Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TRÀO LƯU TRIẾT HỌC KHOA HỌC VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY THỜI HIỆN ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.51 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

Đề tài tiểu luận triết học:
TRÀO LƯU TRIẾT HỌC KHOA HỌC VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ
ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY THỜI HIỆN ĐẠI
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
NHÓM 2 LỚP Đ1- K22
HỌC VIÊN THỰC HIỆN:
1. Nguyễn Tuấn Thọ STT 98 7701221112
TP.HCM, ngày 10 tháng 12 năm 2012
LỜI NÓI ĐẦU
Từ thế kỷ 15 trở đi, các ngành khoa học tự nhiên hình thành dần trong lòng triết học tự
nhiên dưới sự thúc đẩy trực tiếp của thực tiễn sản xuất tư bản chủ nghĩa phương Tây vừa mới ra
đời. Một số ngành khoa học tự nhiên đi tiên phong như cơ học, toán học đã tách ra khỏi triết học
tự nhiên. Cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, quá trình này diễn ra mạnh mẽ làm ra đời nhiều ngành
khoa học tự nhiên có đối tượng, có phương pháp nghiên cứu và hình thức diễn đạt riêng, trong
đó phương pháp thực nghiệm và hình thức diễn đạt toán học chiếm ưu thế. Các ngành khoa học
mới được xây dựng trên những nền tảng kinh nghiệm, tích lũy nhiều tri thức, xác lập dần những
cơ sở lý luận chặt chẽ và được diễn đạt khái quát bằng các công thức toán học chặt chẽ. Cho nên
một loạt trường phái và phong trào được gọi là triết học khoa học đã ra đời.
Nhiệm vụ chính của đề tài là xem xét một cách khái quát về hoàn cảnh ra đời, nội dung, ý
nghĩa của một số trào lưu triết học khoa học. Đồng thời trên cơ sở đó xem xét sự ảnh hưởng của
chúng đối với xã hội Phương Tây thời hiện đại
Đề tài: TRÀO LƯU TRIẾT HỌC KHOA HỌC VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ
ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY THỜI HIỆN ĐẠI, được đề cập trong bài tiểu luận cuối khóa
này, nhằm tổng hợp lại các trào lưu triết học khoa học và xem xét sự ảnh hưởng của chúng đối
với xã hội phương tây thời hiện đại đặc biệt trong lĩnh vực khoa học, bài tiểu luận gồm có 3
phần chính:
Phần 1: Cơ sở lý luận: Phần này trình bày hoàn cảnh lịch sử, điều kiện ra đời của các


trào lưu triết học khoa học.
Phần 2: Các trào lưu triết học khoa học, trình bày về các nội dung triết học khoa học.
Phần 3: Trình bày một số ảnh hưởng của chúng đến xã hội Phương Tây.
Người viết xin cảm ơn sự hướng dẫn sửa chữa của thầy Bùi Văn Mưa và xin được trích
dẫn một số nội dung từ nguồn tham khảo của các tác giả.
Bài tiểu luận chỉ trình bày những nội dung cơ bản, tổng hợp sự hiểu biết của mình đối
với Triết học khoa học nói riêng. Đề tài chỉ giới hạn trong sự hiểu biết của người viết, rất mong
ý kiến phê bình của thầy Bùi Văn Mưa.
Trân trọng.
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN



















I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ

Đến giữa thế kỷ XIX giai cấp Tư sản ở tất cả các nước Châu Âu đã giành được chính
quyền. Triết học Tư sản đã góp phần tạo nên thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản diễn ra
trên khắp các nước Phương Tây. Một giai đoạn mới -giai đoạn thống trị xã hội của giai cấp tư
sản– đã bắt đầu. Dưới chế độ tư bản, tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy sản xuất phát
triển mạnh mẽ nhưng vẫn không đưa lại "tự do, bình đẳng, bác ái". Trái lại, nó còn dẫn đến các
cuộc khủng hoảng xã hội, khủng hoảng tinh thần, khủng hoảng sinh thái, khủng hoảng nhân
cách ngày càng sâu sắc, đẩy con người vào tình trạng tha hóa toàn diện và nặng nề hơn. Xã hội
tư sản rơi vào khủng hoảng. Bên cạnh khoa học tự nhiên có sự tiến bộ to lớn. Vấn đề phương
pháp luận nhận thức của khoa học được đặt ra, cho nên một loạt trường phái và phong trào được
gọi là chủ nghĩa duy khoa học đã ra đời, mà chủ nghĩa thực chứng là một trường phái có ảnh
hưởng lớn và lâu dài nhất.
Trong điều kiện lịch sử đó, trong triết học phương Tây đã diễn ra sự tách biệt và sự
đối lập giữa chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa nhân bản. Để phát triển sản xuất, gia tăng lợi
nhuận, giai cấp tư sản cần đến khoa học, nhưng lại lý giải khoa học một cách duy tâm, do đó
đã hình thành trào lưu triết học duy khoa học theo lập trường duy tâm đầy mâu thuẫn. Trong
vấn đề con người và xã hội, giai cấp tư sản không muốn thừa nhận các quy luật khách quan
của sự phát triển nên họ đề cao chủ nghĩa phi duy lý. Do đó đã hình thành trào lưu chủ nghĩa
nhân bản phi duy lý. Trào lưu duy khoa học và trào lưu nhân bản phi duy ý chí dường như là
đối lập nhau, nhưng trên thực tế lại bổ sung cho nhau, vì chúng đều cần thiết cho sự ổn định
và phát triển của xã hội tư bản, đều phản ánh những mâu thuẫn cơ bản trong lòng chủ nghĩa
tư bản hiện đại.
Triết học phương tây ngoài macxit hiện đại, xét về thực chất là thế giới quan, ý thức
hệ, nhân sinh quan của giai cấp tư sản hiện đại trong giai đoạn thống trị xã hội của nó. Triết
học phương tây ngoài Macxit hiện đại rất đa dạng. từ đầu thế kỷ XX trở đi, triết học phương
tây hiện đại tiếp tục phân hóa thành nhiều trào lưu, trường phái, chi nhánh khác nhau, mỗi
trào lưu, trường phái đào sâu một khía cạnh, một mặt một yếu tố nào đó trong cuộc sống đa
dạng của con người để xây dựng triết lý riêng. Chúng ta nhận thấy có ba trào lưu chủ yếu đó
là chủ nghĩa duy khoa học và chủ nghĩa nhân bản phi duy lý và triết học tôn giáo.
II. TRÀO LƯU TRIẾT HỌC KHOA HỌC
Triết học khoa học bao gồm 2 trào lưu nối tiếp nhau: Trào lưu thực chứng và Trào lưu

