Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tiểu luận triết SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA CHỦ NGHĨA DUY VẬT KINH NGHIỆM ANH VÀ CHỦ NGHĨA DUY LÝ TƯ BIỆN PHƯƠNG TÂY THỜI CẬN ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.67 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC


GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Duy Nam (STT: 67 )
Nhóm 11 – Lớp QTKD1 – Khoá 23
TPHCM , tháng 12 năm 2014
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Sự phát triển những tư
tưởng triết học của nhân loại là một quá trình không đơn giản. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm, và gắn với nó là cuộc đấu tranh giữa các phương pháp nhận thức hiện thực – phương
Nguyễn Duy Nam-STT:67- Nhóm 11- Lớp đêm 1
1
pháp biện chứng và phương pháp siêu hình - tuy là cái trục xuyên suốt lịch sử triết học, làm nên cái
“logic nội tại khách quan” của sự phát triển, song lịch sử diễn biến của nó lại hết sức phức tạp.
Trong quá trình hình thành và phát triển của loài người triết học đóng một vai trò vô cùng to lớn
ngay từ những ngày đầu hình thành nên nền móng của triết học cho đến thời kỳ ngày nay, nó không chỉ
đơn thuần là một môn khoa học mà còn là một trong những ngành phản ánh một cách rõ nét từng giai
đoạn phát triển của loài người .
Để xây dựng nên một nền móng vững chắc cho sự phát triển của xã hội cũng như khoa học thời
nay, đồng thời cũng giải quyết và thấu hiểu thêm về các vấn đề triết học trong từng thời kỳ cụ thể thì
việc nghiên cứu lịch sử triết học bắt buộc và cần thiết. Nó sẽ cho ta thấy những thế hệ trước đã hình
thành và giải quyết các vấn đề triết học như thế nào, những cống hiến, phát minh cũng như những kế
thừa phát huy điểm mạnh, điểm tốt trong suốt quá trình phát triển của triết học.
Trong phạm vi bài tiểu luận này, tác giả giới thiệu tổng quan về Chủ nghĩa kinh nghiệm Anh và
Chủ nghĩa duy lý – tư biện Phương Tây, đồng thời tác giả cũng so sánh sự tương đồng và khác nhau của
hai trường phái trên.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến TS Bùi Văn Mưa đã hướng dẫn một cách tận tình
để tác giả có thể hoàn thành bài tiểu luận này.
HOÀN CẢNH LỊCH SỬ PHƯƠNG TÂY THỜI PHỤC HƯNG – CẬN ĐẠI


1. Hoàn cảnh lịch sử:
a) Thời kỳ phục hưng:
Thời kì Phục hưng của các nước Tây Âu là giai đoạn lịch sử quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội
tư bản (thế kỷ XV - XVI). Tính chất quá độ đó biểu hiện trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế, chính
trị - xã hội, văn hoá tư tưởng thời kì này.
Về kinh tế: Chế độ phong kiến đã bước vào thời kì tan rã, kinh tế tư bản đang hình thành. Nhiều công
trường thủ công xuất hiện, ban đầu ở Italia, sau đó lan sang Anh, Pháp và các nước khác, thay thế cho
nền kinh tế tự nhiên kém phát triển.
Về khoa học kỹ thuật: Sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa thúc đẩy sự phát triển của khoa học,
kĩ thuật. Nhiều công cụ lao động được cải tiến và hoàn thiện. Với việc sáng chế ra máy kéo sợi và máy
in đã làm cho công nghiệp dệt, công nghệ ấn loát đặc biệt phát triển, nhất là ở Anh. Sự khám phá và chế
tạo hàng loạt đồng hồ cơ học đã giúp cho con người có thể sản xuất có kế hoạch, tiết kiệm thời gian và
tăng năng suất lao động.
Nguyễn Duy Nam-STT:67- Nhóm 11- Lớp đêm 1
2
Về xã hội: Đồng thời với sự phát triển của sản xuất và thương nghiệp, trong xã hội Tây Âu thời kì
này, sự phân hoá giai cấp ngày càng rõ rệt. Tầng lớp tư sản xuất hiện gồm các chủ xưởng công trường
thủ công, xưởng thợ, thuyền buôn Vai trò và vị trí của họ trong kinh tế và xã hội ngày càng lớn. Hàng
loạt nông dân từ nông thôn di cư ra thành thị, trở thành người làm thuê cho các công trường, xưởng thợ.
Họ tham gia vào lực lượng lao động xã hội mới, làm hình thành giai cấp công nhân. Các tầng lớp xã hội
trên đại diện cho một nền sản xuất mới, cùng với nông dân đấu tranh chống chế độ phong kiến đang suy
tàn.
Về văn hoá, tư tưởng: Cùng với sự phát triển về kinh tế và xã hội, khoa học kĩ thuật và tư tưởng thời
kì Phục hưng cũng đạt được sự phát triển mạnh mẽ. Các nhà tư tưởng thời Phục hưng đã phê phán mạnh
mẽ các giáo lý Trung cổ. Trong thời đại Phục hưng, các nhà tư tưởng tư sản đã bênh vực triết học duy
vật, vận dụng nó để chống lại chủ nghĩa kinh viện và thần học Trung cổ. Cuộc đấu tranh của chủ nghĩa
duy vật chống chủ nghĩa duy tâm thường được biểu hiện dưới hình thức đặc thù là khoa học chống tôn
giáo, tri thức thực nghiệm đối lập với những lập luận kinh viện. Cuối cùng, sự chuyên chính của giáo hội
và sự thống trị của chủ nghĩa kinh viện Trung cổ đã không ngăn được sự phát triển bước đầu của khoa
học thực nghiệm và triết học duy vật - tiền đề cho những thành tựu mới và những đặc điểm mới của triết

học trong các thế kỷ tiếp theo.
b) Thời kỳ cận đại:
Đây là thời kì cận đại là thời kì phát triển rực rỡ của Tây Âu trên tất cả các mặt của đời sống xã hội.
Đó là sự phát triển tiếp tục của chủ nghĩa tư bản, của khoa học và tư tưởng, trong đó có chủ nghĩa duy
vật triết học, nhưng với những đặc điểm mới.
Khác với thời kì Phục hưng, thời cận đại (thế kỷ XVII-XVIII) ở các nước Tây Âu là thời kì giai cấp
tư sản đã giành được thắng lợi về chính trị trước giai cấp phong kiến. Ba cuộc cách mạng tư sản lớn đã
nổ ra và thành công: Cách mạng tư sản Hà Lan cuối thế kỷ XVI ; Cách mạng tư sản Anh (1642-1648);
Cách mạng tư sản Pháp (1789-1794). Đây cũng là thời kì phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được
xác lập và trở thành phương thức sản xuất thống trị Tây Âu. Nó tạo đã tạo ra những vận hội mới cho
khoa học, kĩ thuật phát triển mà trước hết là khoa học tự nhiên, trong đó cơ học đã đạt tới trình độ là cơ
sở cổ điển. Đặc điểm của khoa học tự nhiên thời kì này là khoa học tự nhiên - thực nghiệm. Đặc trưng ấy
tất yếu dẫn đến thói quen nhìn nhận đối tượng nhận thức trong sự trừu tượng tách rời, cô lập, không vận
động, không phát triển, nếu có nói đến vận động thì chủ yếu là vận động cơ giới, máy móc. Đó là
nguyên nhân chủ yếu làm cho triết học duy vật thời kỳ này mang nặng tính máy móc siêu hình.
Chính những điều kiện kinh tế - chính trị và khoa học tự nhiên thời cận đại đã quy định những đặc
trưng về mặt triết học thời kì này:
+ Thứ nhất, đây là thời kì thắng lợi của chủ nghĩa duy vật đối với chủ nghĩa duy tâm, của những tư
tưởng vô thần đối với hữu thần luận.
Nguyễn Duy Nam-STT:67- Nhóm 11- Lớp đêm 1
3
+ Thứ hai, chủ nghĩa duy vật thời kì này mang hình thức của chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc.
Phương pháp siêu hình thống trị, phổ biến trong lĩnh vực tư duy triết học và khoa học.
+Thứ ba, đây là thời kì xuất hiện những quan điểm triết học tiến bộ về lĩnh vực xã hội, nhưng nhìn
chung vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm trong việc giải thích xã hội và lịch sử.
+ Thứ tư, trước sự phát triển mạnh mẽ của tư tưởng duy vật vô thần của thời cận đại, chủ nghĩa duy
tâm và thần học buộc phải có những cải cách nhất định.
2. Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và chủ nghĩa duy lý- tư biện
Đây là hai tư tưởng triết học với những đặc điểm mới, được hình thành dưới sự ảnh hưởng của kinh
tế - chính trị, khoa học tự nhiên và xã hội của suốt thời phục hưng và cận đại ở phương tây.

Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh được Ph.Bêcơn (1561-1626) đặt nền móng, T.Hốpxơ phát triển
theo khynh hướng kinh nghiệm và Gi.Lốcơ đẩy mạnh theo khuynh hướng duy giác. Phương pháp nhận
thức của Ph.Bêcơn có ý nghĩa rất lớn đến sự hình thành và phát triển khoa học thực nghiệm và triết học
duy vật kinh nghiệm.
Chủ nghĩa triết học duy lý tự biên phương tây thời cận đại được Rơnê Đềcáctơ (1596–1650) đặt nền
móng, Xpinôda và Lépnít phát triển theo khuynh hướng duy vật và duy tâm khác nhau, đây là trường phái
triết học - siêu hình học đề cao lý tính. Nó cố gắng hệ thống hóa toàn bộ tri thức mà con người đạt được
lúc bấy giờ dựa trên cơ sở phương thức tư duy lý luận, nhằm giúp con người thoát ra khỏi cách nhìn thiển
cận về thế giới.
I. ĐẶC ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT KINH NGHIỆM ANH VỚI ĐẠI DIỆN LÀ
PH.BÊCƠN VÀ CHỦ NGHĨA DUY LÝ- TƯ BIỆN VỚI ĐẠI DIỆN LÀ RƠNÊ ĐỀCÁCTƠ
1. Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh ( Đại diện là Ph.Bêcơn)
a) Quá trình hình thành và phát triển:
Sống đêm trước cách mạng tư sản Anh, Bêcơn nhận thấy cần thiết phải đẩy mạnh và phát triển để
xóa bỏ mọi bất công và tệ nạn ở xã hội đương đại. Theo ông, triết học là nền tảng của phát triển đất
nước, vì mục đích của xã hội chúg ta là nhận thức nguyên nhân và mọi sức mạnh bí ẩn của sự vật và mở
rộng sự thống trị của con người đối với tự nhiên trong chừng mực con người có thể làm được.
Do bị ảnh hưởng của tư tưởng trước đó, trong triết học thời kỳ cổ đại cho rằng triết học là khoa học
của mọi khoa học. Bêcon định nghĩa (theo nghĩa rộng) triết học là tổng thể các tri thức của con người về
thượng đế, tự nhiên và bản thân con người. vì vậy ông chi hê thống triết học thành 3 học thuyết:
+ Học thuyết về thượng đế (thần học)
+ Học thuyết về giới tự nhiên, ông đồng nhất nó với tri thức về toàn bộ giới tự nhiên (KHTN)
+ Học thuyết về con người (nhân bản học)
Nguyễn Duy Nam-STT:67- Nhóm 11- Lớp đêm 1
4
Đồng thời Bêcơn có sự phân biệt giữa các môn nghệ thuật, lịch sử theo TH. Theo ông, các môn nghệ
thuật, lịch sử chỉ dựa vào trí nhớ hay trí tưởng tượng của con người, còn TH mang tính lý luận, khái quát
cao. Tư duy TH là tư duy lý tính, mang trí tuệ cao nhất.
Theo quan điểm của ông thì nhiệm vụ TH là đại phục hồi các KH, nghĩa là phải cải tạo toàn bộ tri
thức mà con người đạt được cho đến thời kỳ đó (ảnh hưởng của TH đến KH) và Bêcơn đánh giá rất cao

vai trò của tri thức lý luận: tri thức là sức mạnh, từ đó đi đến kết luận: hiệu quả và sự sáng chế thực tiễn
là người bảo lãnh và ghi nhận chân lý của các TH, muốn chinh phục tự nhiên thì con người phải nhận
thức các quy luật của nó và tuân theo nó.
Từ luận điểm vai trò và nhiệm vụ của TH nêu trên, ông ta mới đi đến xây dựng hệ thống TH của
mình.
b) Nội dung chính của triết học Ph.Bêcơn ( đại diện cho chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh)
- Quan điểm định hướng triết học:
Triết học mới cần phải được coi là khoa học của mọi khoa học, hoặc là cơ sở của mọi khoa học
Mục đích của triết học và khoa học mới là xây dựng các tri thức lý luận chặt chẽ đầy tính thuyết phục
về mọi lĩnh vực nghiên cứu như: Thượng đế, giới tự nhiên, con người, chứ không phải là củng cố các đức
tin mù quáng.
Nhiệm vụ tối thượng của triết học mới là: tăng cường quyền lực tinh thần để thống trị giới tự nhiên,
chấn hưng đất nước, phục vụ lợi ích cho con người. Nhưng cần thực hiện nhiệm vụ trước mắt là phải đại
phục hồi (xây dựng lại) khoa học, bằng cách cải tạo tri thức hiện có, xóa bỏ những sai lầm chủ quan, sử
dụng hiệu quả tư duy khoa học để khám phá trật tự của thế giới khách quan, xây dựng hình ảnh xác thực
về thế giới.
Nhiệm vụ của khoa học là khám phá ra các quy luật của thế giới, chứ không phải đi tìm nguyên nhân
cuối cùng.
Triết học và khoa học mới phải xuất phát từ tinh thần “tri thức là sức mạnh” và “lý luận thống nhất với
thực tiễn”. Nhiệm vụ tối thượng của chúng là giúp tăng cường quyền lực tinh thần cho con người để con
người thống trị, tức làm chủ và cải tạo giới tự nhiên, phục vụ lợi ích cho con người.
- Quan niệm về thế giới và con người:
*Về thế giới ông quan niệm: Thế giới tồn tại khách quan, đa dạng và thống nhấ; Cụ thể như sau:
+ Thế giới tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào tình cảm, uy tín, nhận thức
+ Tính đa dạng của thế giới chỉ có thể được lý giải một cách đúng đắn và đầy đủ nhờ vào quan niệm về
vật chất, về hình dạng, về vận động Vật chất là toàn thể các phần tử rất nhỏ với những tính chất khác
nhau. Hình dạng là nguyên nhân dẫn tới mọi sự khác biệt của các sự vật, là lý do đầy đủ để sự vật xuất
hiện, là bản chất chung của các sự vật cùng loại, là quy luật chi phối sự vận động của chúng. Vận động là
Nguyễn Duy Nam-STT:67- Nhóm 11- Lớp đêm 1
5

