Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp sử dụng phương tiện dạy học Địa lí lớp 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.02 MB, 85 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm Địa lí 8
Một số PP sử dụng phương tiện dạy học địa lí lớp 8.
I.ĐẶT VẤN ĐỀ :
1. Yêu cầu của ngành :
Trong bối cảnh hiện nay toàn ngành giáo dục đang nổ lực thực hiện đổi mới phương
pháp dạy học, theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. NQ
TW 2 khoá 8 tiếp tục khẳng định “Phải đổi mới phương pháp giáo dục và đào tạo khắc
phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng
bước áp dụng các phương pháp hiện đại vào q trình dạy học...”.
Định hướng đó đã được pháp chế trong luật giáo dục “Phương pháp giáo dục phổ
thơng phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm
của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp dạy học, rèn luyện kĩ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho
học sinh” Cần chuyển từ “Dạy học lấy giáo viên làm trung tâm” sang “Dạy học lấy học
sinh làm trung tâm”, phải tích cực hố các hoạt động của học sinh, khơi dậy cho các em
tính khao khát, tìm tịi, nghiên cứu, cố gắng phát huy trí tuệ và nghị lực cao trong q
trình nắm vững kiến thức. Để thực hiện điều này đòi hỏi mỗi nhà trường, mỗi giáo viên
phải có những bước chuyển biến rõ nét trong việc cải tiến phương pháp dạy và học.
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp Cơng nghiệp hố, Hiện đại hoá cần giáo dục thế hệ trẻ
trở thành những con người “Năng động sáng tạo – Có năng lực giải quyết vấn đề”
Những con người tự tin có trách nhiệm, có những hành động phù hợp với giá trị nhân
văn và công bằng xã hội. Cần thực hiện giảng dạy trên lớp với nhiều phương pháp phù
hợp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Năm học 2008 – 2009 là năm học đầu tiên Bộ Giáo dục - đào tạo triển khai thực hiện
mô hình xây dựng “Nhà trường thân thiện học, học sinh tích cực”.Đây là mơ hình cải
thiện linh hoạt các hoạt động thường ngày của nhà trường nhằm làm cho các hoạt động
giáo dục trở nên nhẹ nhàng, vui tươi, nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng trong giáo
dục, phù hợp với nhu cầu và cuộc sống tại địa phương, tạo tâm lý cho người học được
thoải mái, gắn liền với việc bảo vệ gìn giữ các giá trị văn hoá truyền thống, bảo đảm cơ
sở vật chất, thiết bị dạy học, các nguồn lực cần thiết, phù hợp với học sinh.
2. Thực trạng :


Trong năm học vấn đề sử dụng phương tiện dạy học, đặc biệt là bản đồ giáo khoa,
tranh ảnh, các mẫu vật của bộ môn địa lí được thực hiện ở chương trình địa lí lớp 8 .
Đây là một chương trình giúp các em hiểu sâu về địa lí tự nhiên – kinh tế xã hội Việt
Nam, và liên hệ các châu lục, các quốc gia trên thế giới. Khi đã hiểu rõ, nắm chắc các
kiến thức đó các em sẽ có cơ sở áp dụng các biện pháp để khai thác kiến thức từ bản đồ
giáo khoa, giúp các em hiểu rõ hơn về tự nhiên con người các quốc gia trên thế giới,
càng có ý nghĩa hơn khi các em được học về tự nhiên kinh tế xã hội của Việt Nam, tạo
điều kiện cho hoạt động học tập và lao động có hiệu quả và chất lượng, đáp ứng yêu cầu
khi đất nước mở cửa hội nhập.
Trước đây khi chưa thực hiện đồng bộ kết hợp nhiều phương pháp dạy trên lớp. Kết quả
học tập chưa đạt hiệu quả tối ưu. Phần lớn giáo viên chưa chú trọng khâu chuẩn bị :
Soạn bài, bản đồ, tranh ảnh, các mẫu vật, mơ hình, sơ đồ nhất là các hình động trên máy
tính. … nên kết quả của một giờ lên lớp chưa cao. Qua những năm tháng giảng dạy tôi
thấy : Nếu chỉ sử dụng các phương pháp giảng dạy đơn thuần giáo viên hướng dẫn các


em quan sát mà không đi sâu vào phương pháp hướng dẫn các em cách quan sát sử dụng
bản đồ, mẫu vật thật, mơ hình, thì các em chỉ như cái máy nhớ rồi lại quên không khắc
sâu được kiến thức cho các em .
3. Giải pháp đã sử dụng :
Trong một giờ học áp dụng nhiều phương pháp để đạt hiệu quả cao nhất, cần phối hợp
đồng bộ giữa các phương pháp với nhau để học sinh nắm chắc kiến thức ngay tại lớp,
bằng các kiến thức mình tự tìm tịi và cùng nhóm xây dựng lên, chứ khơng phải là kiến
thức mà thầy cơ truyền thụ cho mình. Trong đề tài này phương pháp chủ yếu tôi muốn
cùng đồng nghiệp chúng ta quan tâm đến đó là : Phương pháp phát huy tính tích cực,
chủ động tìm tịi kiến thức của học sinh, qua các dạng bản đồ, hình ảnh, mơ hình, tranh
ảnh, mẫu vật cụ thể để các em tự xác định được.
Làm thế nào để các em tiếp thu bài ngay trên lớp, hiểu sâu về kiến thức địi hỏi người
GV phải có nhiều phương pháp giảng dạy để giúp các em học tập năng động thoải mái
sáng tạo, phát huy trí thơng minh của các em. Đó là lý do tơi muốn trao đổi với các bạn