hậu thực chứng.
1. Chủ nghĩa thực chứng
Tất cả các nhà thực chứng đều tuyên bố, nhận thức phải dựa vào kinh nghiệm thực tế.
Một trong các nguyên lý chủ yếu của chủ nghĩa thực chứng là hiện tượng luận. Họ cho rằng,
việc nghiên cứu các phương pháp toán học, phương pháp lôgic toán là nhiệm vụ, nội dung chủ
yếu của triết học. Chủ nghĩa thực chứng là một khuynh hướng nhận thức luận của triết học và xã
hội học cho rằng phương pháp khoa học là cách thức tốt nhất để lý giải các sự kiện của tự nhiên,
xã hội và con người. Chủ nghĩa thực chứng đã trở thành một "chủ đề thường xuyên trong lịch sử
tư tưởng phương Tây từ thời Hy Lạp cổ đại cho tới thời hiện đại"
[1]
khái niệm này được phát
triển ở đầu thế kỷ 19 bởi nhà triết học và xã hội học người Pháp, Auguste Comte.
Các triết gia thuộc trào lưu chủ nghĩa duy khoa học chủ trương xây dựng triết học theo
mô hình "các khoa học thực chứng". Theo họ, triết học không nên nghiên cứu những vấn đề
như bản chất của sự vật, các quy luật chung của thế giới, mà đi tìm phương pháp khoa học
có hiệu quả nhất, đáng tin cậy nhất mới là nội dung chủ yếu của việc nghiên cứu triết học.
Các nhà triết học thực chứng cho rằng, chỉ có các hiện tượng hoặc sự kiện, mới là "
cái thực chứng", do đó họ không thừa nhận bất cứ cái gì ngoài hiện tượng, không thừa nhận
bản chất của sự vật, họ muốn lẩn tránh vấn đề cơ bản của triết học, muốn loại trừ vấn đề thế
giới quan ra khái triết học truyền thống. Ôguýt Côngtơ (Comte) cho rằng, triết học phải lấy
các sự vật "thực chứng", "xác thực" làm căn cứ.
Về mặt lịch sử, người ta phân biệt bốn giai đoạn trong sự phát triển của chủ nghĩa thực
chứng:
- Chủ nghĩa thực chứng sơ kỳ: Với các đại biểu: Ô.Côngtơ, Ê. Líttơrê, P.Lápphít (Pháp), Minlơ,
Xpenxơ (Anh). H. Xpenxơ (1820-1903). J. Minlơ (1806- 1873). Bên cạnh các vấn đề của nhận
thức luận và của lôgic, họ đã dành vị trí chủ yếu cho xã hội học.
- Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán: Xuất hiện vào những năm 70 - 90 của thế kỷ XIX gắn liền
với tên tuổi của Makhơ và Avênariút, E. Makhơ (1838- 1916), Avênariút (1834- 1896). Chủ
nghĩa kinh nghiệm phê phán Phủ nhận cả việc thừa nhận một cách hình thức những sự vật hiện
tượng khách quan. Trong chủ nghĩa Makhơ, những vấn đề nhận thức được lý giải theo lập

trường của thuyết tâm lý cực đoan, chuyển thành chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
- Chủ nghĩa thực chứng mới (Triết học phân tích): Được hình thành vào đầu thế kỷ XX, Trong
số những người sáng lập thì Rớtxơn (Russel Bertrand), Uýtgen Xten (Wittgen Steinm) là hai
người có ảnh hưởng lớn. B. Rớtxơn (1872- 1970), L. Uýtgen Xten (1889- 1971). Chủ nghĩa thực
chứng mới chiếm vị trí chủ yếu trong giai đoạn thứ ba này của chủ nghĩa thực chứng là những
vấn đề triết học của ngôn ngữ, của môn lôgic ký hiệu, cơ cấu nghiên cứu khoa học,
- Chủ nghĩa hậu Thực chứng
2. Chủ nghĩa hậu thực chứng
Chủ nghĩa hậu thực chứng có hưởng lớn đến triết học phương Tây, bao gồm các đại
biểu như Pốppơ (Popper K.R.), Cun (Kuhn.T.) và Lacatốt (Lacatos), Học thuyết, quan
điểm của họ không giống hệt nhau, nhưng cái giống nhau ở họ là đều phản đối chủ nghĩa
thực chứng lôgíc, vì chủ nghĩa thực chứng lôgíc chỉ tiến hành phân tích lôgíc ở trạng thái
tĩnh đối với lý luận khoa học, không quan tâm nghiên cứu sự phát triển của tri thức khoa
học, cho rằng các tri thức khoa học chỉ tích luỹ về lượng. Họ cho rằng khoa học tiến bộ
thông qua con đường cách mạng trong tri thức, do đó phải tiến hành sự phân tích lịch sử
khoa học theo trạng thái động, thông qua giải quyết mâu thuẫn.
A/ Pốppơ phủ định phép quy nạp, nhấn mạnh rằng khoa học bắt đầu từ vấn đề chứ
không phải bắt nguồn từ việc quan sát, thực nghiệm. Ông nhận định rằng phương pháp khoa
học không phải là chứng thực trực tiếp mà là chứng thực bằng sự giả hóa, tức là phê phán sai
lầm của nó. Ông đưa ra nguyên tắc giả hóa của lý luận khoa học để bác bỏ nguyên tắc về tính
có thể chứng thực trực tiếp được của chủ nghĩa thực chứng lôgíc. Theo ông thì sự phát triển
của khoa học bắt đầu từ vấn đề mà đề ra giả thuyết có tính quy ước, tiếp đó dùng thực
nghiệm để kiểm nghiệm, cố gắng chứng thực nó bằng sự giả hóa, sau đó lại xuất hiện vấn đề
mới. Như vậy khoa học phát triển theo phương thức "cách mạng không ngừng". Quan điểm
đó của Pốppơ bao hàm một số nhân tố biện chứng của quá trình nhận thức, nhưng vì ông chỉ
nhấn mạnh việc chứng minh bằng sự giả hóa, phủ định hoàn toàn việc chứng trực tiếp nên lại
mắc vào tính phiến diện duy tâm.
B/ Cun dùng thuyết các giai đoạn phát triển của khoa học để thay thế cho thuyết
"cách mạng không ngừng" của sự tăng trưởng tri thức khoa học. Ông chia sẽ phát triển khoa
học thành hai thời kỳ, thời kỳ phát triển bình thường và thời kỳ cách mạng. Trong triết học

