Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Đa dạng hoá các hình thức tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.43 KB, 91 trang )

Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thanh Xuân
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập quốc tế là xu hướng tất yếu của nền kinh tế thế giới. Xu hướng
này vừa thúc đẩy hợp tác phát triển, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tăng tính phụ
thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia. Vì vậy, trong bối cảnh hiện nay, không một
quốc gia nào trên thế giới có thể thiếu các hoạt động giao lưu kinh tế quốc tế.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại, từ hội nghị
Trung ương VI, Đảng và Nhà nước ta đã khởi xướng công cuộc đổi mới, mở cửa
nền kinh tế. Bởi vậy trong suốt thời kỳ đổi mới, đặc biệt là trong những năm gần
đây, hoạt động ngoại thương luôn đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng
tiêu thụ sản phẩm trong nước, thu ngoại tệ về cho đất nước, tạo điều kiện cho
việc NK những mặt hàng quan trọng phục vụ nhu cầu đổi mới công nghệ, trang
thiết bị, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện sự nghiệp CNH-HĐH.
Như vậy, nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế của đất
nước ta hiện nay là phải mở rộng kinh tế đối ngoại hướng về XNK. Tuy nhiên,
thị trường quốc tế ngày càng mở rộng thì khó khăn, thách thức đối với các doanh
nghiệp XNK của Việt Nam cũng ngày càng lớn. Sự thiếu hụt về vốn, sự hạn chế
về trình độ và kinh nghiệm kinh doanh trong thương mại quốc tế chính là những
khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào thị trường toàn
cầu hoá. Bên cạnh đó, để đảm bảo lợi ích của mình, thông thường mỗi bên tham
gia vào quan hệ thương mại quốc tế đều yêu cầu đối tác của mình cung cấp sự
đảm bảo chắc chắn việc thực hiện hợp đồng hoặc khả năng thanh toán… bởi một
tổ chức có uy tín. Vì những lý do đó, các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia
vào hoạt động thương mại quốc tế cần có sự hỗ trợ về tài chính cũng như uy tín
thông qua các hình thức tài trợ XNK.
- 1 -
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thanh Xuân
Thực tế cho thấy, các NHTM, với tư cách là một định chế tài chính có ưu
thế về vốn và có uy tín lớn trong xã hội, được đánh giá là tổ chức thực hiện hoạt
động tài trợ XNK tốt nhất và có hiệu quả nhất hiện nay. Ngược lại, đối với mỗi


NHTM, nghiệp vụ tài trợ XNK cũng là một nghiệp vụ quan trọng đem lại một
phần doanh thu không nhỏ cho ngân hàng.
Cùng với sự phát triển không ngừng của thương mại quốc tế, hoạt động tài
trợ XNK của các NHTM trên thế giới cũng ngày càng đa dạng, phong phú với
nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, ở Việt Nam, các hình thức tài trợ chủ yếu
vẫn là những hình thức truyền thống và khá giản đơn. Xuất phát từ mong muốn
nghiên cứu giải pháp đa dạng hoá các hình thức tài trợ XNK trên cơ sở đánh giá
hiệu quả hoạt động tài trợ tại SGD – NHNT Việt Nam, em xin đưa ra đề tài: “Đa
dạng hoá các hình thức tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch Ngân hàng
Ngoại Thương Việt Nam” làm nội dung nghiên cứu cho khoá luận tốt nghiệp
của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Thứ nhất: hệ thống hoá những vấn đề lý luận về tài trợ xuất nhập khẩu và
tổng hợp những nhân tố ảnh hưởng đến tài trợ xuất nhập khẩu của Ngân hàng
Thương mại.
Thứ hai: phân tích thực trạng hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao
dịch Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam từ đó rút ra những thành tựu, những
hạn chế và nguyên nhân.
Thứ ba: đề xuất hệ thống các giải pháp, kiến nghị nhằm đa dạng hóa các
hình thức tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại Thương Việt
Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến các hình
- 2 -
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thanh Xuân
thức tài trợ xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại.
Phạm vi nghiên cứu: các hình thức tài trợ xuất nhập khẩu thực hiện tại Sở
giao dịch Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam trong giai đoạn từ 2003 đến 2006.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch

sử, đồng thời kết hợp các phương pháp thống kê kinh tế, phân tích kinh tế, so
sánh, tổng hợp … để nghiên cứu.
5. Bố cục
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, khoá luận được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về tài trợ xuất nhập khẩu của Ngân
hàng Thương mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao
dịch Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nhằm đa dạng hoá các hình thức tài trợ xuất nhập
khẩu tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.
- 3 -
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thanh Xuân
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát chung về tài trợ xuất nhập khẩu
1.1.1. Khái niệm tài trợ xuất nhập khẩu
Mỗi quốc gia trên thế giới đều sở hữu những nét đặc trưng riêng biệt về
điều kiện tự nhiên, khí hậu, nguồn nhân lực… chính điều này đã tạo cho mỗi một
nước có một nền sản xuất khác nhau. Nếu chỉ dựa vào nguồn tài nguyên sẵn có
và nền sản xuất trong nước thì không thể cung cấp đầy đủ nguyên vật liệu, hàng
hoá, dịch vụ để đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú, đa dạng phục vụ cho hoạt
động sản xuất và tiêu dùng của nền kinh tế. Chính vì thế một quốc gia không
những có thể sản xuất ra các sản phẩm dịch vụ đủ để đáp ứng nhu cầu trong
nước về loại sản phẩm dịch vụ đó, mà còn dư thừa để xuất khẩu sang các nước
khác bằng cách khai thác tiềm năng và lợi thế kinh tế vốn có của mình, nhờ đó
thu về nguồn ngoại tệ để phục vụ cho nhu cầu NK những hàng hoá mà trong
nước không có khả năng đáp ứng và cho các khoản chi tiêu bằng ngoại tệ khác.
Việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia đều được thực hiện thông qua
hoạt động ngoại thương. Như vậy, hoạt động ngoại thương tạo cầu nối gắn kết

các quốc gia, các khối kinh tế, đồng thời tạo nên lợi thế cạnh tranh của mỗi quốc
gia về mặt kinh tế.
Tuy nhiên thương mại quốc tế là một hoạt động phức tạp, do các chủ thể
tham gia đều thuộc các quốc gia khác nhau nên có sự khác biệt về mặt ngôn ngữ,
phong tục, tập quán, luật pháp cũng như về khoảng cách địa lý… là những rào
cản khiến cho hoạt động ngoại thương giữa các bên trở nên khó khăn hơn. Mặt
khác, hoạt động xuất nhập khẩu thường được thực hiện với giá trị lớn và tiềm ẩn
- 4 -
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thanh Xuân
nhiều rủi ro do đối tác không thực hiện nghĩa vụ của mình đã được quy định
trong hợp đồng. Thêm vào đó, trong quá trình thực hiện hợp đồng ngoại thương,
nhà sản xuất hay các thương nhân không phải lúc nào cũng có đủ vốn và uy tín
để hoàn thành nghĩa vụ của mình hoặc để tạo niềm tin cho phía đối tác. Từ
những lý do đó, trong thương mại quốc tế, các doanh nghiệp luôn cần có sự tham
gia của các NHTM, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp gia tăng hiệu quả kinh doanh và
thực hiện thương vụ thành công. Chính vì vậy, hoạt động tài trợ XNK của
NHTM ra đời được xem như một đòi hỏi tất yếu của thương mại quốc tế.
Có thể hiểu: Tài trợ XNK là tập hợp các biện pháp và hình thức hỗ trợ về
mặt tài chính hoặc uy tín hoặc cả hai một cách trực tiếp hay gián tiếp cho các
doanh nghiệp hoặc đơn vị kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh thương mại
trong một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu
thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường thé giới nhằm mục đích sinh
lợi.
Về bản chất, hoạt động tài trợ XNK là một loại hình tín dụng dựa trên cơ
sở “uy tín”, “niềm tin”, tuy nhiên, hoạt động này bao hàm cả dạng thức “bảo
lãnh” và “chiết khấu”. Trong đó, “bảo lãnh” là việc ngân hàng bằng uy tín của
mình đứng ra cam kết trả tiền cho bên thứ ba nếu bên được bảo lãnh không thanh
toán khoản nợ của họ, còn “chiết khấu” theo định nghĩa trong UCP 500 là việc
ngân hàng định giá và trả tiền cho hối phiếu và/hoặc bộ chứng từ được xuất trình
phù hợp với các điều khoản của L/C.

1.1.2. Vai trò của tài trợ xuất nhập khẩu
1.1.2.1. Đối với nền kinh tế
- Tài trợ XNK giúp cho hoạt động ngoại thương được tiến hành trôi chảy,
thuận lợi: thông qua các hình thức tài trợ vốn, uy tín của ngân hàng cho các bên
tham gia, tài trợ XNK giúp tạo dựng cơ sở tài chính và niềm tin giữa các đối tác
- 5 -
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thanh Xuân
để các bên hoàn thành nghĩa vụ của mình. Khi hoạt động XNK được thực hiện
thường xuyên, liên tục, đáp ứng nhu cầu trong nước và quốc tế thì nó sẽ là động
lực để tăng tính ổn định của thị trường và tính năng động của nền kinh tế.
- Tài trợ XNK của ngân hàng tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển,
tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, làm động cơ thúc đẩy nền kinh tế phát triển:
thông qua hoạt động tài trợ XNK của ngân hàng, doanh nghiệp có cơ hội được
thay đổi dây chuyền máy móc thiết bị nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá
thành sản phẩm, tạo ra sản phẩm phong phú đa dạng về mẫu mã, chủng loại để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của người dân. Sự phát triển của doanh
nghiệp nói riêng đã tác động đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Cũng
thông qua tài trợ, các doanh nghiệp cũng có thể NK các mặt hàng tiêu dùng thiết
yếu phục vụ cho đời sống sinh hoạt của nhân dân. Rõ ràng sự phát triển của
doanh nghiệp đã mang lại lợi ích cho người tiêu dùng và đem lại nhiều thuận lợi
cho sự phát triển kinh tế.
- Hoạt động tài trợ giúp cho doanh nghiệp phát triển, tăng hiệu quả sản
xuất kinh doanh, mở rộng sản xuất góp phần giải quyết công ăn việc làm cho
người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước,
góp phần phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước.
- Tài trợ XNK cũng được coi là một trong những công cụ để triển khai có
hiệu quả các chiến lược phát triển kinh tế – chính trị – xã hội của quốc gia. Tài
trợ XNK góp phần đáng kể hỗ trợ cho các chương trình, mục tiêu phát triển kinh
tế, cân bằng cán cân thanh toán, góp phần mở rộng mối quan hệ đối ngoại với
các quốc gia trên thế giới.