đồng nghiệp kinh nghiệm :“ phương pháp dạy tốt mơn địa lí lớp 8”
I.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ :
1. Cơ sở lý luận :
Để góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục, đào tạo học sinh thành những con người
năng động, độc lập và sáng tạo, tiếp thu được những tri thức khoa học, kỹ thuật hiện đại,
biết vận dụng tìm ra các giải pháp hợp lí cho những vấn đề trong cuộc sống của bản
thân và xã hội. Thì việc giảng dạy học sinh vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế
là điều thầy cô mong muốn.
Với nội dung học tập của mơn Địa lí 8 chứa đựng cả một kho tàng kiến thức sinh động
và phong phú, hấp dẫn, dễ kích thích tính tị mị ham hiểu biết của học sinh, tạo điều kiện
cho việc hình thành động cơ, nhu cầu nhận thức cũng như hứng thú học tập của học sinh.
Địa lí là mơn khoa học của các mơn khoa học, tri thức địa lí chủ yếu được hình thành
bằng các phương pháp quan sát, mô tả thực nghiệm, thực hành, tưởng tượng, liên hệ địa
phương... Muốn thực hiện các bài học trên lớp. Giáo viên phải là người hướng dẫn các
em chủ động trong giờ học. Qua thực tế hiện nay để đạt một giờ dạy tốt là cả một vấn đề
mà mỗi thầy cơ chúng ta cần quan tâm : Có những giờ dạy rất thành cơng, nhưng cũng
có những giờ dạy chưa đạt được mục đích của bản thân mỗi giáo viên đứng lớp. Vì
những cơ sở trên đây tơi muốn trao đổi với các bạn tìm ra những phương pháp tối ưu
nhất để các giờ dạy địa lí đạt kết quả cao nhất.
2. Giả thuyết :
Trong chương trình SGK lớp 8 có 2 nội dung chính đó là phần tự nhiên - kinh tế Châu
Á và Tự nhiên Việt Nam. Dù là dạy địa lí các châu hay địa lí Việt Nam chúng ta cũng cần
hình thành cho các em học sinh những nội dung cơ bản sau :
-Về kiến thức : Cần nắm những kiến thức cơ bản nào?
-Về kỹ năng : Cần rèn luyện kỹ năng gì ?
-Về thái độ : GD học sinh về thái độ … -> tìm ra biện pháp thực hiện.
Trong các giờ lên lớp những bài dạy nào có bản đồ, tranh ảnh, mẫu vật thật là tốt nhất
vì học sinh khơng thể đi đến tận nơi, thấy tận mắt tất cả những nơi trên bề mặt của trái
đất, hay ở Việt Nam để quan sát thực tế địa phương....
Ví dụ : Dạy bài “Đặc điểm tài nguyên khoáng sản Việt Nam” .

Giáo viên sử dụng bản đồ tự nhiên Việt Nam bản đồ khoáng sản Việt Nam, mẫu vật
khoáng sản Việt Nam, bản đồ trống Việt Nam.


Học sinh quan sát.
Tài nguyên khoáng sản :
- Việt Nam có khoảng 5000 điểm tụ và quặng khống sản với 60 loại khác nhau.
- Các khống sản có trữ lượng lớn như:
+ Than, dầu mỏ, apatít, đá vơi, sắt, crơm, đồng thiếc, bơ xít....
Với những bài dạy khơng có bản đồ, mẫu vật để quan sát . Giáo viên cho học sinh quan
sát tranh ảnh, bảng số liệu có đủ thời gian để quan sát. Có thể đưa ra yêu cầu trước
hoặc cho học sinh quan sát xong mới đưa yêu cầu.
Ví dụ : Dạy bài “Đặc điểm tài nguyên khoáng sản Việt Nam” .
Yêu cầu cho học sinh quan sát lược đồ khoáng sản Việt Nam treo tường và sách giáo
khoa, để nhận xét nguồn tài nguyên khoáng sản, sự phân bố, trữ lượng các loại khoáng
sản của nước ta.
Sau khi đã xác định được mục tiêu của bài ta thấy cần áp dụng những phương pháp nào
cho phù hợp. Tuỳ theo mỗi bài dạy có những phương pháp khác nhau áp dụng ở mỗi lớp
khác nhau. Tuy vậy nhưng ở chương trình lớp 8 những phương pháp tơi cho là phù hợp
có thể áp dụng được để giảng dạy đạt hiệu qủa, đó là :
+ Quan sát lược đồ, mẫu vật, mơ hình, băng hình, tranh ảnh.
+ Phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
+ Phương pháp hoạt động nhóm : Phát huy tính chủ động tìm tịi, tìm ra những kiến thức
mới của học sinh.
+ Phương pháp kiểm tra đánh giá.
a.Hướng dẫn học sinh quan sát : Bản đồ, sơ đồ, biểu đồ,mẫu vật, hình ảnh động trên
màn hình, tranh ảnh, thí nghiệm.
- Bản đồ vùa là phương tiện trực quan, vừa là nguồn tri thức quan trọng là cuốn sách
giáo khoa thứ hai của bộ mơn địa lí.
- Từ bản đồ, tranh ảnh, mẫu vật.. có thể bồi dưỡng cho học sinh thế giới duy vật biện