khoa học của ông, khái niệm hệ biến thái (paradigme) chiếm vị trí trung tâm. Thời kỳ khoa
học phát triển bình thường là thời kỳ hệ biến thái được mở rộng, còn thời kỳ cách mạng là
thời kỳ hệ biến thái mới thay thế hệ biến thái củ. Ngay trong thời kỳ phát triển bình thường
của khoa học đã xuất hiện của chủ nghĩa hiện sinh là các nhà triết học Hâyđơgơ, Xáctơrơ,
Giaxpơ, Macxen.
C/ Lacatốt, Lakatos trước là môn đồ của Popper, ông chấp nhận một số ý niệm của Kuhn
nhưng cải thiện thuyết phản nghiệm của Popper. Trong “Phương pháp luận của các trình nghiên
cứu khoa học, Lakatos tìm cách khắc phục những thiếu sót trong quan điểm của Karl Popper và
của Thomas Kuhn về bản chất những phát minh khoa học và tiến trình phát triển của khoa học.
Ông cho rằng sự tăng trưởng liên tục của tri thức khoa học là do sự cạnh tranh và sản sinh của
các hệ lý luận khoa học, chứ không phải do sự phản bác dẫn đường hay sự bất thường xảy ra
trong khoa học. Lakatos không tán thành ‘nguyên tắc phủ chứng’ của Popper và quan niệm về
vai trò quyết định ‘hệ chuẩn’ của Kuhn đối với tri thức khoa học. Ông vạch ra sai lầm chủ nghĩa
phủ chứng thô sơ của Popper là quá đề cao tính phủ chứng kinh nghiệm, Lakatos đã khắc phục
nó bằng ‘chủ nghĩa phủ chứng tinh tế’. Cũng như Popper và Kuhn, Lakatos không cho rằng lý
thuyết khoa học bắt nguồn từ quy nạp các dữ kiện. Trái lại, Lakatos coi sự phát triển của khoa
học là quá trình phát triển từ thấp đến cao trong tính lien tục của chương trình nghiên cứu, trong
đó các học thuyết, lý luận khoa học có lien hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành tri thức bối cảnh của
khoa học thống nhất. Từ đó ông đưa ra ‘Cương lĩnh nghiên cứu khoa học’ gồm 4 yếu tố là: hạt
cứng, dây bảo hộ, quy tắc gợi ý phản biện và quy tắc gợi ý chính diện. Tuy vậy, ông không cho
rằng động cơ của tiến bộ khoa học là sự phủ nhận qua phản nghiệm các lý thuyết khoa học hiện
tại, song là sự phát triển của cái mà ông gọi là những "chương trình nghiên cứu khoa học". Thật
ra "chương trình nghiên cứu khoa học" cũng tương tự như khái niệm "mô thức" của Kuhn. Theo
phương pháp này, các giả thuyết khoa học chỉ bị loại bỏ khi về lâu dài chúng không mang lại kết
quả, chứ không dựa vào chỉ một thử nghiệm duy nhất. Cụ thể, một chương trình nghiên cứu
được cho là có "tiến bộ lý thuyết" nếu mỗi lý thuyết của chương trình đó hàm chứa nhiều nội
dung thực nghiệm hơn chương trình trước, và "tiến bộ thực nghiệm" nếu một số nội dung thực
nghiệm này được phối hợp kiểm chứng. Phản nghiệm kiểu Lakatos là dựa vào sự liên hệ giữa
các thuyết khoa học, trong khi phản nghiệm kiểu Popper chỉ xem xét một lý thuyết nào đó có
khoa học hay không.

III. ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC KHOA HỌC ĐẾN NGÀNH KHOA HỌC XÃ HỘI
PHƯƠNG TÂY THỜI HIỆN ĐẠI:
1. Về chủ nghĩa thực chứng trong khoa học và xã hội học
Chủ nghĩa thực chứng trong khoa học phân định sự khác biệt giữa triết học và khoa học,
khẳng định triết học không phải là khoa học (A. Comte phân chia ba giai đoạn của phát triển xã
hội từ thần học sang triết học (tư biện) sang khoa học (thực chứng)), nhưng cũng chính những tư
tưởng này lại là quan điểm triết học thực chứng. Người ta hiểu chủ nghĩa thực chứng là một thế
giới quan khoa học mà không có suy đoán, siêu hình và giáo điều bằng cách chỉ có cái "hiện có"
cái "thực" đến được với kinh nghiệm mới biến thành đối tượng của khoa học. Chủ nghĩa thực
chứng trong khoa học cổ điển xây dựng hệ nguyên lý cho khoa học xã hội, khẳng định tính độc
lập của khoa học xã hội:
- Nguyên lý kiểm chứng được: Thực tại (thực tế xã hội) phải được chứng minh bằng thực
nghiệm. Trước hết cần chứng minh rằng hiện tượng mà nhà khoa học mô tả phải "hiện thực", do
vậy phải cung cấp những bằng chứng có tính thực nghiệm chứng minh sự tồn tại của chúng thì
mới có thể nghiên cứu chúng.
- Lý thuyết không có tư cách độc lập, chỉ thực nghiệm mới có tư cách độc lập, hình thành
nguyên lý quy giản lý thuyết về thực nghiệm.
- Nguyên lý quy ước: dành riêng cho toán học và logic học, là hai lĩnh vực không thể quy giản từ
lý thuyết về thực nghiệm, hai lĩnh vực này dựa trên những quy ước và giả định giữa các nhà
khoa học.
- Vật lý là khoa học hoa tiêu. Coi vật lý là thước đo của khoa học là mô hình chuẩn cho các khoa
học khác (chính vì thế A. Comte đã lấy tên vật lý học xã hội cho khoa học Xã hội học).
2. Về trào lưu hậu thực chứng trong khoa học và xã hội học
Sự phát triển của chủ nghĩa hậu thực chứng sau này mà đại diện là K.Poper đã tích hợp
các quan điểm thực chứng với các quan điểm phản thực chứng và đưa ra hệ nguyên lý mới cho
chủ nghĩa hậu thực chứng: Về nguyên lý kiểm chứng được: có tính bất đối xứng giữa khẳng
định và phủ định. Khoa học coi trọng năng lực bác bỏ, phê phán. Khoa học chính là vượt qua
chính mình bằng cách vượt qua chân lý cũ và thay thế bằng chân lý mới, vượt qua những định
kiến. Như vậy nghiên cứu không hẳn là chứng minh, giải thích sự tồn tại của thực tế mà quan
trọng hơn là khả năng bác bỏ các sai lầm trong việc giải thích thực tế của các nghiên cứu trước