1.1.2.2. Đối với Ngân hàng Thương mại
Tài trợ XNK đối với NHTM là một trong những nghiệp vụ quan trọng
trong các nghiệp vụ của ngân hàng quốc tế, mang lại thu nhập cao, sử dụng vốn
- 6 -
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thanh Xuân
an toàn, thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Thời hạn của tài trợ là ngắn hạn do gắn liền với thời gian thực hiện
thương vụ hay chu kỳ sản xuất kinh doanh của nhà XNK. Thời gian thực hiện
thương vụ đối với nhà XK kể từ khi gom hàng, xuất đi đến lúc nhận được tiền
thanh toán của người mua. Đối với nhà NK, thời gian kể từ lúc nhận hàng tại
cảng cho đến khi bán hết được hàng và thu tiền về. Kỳ hạn tài trợ ngắn phù hợp
với kỳ hạn huy động vốn của các ngân hàng là dưới một năm. Điều này giúp cho
ngân hàng thu hồi vốn nhanh và tránh được rủi ro thanh khoản.
- Tài trợ XNK đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích. Trong một số trường
hợp, vốn được tài trợ thanh toán thẳng cho bên thứ ba mà không qua bên xin tài
trợ như thanh toán tiền hàng NK, thanh toán tiền nguyên vật liệu cho các đại lý
gom hàng cho người XK… Như thế, ngân hàng sẽ dễ dàng kiểm soát tình hình
sử dụng vốn của doanh nghiệp có đúng mục đích không và kịp thời thu hồi các
khoản nợ khi doanh nghiệp có nguồn thu, tránh được tình trạng xin tài trợ sử
dụng vốn sai mục đích và giảm thiểu rủi ro tín dụng.
- Tài trợ XNK nâng cao tính an toàn cho ngân hàng thông qua việc quản lý
các nguồn thu thanh toán. Đối với người XK, khi ngân hàng chuyển bộ chứng từ
giao hàng để đòi tiền người NK nước ngoài đã chỉ định việc thanh toán phải qua
tài khoản của người XK mở tại ngân hàng. Đối với người NK, trong trường hợp
có tài trợ, ngân hàng sẽ buộc người NK tập trung tiền bán hàng vào tài khoản mở
tại ngân hàng. Do vậy, nguồn thu để trả các khoản tài trợ được ngân hàng quản
lý hết sức chặt chẽ, tránh được tình trạng quay vòng vốn của các doanh nghiệp
trong thời gian vốn tạm thời nhàn rỗi, dễ xảy ra rủi ro .
- Nghiệp vụ tài trợ XNK là mảng dịch vụ đem lại nguồn thu đáng kể từ
các khoản phí và lãi cho ngân hàng. Các khoản thu từ phí và lãi bao gồm: phí

phát hành L/C, phí thông báo, phí xác nhận, phí nhờ thu, lãi chiết khấu hối phiếu,
- 7 -
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thanh Xuân
lãi cho vay thanh toán, lãi cho vay bắt buộc…
- Ngoài ra, thông qua việc tham gia tài trợ XNK, cũng như các nghiệp vụ
kih doanh đối ngoại khác giúp cho ngân hàng duy trì được mối quan hệ với các
doanh nghiệp trong nước, mở rộng mói quan hệ với các nước ngoài từ đó gián
tiếp nâng cao cơ hội sinh lời của ngân hàng, đồng thời nâng cao chất lượng phục
vụ, uy tín và khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên cả thị trường trong nước và
thị trường thế giới.
1.1.2.3. Đối với các doanh nghiệp
- Tài trợ XNK giúp cho doanh nghiệp thực hiện được các thương vụ quan
trọng, phức tạp, cần nguồn vốn lớn để thanh toán tiền hàng. Do doanh nghiệp
muốn tiết kiệm chi phí vận chuyển và thuận tiện trong giao nhận hàng hoá nên
thường mua bán với số lượng, giá trị lô hàng rất lớn. Trong trường hợp này,
thông thường vốn lưu động của doanh nghiệp không đủ để đáp ứng nhu cầu và
phải cần đến nguồn vốn tín dụng của ngân hàng để thực hiện các hợp đồng này
một cách thuận lợi.
- Tài trợ XNK tạo tính an toàn cho hoạt động thương mại quốc tế vốn tiềm
ẩn rất nhiều rủi ro cho cả doanh nghiệp XK cũng như doanh nghiệp NK thông
qua các hình thức tài trợ về mặt uy tín như phát hành L/C, bảo lãnh thực hiện
hợp đồng, xác nhận L/C… Nhờ đó, các doanh nghiệp có thể yên tâm thực hiện
nghĩa vụ của mình mà không sợ bị đối tác vi phạm các quy định trong hợp đồng.
- Tài trợ giúp làm tăng hiệu quả của doanh nghiệp trong quá trình thực
hiện hợp đồng: thông qua tài trợ của ngân hàng, doanh nghiệp nhận được vốn để
thực hiện thương vụ. Đối với doanh nghiệp XK, vốn tài trợ doanh nghiệp thu
mua hàng đúng thời vụ, gia công chế biến và giao hàng đúng thời điểm. Đối với
doanh nghiệp NK, vốn tài trợ của ngân hàng giúp doanh nghiệp mua được những
lô hàng lớn, giá hạ đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường trong nước.
- 8 -

Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thanh Xuân
- Việc tài trợ XNK của ngân hàng giúp cho các doanh nghiệp có vốn để
nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, dây chuyền
sản xuất chế biến trên cơ sở đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng quy mô,
nâng cao chất lượng hàng hoá, tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm, mở rộng
sản xuất kinh doanh, có thể đứng vững trong cơ chế thị trường và tạo khả năng
cạnh tranh trên cả thị trường trong nước và quốc tế.
- Tài trợ XNK làm gia tăng lợi ích cho cả nhà XK và nhà NK: có sự bảo
lãnh của ngân hàng và vốn tín dụng được ngân hàng cấp thì năng lực thực hiện
hợp đồng của các doanh nghiệp XNK đã được đảm bảo, tạo lợi thế cho doanh
nghiệp trong quá trình thực hiện thương vụ. Đối với nhà NK, thì việc đảm bảo về
thanh toán sẽ giúp cho nhà NK có thể thương lượng để được giá cả tốt hơn hoặc
kéo dài khả năng thanh toán. Đối với nhà XK khi cần tăng khả năng cạnh tranh
có thể đồng ý cho nhà NK trả chậm trên cơ sở được ngân hàng chấp nhận thanh
toán hối phiếu kỳ hạn, sau đó mang hối phiếu đã được chấp nhận đến ngân hàng
phục vụ mình để chiết khấu đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh.
- Tài trợ XNK giúp doanh nghiệp tạo lập, nâng cao uy tín trên thị trường
quốc tế: thông qua tài trợ của ngân hàng, doanh nghiệp thực hiện thương vụ một
cách trôi chảy, thiết lập được mối quan hệ với những khách hàng tầm cỡ trên thế
giới, từ đó nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường thế giới.
1.1.3. Vai trò của Ngân hàng Thương mại trong hoạt động tài trợ xuất nhập
khẩu
Tài trợ XNK là lĩnh vực kinh doanh mang tính chất truyền thống của
NHTM, ngày nay có nhiều tổ chức phi ngân hàng cũng tham gia vào lĩnh vực
này như thị trường chứng khoán, công ty tài chính, quỹ đầu tư phát triển… Tuy
nhiên với khả năng tài chính lớn, có uy tín trong kinh doanh, phạm vi kinh doanh
rộng lớn và cung cấp nhều dịch vụ tiện ích cho khách hàng, NHTM vẫn duy trì
- 9 -
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thanh Xuân
được vị thế là người tài trợ chủ yếu cho hoạt động XNK.