chứng, bồi dưỡng năng lực tư duy, tự học, tự nghiên cứu. Do đặc điểm của các đối tượng
sự vật địa lí được trãi rộng trong không gian, giáo viên không thể dẫn học sinh đến tận
nơi được. Vì vậy dạy học khơng thể thiếu bản đồ, tranh ảnh, mẫu vật.. Trong giảng dạy
địa lí mở đầu bằng bản đồ kết thúc bằng bản đồ. Đây là đặc trưng của bộ môn khoa học
địa lí mà khơng một mơn khoa học nào có thể so sánh được. Cho nên khi lên lớp giáo
viên phải căn cứ vào nội dung yêu cầu của bài học để đưa ra một hệ thống câu hỏi, bài
tập hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức trên bản đồ một cách có hiệu quả.
Ví dụ :
Quan sát lược đồ khống sản Việt Nam cho biết nước ta có những loại khoáng sản nào ?
+ Học sinh quan sát và trả lời: Than, dầu mỏ, apatít, đá vơi, sắt, crơm, đồng thiếc, bơ
xít....dựa vào các kí hiệu của bản đồ mà không cần sử dụng sách giáo khoa.
Các em đã thấy các loại khoáng sản này chưa ?
Sau khi học sinh trả lời giáo viên cho học sinh quan sát các mẫu vật khoáng sản Việt
Nam, để các em nhận biết các loại khoáng sản một cách hiệu quả nhất.
b.Phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tìm tịi kiến thức của học sinh.
Sau khi học sinh đã quan sát cụ thể một mẫu vật, sơ đồ, bảng số liệu thống kê, hình ảnh
… nào đó hoặc các kiến thức đã qua thực tế - Giáo viên cần phát huy tối đa hoạt động tư
duy tích cực của học sinh bằng các tình huống để các em dự đoán nên giả thuyết tranh
luận giữa những ý kiến trái ngược…
Ví dụ : Quan sát tranh khai thác than, dầu khí em có nhận xét gì?:


+ Em dự đoán xem, hậu quả của việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên, tại sao con
người lại khai thác quá mức nguồn tài nguyên, có ảnh hưởng gì tới tương lai?
+ Em thử đốn xem khai thác hợp lí nguồn tài nguyên là biện pháp tích cực hay tiêu
cực?
+ Để bảo vệ nguồn tài nguyên chúng ta cần phải làm gì ?
c.Phương pháp hoạt động nhóm :
Với những câu hỏi khó, những tình huống chưa giải quyết, cá nhân các em có thể đưa
ra ý kiến thảo luận trong nhóm để thống nhất ý kiến.

Thảo luận nhóm là phương pháp thể hiện rõ nhất sự đổi mới trong phương pháp dạy
học, lấy học sinh làm trung tâm.
Hoạt động nhóm là hoạt động địi hỏi tính tự giác của học sinh rất cao, em nào cũng
được đưa ra ý kiến của mình. Nhưng hoạt động này đơi khi khơng hiệu quả vì giáo viên
chưa đi sâu đi sát đến từng nhóm và hướng dẫn các nhóm hoạt động chưa cụ thể. Đây là
một hoạt động mà người giáo viên thực hiện chưa tốt. Có giáo viên để các nhóm hoạt
động, ít để ý đến các em, có nhóm các em gây ồn ào mất trật tự, có nhóm chỉ có một vài
em làm việc cịn lại một số các em khác không chú ý .
Thảo luận là trao đổi ý kiến về một vấn đề có phân tích lý lẽ, giữa giáo viên và học sinh,
giữa học sinh với học sinh. Giúp cho học sinh mở rộng kiến thức, phát triển được tư duy
khoa học. Giúp học sinh phát triển kĩ năng nói, giao tiếp tranh luận... Thảo luận có nhiều
hình thức : Thảo luận cá nhân(hay cả lớp..), thảo luận theo cặp, nhóm, theo tổ...
Để hoạt động nhóm đạt hiệu quả trước hết giáo viên phải đưa ra những yêu cầu rõ ràng
cần thảo luận những câu hỏi nào ? (Chú ý những câu hỏi khó mới cần đưa ra thảo luận).
Thời gian qui định là bao lâu? Mỗi nhóm báo cáo xong cần có nhận xét đánh giá (khen,
nhắc nhở) Một điều giáo viên cần chú ý đó là theo dõi sự hoạt động của các nhóm - Mỗi
nhóm sẽ cử một nhóm trưởng chỉ đạo các bạn trong nhóm hoạt động và một thư ký ghi ý
kiến của các bạn trong nhóm.
d.Phương pháp kiểm tra đánh giá :
Đây là một hoạt động nhằm đánh giá kết quả hoạt động của nhóm, của cá nhân thơng
qua hệ thống câu hỏi trắc nghiệm (Đúng, sai – lựa chọn câu đúng). Bài tập điền từ phù
hợp vào chỗ trống bằng các phiếu học tập, trò chơi, nhận biết mơ hình, tư duy kiến thức
từ bản đồ…
3/ Q trình thể nghiệm (Thực nghiệm ) :
Để thực hiện tốt một giờ dạy đạt kết quả thì việc đầu tiên là khâu thiết kế một bài dạy
(Các bước lên lớp)
Tôi đã áp dụng kết hợp nhiều phương pháp để giảng dạy bài “Đặc điểm tài nguyên
khoáng sản Việt Nam” Với bài dạy này : Về mục tiêu cần xác định :
1.Kiến thức :
- Hiểu và trình bày được.