thông qua đó nhà khoa học sẽ ngày càng tiến gần đến chân lý hơn.
Cho rằng lý thuyết có tư cách độc lập, không phải mọi lý thuyết đều tổng kết từ thực
nghiệm. Lý thuyết ngược lại có thể chỉ đạo thực nghiệm. Thực nghiệm bị nhúng trong trường ý
thức một cách ý thức hoặc vô thức. Chấp nhận nguyên lý quy ước. Phê phán nguyên lý duy vật
lý. Cho rằng mỗi khoa học cần triết lý riêng và phương pháp luận riêng cho mình.
K. Poper đưa ra lược đồ nghiên cứu khoa học:
P1 - TT - EE - P2
P: Problem (vấn đề)
TT: Temporal theory (lý thuyết tạm thời)
EE: Error Elimination (loại bỏ sai lầm)
Như vậy nghiên cứu khoa học chính là vấn đề nảy sinh ra vấn đề, sự thay thế của vấn đề
mới vào vấn đề cũ. Dựa trên hệ nguyên lý thực chứng, các nhà xã hội học cũng xây dựng một
trường phái xã hội học thực chứng. Nhà xã hội học thực chứng sẽ tìm cách định nghĩa và sử
dụng thuật ngữ rõ ràng để phân loại thực tế xã hội. Coi trọng quá trình thao tác hoá khái niệm
thành những biến số để có thể nghiên cứu điều tra thực tế đó thông qua phương pháp thực
nghiệm. Nhà xã hội học thực chứng thường tìm đến những giả thiết mang tính nhân quả giữa
các biến số. Sau đó họ sẽ đo các mỗi quan hệ nhân quả này bằng các cung cấp những bằng cứ có
tính thực nghiệm về phạm vi sự tồn tại của chúng. Nhà xã hội học thực chứng sẽ xây dựng các
mô phỏng tượng trưng của thực nghiệm bằng cách sử dụng những mô hình thống kê. Thiết lập
những mối quan hệ thống kê giữa các biến số được xác định một cách hình thức như tuổi, giới
tính hoặc nghề nghiệp là nguồn chủ yếu của những bằng cứ để kiểm tra những giả thuyết trong
xã hội học thực chứng.
Logic làm cơ sở cho sự giải thích của nhà xã hội học thực chứng về thực tế xã hội dựa
trên cơ sở đo lường định lượng phạm vi của mối quan hệ giữa các biến số (giống như làm thực
nghiệm trong phòng thí nghiệm ở các khoa học tự nhiên) và đưa ra những kết luận như là định
luật phổ biến về thực tế xã hội.
a/. Popper đánh giá và phê phán tri thức luận của Brouwer
Brouwer từng nói rằng dưới ánh sáng của hình học phi Euclid thì triết lý duy trực giác về
hình học – học thuyết trực giác thuần túy về không gian – của Kant lẽ ra phải bị loại bỏ. Nhưng
Ông nói rằng việc đó không cần thiết vì ta có thể số học hóa hình học: ta có thể dựa một cách

chắc chắn vào lý thuyết số học của Kant và vào học thuyết của ông cho rằng trực giác thuần túy
về thời gian là cơ sở của số học. Popper cảm giác rằng luận điểm này của Brouwer không đứng
vững được lâu; bởi nếu nói lý thuyết của Kant về không gian bị hình học phi Euclid phà bỏ thì ta
cũng buộc phải nói rằng lý thuyết về thời gian của ông bị lý thuyết tương đối hẹp phá bỏ. Ấy là
Kant đã nói rõ rằng chỉ tồn tại có một thời gian duy nhất, và vì thế ý niệm về tính đồng thời là
một ý niệm mang tính quyết định đối với thời gian.
Có thể lập luận rằng – song song với nhận xét của Heyting – Brouwer hẵn đã không phát
triển những ý niệm tri thức luận và triết học của ông về toán học duy trực giác, nếu như ông kịp
biết được sự tương đồng giữa việc tương đối hóa thời gian của Einstein và hình học phi Euclid.
b/. Thuyết duy chủ quan trong logic, trong lý thuyết về tính khả nhiên và trong vật lý học
Dưới góc nhìn của những gì được bàn đến ở các mục, nhất là về thuyết duy nghiệm,
không có gì lạ là sự hờ hững với thế giới thư ba – và hệ quả là một tri thức luận duy chủ quan –
còn rất phổ biến trong tư duy hiện đại. Thậm chí ở những lĩnh vực không liên quan gì đến toán
học của Brouwer, những khuynh hướng duy chủ quan vẫn thường thấy có trong nhiều chuyên
ngành khác nhau. Dưới đây tôi sẽ điểm qua một vài khuynh hướng như vậy trong logic học,
trong lý thuyết xác suất và trong vật lý học
- Logic học trí thức: Logic học tri thức bàn đến những loại công thức như “a biết p” hoặc
“a biết rằng p” và “ a tin p” hoặc “a tin rằng p”. Thường người ta viết dưới dạng ký hiệu
như sau: “Kap” hoặc “Bap”. Trong đó “K” (viết tắt của known) và “B” (viết tắt của
Believe) lần lượt biểu trưng cho các mối quan hệ biết và tin, còn a là chủ thể đang biết
hoặc đang tin, và p (proposition) là mệnh đề được biết hoặc được tin hoặc hiện trạng của
sự việc. Luận điểm thứ nhất của tôi được trình bày ở mục 1 hàm ý rằng điều này không
liên quan gì tới tri thức khoa học, mà chỉ có ý nói rằng: nhà khoa học, tôi gọi là S, thì
không biết mà cũng chẳng tin. Vậy anh ta làm gì ? tôi sẽ đưa ra một bảng liệt kê rất ngắn
gọn:
“S cố tìm hiểu p”
“S cố tìm cách nghĩ tới những đối tượng của P”
“S cố tìm ra những ý kiến phê phán p”
“S đề xuất một trắc nghiệm để kiếm tra p”
“S tim cách tiên đề hóa p” ….