bản năng, là sinh khí của sự vật vật chất. Vận động là thuộc tính đầu tiên và quan trọng nhất của vật chất.
Khi dựa vào quan sát thông thường, Ph.Bêcơn cho rằng có tới 19 dạng vận động, trong đó, hình dạng là
một dạng vận động mà nhờ vào nó các phần tử vật chất cấu thành sự vật; và đứng im cũng là một dạng vận
động.
+ Vật chất, hình dạng và vận động thống nhất với nhau. Nhận thức bản chất của sự vật vật chất là khám
phá ra hình dạng, nghĩa là vạch ra các quy luật vận động chi phối chúng.
*Về Con người ông quan niệm là một sản phẩm của thế giới:
+ Con người là sản phẩm của giới tự nhiên nó bao gồm thể xác và linh hồn, đều được cấu tạo từ vật
chất. Linh hồn của con người giống như không khí hay lửa, biết cảm giác, tồn tại trong bộ óc, vận động
theo dây thần kinh và mạch máu trong cơ thể.
+ Ngoài việc thừa nhận sự hiện hữu của linh hồn con người trong thể xác con người, Ph.Bêcơn còn
thừa nhận sự hiện hữu của linh hồn thực vật và linh hồn động vật tồn tại trong cơ thể thực vật và động vật.
+ Khoa học nghiên cứu con người và linh hồn của nó phải là khoa học tự nhiên.
- Quan niệm về nhận thức
Bê Cơn cho rằng cảm giác, kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi tri thức:
+ Khoa học thật sự phải biết sử dụng tư duy tổng hợp và phương pháp quy nạp khoa học để khái quát
các dữ kiện do kinh nghiệm mang lại nhằm khám phá ra các quy luật, bản chất của thế giới vật chất khách
quan, đa dạng và thống nhất. Khoa học như thế chỉ có thể là khoa học thực nghiệm. Và tri thức khoa học
thật sự phải luôn mang bản tính khách quan; chúng hoàn toàn không phụ thuộc vào tình cảm, ý chí, lợi ích
chủ quan của con người.
+ Một trong những ảnh hưởng đến quá trình nhận thức chân lý, theo Bêcơn đó là những sai lầm vốn có
trong tư duy, do sai lầm trong lý tính mang lại. Những sai lầm do lý tính tạo ra, Bêcơn gọi là những
IDOLA (ảo ảnh, ảo tưởng - theo tiếng Hi Lạp cổ Idola là những hình ảnh bị phản ánh một cách lệch lạc).
Ông đã gom lại các sai lầm và chia thành bốn ảo tưởng sau:
Ảo tưởng “loài” là sai lầm gây ra do nhân loại lầm lẫn bản tính chủ quan của trí tuệ của mình với bản
tính khách quan của sự vật. Khi mắc phải ảo tưởng này con người xuyên tạc bản tính khách quan của sự
vật bằng cách gán ép cho sự vật khách quan những đặc điểm chủ quan của mình.
Ảo tưởng “hang động” xuất hiện trong quá trình nhận thức của từng con người cụ thể. Do mỗi con
người cụ thể có những đặc điểm tâm lý, tính cách chủ quan khác nhau mà trong quá trình nhận thức, chúng
đã xuyên tạc bản tính khách quan của sự vật.

Ảo tưởng “thị trường” được hình thành khi con người không xuất phát từ tình hình thực tế của bản
thân sự vật mà dựa vào thói quen, tập quán, quan niệm, thuật ngữ mơ hồ không phản ánh đúng bản chất
của sự vật để nhận thức nó; vì vậy, sự xuyên tạc bản chất khách quan của sự vật là không thể tránh khỏi.
Nguyễn Duy Nam-STT:67- Nhóm 11- Lớp đêm 1
6
Ảo tưởng “nhà hát” có nguồn gốc từ những quan niệm sai trái nhưng được củng cố bởi các thế lực
chính trị, tôn giáo… đang thống trị trong đời sống xã hội; vì vậy, chúng cản trở quá trình nhận thức đúng
đắn của con người nếu chúng không tương hợp với đường lối chính trị, tôn giáo đó…
Theo Ph.Bêcơn, để khắc phục các ảo tưởng này, chúng ta cần phải khách quan hóa hoạt động nhận
thức. Điều này được thực hiện bằng các cách tiếp cận trực tiếp thế giới tự nhiên mà không thông qua uy
tín, sách vở, lòng tin, tín điều…; ra sức hoàn thiện phương tiện, công cụ nhận thức và nhân cách, cá tính cá
nhân của từng con người, đặc biệt phải biết làm thí nghiệm, biết sử dụng phép quy nạp khoa học, biết tổng
hợp và khái quát hóa một cách đúng đắn các tài liệu kinh nghiệm cảm tính riêng lẻ để xây dựng chuẩn xác
các khái niệm, nguyên lý chung phản ánh đúng đắn, chính xác bản chất, quy luật của sự vật tồn tại trong
hiện thực khách quan.
- Phương pháp nhận thức khoa học:
+ Ph.Bêcơn cho rằng, từ trước tới nay, tư duy giáo điều và đầu óc nông cạn chủ yếu chỉ sử dụng hai
phương pháp nhận thức sai lầm. Ông gọi hai phương pháp đó là phương pháp “con nhện”(sử dụng để rút
ra các công thức phi nội dung, giống như con nhện chỉ đơn thuần biết rút tơ từ chính mình mà bất chấp
mọi tài liệu, thực tế sinh động bên ngoài đang tồn tại, thay đổi ra sao, tức lý luận suông) và phương pháp
“con kiến”( chỉ biết thu lượm, góp nhặt những dữ kiện vung vãi, giống như con kiến, mà không biết tổng
hợp, khái quát để rút ra những nhận định đúng đắn).
+ Để khắc phục hai phương pháp trên, nhà khoa học thật sự phải là nhà khoa học thực nghiệm biết sử
dụng điêu luyện phương pháp “con ong” là phương pháp tìm kiếm các cứ liệu thực nghiệm (hương nhụy),
vạch ra cách thức tổng hợp, so sánh và khái quát các cứ liệu đó để xây dựng các tri thức (mật), nhằm khám
phá ra các quy luật của thế giới.
+ Đồng thời, Ph.Bêcơn đưa ra phương pháp ba bảng (bảng có mặt, bảng vắng mặt, bảng trình độ), sau
này Milơ (S.Mill) đã hệ thống hóa thành Bốn phương pháp Milơ (tương đồng, khác biệt, đồng thay đổi, và
thặng dư) để khám phá ra mối liên hệ nhân quả mang tính quy luật chi phối các sự vật, hiện tượng khách
quan, đa dạng và thống nhất trong thế giới vật chất mà quan sát hay thí nghiệm mang lại dưới dạng các sự