+ Việt Nam là một nước giàu tài ngun khống sản. Đó là một nguồn lực quan trọng để
cơng nghiệp hóa đất nước.
+ Mối quan hệ giữa khoáng sản với lịch sử phát triển. Giải thích được vì sao nước ta
giàu tài ngun khống sản.
+ Các giai đoạn tạo mỏ và sự phân bố các mỏ, các loại khoáng sản chủ yếu của nước ta.
+ Bảo vệ và khai thác có hiệu quả và tiết kiệm nguồn khoáng sản quý giá của nước ta.
2.Kỹ năng :
- Biết xác định các đối tượng bản đồ, kí hiệu của các loại khống sản, tên các loại


khống sản chính.
- Chỉ được các vùng mỏ khống sản chính của nước ta.
- Xác định được các loại khống sản và vùng phân bố trên bản đồ trống Việt Nam.
- Các vùng khai thác khoáng sản, các cơ sở luyện kim và suất khẩu.
- Vận dụng kiến thức vào thực tế, liên hệ địa phương.
3.Thái độ :
- Tham gia và có ý thức bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên của nước ta đặc biệt là
nguồn tài nguyên khoáng sản, có ý thức bảo vệ nguồn tài nguyên và môi trường.
- Sau khi xác định rõ mục tiêu của bài thì khâu chuẩn bị đồ dùng dạy học và phương
pháp dạy cho phù hợp với từng phần của bài học.
Ví dụ : Phần 1 :Việt Nam là một nước giàu tài nguyên khoáng sản :
+ Cho học sinh quan sát bản đồ khoáng sản Việt Nam.
? Cho biết Việt Nam có những loại khống sản nào có trữ lượng lớn ?
- Các khống sản có trữ lượng lớn như : Than, dầu mỏ, apatít, đá vơi, sắt, crơm, đồng,
thiếc…
? Em hãy xác định các mỏ khoáng sản trên bản đồ.
- Sau khi học sinh trả lời Giáo viên : Cho học sinh quan sát mẫu khoáng sản.
? Nơi phân bố ?
Giáo viên cho học sinh tự dán kí hiệu cắt rời lên bản đồ trống Việt Nam.
Ví dụ : Phần 2/ Sự hình thành các vùng mỏ chính ở nước ta.

Hoạt động nhóm :
Nhóm 1 : Giai đoạn tiền Cambri.
Nhóm 2 : Giai đoạn cổ kiến tạo.
Nhóm 3 : Giai đoạn tân kiến tạo.
* Đại diện nhóm trình bày, chỉ trên bản đồ khoáng sản Việt Nam.
+ Quan sát thảo luận nhóm. Rút ra kết luận …
Bằng sự kết hợp đồng bộ giữa phương pháp quan sát – Thảo luận – Kiểm tra đánh giá
giờ học đã thật sự thu hút học sinh.
4. Hiệu quả mới :
Các tiết dạy có sự chuẩn bị đầy đủ các phương tiện, đồ dùng dạy học như : Tranh ảnh,
bảng số liệu, mẫu vật, bản đồ, thao tác chính xác, kết hợp đồng bộ nhuần nhuyễn các
phương pháp dạy học. Giáo viên đã giúp các em nắm các kiến thức cơ bản một cách
chính xác, do chính các em tìm ra từ các phương tiện trực quan và biết tái hiện kiến thức
khi cần thiết, biết suy luận, diễn tả một sự vật hiện tượng địa lí, vận dụng chúng vào thực
tiễn, trong đời sống hằng ngày, đặc biệt là trong quá trình thi và kiển tra.
III .BÀI HỌC KINH NGHIỆM :
1. Kinh nghiệm cụ thể :
Qua những giờ dạy được chuẩn bị đầy đủ, thao tác chính xác, giúp các em nắm các bài
lý thuyết sâu hơn áp dụng trong đời sống hằng ngày, những kiến thức địa lí trong chương
trình lớp 8 để giải thích mối quan hệ nhân quả của tự nhiên và kinh tế xã hội Việt Nam
trong thời kỳ mở cửa, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang trên con
đường cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, áp dụng những hiểu biết của mình vào
thực tế hiện nay là điều hết sức cần thiết, sau khi học song chương trình THCS các em có
thể bước vào cuộc sống với sự tự tin và lòng dũng cảm, để đối mặt với cuộc sống xã hội
đầy khó khăn và gian khổ, tạo điều kiện cho hoạt động học tập và lao động có hiệu quả
và chất lượng.


2. Kết luận chung và kiến nghị :
Trong đề tài này tôi muốn trao đổi với các bạn đồng nghiệp những suy nghĩ của tôi về

một số phương pháp sử dụng phương tiện dạy học, để dạy tốt chương trình địa lí lớp 8
đạt hiệu quả cao. Tơi rất mong được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp để chúng ta cùng
xây dựng nên một hình thức dạy mơn địa lí thế nào cho hay nhất, đạt kết quả cao nhất
của bộ mơn địa lí.
Kiến nghị :
- Mở lớp tập huấn về việc sử dụng công nghệ thông tin.
- Hình ảnh khai thác khống sản tại các vùng mỏ Việt Nam.
- Mẫu vật từ ngành công nghiệp luyện kim của Việt Nam.
- Hình ảnh nhà máy sán xuất.
Tài liệu tham khảo :
+ Sách giáo khoa địa lí lớp 8.
+ Sách giáo viên, sách thiết kế bài giảng địa lí lớp 8.
+ Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên môn địa.
+ Át lát địa lí Việt Nam - Thế giới.
+ Tài liệu bộ giáo dục đào tạo “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”

Vận dụng Bản đồ tư duy trong việc dạy và học môn Lịch sử ở nhà
trường THCS

I.

ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Lý do chọn đề tài:
Bản đồ tư duy ( mind map) còn gọi là Sơ đồ tư duy, là
hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, từ khóa, hình ảnh để
mở rộng và đào sâu ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay
một mạch kiến thức...Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không
yêu cầu tỷ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lý, có thể vẽ
thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác

nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác


nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể "thể hiện"
nó dưới dạng Bản đồ tư duy theo một cách riêng, do đó,
việc lập Bản đồ tư duy phát huy được tối đa khả năng sáng
tạo của mỗi người.
Bản đồ tư duy (mind map) phát triển bởi Tony Buzan
vào những năm 1960. Hiện nay, kỹ thuật này đang được
hơn 200 triệu người trên thế giới sử dụng (công ty, tổ chức
giáo dục, trường học, cá nhân, diễn giả, HS-SV…)
Bản đồ tư duy mang lại hiệu quả tốt cho quá trình Dạy
– Học, giáo viên tiết kiệm thời gian, tăng tính linh hoạt;
Học sinh tăng tính chủ động sáng tạo, phát triển tư duy... Ở
nước ta tuy mới được áp dụng từ đầu năm học 2010 - 2011
nhưng dạy học bằng BĐTD kết hợp với các phương pháp
dạy học khác đã giúp học sinh học tập tích cực, chủ động,
hiểu vấn đề sâu sắc, có hệ thống, học sinh yêu thích đi học
hơn.
Nhằm mục đích phát huy tính tích cực tự giác của học
sinh trong quá trình dạy và học, ngành Giáo dục đã vận
dụng Bản đồ tư duy vào dạy và học. Tuy nhiên, thời gian
vận dụng còn quá ngắn chưa vận dụng tốt vào giảng dạy.
Đối với bộ mơn Lịch sử, việc lập Bản đồ tư duy cịn gặp


nhiều khó khăn, chưa có cơng trình nghiên cứu chun biệt.
Vì vậy, chúng tơi thơng qua giảng dạy mơn Lịch sử ở
trường THCS Bình Tân- TX. La Gi, thơng qua các tiết dự
giờ, các tiết thao giảng , hội giảng của đồng nghiệp...

chúng tôi viết sáng kiến kinh nghiệm VẬN DỤNG BẢN
ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY VÀ HỌC LỊCH SỬ Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ.
2. Khảo sát và thực trạng:
Trong những năm gần đây, chất lượng bộ môn Lịch sử
là vấn đề bức xúc của xã hội. Việc dạy và học bộ mơn Lịch
sử chưa phát huy được tinh tích cực, tự giác của học sinh,
chất lượng bộ môn thường khơng đạt u cầu.
Đối với học sinh trường THCS Bình Tân, là học sinh
vùng biển, chất lượng học tập các bộ văn hóa chưa cao, đặc
biệt với mơn Lịch sử, rất ít học sinh có hứng thú với bộ
mơn.
Khó khăn nhất của mơn lịch sử và phát huy tính tích
cực và lòng say mê của học sinh đối với lịch sử Dân tộc.
Trong những lớp học chúng tôi đã dạy, học sinh chỉ
trả lời được câu hỏi phát hiện, chủ yếu xem sách giáo khoa


để trả lời, không trả lời được câu hỏi tái hiện và câu hỏi
phát huy trí lực.
Muốn học sinh tiếp thu tốt, chúng ta đồng thời phải
huy động nhiều phương pháp tích cực, trong đó phát huy trí
lực thơng qua bản đồ tư duy cũng là một phương pháp thích
hợp đối với môn Lịch sử.
II. NỘI DUNG VÀ GIẢI PHÁP.
Việc đưa Bản đồ tư duy hay Sơ đồ tư duy vào nội
dung phương pháp dạy và học là một vấn đề tương đối mới
mẽ đối với thầy và trò. Khi thực hiện BĐTD chúng tôi
thường xác định bài nào sử dụng được BĐTD, bài nào
không sử dụng được? Dùng loại bản đồ nào để cung cấp

kiến thức ?
Đối với môn Lịch sử, khi kết hợp sử dụng Bản đồ tư
duy với các phương pháp đặc trưng bộ môn khác thực sự đã
tạo ra một luồng gió mới, tạo sự kích thích và hứng thú
học tập đối với học sinh.
Đối với thầy giáo dạy Lịch sử cũng rất cần hiểu biết và
có kỹ năng thực hiện bản đồ tư duy, khi dạy học bằng
BĐTD kiến thức lịch sử được kết nối liền mạch, trình bày
bài có hệ thống hơn .


Vì vậy thơng qua giảng dạy chúng tơi đề ra một số nội
dung và giải pháp để đưa BĐTD vào việc dạy và học Lịch
sử.
2.1. Tổ chức dạy học bằng bản đồ tư duy.
Việc tổ chức dạy học bằng BĐTD khi cả thầy và trị
có sự chuẩn bị, học sinh cần phải được rèn kỹ năng vẽ
BĐTD ( Bản đồ tư duy ) thường xuyên, có dụng cụ giấy,
bút, màu để vẽ. Đặc biệt phải có hứng thú khi vẽ thì mới
đạt hiệu quả cao. Vì vậy việc trước tiên là chúng ta phải tìm
cách tạo hứng thú và sau đó hướng dẫn học sinh theo các
bước để vẽ.
Đối với thầy giáo nên hướng dẫn cho học sinh nhiều
cách vẽ BĐTD, biết cách sử dụng chữ viết, màu sắc và ký
hiệu khi vẽ, từ đó các em có hứng thú khi vẽ một BĐTD.
Thực hiện dạy học bằng cách lập BĐTD được tóm tắt
qua 4 bước như sau:
- Bước 1: Học sinh lập BĐTD theo nhóm hay cá
nhân với gợi ý, hướng dẫn của giáo viên.