Hoạt động thương mại quốc tế cần đến sự hỗ trợ của NHTM cả về mặt tài chính
và kỹ thuật. Thông qua hoạt động tài trợ ngoại thương, ngân hàng cung cấp một
hệ thống các giải pháp kỹ thuật tài trợ phong phú, hữu hiệu, giải quyết phần lớn
những khó khăn về mặt tài chính và uy tín kinh doanh của doanh nghiệp.
Với nguồn vốn dồi dào và kinh nghiệm lâu năm trong hoạt động tài trợ
XNK, ngân hàng có thể cung cấp các khoản tài trợ về tài chính cho khách hàng
với thủ tục đơn giản, nhanh chóng. Nếu doanh nghiệp là khách hàng truyền
thống, khách hàng đã tạo được uy tín với ngân hàng thì việc xin được tài trợ
càng dễ dàng thậm chí có thể được bỏ qua các khoản ký quỹ hoặc thế chấp tài
sản.
Sự tài trợ về uy tín của ngân hàng là một điều kiện quan trọng trong hầu
hết các thương vụ buôn bán quốc tế. Thương mại quốc tế luôn tiềm ẩn nguy cơ
xảy ra rủi ro đối với các bên tham gia do sự thiếu hiểu biết về đối tác, do khoảng
cách địa lý,do sự bất đồng về ngôn ngữ, luật pháp, phong tục tập quán… Sở dĩ
ngân hàng luôn là lựa chọn hàng đầu của các doanh nghiệp khi cần có sự tài trợ
về uy tín là vì ngân hàng không chỉ có tiềm lực tài chính, có kinh nghiệm mà còn
là tổ chức có uy tín lớn nên doanh nghiệp có thể tin tưởng vào khả năng thanh
toán của ngân hàng. Hơn nữa, ngân hàng còn có quan hệ đại lý rộng khắp và để
thu hút được thêm nhiều khách hàng, các ngân hàng có thể hợp tác với nhau
cung cấp thêm các dịch vụ tài trợ về uy tín như tài trợ xác nhận L/C nếu khách
hàng chưa tin tưởng vào uy tín của một ngân hàng. Sự tài trợ về mặt uy tín của
ngân hàng không những giúp khách hàng giành được hợp đồng mà còn tạo cho
khách hàng lợi thế trong việc thương lượng các điều khoản của hợp đồng.
Dựa vào mạng lưới chi nhánh rộng khắp, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại
và kinh nghiệm dồi dào trong lĩnh vực kinh doanh đối ngoại, ngân hàng có thể dễ
- 10 -
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thanh Xuân
dàng thu thập, nắm bắt thông tin, từ đó đưa ra những lời khuyên hữu ích cho
khách hàng ngay từ khi ký kết hợp đồng ngoại thương, phát hành L/C hay tư vấn
về bộ chứng từ hoàn hảo giúp khách hàng giảm thiểu được rủi ro trong các

thương vụ XNK.
Ngoài ra, ngân hàng còn cung cấp các nghiệp vụ phái sinh như: Swap,
Forward, Future, Option… để giúp khách hàng xử lý các khoản ngoại tệ cần thiết
trong quá trình thực hiện thương vụ, đồng thời hạn chế được rủi ro tỷ giá cho
khách hàng giúp khách hàng bảo toàn lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình.
Qua những phân tích trên thì ta có thể thấy vai trò của NHTM trong hoạt
động tài trợ XNK là khó có thể bị thay thế bởi một tổ chức nào khác. Những dịch
vụ tiện ích mà ngân hàng cung cấp không chỉ giúp doanh nghiệp thực hiện thành
công thương vụ của mình mà còn giúp nâng cao uy tín, nâng cao khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung khi tham gia vào
thương mại quốc tế.
1.2. Các hình thức tài trợ xuất nhập khẩu của Ngân hàng Thương mại
1.2.1. Tài trợ nhập khẩu
1.2.1.1. Tài trợ phát hành L/C
Thư tín dụng (letter of credit) được định nghĩa như một bức thư, do một
ngân hàng lập ra, trên cơ sở yêu cầu của khách hàng là người NK, trong đó ngân
hàng này cam kết trả một số tiền nhất định, trong một thời hạn nhất định cho
người XK, với điều kiện người này xuất trình bộ chứng từ thanh toán phù hợp
với những điều khoản và điều kiện đã quy định trong thư tín dụng. Khi ngân
hàng đồng ý mở L/C cho nhà NK, có nghĩa là ngân hàng cam kết thanh toán cho
người hưởng lợi nếu bộ chứng từ phù hợp với quy định của L/C. Ngân hàng sẽ
gánh chịu rủi ro nếu như người NK không có khả năng thanh toán, ngân hàng
- 11 -
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thanh Xuân
mở L/C phải thanh toán cho nhà XK nước ngoài, điều này có nghĩa là ngân hàng
mở L/C cấp tín dụng cho nhà NK.
Như vậy, trách nhiệm của ngân hàng phát hành L/C trong hình thức tài trợ
này là rất lớn, do đó ngân hàng luôn yêu cầu một tỷ lệ ký quỹ nhất định (có thể
từ 0 – 100%) được xác định trên cơ sở uy tín của khách hàng, loại L/C, loại hàng