Bảng liệt kê còn có thể kéo dài nữa. Thực vậy, một điều hết sức quan trọng cần nhớ là ta có
thể nghi ngờ mà không cần phê phán, đồng thời có thể phê phán mà không cần nghi ngờ.
- Lý thuyết xác suất: Không ở đâu mà sự hiện diện của tri thức luận duy chủ quan lại rõ
rệt như trong lĩnh vực toán xác suất. Toán xác suất là sự khái quát hóa từ đại số Boole (do đó
là từ logic học mệnh đề). Cho đến ngày nay người ta vẫn còn chủ yếu diễn giải môn này theo
nghĩa chủ quan, coi đó là phép toán về cái không biết, hoặc phép toán về tri thức chủ quan
không chắc chắn; nhưng điều này lại dẫn đến việc diễn giải đại số Boole, bao gồm cả toán
mệnh đề, như một phép toán về tri thức chắc chắn-về một loại tri thức nhất định nào đó theo
nghĩa chủ quan. Popper luôn tìm cách chống lại cách lý giải chủ quan về toán xác xuất này.
Về căn bản, nó nảy sinh cùng một thứ triết lý nào đó về tri thức luôn muốn gán cho một phát
biểu kiểu “tôi biết tuyết có màu trắng” cái chân giá trị có tính tri thức lớn hơn hẵn một phát
biểu kiểu “tuyết có màu trắng”.Popper chẳng thấy có lý do gì khiến ta không gán một chân
giá trị có tính tri thức còn cao hơn nữa cho phát biểu sau: “chiếu theo mọi bằng chứng mà tôi
có trong tay, tôi tin rằng có thể tin tưởng một cách có lí tính rằng tuyết có màu trắng”. Điều
đó có thể làm đối với các phát biểu mang tính tri thức.
c/. Các khoa học vật lý:
Cách tiếp cận chủ quan đã có nhiều bước tiến trong khoa học kể từ khoảng năm 1926.
Thoạt đầu nó thâm nhập vào môn cơ học lượng tử. Ở đó nó mạnh đến mức những kẻ chống đối
được xem như hạng dốt nát không được quyền lên tiếng. Sau đó nó lan sang môn cơ học thống
kê. Vào năm 1929, Szilard đã đề xuất quan điểm mà giờ đây hầu hết mọi người đều chấp nhận.
Đó là quan điểm cho rằng chúng ta đã phải trả giá đắt cho thông tin chủ quan bằng sự tăng
Entropi vật lý; sự tăng entropi này được giải thích như một bằng chứng chứng tỏ entropi vật lý
là một sự thiếu hụt về tri thức và do đó nó là một khái niệm chủ quan, đồng thời còn chứng tỏ tri
thức hoặc thông tin chủ quan là cái tương đương với phản entropi vật lý. Như vậy là lý thuyết
duy chủ quan về tri thức đã len lỏi vào khoa học qua một dãi đường biên rất rộng. Cửa ải đầuu
tiên là lý thuyết xác suất duy chủ quan. Nhưng rồi chúng tiếp tục lan sang cơ học thống kê, lý
thuyết entropi, cơ học lượng tử, đến cả lý thuyết thông tin. Popper đã liên tục chống lại chúng
trong năm liền bằng cách chỉ ra các điểm mà ông muốn đề cập như sau: Trước hết ông ta cố tìm
cách loại bỏ tri thức luận hay loại logic khám phá nào là loại được xem xét từ góc độ duy khách
quan, và làm thế nào nó có thể chiếu rọi vài tia sáng lên bộ môn sinh học về khám phá. Sau cùng

Popper sẽ chỉ ra trong phần cuối dưới góc độ duy khách quan thì tâm lý học về khám phá sẽ
biểu hiện ra sao.
d/. Logic khám phá và sinh học khám phá:
Popper tin rằng, đối với những lý thuyết đang cạnh tranh, tốt nhất là bàn đến việc “đánh
giá” hoặc “thẩm định “, hoặc việc ưu tiên lựa chọn một trong chúng, hơn là việc chấp nhận
chúng như thế nào. Ta có thể thấy rằng khởi nguồn bằng những vấn đề, rồi từ đó phát triển lên
bằng những lý thuyết cạnh tranh nhau, được khoa học đánh giá một cách có phê phán. Quan
trọng hơn cả là việc đánh giá tình huống chân lý của chúng. Ví như những giải pháp thăm dò mà
loại vật và cây cỏ có sẵn trong cơ thể và trong cách ứng xử của chúng, xét về mặt sinh học là
giống với các lý thuyết và ngược lại. Các lý thuyết cũng tương ứng với các cơ quan nội tại và
cách thức vận hành của chúng. Các cơ quan trong cơ thể và cách thức vận hành của chúng là
những sự thích nghi mang tính thăm dò đối với thế giới ta đang sống trong đó. Cách ứng xử mới
hoặc các cơ quan mới còn có thể dẫn đến sự xuất hiện của những vấn đề mới. Bằng cách này
chúng ta có thể ảnh hưởng đến quá trình tiến hóa sắp tới, bao gồm cả những giá trị sinh học mới.
e/. Phát hiện về thuyết nhân bản và sự tự siêu vượt:
Đối với một nhà nhân bản học, cách tiếp cận của chúng ta có thể mang nhiều ý nghĩa vì
nó gợi ra một cách nhìn mới đối với quan hệ giữa bản thân chúng ta –những chủ thể- với mục
tiêu cố đạt đến của chúng ta: sự tăng trưởng của tri thức khách quan, sự lớn mạnh của thế giới
thứ ba. Popper xem cách tiếp cận tri thức khách quan là cách tiếp cận chỉ coi chúng đơn thuần
như những sự bày tỏ hoặc thể hiện của các trạng thái tinh thần. Cách tiếp cận như vậy có thể
được mô tả như một thứ thuyết duy thể hiện tri thức luận, vì nó sát cánh khăng khít với thuyết
thể hiện trong nghệ thuật. Tác phẩm của một người sáng tác ra được xem như sự thể hiện trạng
thái nội tâm của người đó: sự chú trọng được tuyệt đối dành cho mối quan hệ nhân quả và dành
cho một sự thật không chối cãi được. Những người theo thuyết thể hiện tin tưởng rằng tất thảy
những gì ta làm được là cứ để mặc cho tài năng, cho năng khiếu tự biểu hiện mình trong tác
phẩm. Popper cho rằng mọi việc đều phụ thuộc vào sự cho nhận giữa bản than chúng ta với tác
phẩm chúng ta; phụ thuộc vào sản phẩm ta đóng góp vào thế giới thứ ba, và tác động phản hồi
thường trực được khếch đại bởi hành động phê phán có ý thức.
Một điều lạ thường đối với cuộc sống, đối với quá trình tiến hóa và đối với sự phát triển
tinh thần chính là phương pháp cho nhận ấy, là mối tương tác giữa những hành động của chúng