- Bước 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học
sinh lên báo cáo, thuyết minh về BĐTD mà nhóm mình đã
thiết lập.
- Bước 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để
hoàn thiện BĐTD về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ
là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hồn chỉnh
BĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
- Bước 4: Củng cố kiến thức bằng một BĐTD mà
giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc một BĐTD mà cả lớp đã
tham gia chỉnh sửa hồn chỉnh, cho học sinh lên trình bày,
thuyết minh về kiến thức đó.
Việc thuyết minh, trình bày nội dung bằng BĐTD
hiện nay là vấn đề khó, nhất là học trường THCS Bình Tân
chúng tơi, năng lực diễn đạt của học sinh nhiều hạn chế,
chúng ta từng bước rèn kỹ năng trình bày BĐTD cho các
em, giáo viên dạy Sử nên coi việc rèn kỹ năng thuyết minh
BĐTD là rèn kỹ năng sống cho học sinh.
Khi củng cố kiến thức từng mục hoặc củng cố kiến
thức toàn bài giáo viên hướng dẫn HS hệ thống kiến thức
bài học bằng bản đồ tư duy.


Vi dụ: Khi dạy Lịch sử 8, bài : KHỞI NGHĨA YÊN THẾ ,
phần củng cố, chúng tôi vẽ BĐTD theo từng bước như trên,
ta có BĐTD như sau :


Nếu là tiết dạy bằng giáo án điện tử, BĐTD xuất hiện
theo trình tự rất rõ ràng và màu sắc rất đẹp mắt thu hút học

sinh tiếp thu kiến thức dẽ dàng. Chúng ta nên cho BĐTD
xuất hiện lần thứ hai để rèn thêm kỹ năng trình bày nếu có
thời gian.
2.2. Sử dụng Bản đồ tư duy trong 1 tiết học Lịch sử.
Lịch sử là một một môn học đặc thù với những chuỗi
sự kiện, diễn biến đã diễn ra trong quá khứ. Vì vậy, nhiệm
vụ của dạy học lịch sử là khôi phục lại bức tranh quá khứ
để từ đó rút ra bài học từ q khứ. Vì vậy, khi sử dụng
BĐTD để trình bày những sự kiện lịch sử chúng ta dễ dàng
liên kết sự kiện với nhau tạo thành những chuổi kiến thức
làm cho học sinh dễ dàng tiếp thu kiến thức.
Khi liên kết các sự kiện lịch sử trên một BĐTD thầy
giáo trình bày kiến thức sẽ có hệ thống và hấp dẫn học sinh
hơn, học sinh dễ dàng tiếp thu kiến thức hơn. Tất cả mọi
tiến trình của bài dạy đều có thể vận dụng BĐTD để dạy.
a/ Bản đồ tư duy để giới thiệu nội dung bài:
Khi giới thiệu nội dung bài mới, người thầy có nhiều
cách để giới thiệu, giới thiệu bằng BĐTD là một cách
tương đối đơn giản nhưng đạt hiệu quả cao, BĐTD tác


động đến học sinh những kiến thức cơ bản nhất từ những
đường nét đơn giản, dễ hiểu, dễ tiếp thu.
Ví dụ : khi dạy Lịch sử 9, bài 14: VIỆT NAM SAU
CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT.
Nếu sử dụng giáo án điện tử để dạy thì vấn đề đơn
giản, cịn nếu không sử dụng giáo án điện tử chúng ta có
thể vẽ nhanh trên bảng đen BĐTD để giới thiệu nội dung
bài cho học sinh.
Bước giới thiệu bài chính là bước tạo bộ khung ban

đầu của BĐTD, hình dáng của BĐTD xuất hiện, bao nhiêu
nhánh, bao nhiêu cành xuất hiện, thầy và trị định hướng về
hình dáng của BĐTD mà chúng ta sẽ vẽ.
b/ Bản đồ tư duy để trình bày nội dung tùng phần
Khi dạy nội dung kiến thức từng phần, chúng ta có
nhiều cách để cung cấp kiến thức cho học sinh, nhưng khi
dạy với BĐTD chúng tôi thường sử dụng một số phương
pháp sau:
- Hướng dẫn học sinh đọc sách giáo khoa để tìm ra
các sự kiện, sau đó giáo viên phân tích đào sâu....Giáo viên
liệt kê các sự kiện lên BĐTD để học sinh trình bày hồn
chỉnh sự kiện.
Vì dụ : Khi dạy Lịch sử 9, bài 23: TỔNG KHỞI NGHĨA
THÁNG TÁM 1945 VÀ SỰ THÀNH LẬP NƯỚC VIỆT


NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA, mục 2 và 3 là diễn biến
của Tổng khởi nghĩa ta có thể vẽ sơ đồ sau:
Sau khi vẽ BĐTD chúng ta cho học sinh trình bày
diễn biến theo bản đồ, qua đó, các em nắm được trình tự và
liên kết các sự kiện với nhau.
- Bản đồ tư duy trong bộ môn Lịch sử cũng chính là
sơ đồ thời gian, cho nên khi giảng dạy nội dung có sự kiện
tiến triển theo thời gian chúng ta sử dụng BĐTD để dạy.
Sau khi đọc đoạn sách giáo khoa, giáo viên gợi ý để học
sinh xác định các cột mốc thời gian, giáo viên vẽ lên sơ đồ,
sau đó phân tích nội dung.
Ví dụ: khi Lịch sử 9, dạy bài 16: HOẠT ĐỘNG CỦA
NGUYỄN ÁI QUỐC Ở NƯỚC NGOÀI TRONG NHỮNG
NĂM 1917-1923, học sinh đọc sách giáo khoa mục I :