kiện kinh nghiệm cảm tính.
+ Phương pháp của Ph.Bêcơn còn được gọi là phương pháp quy nạp khoa học hay quy nạp dựa trên
mối liên hệ nhân quả Nó dắt dẫn tư duy khoa học xuất phát từ những sự kiện khoa học riêng lẻ (cái riêng)
để đi đến những nguyên lý, quy luật tổng quát (cái chung) khi dựa trên mối liên hệ nhân quả mang tính
quy luật giữa chúng đã được phát hiện ra, mà không nhất thiết phải dựa trên số lượng lớn các sự kiện riêng
lẻ được khảo sát. Theo Ph.Bêcơn, quá trình nghiên cứu - nhận thức đúng đắn cần phải trải qua 3 bước như
sau:
Nguyễn Duy Nam-STT:67- Nhóm 11- Lớp đêm 1
7
Một là, dựa vào giác quan, thông qua quan sát, thí nghiệm chúng ta trực tiếp tiếp cận thế giới tự nhiên
đa dạng và sinh động để thu được những tài liệu kinh nghiệm cảm tính.
Hai là, so sánh, đối chiếu, hệ thống hóa, tổng hợp những tài liệu kinh nghiệm cảm tính này để xây dựng
những sự kiện khoa học và phát hiện ra mối liên hệ nhân quả giữa chúng.
Ba là, từ những mối liên hệ nhân quả giữa sự kiện khoa học đó, bằng quy nạp khoa học, chúng ta xây
dựng giả thuyết khoa học để lý giải các hiện tượng đang nghiên cứu. Rồi từ những giả thuyết khoa học đó,
chúng ta rút ra các hệ quả tất yếu của chúng. Kế đến chúng ta tiến hành những quan sát, thí nghiệm mới để
kiểm tra các hệ quả đó; nếu đúng thì ta có nguyên lý, định luật tổng quát; còn nếu sai thì chúng ta lập lại
giả thuyết mới.
Như vậy, Ph.Bêcơn đòi hỏi quá trình nhận thức phải xuất phát từ kinh nghiệm cảm tính; còn kinh
nghiệm cảm tính lại xuất phát từ thế giới khách quan. Ông coi nguyên tắc khách quan là nguyên tắc hàng
đầu của khoa học và triết học mới để nhận thức đúng đắn thế giới. Ông cũng coi tư duy tổng hợp và phép
quy nạp khoa học là những công cụ hiệu quả đủ để xây dựng khoa học thực nghiệm và chủ nghĩa duy vật
kinh nghiệm nhằm khám phá ra các quy luật của thế giới để con người chinh phục nó và bắt nó phục vụ lợi
ích cho chính mình.
Quan niệm về chính trị – xã hội: Ph.Bêcơn chủ trương một đường lối chính trị phục vụ lợi ích cho giai
cấp tư sản và chuẩn bị điều kiện để phát triển mạnh mẽ chủ nghĩa tư bản. Cần phải xây dựng một nhà nước
tập quyền đủ mạnh để chống lại mọi đặc quyền, đặc lợi của tầng lớp quý tộc bảo thủ; Phải phát triển một
nền công nghiệp và thương nghiệp dựa trên sức mạnh của tri thức khoa học và tiến bộ của kỹ thuật. Ông
chủ trương cải tạo xã hội bằng con đường khai sáng thông qua sự nghiệp giáo dục và đào tạo, đồng thời
ông cũng chống lại mọi cuộc nổi dậy đấu tranh của nhân dân.

Từ những tìm hiểu trên, chúng ta thấy Ph.Bêcơn không chỉ là người sáng lập ra chủ nghĩa duy vật kinh
nghiệm Anh và khoa học thực nghiệm, mà ông còn là một nhà tư tưởng của giai cấp tư sản phương Tây.
Triết học của Ph.Bêcơn về sau được Hốpxơ và Lốcơ kế tục và phát triển.
2. Chủ nghĩa duy lý- tư biện ( Đại diện là Rơnê Đềcáctơ)
a) Quá trình hình thành và phát triển
Chủ nghĩa duy lý hiện đại bắt đầu với Rơnê Đềcáctơ (1596-1690). Nghiền ngẫm về bản chất của
trải nghiệm tri giác, cũng như những khám phá khoa học trong sinh lý học và quang học, Descartes
đã đi đến quan điểm rằng chúng ta trực tiếp ý thức được ý nghĩ, chứ không phải sự vật. Quan điểm
này làm nảy sinh ba vấn đề:
Có phải các ý nghĩ là bản sao thực thụ của những sự vật, sự việc mà chúng đại diện? Cảm giác
không phải là sự tương tác trực tiếp giữa các vật thể và ý thức của ta, mà nó là quá trình sinh lý bao
hàm sự đại diện (thí dụ như, một hình ảnh trên võng mạc).
Nguyễn Duy Nam-STT:67- Nhóm 11- Lớp đêm 1
8
Ta vẫn chưa rõ làm thế nào những vật thể tự nhiên như bàn, ghế hoặc ngay cả những quá trình
sinh lý trong não bộ có thể sản sinh ra những thứ thuộc về tinh thần như ý nghĩ. Điều này là một
trong những vướng mắc của một vấn đề triết học nổi tiếng, vấn đề tinh thần-cơ thể.
Nếu tất cả những gì chúng ta ý thức được chỉ là ý nghĩ, vậy làm sao ta có thể biết được có thứ gì
khác tồn tại ngoài ý nghĩ ra?
Descartes nỗ lực giải quyết vấn đề cuối cùng bằng lý luận. Ông đã bắt đầu bằng một nguyên lý
mà ông nghĩ là không thể bắt bẻ hiệu quả được: Tôi "biết suy nghĩ", do đó tôi "tồn tại". Từ nguyên lý
này, Descartes tiến hành xây dựng một hệ thống hoàn chỉnh về kiến thức trong đó ông chứng minh
sự tồn tại của Thượng Đế, bằng một dạng bản thể luận.
b) Nội dung chính của triết học Rơnê Đềcáctơ ( Đại diện cho chủ nghĩa duy lý- tư biện)
- Quan điểm định hướng triết học:
Cũng như Ph.Bêcơn, Đềcáctơ đòi hỏi phải xây dựng lại cơ sở cho triết học mới. Triết học được ông
hiểu theo hai nghĩa:
+ Toàn bộ tri thức về giới tự nhiên và xã hội (theo nghĩa rộng);
+ Triết học là siêu hình học - cơ sở thế giới quan của con người (theo nghĩa hẹp).
Mục đích của triết học: Làm sáng tỏ khả năng nhận thức vô tận của con người và mang lại các