hoá nhập… Khi ngân hàng yêu cầu khách hàng ký quỹ 100% nghĩa là ngân hàng
chỉ đồng ý tài trợ cho khách hàng về mặt uy tín. Ngược lại khi tỷ lệ ký quỹ nhỏ
hơn 100% thì nghĩa là ngân hàng đã tài trợ cho khách hàng cả về uy tín và tài
chính.
Bên cạnh việc cho phép tỷ lệ ký quỹ dưới 100%, ngân hàng còn có các
biện pháp tài trợ về mặt tài chính khác cho người NK trong nghiệp vụ mở L/C:
a) Tài trợ bằng hạn mức tín dụng chứng từ
Ngân hàng căn cứ vào kế hoạch NK của khách hàng để cấp cho khách
hàng mức tín dụng và cho phép khách hàng mở L/C (thường là L/C trả ngay)
trong khuôn khổ hạn mức đó. Loại hình đảm bảo tín dụng thường áp dụng là
chính lô hàng NK, hoặc là một mức ký quỹ nhất định theo hạn mức được duyệt
hoặc theo giá trị của L/C phát hành.
b) Cho vay ký quỹ
Trong trường hợp nhà NK đủ điều kiện phát hành L/C nhưng không có đủ
vốn để thực hiện ký quỹ thì có thể yêu cầu ngân hàng cho vay ký quỹ L/C. Ngân
hàng sẽ căn cứ vào uy tín của khách hàng, hiệu quả của thương vụ và tài sản đảm
bảo để quyết định có cho vay ký quỹ hay không. Hình thức này không những
giúp giải quyết khó khăn về vốn lưu động cho nhà NK, mà còn tăng tính an toàn
và mang lại hiệu quả cho ngân hàng, đồng thời đảm bảo tuân thủ những quy định
của pháp lý của ngân hàng về ký quỹ.
c) Tài trợ bằng các L/C đặc biệt
- 12 -
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thanh Xuân
• Tài trợ bằng L/C tuần hoàn (Revolving L/C)
Là L/C không thể huỷ ngang mà sau khi sử dụng hết giá trị của nó hoặc đã
hết thời hạn hiệu lực thì nó lại (tự động) có giá trị như cũ và tiếp tục được sử
dụng một cách tuần hoàn trong một thời hạn nhất định cho đến khi tổng giá trị
hợp đồng được thực hiện.
Thư tín dụng tuần hoàn theo ba cách:
- Tuần hoàn tự động: L/C sẽ tự động có giá trị như cũ mà không cần có sự

thông báo của ngân hàng mở L/C cho người XK biết.
- Tuần hoàn bán tự động: sau khi L/C trước sử dụng xong hoặc hết hiệu
lực, nếu sau một vài ngày mà ngân hàng mở L/C không có ý kiến gì về L/C kế
tiếp và thông báo cho người hưởng lợi L/C thì nó lại tự động có giá trị như cũ.
- Tuần hoàn hạn chế: trong trường hợp này, chỉ khi nào ngân hàng mở L/C
thông báo cho người XK biết thì L/C kế tiếp mới có giá trị hiệu lực.
L/C tuần hoàn được áp dụng trong trường hợp hai bên mua bán những mặt
hàng có giá trị lớn, có quan hệ cung cấp hàng hoá hay dịch vụ thường xuyên,
giao nhiều lần trong năm với số lượng đều đặn. L/C tuần hoàn được mở ra để tạo
thuận lợi cho nhà NK trong khâu thanh toán, tránh được tình trạng ứ đọng vốn và
giúp cho nhà NK không bị tính phí mở L/C nhiều lần.
• Tài trợ bằng L/C dự phòng (Standby L/C)
Trong trường hợp nhà XK đã nhận được L/C, tiền đặt cọc và tiền ứng
trước, nhưng không có khả năng giao hàng hoặc không hoàn thành nghĩa vụ giao
hàng như đã quy định trong L/C, đòi hỏi ngân hàng phục vụ nhà XK phát hành
một L/C trong đó cam kết với người NK là sẽ hoàn trả lại số tiền đã đặt cọc, tiền
ứng trước và chi phí mở L/C cho nhà NK. Như vậy, L/C dự phòng được mở ra
để đảm bảo quyền lợi cho nhà NK và tránh được rủi ro khi người XK không
- 13 -
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thanh Xuân
hoàn thành nghĩa vụ như đã nêu trong L/C.
1.2.1.2. Cho vay thanh toán bộ chứng từ hàng nhập
Theo hình thức này, khách hàng phải lập phương án sản xuất kinh doanh
mang tính khả thi cho lô hàng nhập về phục vụ sản xuất kinh doanh. Đồng thời,
khách hàng phải lên kế hoạch tài chính nhằm xác định khả năng thanh toán để
đến thời điểm thanh toán dự kiến có thể xác định khoản thiếu hụt cần ngân hàng
tài trợ. Trên cơ sở xem xét và phân tích kế hoạch cũng như phương án của khách
hàng: hiệu quả sử dụng vốn vay, khả năng tài chính, khả năng trả nợ, tài sản thế
chấp… để quyết định mức tài trợ cho nhà NK. Tất cả các công đoạn này phải
được thực hiện trước khi bộ chứng từ giao hàng của người XK về đến ngân hàng

