuyệt đối : 6
2.1.2 Phép biện chứng duy tâm về triết học : 6
2.1.3 Phép biện chứng duy tâm trong khoa học logic : 7
2.1.4 Phép biện chứng duy tâm : 8
2.2 Giá trị phép biện chứng duy tâm của Hegel : 10
3. Vai trò của phép biện chứng duy tâm Hegel trong sự ra đời

của triết học Marx :
3.1 Các mâu thuẫn trong phép biện chứng duy tâm Hegel:
10
3.2 Vai trò trong sự ra đời của triết học Marx:
11
Kết luận 13
Tài liệu tham khảo 14
16

×