nguyên tắc phương pháp luận giúp khoa học đạt được tri thức khoa học.
Nhiệm vụ của triết học: Khắc phục chủ nghĩa hoài nghi, nâng cao trình độ tư duy lý luận của con
người và giúp khoa học khám phá ra các quy luật của giới tự nhiên (chân lý), chinh phục giới tự
nhiên, phục vụ lợi ích con người.
Triết học của Đềcáctơ bao gồm: Siêu hình học và khoa học (Vật lý học).
- Siêu hình học:
“Nghi ngờ phổ biến” là nguyên tắc của phương pháp luận triết học Rơnê Đềcáctơ: Ông cho rằng
lý tính là cơ sở chân lý; Để đạt chân lý phải nghi ngờ phổ biến, tức nghi ngờ mọi cái, kể cả cái được
cho là chân lý. Một cái thực tại chỉ có thể trở thành chân lý khi được phán xét dưới “tòa án” lý tính
để nó tự bào chữa cho sự t.tại của chính mình.
“Tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại” –nguyên lý cơ bản của triết học Rơnê Đềcáctơ: “Dù tôi nghi ngờ
về sự tồn tại của mọi cái nhưng tôi không thể nghi ngờ về sự t.tại của chính mình, vì nếu tôi không
t.tại thì làm sao tôi có thể nghi ngờ được. Mà nghi ngờ là suy nghĩ, nên tôi suy nghĩ, vậy tôi t.tại. Tôi
t.tại với cương vị là người suy nghĩ, nghĩa là suy nghĩ của tôi là có thật. Nó có sự t.tại, sự t.tại đó là
không thể nghi ngờ, và cũng không thể bác bỏ được”.
Dựa trên nguyên lý cơ bản “Tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại”, ông xây dựng hệ thống siêu hình học của
mình. Đối với ông, siêu hình học phải là học thuyết chặt chẽ về Thượng đế, về giới tự nhiên và con
Nguyễn Duy Nam-STT:67- Nhóm 11- Lớp đêm 1
9
người, để từ đó rút ra các nguyên tắc giúp chỉ đạo hoạt động bản chất của con người – hoạt động nhận
thức của linh hồn lý tính từ đó rút ra các nguyên tắc phương pháp luân chỉ đạo hoạt động bản chất của
linh hồn.
- Lý luận về Thượng đế, giới tự nhiên & con người :
Nội dung chủ yếu trong lý luận về Thượng đế là các chứng minh của ông về sự tồn tại của Thượng
đế. Theo ông, Thượng đế thật sự tồn tại, bởi vì mọi dân tộc, mọi con người đều nghĩ về Thượng đế.
Hơn nữa, sự tồn tại của Thượng đế là cái đảm bảo chắc chắn cho sự tồn tại của giới tự nhiên cũng như
của vạn vật sinh tồn trong nó, đảm bảo cho sự tồn tại của thể xác và năng lực nhận thức vô tận của con
người…
Giới tự nhiên: Vạn vật được tạo thành từ 1 trong 2 thực thể tồn tại độc lập nhau. Đó là thực thể
tinh thần phi vật chất với thuộc tính biết suy nghĩ, tạo thành mọi ý nghĩ, quan niệm, tư tưởng…, và

thực thể vật chất phi tinh thần với quãng tính, tạo thành các sự vật có thể đo được theo các đặc tính
không gian, thời gian
Con người: Sự vật đặc biệt vừa có linh hồn bất tử (tạo thành từ thực thể tinh thần) vừa có cơ thể
khả tử (tạo thành từ thực thể vật chất ). Là một sinh vật chưa hoàn thiện nhưng có khả năng đi đến
hoàn thiện, là bậc thang trung gian giữa Thượng đế và Hư vô, nên con người vừa cao siêu không mắc
sai lầm vừa thấp hèn có thể mắc sai lầm.
- Lý luận về linh hồn, nhận thức và các nguyên tắc phương pháp luận nhận thức.
Theo Đềcáctơ: Linh hồn con người không chỉ bao gồm lý trí mà còn có cả ý chí nữa. Lý trí mang
lại khả năng nhận thức sáng suốt, đúng đắn. Ý chí mang lại khả năng chọn lựa, phán quyết (khẳng định
hay phủ định), khả năng tự do giải quyết, có thể dắt dẫn linh hồn sa vào sai lầm, nhầm lẫn.
Linh hồn con người là có chứa 2 loại tư tưởng: tư tưởng hoàn thiện mang tính bẩm sinh luôn đúng
đắn(lý tính) và tư tưởng không hoàn thiện có thể sai lầm do linh hồn tự nghĩ ra, hay các tư tưởng được du
nhập từ bên ngoài vào khi linh hồn tiếp xúc với thế giới xung quanh.
Nhận thức là hoạt động bản chất của linh hồn: nhận thức là nghi ngờ, là tư duy (dấu hiệu không
hoàn thiện vươn tới sự hoàn thiện). Đó là quá trình lý trí xâm nhập vào chính mình, khám phá ra tư
tưởng bẩm sinh trong mình, sử dụng chúng để tiếp cận thế giới.
Trực giác là hình thức nhận thức tối cao của linh hồn lý tính, thế giới mang lại những tư tưởng rõ
ràng, rành mạch, hiển nhiên (bẩm sinh) hay nắm lấy tư tưởng có thể khẳng/phủ định, là lý trí khúc
chiết, là điểm khởi đầu của NT, do không khẳng định hay phủ định điều gì cả, nên nó không mắc sai
lầm.
Các nguyên tắc phương pháp luận: Siêu hình học đưa ra các nguyên tắc chỉ đạo lý trí trong hoạt
động nhận thức khoa học nhằm khám phá ra chân lý.
Nguyễn Duy Nam-STT:67- Nhóm 11- Lớp đêm 1
10
Chỉ coi là chân lý những gì rõ ràng, rành mạch, không gợn một chút nghi ngờ nào cả ( bằng trực
giác);
Phải phân chia đối tượng phức tạp thành các bộ phận đơn giản cấu thành để tiện lợi trong việc
nghiên cứu;
Quá trình nhận thức phải xuất phát từ những điều đơn giản, sơ đẳng nhất dần dần đến những điều
phức tạp hơn;

Phải xem xét toàn diện mọi dữ kiện, tài liệu để không bỏ sót một cái gì trong quá trình nhận thức.
- Khoa học
Nếu trong lĩnh vực siêu hình học, Đềcáctơ là nhà nhị nguyên luận ngã sang hướng duy tâm, thì
trong lĩnh vực khoa học, mà trước hết là vật lý học ông bộc lộ thế giới quan duy vật siêu hình - máy
móc của mình. Tuy nhiên, có chỗ ông bộc lộ nhiều quan điểm biện chứng vượt trước thời đại.
Trong lĩnh vực vật lý học, Đềcáctơ xây dựng lý luận về vật chất và vận động. Vật chất bao gồm các
hạt nhỏ, mịn có thể được phân chia đến vô cùng tận. Bản chất của vật chất là quãng tính; hay quãng
tính là thuộc tính của thực thể vật chất. Không gian, thời gian và vận động là những thuộc tính gắn liền
với những vật thể vật chất. Không có không gian trống rỗng. Vận động của vật thể có nguồn gốc sâu xa
từ cái hích ban đầu của Thượng đế; sau đó, vận động của các vật thể không thể được sinh ra, không thể
bị tiêu diệt (bảo toàn). Vận động của vật thể là vận động cơ giới, nghĩa là sự thay đổi vị trí của vật thể
trong không gian, theo thời gian dưới sự chi phối bởi các định luật cơ học.
Dựa trên quan niệm này, Đềcáctơ xây dựng mô hình vũ trụ. Nhờ vào cái hích đầu tiên của Thượng
đế, thế giới có được một xung lượng ban đầu. Xung lượng này đưa vật chất đồng nhất nguyên thủy –
ête vào trạng thái chuyển động xoáy, dẫn tới sự hình thành các hạt vật chất lớn dần. Đó là những hạt
lửa bao trùm toàn bộ vũ trụ, những hạt không khí…, rồi những hạt đất to nhất tạo thành các hành tinh
và các vật cứng khác. Xung lượng này luôn được bảo toàn trong quá trình vận động của vũ trụ.
Trong lĩnh vực sinh học, Đềcáctơ phát triển tư tưởng duy vật máy móc về sự phụ thuộc của tinh
thần (tâm lý) vào cơ cấu vật chất, vào trạng thái của các cơ quan trong cơ thể. Từ đó, ông khẳng định
sự hình thành và phát triển của giới thực vật và giới động vật là quá trình hoàn toàn tự nhiên không có
sự can thiệp của Thượng đế. Ông là người khám phá ra cơ chế phản xạ, và coi mọi cơ thể sinh vật đều
là các cổ máy có lắp đặt một cơ chế phản xạ. Sự hoạt động của cổ máy này sinh ra linh hồn thực vật và
linh hồn động vật khả tử. Tuy nhiên, theo Đềcáctơ, con người là một cổ máy – hệ thống có gắn liền với
linh hồn lý tính bất tử. Sở dĩ như vậy là vì, cơ thể con người có cấu trúc rất phức tạp, và hoàn thiện hơn
so với cơ thể động vật thông thường. Mặc dù, trong lĩnh vực siêu hình học, Đềcáctơ chỉ coi cơ thể là
nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn để linh hồn thực hiện hoạt động bản chất của mình là nhận thức,
nhưng trong lĩnh vực khoa học, do tiếp cận được quan điểm duy vật, nên ông đã coi cơ thể của con
người là khí quan vật chất, còn linh hồn là chức năng hoạt động của cơ thể con người. Với quan điểm
Nguyễn Duy Nam-STT:67- Nhóm 11- Lớp đêm 1
11