đứng ra tài trợ. Trường hợp bộ chứng từ đã về đến rồi khách hàng mới xin tài trợ
thanh toán thì khả năng bị ngân hàng từ chối là rất lớn vì ngân hàng ít có thời
gian xem xét bộ chứng từ cũng như đánh giá khả năng hoàn vốn của khách hàng
cho khoản tiền mà ngân hàng tài trợ.
1.2.1.3. Bảo lãnh cho hoạt động nhập khẩu
a) Phát hành bảo lãnh thanh toán
Thực tế đa số các ngân hàng nước ngoài, các doanh nghiệp nước ngoài
cho các doanh nghiệp Việt Nam vay để nhập hàng hoá, máy móc thiết bị do
nước đó sản xuất, nên ít có trường hợp cho vay vốn chuyển về Việt Nam để sử
dụng với mục đích khác. Nhà XK trước khi giao hàng thường yêu cầu phía
doanh nghiệp Việt Nam phải có ngân hàng đứng ra bảo lãnh. Ngân hàng bảo
lãnh sẽ phát hành thư bảo lãnh cam kết thanh toán cho nước ngoài, nếu doanh
nghiệp Việt Nam không thanh toán tiền khi đến hạn. Trên cơ sở bảo lãnh của
ngân hàng, nhà XK có thể giao dịch với ngân hàng phục vụ họ để vay vốn thay
cho các doanh nghiệp Việt Nam. Nếu chấp nhận những điều kiện vay vốn của
ngân hàng nước ngoài, doanh nghiệp phải trực tiếp trả nợ cho nước ngoài. Khi
- 14 -
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thanh Xuân
vay nước ngoài có quy định cụ thể về số tiền, ngày trả nợ, lãi suất… thường
doanh nghiệp Việt Nam được tài trợ từ nước ngoài với lãi suất thấp, thời hạn
tương đối dài.
b) Bảo lãnh bằng cách phát hành L/C trả chậm
Đây là hình thức được áp dụng phổ biến nhất ở nước ta trong thời gian vừa
qua, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong dư nợ bảo lãnh tại các NHTM. Đối với các
doanh nghiệp Việt Nam, đây là hình thức vay vốn, tranh thủ vốn nước ngoài đơn
giản và dễ được chấp thuận bằng cách mua chịu hàng hoá, phù hợp trong hoàn
cảnh doanh nghiệp đang thiếu vốn.
Việc ngân hàng mở L/C trả chậm nhập khẩu thì phải tuân theo một số quy
định như: hàng hoá phải phù hợp với chính sách XNK hàng năm của Nhà nước
liên quan đến vay và trả nợ nước ngoài, số dư L/C trả chậm ngắn hạn (dưới 1

năm và phải nằm trong hạn mức), ngân hàng phải duy trì tỷ lệ tối đa là 3 lần giữa
số dư cho vay và bảo lãnh vay ngắn hạn nước ngoài trên vốn tự có của ngân
hàng và ngân hàng không có nợ quá hạn phát sinh từ nghiệp vụ mở L/C trả
chậm, việc trích lập quỹ bảo lãnh theo quy định hiện hành về bảo lãnh và tái bảo
lãnh trong đó:
Quỹ bảo lãnh = 5% giá trị thực tế bảo lãnh.
Giá trị thực tế bảo lãnh = giá trị ngân hàng bảo lãnh – giá trị mà bên xin
bảo lãnh ký quỹ tại ngân hàng.
c) Bảo lãnh nhận hàng
Thông thường người mua luôn mong muốn nhận được vận đơn để có thể
nhận được hàng ngay khi tàu đến cảng. Nhưng trên thực tế rất nhiều trường hợp
tàu chở hàng đến trước khi ngân hàng nhận được bộ chứng từ. Điều đó có nghĩa
là người mua chưa có vận đơn để nhận hàng. Hàng hoá để ở cảng một thời gian
dài có thể sẽ bị giảm phẩm chất, ảnh hưởng tới quá trình sản xuất kinh doanh của
- 15 -
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thanh Xuân
nhà NK, đồng thời phải chịu chi phí lưu kho, lưu bãi rất lớn. Trong trường hợp
này, để sớm nhận được hàng nhằm tránh các rủi ro, người mua yêu cầu ngân
hàng ngân hàng của mình phát hành một cam kết (thay thế cho vận đơn) gọi là
bảo lãnh nhận hàng. Người NK sẽ xuất trình bảo lãnh nhận hàng cho công ty vận
tải để tới cảng nhận hàng.
Bảo lãnh nhận hàng được ngân hàng phát hành khi người NK chưa có vận
đơn, do vậy khi nhận được vận đơn thì sẽ tiến hành giao vận đơn đó cho hàng tàu
để giải phóng bảo lãnh nhận hàng. Thực hiện bảo lãnh nhận hàng có thể mang lại
rủi ro cho ngân hàng, vì vậy, trong bảo lãnh nhận hàng ngân hàng sẽ có quy định
cho biết bảo lãnh đó sẽ hết hạn sau bao nhiêu ngày kể từ ngày nhận hàng hoặc kể
từ ngày nhà NK có bộ chứng từ trong tay.
d) Các hình thức bảo lãnh khác
Bên cạnh các hình thức bảo lãnh trên thì hình thức ký hậu hối phiếu (Bill
of Exchange) cũng là một trong những loại hình tài trợ uy tín của ngân hàng.