ta với những kết quả của chúng, nhờ vào đó chúng ta thường xuyên tự vượt lên chính mình,
vượt lên chính tài năng của mình, chính năng khiếu của mình. Sự tự siêu vượt ấy là điều nổi bật
nhất và quan trọng nhất đối với mọi dạng sự sống, mọi quá trình tiến hóa và nhất là đối với sự
tiến hóa của loài người. Trong tất cả những lối học hỏi, lối tiếp thu hoặc sản sinh ra tri thức nói
trên thì phương pháp ở đây không phải là phương pháp Lamarck, mà đúng hơn đó là phương
pháp Darwin; không phải là quá trình đào luyện thông qua lặp đi lặp lại mà là phép chọn lọc.
Nhưng chớ quên rằng thuyết Lamarck là một thứ thuyết Darwin gần đúng, và chớ quên rằng
nhiều khi những sản phẩm của phép chọn lọc nom có vẻ giống như những sản phẩm của sự thích
nghi kiểu Lamarck, giống như sản phẩm của quá trình đào luyện thông qua phép lặp đi lặp lại: ta
dường như có thể nói thuyết Darwin bắt chước thuyết Lamarck.
f/. Xét từ góc độ phương pháp, chúng ta có quyền đơn thuần coi mức độ sâu sắc của lý thuyết,
sự nhất quán của nó và thậm chí cả vẻ đẹp của nó, như một sự dẫn dắt hay một yếu tố kích thích
đối với trực giác và đối với óc tưởng tượng của chúng ta. Popper sẽ cố cắt nghĩa điều đó bằng
một ví dụ lấy từ lịch sử khoa học.
Ai cũng biết rằng động lực học Newton đã thống nhất được môn vật lí học địa cầu của
Galileo và môn vật lí học các thiên thể của Kepler. Mọi người vẫn thường nói rằng động lực học
của Newton có thể được suy ra từ các định luật của Galileo và của Kepler, và người ta thẩm chí
còn khẳng định rằng nó suy một cách đích xác từ những định luật đó. Nhưng đâu phải vậy; một
cách chặc chẽ, xét ở góc độ logic, lí thuyết của Newton mâu thuẫn với cả lí thuyết của Galileo
lẫn của Kepler (mặc dù xuất phát từ lí thuyết của Newton, rõ ràng ta có thể suy ra hai lí thuyết
đó như những sự gần đúng). Vì lí do ấy nên không có cách gì mà từ lí thuyết của Galileo hay
của Kepler hay từ cả hai, lại suy ra được lí thuyết của Newton, kể cả sử dụng phép diễn dịch hay
phép quy nạp. Vì một lẽ, chẳng bao giờ có một phép diễn dịch hoặc quy nạp nào có thể dung để
suy diễn từ những tiền đề nhất quán dẫn đến một kết luận mâu thuẫn về mặt hình thức với những
tiền đề đó.
Popper coi đây là một luận cứ rất chặc chẽ nhằm bác bỏ phép quy nạp.
Sau đây, Popper sẽ tóm lược những mâu thuẫn giữa lí thuyết của Newton và lí thuyết của
những người đi trước ông. Galileo khẳng định rằng một hòn đá được ném đi hoặc một viên đạn
được bắn ra luôn chuyển động theo quỹ đạo parabol, trừ trường hợp rơi tự do thẳng đứng theo
một đường thẳng với gia không đổi (Trong câu chuyện này, ta không tính đến lực cẳng của

không khí.). Xét dưới góc độ lí thuyết của Newton thì cả hai trường hợp trên đều sai, vì hai lí do.
Khẳng định thứ nhất sai vì một đường đi của một viên đạn được bắn xa, chẳng hạn như một tên
lửa xuyên lục địa (được phóng theo phương thẳng đứng hoặc phương nằm ngang) không những
không phải là một parabol gần đúng mà thậm chí còn là một êlip. Nó chỉ gần đúng với một
parabol khi toàn bộ quảng đường bay của viên đạn đo được không đáng kể so với chiều dài bán
kính Trái Đất. Điều này đã được chính Newton xác nhận trong tác phẩm Principia của mình,
cũng như trong phiên bản viết cho đại chúng có tựa đề The System of the World [Hệ thống Cấu
tạo Thế giới – N.D], trong đó ông đã dung hình vẽ được sao lại dưới đây để minh họa.
Hình vẽ của Newton minh họa cho điều khẳng định của ông nói rằng, nếu đẩy vận tốc của
viên đạn tăng lên, và đồng thời với đó là quảng đường bay, thì “tới một lúc nào đó sẽ vượt khỏi
ranh giới của Trái Đất … để bay vào không gian mà không quay lại chạm đất nữa”.
Ta thấy viên đạn được bán đi trên Trái Đất sẽ đi theo một quỹ đạo êlip, đúng hơn là theo
một quỹ đạo parabol. Tất nhiên là một quãng đường đi đủ ngắn thì quỹ đạo parabol là một phép
làm gần đúng tuyệt vời; nhưng quỹ đạo parabol lại không phải được suy ra một cách chính xác
từ lí thuyết Newton, trừ phi ta thêm cho nó một điều kiện ban đầu sai với thực tế là bán kính
Trái Đất lớn vô hạn (điều hoàn toàn vô nghĩa đối với lí thuyết của Newton vì nó dẫn đến những
hệ quả phi lí). Nếu không chấp nhận giả thuyết này, kể cả vẫn biết chắc rằng nó sai thì ta sẽ
luôn có một quỹ đạo êlip, trái với định luật của Galileo, theo đó ta phải có một quỹ đạo parabol.
Một tình huống logic chặc chẽ giống hệt xảy ra đối với phần thứ hai của định luật Galileo,
là định luật khẳng định sự tồn tại của một gia tốc không đổi. Chiếu theo lí thuyết của Newton,
gia tốc của những vật thể rơi tự do không bao giờ là hằng số: nó luôn tăng lên trong quá trình
rơi, do vật thể ngày càng tiến gần hơn tới tâm của lực hút. Hiệu ứng này được nhận thấy rất rõ
khi vật thể rơi từ một độ cao lớn, mặc dù vẫn biết có thể bỏ qua, nếu độ cao là không đáng kể so
với bán kính Trái Đất. Trong trường hợp này chúng ta có thể từ lí thuyết của Newton suy ra lí
thuyết của Galileo, nếu tiếp tục giả định rằng bán kính Trái Đất dài vô tận (hoặc độ cao mà từ đó
vật thể rơi là bằng không).
Những mâu thuẫn Popper vừa nêu ra sẽ buộc phải được tính đến trong trường hợp của tên
lửa xuyên lục địa. Ở đây ta vận dụng lí thuyết của Newton (tất nhiên phải tính đến độ cản của
không khí) chứ không phải lí thuyết của Galileo, vì lí thuyết này chắc chắn sẽ cho ra kết quả sai,
và nhờ vào lí thuyết của Newton ta sẽ dễ dàng nhận ra điều đó.