duy vật và khoa học này, Đềcáctơ rất kỳ vọng vào y học trong việc cải tạo thể xác và đời sống tinh thần
của con người.
Trong lĩnh vực toán học, Đềcáctơ có những tư tưởng biện chứng vượt trước thời đại. Ông đã sửa
đổi lại đại số, dùng hình chỉ số và dùng số chỉ hình; dùng chữ để chỉ những đại lượng biến thiên (x, y,
z…), và đưa các đại lượng biến thiên vào trong toán học bên cạnh những đại lượng không đổi (a, b,
c…). Từ đó, xuất hiện hình học giải tích, hàm số và phương pháp đồ thị… Với ý tưởng biện chứng
này, Đềcáctơ đã đặt nền móng cho toán học hiện đại. Đối với ông, toán học là khoa học chính xác, rõ
ràng, rành mạch nhất. Phương pháp diễn dịch toán học là phương pháp chung để thu được tri thức đúng
đắn; bởi vì nó là phương pháp thể hiện rõ 4 nguyên tắc phương pháp luận nhận thức mà trí tuệ phải
tuân theo để đạt chân lý.
Từ những tìm hiểu trên chúng ta thấy Đềcáctơ không chỉ là người khôi phục lại mà còn đưa truyền
thống duy lý Phương Tây lên đỉnh cao. Ông đã đặt nền móng vững chắc cho khoa học lý thuyết. Lịch
sử triết học, khoa học và văn minh tinh thần của phương Tây chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các tư tưởng
của ông.
II. SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC NHAU GIỬA CHỦ NGHĨA DUY VẬT KINH NGHIỆM ANH
VÀ CHỦ NGHĨA DUY LÝ TƯ BIỆN PHƯƠNG TÂY THỜI CẬN ĐẠI
1. Sự tương đồng giữa chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và chủ nghĩa duy lý tư biện
phương tây thời cận đại
- Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và chủ nghĩa duy lý tự biện phương tây thời cận đại đều nằm
trong chuổi phát triển của triết học phương tây thời phục hưng – cận đại, đều phản ánh sự thay đổi
lớn trong đời sống kinh tế, chính trị, tư tưởng, xã hội của xã hội tây âu lúc bấy giờ và đều đi tìm
phương thức nhận thức mới để giải quyết các vấn đề cơ bản của triết học.
- Chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và chủ nghĩa duy lý tự biện phương tây thời cận đại đều đòi
hỏi phải xây dựng lại cơ sở cho triết học mới dựa trên việc ủng hộ khoa học, coi khoa học là chìa
khóa giúp con người làm chủ tự nhiên:
Với Descartes: triết học phải bàn về khả năng và phương pháp đạt được tri thức đúng đắn, vì
vậy, nhiệm vụ của nó trước hết phải là khắc phục chủ nghĩa hoài nghi, và sau đó là xây dựng các
nguyên tắc, phương pháp nền tảng để giúp cho các ngành khoa học khám phá ra các quy luật của
giới tự nhiên, xây dựng các chân lý khoa học nhằm chinh phục giới tự nhiên, phục vụ lợi ích cho
con người. Như vậy, Đềcáctơ đã tự đặt cho mình nhiệm vụ là phải xây dựng một triết học mới –

triết học gắn liền với khoa học nhằm làm chủ tư duy, nâng cao trình độ lý luận cho con người.
Với Ph.Bêcơn: triết học mới cần phải được coi là khoa học của mọi khoa học, hoặc là cơ sở của
mọi khoa học. Mục đích của triết học và khoa học mới là xây dựng các tri thức lý luận chặt chẽ đầy
tính thuyết phục về mọi lĩnh vực nghiên cứu như: Thượng đế, giới tự nhiên, con người, chứ không
Nguyễn Duy Nam-STT:67- Nhóm 11- Lớp đêm 1
12
phải là củng cố các đức tin mù quáng. Nhiệm vụ của triết học mới là đại phục hồi cho khoa học hay
xây dựng khoa học mới bằng cách cải tạo toàn bộ tri thức hiện có, xóa bỏ những sai lầm chủ quan,
sử dụng hiệu quả tư duy khoa học để khám phá trật tự của thế giới khách quan, tiến đến xây dựng
một hình ảnh về thế giới trong tư duy giống như nó tồn tại trong hiện thực
- Mặc dù theo hai chiều hướng đối lập nhau nhưng cả chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và chủ
nghĩa duy lý tự biện phương tây thời cận đại đều có nỗ lực đánh giá vai trò của kinh nghiệm trong
việc hình thành kiến thức của con người.
- Cả chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và chủ nghĩa duy lý tự biện phương tây thời cận đại đều
thể hiện thế giới quan của giai cấp tư sản chống lại thế giới quan của giai cấp phong kiến, chống
lại triết học kinh viện:
Với Ph. BêCơn muốn phát triển khoa học và triết học, thì trước hết phải khắc phục tính tư biện
giáo điều, lề thói lý luận suông xa rời cuộc sống của triết học và khoa học cũ, nghĩa là phải có quan
điểm thực tiễn.
Với Descartes: với cơ sở phương pháp luận là “nghi ngờ phổ biến”, mọi cái tồn tại chỉ trở thành
chân lý khi được phán xét dưới góc độ lý tính. Điều đó cho thấy ông chống lại lòng tin vô căn cứ,
chống lại chủ nghĩa giáo điều, chống lại triết học kinh viện.
Quan niệm về nhận thức : 2 trường phái đều có cùng quản điểm rằng con người trực tiếp ý
thức được ý nghĩ. Mặc dù Descartes cho là bẩm sinh, trong khi một đại diện khác của trường phái
triết học kinh nghiệm Anh là Locke quan niệm tất cả là kinh nghiệm.
- Cả chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và chủ nghĩa duy lý tự biện phương tây thời cận đại đều
thể hiện hạn chế qua phương pháp luận siêu hình. Trong khi triết học duy vật kinh nghiệm Anh
chỉ cho thấy được một mặt của quá trình nhận thức là mặt cảm với phương pháp siêu hình kinh
nghiệm thì chủ nghĩa duy lý tự biện với đại điện nổi bật là Đềcáctơ cũng chỉ cho thấy một mặt
cuả quá trình nhận thức là mặt lý tính thông qua phương pháp siêu hình tự biện.

