Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

CÁC PHƯƠNG PHÁP xử lý nước THẢI THUỘC DA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.32 KB, 3 trang )

CÁC PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ NƯỚC THẢI THUỘC DA
Nhìn chung nước thải thuộc da phức tạp do đặc tính của nó là hợp bởi các dòng
thải có tính chất khác nhau (dòng mang tính acid, dòng mang tính kiềm) nên các
chất ô nhiễm trong dòng thải có thể phản ứng với nhau gây khó khăn cho quá trình
xử lý.
Nước thải thuộc da là loại nước thải công nghiệp chứa nhiều chất ô nhiễm: các chất
hữu cơ ( protein tan, lông, thịt … được tách ra từ các thành phần của da ) ; các hóa
chất sử dụng trong tiền xử lý da, thuộc da và hoàn thiện da. Vì vậy chúng ta cần
phải phân dòng thải trước khi xử lý chung, cụ thể là tách riêng dòng thải ngâm vôi
chứa sulfide và dòng thải thuộc da chứa crôm.
Bên cạnh đó ta còn phải kết hợp xử lý bằng hóa – lý ( chủ yếu ta sẽ dùng phương
pháp keo tụ – tạo bông ) để loại bỏ phần lớn hàm lượng cặn lơ lửng còn khá cao
trong nước thải mà chúng có thể sẽ ảnh hưởng đến các công trình xử lý sinh học ở
phía sau như bể Aerotank. Có như vậy thì hiệu quả xử lý mới cao và nước thải đầu
ra đạt tiêu chuẩn cho phép.
1. Xử lý nước thải chứa sulfide S
2-
- Oxy hóa S
2-
với xúc tác là muối Mn
2+
kết hợp với sục khí.
Nước thải chứa sulfide sẽ được đưa vào bể chứa, sau đó ta thêm vào một lượng
muối Mn
2+
thích hợp cùng kết hợp với việc thổi khí. S
2-
sẽ bị oxy hóa thành
thiosulfate, sulfite, sulfate ( là những chất ít hoạt động hơn sulfide ).
Thời gian thổi khí khoảng 6 – 12 h với tỉ lệ 1 m3 không khí / phút. m3 nước
thải hay tương đương 20 m3/giờ.m2 mặt nước trong bể oxy hóa có độ sâu từ 4–


6m. Lượng muối MnSO4 khoảng 50 – 100 g / m3 nước thải. Ta có thể sử dụng
máy sục khí bề mặt hoặc máy thổi khí.
Bể oxy hóa nên lắp đặt hệ thống cào bùn bên dưới để loại bỏ các cặn lắng.
Ngoài ra trong suốt quá trình oxy hóa khí H
2
S, NH
3
sẽ thoát ra gây ô nhiễm về
mùi. Vì vậy cần thiết phải phủ kín bể oxy hóa và xử lý khí bằng cách sử dụng
quạt hút cho qua hệ thống lọc tinh. Lượng khí sinh ra khoảng 1.5 m3/giờ. m2
nước mặt.
Chú ý : nếu pH < 8 sẽ sinh ra khí H
2
S có thể gây chết người và động vật ở nồng
độ 2000 ppm. Nếu pH > 10 sẽ sinh ra khí NH3. Vì vậy cách tốt nhất là kiểm
soát giá trị pH trong khoảng 9 – 10.
Oxy hóa S
2-
bằng H
2
O
2

Phương pháp này khử S
2-
rất hiệu quả với chi phí xây dựng không lớn nhưng
chi phí cho việc dùng H
2
O
2

là hơi cao. Vì vậy nó chỉ thích hợp cho các cơ sở
nhỏ với việc thải bỏ nước thải ngâm vôi 1 – 2 lần trong tuần. Với cách này
sulfide sẽ bị oxy hóa thành sulfur ở pH < 8. Nếu pH > 8 thì nó sẽ chuyển thành
sulfate và việc này tốn hóa chất gấp 3 lần. Do đó cần lưu ý điều chỉnh pH để
kinh tế hơn. Chúng ta cần khoảng 200 mg/l H
2
O
2
để khử S
2-
có nồng độ từ 100
– 300 mg/l.
Khử S
2-
bằng cách cho kết tủa với muối sắt
Cách này cũng hiệu quả do chi phí hóa chất rẻ, nhưng gây mùi và nước thải có
độ màu cao. Chưa kể nó còn đòi hỏi nhiều hóa chất và phát sinh ra một lượng
bùn lớn đòi hỏi phải xử lý chứ không thể dùng làm phân bón.
2. Xử lý nước thải chứa crôm
Phương pháp đơn giản và thường được sử dụng nhất là kết tủa Cr
3+
bằng dung
dịch kiềm sau đó đem thải bỏ hoặc tái sử dụng tùy yêu cầu.
Ta có thể dùng CaO, Na
2
CO
3
, NaOH để xử lý crôm tuy nhiên không nên dùng
MgO do giá thành cao và kết tủa Cr
3+

khó có thể tái sử dụng lại được.
Để kết tủa Cr(OH)
3
lắng nhanh có thể nâng pH lên 8.5 và cho thêm chất điện
phân hoặc FeCl
2
. Lúc đó hiệu quả lắng do việc xử lý bằng hóa lý có thể lên đến
98%. Bùn lắng có chứa Cr(OH)
3
được đem đi xử lý trước khi đổ bỏ.
3. Xử lý hàm lượng cặn lơ lửng bằng phương pháp keo tụ – tạo bông.
Phương pháp hiệu quả để loại bỏ cặn lơ lửng và thường được áp dụng trong
ngành công nghiệp thuộc da là phương pháp keo tụ – tạo bông. Khi cho chất
keo tụ vào nước thải, các hạt keo trong nước thải bị mất tính ổn định, tương tác
với nhau, kết cụm lại hình thành các bông cặn lớn và dễ lắng.
Để thực hiện quá trình keo tụ ta cho vào nước các chất keo tụ thích hợp như:
phèn nhôm và phèn sắt trong đó chủ yếu là sunfat nhôm Al
2
(SO
4
)
3
và clorua sắt
FeCl
3
(chúng thường được đưa vào nước thải dưới dạng dung dịch hòa tan). Ưu
điểm của loại phèn kể trên là chúng có khả năng tạo ra hệ keo kị nước và khi
keo tụ thì tạo ra bông cặn có bề mặt hoạt tính phát triển cao, có khả năng hấp
thụ, dính kết các tạp chất và keo làm bẩn nước.
Thí nghiệm Jartest là loại thí nghiệm qui mô phòng thí nghiệm được sử dụng

rộng rãi trong các trạm xử lý nước thải nhằm mục đích xác định lượng phèn tối
ưu và giá trị pH tối ưu của quá trình keo tụ – tạo bông. Ngoài ra nó còn có thể
cho biết thêm về tốc độ kết cụm theo khuấy trộn, đặc tính lắng của bông cặn …

×