Với những định luật của Kepler, tình hình cũng giống như hệt. Khi nằm trong khuôn khổ lí
thuyết của Newton, những định luật của Kepler rõ ràng chỉ có giá trị gần đúng – có nghĩa là
không tuyệt đối đúng – nếu ta tính đến lực hút lẫn nhau giữa các hành tinh. Nhưng giữa hai lí
thuyết có những mâu thuẫn còn cơ bản hơn so với mâu thuẫn khá dễ nhận ra nói trên. Bởi, thậm
chí ta có nhượng bộ đối thủ của mình bằng cách gạt ra ngoài những tương tác lẫn nhau giữa các
hành tinh đi nữa, thì định luật Kepler thứ ba nếu được nhìn dưới góc độ lí luyết của Newton,
cũng chỉ có thể là một sự gần đúng được áp dụng cho một trường hợp rất đặt biệt: cho những
hành tinh có khối lượng bằng nhau, hoặc nếu không bằng nhau thì cũng không đáng kể so với
khối lượng Mặt Trời. Vì lẽ nó cũng không được cho là gần đúng đối với hai hành tinh, trong đó
có một hành tinh rất nhẹ còn hành tinh kia thì rất nặng, nên định luật này cũng mâu thuẫn với lí
thuyết của Newton không khác gì lí thuyết của Galileo.
Điều đó dễ dàng được chứng minh như sau: Lí thuyết của Newton đã đem lại cho hệ hai-
vật-thể - một hệ lưỡng tinh – một định luật mà các nhà nghiên cứu thiên văn học thường gọi là
“định luật Kepler”, vì nó khá giống với định luật thứ ba của Kepler. Cái gọi là “định luật
Kepler” này nói rằng nếu m
0
là khối lượng của một trong hai vật thể - cứ cho là Mặt Trời – và
nếu m
1
là khối lượng của vật thể kia – cứ cho là một hành tinh – thì bằng cách chọn những đơn
vị đo lường phù hợp, từ lí thuyết của Newton ta có thể suy ra
(1)
trong đó a là khoảng cách trung bình giữa hai vật thể, và T là thời gian đủ để thực hiện một vòng
quay trọn vẹn. Theo định luật thứ ba chính cống của Kepler thì
(2)
có nghĩa là bằng nhau đối với mọi hành tinh trong Hệ Mặt Trời. Rõ ràng là từ (1) suy ra định
luật này chỉ khi giả định m
0
+ m
1

= hằng số; và bởi m
0
= hằng số đối với Hệ Mặt Trời, nên từ (1)
có thể suy ra (2) chỉ khi m
1
được giả định bằng nhau đối với mọi hành tinh; hoặc ta phải coi điều
đó trên thực tế là sai (quả thực như vậy, vì sao Mộc lớn gấp vài nghìn lần so với các hành tinh
tinh nhỏ nhất), trừ phi giả định rằng khối lượng tất cả các hành tinh điều bằng không trong mối
tương quan với khối lượng Mặt Trời,sao cho có thể viết m
1
= 0 với mọi hành tinh. Điều đó tạo
nên một sự gần đúng hoàn hảo xét từ góc độ lí thuyết của Newton; nhưng đồng thời, nói một
cách chặc chẽ thì viết m
1
= 0 không những sai mà còn vô nghĩa, xét theo quan điểm lí thuyết của
Newton (Một vật thể không có khối lượng thì không còn tuân theo các định luật về chuyển động
của Newton nữa). Do đó, giả sử ta có bỏ qua lực hút lẫn nhau giữa các hành tinh đi nữa thì định
luật thứ ba (2) của Kepler vẫn mâu thuẫn với lí thuyết của Newton, mà từ đó (1) được suy ra.
Một điều quan trọng phải lưu ý là dựa vào hai lí thuyết của Kepler và của Galileo ta không
thể có được thậm chí một chỉ dẫn dù nhỏ nhất về việc làm cách nào các lí thuyết đó đứng vững
được – những tiền đề sai nào ta cần chấp nhận, hoặc những điều kiện nào cần được thỏa mãn –
để ta có thể suy từ chúng ta ra những lí thuyết khác, và rồi suy ra một lí thuyết có giá trị hiệu lực
hơn chẳng hạn như lí thuyết của Newton. Chỉ có khi có lí thuyết của Newton trong tay ta mới có
cơ biết được liệu các lí thuyết cũ có thể được coi là những trường hợp gần đúng với lí thuyết
mới hay không, và gần đúng theo nghĩa nào. Điều này có thể nói một cách vắn tắt như sau: mặt
dù xét từ góc độ lí thuyết của Newton, lí thuyết của Galileo và của Kepler là những trường hợp
gần đúng hoàn hảo với một vài kết quả đặc biệt của lí thuyết của Newton, nhưng từ góc độ của
hai lí thuyết đó, không thể coi lí thuyết của Newton là trường hợp gần đúng với những kết quả
của chúng [của lí thuyết của Kepler và của Galileo – N.D]. Tất cả những điều nói trên cho thấy,
kể cả logic diễn dịch lẫn logic quy nạp đều không thể thực hiện các bước suy diễn dẫn từ những