2. Sự khác biệt giữa chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh và chủ nghĩa duy lý tư biện phương
tây thời cận đại.
a. Quan niệm về cảm giác:
- Theo chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm anh mà đại diện là Ph.Bêcơn cho rằng cảm giác, kinh nghiệm
là nguồn gốc duy nhất của mọi tri thức: Mặc dù vẫn còn chịu ảnh hưởng bởi quan niệm chân lý
lưỡng tính - chân lý lòng tin của thần học tồn tại cùng với chân lý lý trí của khoa học - và chưa khắc
phục được tính thần học trong quan niệm của mình, nhưng Ph.Bêcơn luôn cho rằng, cảm giác, kinh
nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi tri thức. Chủ nghĩa duy đề cao vai trò kiến thức về năm
giác quan của con người chúng ta. Khoa học thật sự phải biết sử dụng tư duy tổng hợp và
phương pháp quy nạp khoa học để khái quát các dữ kiện do kinh nghiệm mang lại nhằm khám
phá ra các quy luật, bản chất của thế giới vật chất khách quan, đa dạng và thống nhất. Khoa học như
Nguyễn Duy Nam-STT:67- Nhóm 11- Lớp đêm 1
13
thế chỉ có thể là khoa học thực nghiệm. Và tri thức khoa học thật sự phải luôn mang bản tính khách
quan; chúng hoàn toàn không phụ thuộc vào tình cảm, ý chí, lợi ích chủ quan của con người. Để đạt
được những tri thức như thế, khoa học mới cần phải loại bỏ những ảo tưởng ra khỏi quá trình nhận
thức của chính mình.
- Theo chủ nghĩa duy lý phương tây thời cận đại mà đại diện là Đềcáctơ thì cảm giác không đáng
tin cậy. Ông đề cao vai trò của lý trí con người. Chủ nghĩa duy lý cực đoan tìm mọi cách để
gán tất cả kiến thức con người lên nền tảng độc nhất là lý trí. Kiểu lý luận điển hình của chủ nghĩa
duy lý bắt đầu bằng những tiên đề rành rọt không thể chối cãi được, để từ đó, bằng các bước
logic, sử dụng phương pháp diễn dịch ra mọi đối tượng kiến thức có thể có.
b)Phương pháp luận siêu hình:
- Theo chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm anh mà đại diện là Ph.Bêcơn: Tư tưởng siêu hình học của
Ph.Bêcơn cho rằng, cơ sở của chân lý là cảm tính, và để nhận thức đúng cần phải tẩy rửa các ảo
tưởng (Ảo tưởng “loài”, Ảo tưởng “hang động”, Ảo tưởng “thị trường”, Ảo tưởng “nhà hát”)
- Trong khi đó chủ nghĩa duy lý phương tây thời cận đại với tư tưởng siêu hình học của Đềcáctơ chủ
trương rằng, cơ sở của chân lý là lý tính, và để nhận thức đúng cần phải nghi ngờ phổ biến, tức
nghi ngờ mang tính phương pháp luận để không mắc sai lầm và có được niềm tin chắc chắn
trong nhận thức

c) Quan niệm về thế giới và con người
- Theo chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh: Thế giới tồn tại một cách khách quan không phụ
thuộc vào tình cảm, uy tín, nhận thức (cái chủ quan) của con người. Ph.Bêcơn cho rằng:Tính
đa dạng của thế giới chỉ có thể được lý giải một cách đúng đắn và đầy đủ nhờ vào quan niệm
về vật chất, về hình dạng, về vận động Vật chất, hình dạng và vận động thống nhất với nhau.
Nhận thức bản chất của sự vật vật chất là khám phá ra hình dạng, nghĩa là vạch ra các quy luật vận
động chi phối chúng. Con người là một sản phẩm của thế giới: bao gồm thể xác và linh hồn. Thể
xác và linh hồn của con người cũng đều là vật chất. Linh hồn của con người giống như không khí
hay lửa, biết cảm giác, tồn tại trong bộ óc, vận động theo dây thần kinh và mạch máu trong cơ thể.
Ngoài việc thừa nhận sự hiện hữu của linh hồn con người trong thể xác con người, Ph.Bêcơn còn
thừa nhận sự hiện hữu của linh hồn thực vật và linh hồn động vật tồn tại trong cơ thể thực vật và
động vật. Khoa học nghiên cứu con người và linh hồn của nó phải là khoa học tự nhiên.
- Theo chủ nghĩa duy lý phương tây thời cận đại với đại diện là Đềcáctơ: Từ nguyên tắc “nghi ngờ
phổ biến” ông hình thành quan điểm “Tôi suy nghỉ, tôi tồn tại”. Từ đó ông kết luận sự tồn tại của
suy nghĩ là một chân lý, nhưng sự tồn tại của cơ thể (thể xác) thì chưa thể là chân lý được, bởi vì nó
còn có thể bị nghi ngờ. Sở dĩ như vậy là do chúng ta biết cơ thể qua cảm giác, nhưng theo ông cảm
giác thì không đáng tin cậy. Vì vậy, để chứng minh sự tồn tại thật sự (chân lý)của thể xác cần
phải dựa vào sự tồn tại của Thượng đế. Thượng đế là cái đảm bảo chắc chắn cho sự tồn tại
Nguyễn Duy Nam-STT:67- Nhóm 11- Lớp đêm 1
14
của giới tự nhiên cũng như của vạn vật sinh tồn trong nó, đảm bảo cho sự tồn tại của thể xác
và năng lực nhận thức vô tận của con người… Vạn vật trong giới tự nhiên chỉ có thể được tạo
thành từ hai thực thể tồn tại độc lập nhau. Đó là thực thể tinh thần phi vật chất với thuộc tính biết
suy nghĩ, tạo thành mọi ý nghĩ, quan niệm, tư tưởng…, và thực thể vật chất phi tinh thần với quãng
tính, tạo thành các sự vật có thể đo được theo các đặc tính không gian, thời gian. Riêng con người
là một sự vật đặc biệt được tạo thành từ hai thực thể trên, nó vừa có linh hồn bất tử vừa có cơ thể
khả tử. Là một sinh vật chưa hoàn thiện nhưng có khả năng đi đến hoàn thiện, là bậc thang trung
gian giữa Thượng đế và Hư vô, nên con người vừa cao siêu không mắc sai lầm vừa thấp hèn có thể
mắc sai lầm.
d) Quan niệm về sự hình thành khái niệm và kiến thức của của con người:

- Chủ nghĩa kinh nghiêm cho rằng ý nghĩa kinh nghiệm là nguồn gốc của tất cả các khái niệm
và kiến thức của chúng ta.Chủ nghĩa kinh nghiệm không cho rằng ta có được các tri thức kinh
nghiệm một cách tự động. Thay vào đó, theo quan điểm của các nhà kinh nghiệm chủ nghĩa, để
cho một tri thức bất kỳ có thể được suy luận suy diễn một cách đúng đắn, tri thức đó phải bắt
nguồn từ trải nghiệm giác quan của ta. Họ phủ nhận rằng con người có các ý niệm bẩm sinh hay
cái gì đó nhận biết được mà không phải tham chiếu tới trải nghiệm.
- Chủ nghĩa duy lý cho rằng một số khái niệm và kiến thức của chúng ta có được là độc lập với
ý nghĩa kinh nghiệm. Trong lý luận về linh hồn của Descartes cho rằng: Do bắt nguồn từ Thượng
đế mà trong linh hồn con người có chứa sẵn một số tư tưởng hoàn thiện mang tính bẩm sinh luôn
đúng đắn, được sản sinh ra cùng lúc với sự sinh ra “Tôi”. Ngoài ra, trong linh hồn con người còn có
một số tư tưởng khác không hoàn thiện có thể sai lầm. Đó là các tư tưởng được linh hồn tự nghĩ ra,
hay các tư tưởng được du nhập từ bên ngoài vào khi linh hồn tiếp xúc với thế giới xung quanh.
Ngoài ra xuất phát từ quan niệm cho rằng, hoạt động bản chất của linh hồn là nhận thức, và mọi
chân lý đều bắt nguồn từ linh hồn lý tính hay trí tuệ ( ông cho rằng linh hồn gồm 2 phần lý trí, ý
chí), Đềcáctơ cho rằng, nhận thức là quá trình linh hồn lý tính xâm nhập vào chính mình để khám
phá ra tư tưởng bẩm sinh (các nguyên lý, quy luật của lôgích hay của toán học…) chứa đựng trong
mình và sử dụng chúng để tiếp cận thế giới. Còn trực giác - năng lực linh cảm của linh hồn lý tính
mang lại những ý niệm rõ ràng, rành mạch, hiển nhiên là hình thức nhận thức tối cao khám phá ra
các tư tưởng bẩm sinh đó.
e) Về phương pháp luận:
- Theo chủ nghĩa duy vật kinh nghiệm Anh: Ph.Bêcơn bắt đầu bằng quan sát duy nghiệm, áp dụng
phương pháp tư duy tổng hợp và quy nạp khoa học để suy luận ra những định lý cao hơn.
Phương pháp của Bacon được coi là từ dưới đi ngược lên
- Trong khi đó, chủ nghĩa duy lý phương tây thời cận đại: Đềcáctơ bắt đầu với những nguyên lý rút
ra bằng trực giác làm tiền đề trong phương pháp luận diễn dịch chuẩn. Phương pháp của
Đềcáctơ được coi là phương thức từ trên đi xuống.
Nguyễn Duy Nam-STT:67- Nhóm 11- Lớp đêm 1
15
VI. ĐÁNH GIÁ CHUNG:
Thời kỳ phục hưng - cận đại ở Anh Châu âu là thời kỳ giai cấp tư sản cũng như phương thức sản

xuất tư bản chủ nghĩa được hình thành và trở thành phương thức sản xuất thống trị, nó đã tạo ra
những vận hội mới cho khoa học, kĩ thuật phát triển mà trước hết là khoa hoc tự nhiên, trong đó cơ
học đã đạt được trình độ là cơ sở cổ điển. Khoa học tự nhiên thời kỳ này mang đặc trưng là khoa học
tự nhiên - thực nghiệm.
Trong điều kiện kinh tế - chính trị và khoa học tự nhiên thời kỳ này, cùng với tiến trình kế thừa
phát triển của triết học thế giới, trường phái triết học kinh nghiệm ở Anh và trường phái triết học duy
lý tự biện phương tây đã ra đời. Hai trường phái là hai khuynh hướng nhận thức đối lập nhau đấu
tranh gay gắt với nhau trong suốt chiều dài lịch sử triết học.
Mặc dù đấu tranh gay gắt nhưng chúng lại không hoàn toàn phủ định nhau, hai trường phái vẫn
có những điểm chung và chịu ảnh hưởng của nhau. Cả hai cùng là cơ sở thế giới quan của giai cấp tư
sản, là tiếng nói của giai cấp tư sản chống lại triết học Kinh viện, thế giới quan của chế độ phong
kiến. Các nhà duy lý cũng như các nhà duy kinh nghiệm đều ủng hộ khoa học, coi khoa học là chìa
khóa giúp con người làm chủ tự nhiên. Họ đều chú ý đi tìm phương pháp luận mới cho các khoa học,
đều mong muốn những người đương thời và thế hệ mai sau quan tâm đến sự phát triển của khoa học
và làm điều đó vì lợi ích của cuộc sống và thực tiễn, “giúp con người trở thành chủ nhân của thiên
nhiên”. Họ đều có những đóng góp to lớn cho quá trình phát triển của triết học, tư tưởng và những
phát minh của họ vẫn còn có ý nghĩa to lớn đến tận ngày hôm nay.
Tất cả những điều trên cho thấy tính chất phức tạp của cuộc đấu tranh giữa các khuynh hướng
nhận thức luận trong triết học. Ngay cả trong triết học hiện đại sự tranh cãi giữa các trào lưu triết học
duy lý và phi duy lý, ở một khía cạnh nào đó cho thấy sự phong phú của chủ đề về vai trò của khả
năng nhận thức của con người.
Nguyễn Duy Nam-STT:67- Nhóm 11- Lớp đêm 1
16
MỤC LỤC
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ PHƯƠNG TÂY THỜI PHỤC HƯNG – CẬN ĐẠI 3
1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ:……………………………………………………….3
2. CHỦ NGHĨA DUY VẬT KINH NGHỆM ANH VÀ CHỦ NGHĨA DUY LÝ- TƯ BIỆN:
……………………………………………………………………… 4
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT KINH NGHIỆM ANH VỚI ĐẠI DIỆN LÀ
PH.BÊCƠN VÀ CHỦ NGHĨA DUY LÝ- TƯ BIỆN VỚI ĐẠI DIỆN LÀ RƠNÊ ĐỀCÁCTƠ :

……………………………………………………………4
1. CHỦ NGHĨA DUY VẬT KINH NGHIỆM ANH (ĐẠI DIỆN LÀ PH.BÊCƠN)
…………………………………………………………………… 4
2. CHỦ NGHĨA DUY LÝ- TƯ BIỆN (ĐẠI DIỆN LÀ RƠNÊ ĐỀCÁCTƠ)………8
III. SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC NHAU GIỬA CHỦ NGHĨA DUY VẬT KINH NGHIỆM
ANH VÀ CHỦ NGHĨA DUY LÝ TƯ BIỆN PHƯƠNG TÂY THỜI CẬN ĐẠI
……………………………………………………………… 12
1. SỰ TƯƠNG ĐỒNG………………………………………………………… 12
2. SỰ KHÁC BIỆT ………………………………………………………………14
IV. ĐÁNH GIÁ CHUNG:………………………………………………………… 16
Nguyễn Duy Nam-STT:67- Nhóm 11- Lớp đêm 1
17

×