Nguyễn Ái Quốc ở Pháp, học sinh tìm các sự kiện:
- 1919, 7/1920, 12/1920, 1921...giáo viên thể hiện sự
kiện lên BĐTD và sau đó phân tích sự kiện.
Khi dạy phần diễn biến trên BĐTD, chúng ta liên kết
được trình tự diễn biến như một sơ đồ thời gian, còn nội
dung diễn biến chúng ta phải sử dụng những biện pháp sư
phạm khác dể mở rộng, đào sâu kiến thức.
c/ Bản đồ tư duy dạy toàn bài.


Trong nội dung chương trình mơn lịch sử, có một số bài
chúng ta có thể thực hiện dạy tồn bài theo BĐTD, chủ yếu
là những bài mà sách giáo khoa trình bày những khái niệm,
những sự kiện có hệ thống, học sinh đọc sách giáo khoa có
thể trình bày được những khái niệm. Chúng ta có thể cho
học sinh đọc sách giáo khoa, thầy giáo hướng dẫn vẽ
BĐTD, sau đó phân tích khái niệm, học sinh vẽ BĐTD vào
vở và học bài theo BĐTD.
Ví dụ : Khi dạy Lịch sử 9, bài 14: VIỆT NAM SAU
CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT, nội dung bài có
3 mục, chia làm 3 nhánh chính, học sinh đọc sách giáo
khoa và tìm ra các ý là các cành nhỏ, chúng ta hướng dẫn
học sinh vẽ BĐTD, và đây cũng là nội dung cô đọng của
toàn bài, khi học học sinh sẽ dễ nhớ kiến thức của bài học.
d/ Bản đồ tư duy để tổng kết, củng cố
Với thế mạnh của BĐTD là kiến thức được hệ thống hóa
dưới dạng sơ đồ, các đường nối là sự diễn tả mạch logic
kiến thức hoặc các mối quan hệ nhân quả hay quan hệ
tương đương, cộng thêm màu sắc của các đường nối, màu
sắc của các đơn vị kiến thức, sẽ giúp học sinh nhìn thấy



“Bức tranh tổng thể” cả một phần kiến thức đã học. Có
nhiều cách xây dựng BĐTD trong tiết ơn tập, củng cố:
- Thông thường giáo viên cho một số câu hỏi và bài tập
để học sinh chuẩn bị ở nhà. Trong tiết ôn tập, củng cố, giáo
viên hướng dẫn học sinh tự lập BĐTD, sau đó cho học sinh
trao đổi kết quả với nhau và sau cùng đối chiếu với BĐTD
do giáo viên lập ra. Từng em có thể bổ sung hay sửa lại
BĐTD của mình và coi đó là tài liệu ơn tập của mình.
- Cách khác: Giáo viên lập BĐTD mở. Trong giờ ôn tập,
củng cố, giáo viên chỉ vẽ một số nhánh chính, thậm chí
khơng đủ nhánh, hoặc thiếu, hoặc thừa thơng tin trong tiết
học đó, giáo viên yêu cầu học sinh tự bổ sung, thêm hoặc
bớt thơng tin, để cuối cùng tồn lớp lập được một BĐTD
ơn tập, củng cố kiến thức chương đó tương đối hồn chỉnh
và hợp lý. Cách làm này sẽ lơi cuốn được sự tham gia của
học sinh ( suy nghĩ nhiều hơn, trao đổi nhiều hơn, tranh
luận nhiều hơn) và giờ ôn tập, tổng kết chương sẽ không tẻ
nhạt và có chất lượng hơn.
Trong bộ môn lịch sử, loại bài tổng kết thường được
viết thành từng bài, các tác giả sách giáo khoa đã một lần
cô đọng kiến thức, chúng ta vận dụng vào BĐTD tương đối


dễ vì những đơn vị kiến thức đã được khái quát, rút gọn,
chúng ta chỉ làm nhiệm vụ hướng dẫn học sinh vẽ BĐTD .
Thông qua tiết tổng kết, với BĐTD chúng ta có thể củng
cố kiến thức từng chương, từng phần.
Ví dụ: khi dạy Lịch sử 6, tiết 29, bài: 25: ƠN TẬP

CHƯƠNG III. Nội dung ơn tập giai đoạn “nghìn năm Bắc
thuộc” chủ yếu nằm trong 3 nội dung: Chính sách cai trị,
những lần thay đổi tên của nước ta và các cuộc khởi nghĩa
của nhân dân ta, 3 nội dung nằm trong 3 nhánh của BĐTD
rất dẽ dàng khai thác, khi dạy học sinh rất thú vị.