lí thuyết đó đến môn động lực học của Newton. Một bộ óc đại thiên tài may ra mới làm được
điều này. Khi các bước nói trên được thực hiện thành công, lúc đó ta mới có quyền nói lí thuyết
của Galileo và của Kepler đã xác chứng cho lí thuyết mới.
Tuy nhiên, cái Popper quan tâm hơn cả ở đây là vấn đề về sự sâu sắc chứ không hẳn là tính
chất bất khả của phép quy nạp. Và về vấn đề này, chúng ta thực sự có thể rút ra được một bài
học từ ví dụ vừa được nêu. Lí thuyết của Newton đã thống nhất được lí thuyết của Kepler và của
Galileo. Nhưng không hề có nghĩa là nó kết hợp đơn thuần hai li thuyết đó với nhau – là những
lí thuyết đóng vai trò như những explicandum của thuyết Newton – mà là hiệu chỉnh lại chúng
bằng việc giải thích chúng. Thoạt tiên, nhiệm vụ kiến giải nằm ở chỗ phải suy diễn ra được
những kết quả có sẵn. Nhưng nhiệm vụ này lại được hoàn thành không phải bằng việc suy diễn
được những kết quả sẵn có, mà bằng vào việc duy diễn ra một cái gì khả quan hơn, thay thế cho
những kết quả đó: những kết quả mới bao gồm những con số rất gần với những kết quả cũ, trong
cùng những điều kiện đặc thù của những kết quả cũ, và đồng thời hiệu chỉnh được những kết
quả cũ ấy. Như vậy, ta có quyền nói rằng những thành công thường nhiệm của lí thuyết cũ đã
xác chứng cho lí thuyết mới; và thêm vào đó, những sự hiệu chỉnh đến phiên mình lại cũng có
thể được đem ra trắc nghiệm – có thể bị bác bỏ, cũng có thể được kiểm đúng. Với tình huống
logic mà tôi vừa phác qua, một điều hiển nhiên được nhận thấy là, không cách gì lí thuyết mới
lại có thể mang tính ad hoc hoặc tính long vòng. Lí thuyết mới không hề lặp đi lặp
lạiexplicandum của mình, mà luôn đối đầu và chỉnh sửa explicandum đó. Theo lối này, thậm chí
bằng chứng của bản than explicandum cũng có thể biến thành bằng chứng độc lập ủng hộ cho lí
thuyết mới (Nhân đây cũng nói thêm rằng kiểu phân tích này có thể cho phép chúng ta cắt nghĩa
được giá trị của các lí thuyết số, và giá trị của phép đo; và nó còn giúp ta tránh được sai lầm
trong việc xử lí phép đo và độ chính xác, bằng cách coi chúng như những giá trị tối hậu và tối
giản.).
Ý Popper là: đối với các khoa học thường nghiệm, khi lí thuyết mới có độ phổ quát cao
hơn thành công trong việc giải thích một số lí thuyết cũ nào đó bằng việc hiệu chỉnh chúng, thì
đó chính là dấu hiệu biểu hiện lí thuyết mới đã đi được vào chiều sâu hơn so với những lí thuyết
cũ. Nhu cầu đòi hỏi một lí thuyết mới phải làm chứa một cách tương đối lí thuyết cũ, và coi đó
như những giá trị thích hợp với các thông số của lí thuyết mới, có thể được gọi là (theo cách gọi
của Bohr) “nguyên lí tương ứng”[principle of correspondence].

Việc đáp ứng được đòi hỏi này là một điều kiện đủ cho tính sâu sắc, như Popper đã nói ở
trên. Việc nó không phải là một điều kiện cần [điều kiện tất yếu – N.D] có thể được thấy rõ
trong việc lí thuyết song điện từ của Maxwel không hề hiệu chỉnh lí thuyết song ánh sáng của
Fresnel, nếu hiểu theo nghĩa nói trên. Nó sâu sắc hơn là đugns rồi, nhưng phải hiểu theo cách
khác: “Bài toán cũ được đặt ra về hướng của những dao động của ánh sáng phân cực không còn
được chú trọng. Những trở ngại về các điều kiện tới hạn nằm ở ranh giới giữa hai môi trường đã
được chính những cơ sở nền tảng của lí thuyết giải quyết. Không cần dung đến một giả thuyết
ad hoc nào nữa nhằm loại trừ các sóng ánh sáng dọc. Áp suất ánh sáng là cái có tầm quan trọng
đặc biệt đối với lý thuyết phóng xạ, mà mãi sau này mới được thực nghiệm xác nhận; điều đó
cũng đã được suy ra từ một trong những hệ quả của lý thuyết. Ở đây, Einstein đã phác họa một
trong những thành công của lý thuyết của Maxwel và so sánh nó với lý thuyết của Fresnel. Đoạn
phân tích cho chúng ta thấy một lời chỉ dẫn cho thấy còn có những điều kiện đủ khác dành cho
tính sâu sắc, mà cách nhìn nhận của Popper còn chưa bao quát hết.
IV. KẾT LUẬN:
Qua bài tiểu luận có thể thấy Triết học phương tây ngoài Macxit hiện đại rất đa dạng,
từ đầu thế kỷ XX trở đi, triết học phương tây hiện đại tiếp tục phân hóa thành nhiều trào lưu,
trường phái, chi nhánh khác nhau, mỗi trào lưu, trường phái đào sâu một khía cạnh, một mặt
một yếu tố nào đó trong cuộc sống đa dạng của con người để xây dựng triết lý riêng. Tuy
Chúng ta chỉ tìm hiểu trào lưu chủ yếu đó là chủ nghĩa duy khoa học mà cụ thể ở đây là trào
lưu hậu thực chứng mà đại diện trong phần nghiên cứu này là Popper nhưng phần nào ta
cũng thấy ảnh hưởng về tư tưởng chủ đạo của chúng đối với rất nhiều lĩnh vực khoa học.
Thông qua phần đào sâu nhận xét và đánh giá các tư tưởng khoa học trước đây tác giả đã đưa
ra rất nhiều phương hướng suy luận và lý thuyết mới. Đây là nội dung, bản chất của trào lưu
triết học duy khoa học thời bấy giờ. Họ cho rằng khoa học tiến bộ thông qua con đường cách
mạng trong tri thức, do đó phải tiến hành sự phân tích lịch sử khoa học theo trạng thái động,
thông qua giải quyết mâu thuẫn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Triết học – phần I, TS. Bùi Văn Mưa (chủ biên), Trường Đại học kinh tế TPHCM.
2. Triết học và bức tranh vật lý học về thế giới, TS. Bùi Văn Mưa (chủ biên), Nhà xuất
bản Đại học quốc gia TPHCM.

2. Tri Thức khách quan, Dịch giả Chu Đình Lan, NXB Tri Thức
3. Một số nguồn từ internet khác như:
/>phuong-tay-hien-dai.html
/>tay-hien-dai.html
/>HIEN-DAI-88280
/> /> />

×