,
Tóm lại : Dạy học bằng bản đồ tư duy rất phù hợp
với phương pháp dạy học tích cực mà ngành giáo dục đã và
đang triển khai, đối với môn Lịch sử , sử dụng BĐTD trong
tất cả các tiến trình của bài dạy, từ giới thiệu bài, dạy bài
mới, tổng kết, củng cố, ôn tập và cả những bài tập …đều có
thể vận
dụng BĐTD để giảng dạy .
III.
KẾT QUẢ VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG.
1. Kết quả


Sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy và học lịch sử là
phù hợp với xu hướng đổi mới phương pháp dạy và học
hiện nay. Khi thực hiện dạy và học theo Bản đồ tư duy
chúng ta đạt được những kết quả sau:
1. Trình bày ý tưởng một cách rõ ràng
2. Tóm tắt thơng tin của một bài học
3. Hệ thống kiến thức đã học
4. Tăng cường khả năng ghi nhớ
5. Suy nghĩ sáng tạo
6. Học tập thông qua biểu đồ
7. Đưa ra ý tưởng mới…

Nói chung, sử dụng dạy và học với BĐTD rất cần cho
cả người dạy lẫn người học, thầy giáo sẽ giảng bài hệ thống
hơn, hay hơn, học sinh tiếp thu kiến thức tích cực hơn,
hứng thú hơn.
Dưới đây là bảng thống kê kết quả chất lượng học tập
của học sinh trước và sau khi vận dụng BĐTD vào dạy và
học:
Chất lượng làm bài của học sinh :
Đối tượng Trước khi thực hiện Sau khi thực hiện
thăm dò

SKKN
Chất lượng
bài kiểm tra giữa kỳ
Dưới
Trên

SKKN
Chất lượng bài thi
Học Ký 1
Dưới
Trên


trung

trung bình

trung


trung bình

35 HS lớp

bình
38 %

62 %

bình
18 %

82 %

61
36 HS lớp

39 %

61 %

19 %

81 %

83
38 HS 94
Tổng cộng

36 %

37,6 %

64 %
62,3 %

8%
15 %

92 %
85 %

Bình quân
2.

Khả năng ứng dụng:
Việc đưa Bản đồ tư duy vào phương pháp dạy và
học, mặc dù mới chỉ thực hiện được 2 năm học nhưng nhìn
chung hiệu quả dạy và học được nâng cao, đặc biệt đối với
bộ mơn Lịch sử đã có những biểu hiện tích cực, học sinh
hứng thú khi chúng ta sử dụng BĐTD để dạy học.
Thông qua các tiết đã dạy học bằng BĐTD, chúng tơi
nhận thấy rằng: có thể thực hiện trong tất cả các tiết lịch sử
ở nhà trường Trung học cơ sở. Tuy nhiên, không nhất thiết
tiết dạy nào cũng phải sử dụng BĐTD, vì một số phương
pháp khác cũng có hiệu quả khơng kém, chúng ta chỉ làm
phong phú thêm hình thức dạy và học để gây hứng thú học

tập cho học sinh.
IV.
KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT



Việc dạy học với BĐTD rất thuận tiện với các tiết dạy
giáo án điện tử, nhà trường cần xây dựng các phòng máy
cho giáo viên dạy.
Giáo

viên

cần

được

rèn

luyện

kỹ

năng

MINDMAPPING ( lập bản đồ tư duy ), nên có các chuyên
đề bồi dưỡng cho giáo viên, nên mua bản quyền các phần
mềm iMind Map v.4, v.5, v.6 cho giáo viên sử dụng.
Nhà trường nên cho học sinh tham gia các hoạt động có
sử dụng BĐTD, ví dụ trong sinh hoạt Đội TNTP, hội thi vẽ
BĐTD tồn trường, tồn ngành...
Đối với mơn Lịch sử 6, nên đưa nội dung dạy học sinh
cách lập BĐTD vào tiết bài tập lịch sử, chương trình lớp 6
có 2 tiết bài tập lịch sử. Hiện nay chúng ta đang dạy các

loại hình bài tập, theo chúng tơi, có thể giảm bớt 1 tiết bài
tập để dạy nội dung lập BĐTD cho học sinh đầu cấp.
Trên đây là Sáng kiến kinh nghiệm VẬN DỤNG BẢN
ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY VÀ HỌC MÔN LỊCH SỬ
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ của nhóm chúng tơi.
Rất mong được sự góp ý của cấp trên .
TX. La Gi, ngày
1/4/2013


Nhóm
người viết
NGUYỄN THỊ
NHIÊN
ĐỒN
LUYẾN

TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1.Tổ chức hoạt động dạy học với bản đồ tư duy,
TS.Trần Đình Châu – Dự án Phát triển
GD THCS II- Bộ GD & ĐT và TS. Đặng Thị Thu
Thủy - Viện Khoa học Giáo dục VN.
2. Sử dụng Bản đồ tư duy ( Mind map ) trong dạy và học
- Thân Thị Diệp Nga.
3. . Bản đồ tư duy trong
dạy và học
4. Biên bản Góp ý Hội giảng chuyên đề Cụm TX
La Gi – Năm học : 2012-2013 – Môn ; Lịch sử.



5. Sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy và học môn lịch sử
9 - Nguyễn Thị Thu Thủy.


Được đăng bởi Đoàn Luyến vào lúc 10.7.13
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên TwitterChia sẻ lên Facebook

Khơng có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bài đăng Cũ hơn Trang chủ
Đăng ký: Đăng Nhận xét (Atom)

Nội dung Blog:
- Nghiên cứu Lịch sử Việt Nam và Văn hoá Việt Nam.
- Lịch sử địa phương tỉnh Bình Thuận.
- Ghi lại những hình ảnh sinh hoạt của gia đình, nhà trường và bạn bè thân thiết
- Những sinh hoạt giải trí và liên kết bạn bè

Đăng nhập
MỤC LỤC

DALAT 2011




×