Trong hình thức này khách hàng yêu cầu ngân hàng ký chấp nhận trên hối phiếu
nhận nợ nước ngoài. Chấp nhận hối phiếu là hành vi cam kết của người có nghĩa
vụ trả tiền khi hối phiếu đến thời hạn thanh toán. Việc này được thể hiện bằng
chữ ký của người đó ở mặt trước, góc trái của hối phiếu.
Thực chất của hình thức ký chấp nhận hối phiếu là ngân hàng sẽ tiến hành
cung ứng cho nhà NK một khoản tín dụng và khoản vay này chỉ là hình thức bảo
đảm về mặt tài chính, thực chất ngân hàng chưa phải xuất tiền ngay cho người
vay. Tuy nhiên, khi hối phiếu đến hạn, nhà NK không có đủ khả năng thanh toán
thì ngân hàng (người cho vay hay người đứng ra chấp nhận hối phiếu) sẽ tiến
hành trả nợ thay.
Tài trợ chấp nhận hối phiếu xảy ra trong trường hợp bên XK thiếu tin
tưởng vào khả năng thanh toán của bên NK nên có thể đề nghị bên NK yêu cầu
- 16 -
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thanh Xuân
một ngân hàng đứng ra chấp nhận trả tiền hối phiếu do bên XK ký phát. Việc
ngân hàng ký chấp nhận vào hối phiếu là một dạng thoả thuận tài trợ bảo lãnh uy
tín thanh toán cho nhà NK. Nhờ vậy, nhà NK sẽ nhận được bộ chứng từ để có cơ
hội tiếp nhận hàng hoá.
1.2.2. Tài trợ xuất khẩu
1.2.2.1. Tài trợ trước khi giao hàng
a) Cho vay sản xuất hàng xuất khẩu
Sau khi ký kết hợp đồng ngoại thương và người XK nước ngoài đã chuẩn
bị các bước cần thiết quy định trong hợp đồng thì người XK bước vào giai đoạn
chuẩn bị hàng xuất. Giai đoạn chuẩn bị hàng xuất bao gồm: thu mua nguyên vật
liệu, gia công, chế biến nguyên vật liệu thành sản phẩm. Với những giá trị hợp
đồng lớn, thời gian tạo thành sản phẩm dài, người XK thường không đủ vốn lưu
động đẻ chuẩn bị trọn gọi lô hàng XK vì vốn nằm gọn trong cả ba khâu. Do vậy,
người XK phải nhờ vào sự tài trợ của ngân hàng. Hình thức này thường được áp
dụng trong trường hợp ngân hàng tài trợ vừa là ngân hàng thanh toán cho L/C
xuất, nhà XK xuất trình bộ chứng từ và được thanh toán tại ngân hàng. Để giám

sát và kiểm soát chặt chẽ tình hình sử dụng vốn vay đúng mục đích, thông
thường ngân hàng thực hiện tài trợ như sau:
- Khi vay ngân hàng thường yêu cầu nhà XK phải có một số vốn nhất định
cộng thêm với số tiền vay ngân hàng để thu mua hàng hoá, chế biến, sản xuất
hàng XK. Hàng hoá sẽ làm tài sản đảm bảo để tiếp tục vay và được nhập tai kho
ngân hàng, hoặc nhập kho mà trước đó ngân hàng và nhà XK thoả thuận và đồng
ý trước sự giám sát của ngân hàng, muốn xuất hàgn ra khỏi kho phải có sự đồng
ý của ngân hàng. Ngân hàng tiếp tục cho vay, khách hàng sẽ dùng số tiền ngân
hàng tài trợ để đi mua hàng, chế biến sản xuất hàng hoá, cứ tiếp tục như vậy cho
đến khi bằng 100% giá trị lô hàng xuất. Thông thường ngân hàng chỉ tài trợ
- 17 -
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thanh Xuân
khoảng 70% giá trị lô hàng XK.
- Sau khi giao hàng xong nhà XK lập bộ chứng từ phù hợp với những quy
định trong L/C nộp vào ngân hàng để xin thanh toán tiền. Trên hối phiếu đòi tiền
nợ thì ngân hàng sẽ là người hưởng lợi trực tiếp trên hối phiếu. Ngân hàng sẽ
kiểm tra bộ chứng từ hợp lý chuyển ra nước ngoài đòi tiền ngân hàng mở L/C.
Khi nhận được điện chuyển tiền từ ngân hàng nước ngoài, ngân hàng thông báo
ghi có trên tài khoản cho vay để thu nợ. Trường hợp giữa ngân hàng mở và
thông báo L/C là đại lý có mở tài khoản tiền gửi cho nhau, việc thực hiện thanh
toán bộ chứng từ để thu nợ được tiến hành nhanh chóng thuận tiện dễ dàng nên
ngân hàng có thể tài trợ mức lãi suất ưu đãi thấp hơn mức lãi suất bình thường.
- Khi ngân hàng tài trợ không phải là ngân hàng thông báo cũng không
phải là ngân hàng thanh toán, rủi ro có thể xảy ra nếu như sau khi tài trợ doanh
nghiệp không xuất được hàng hoặc xuất được hàng nhưng gặp rủi ro trong giao
nhận hàng hay thanh toán, hoặc khách hàng không dùng số tiền trên vào mục
đích xuất hàng như đã cam kết.
b) Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Do trong thương mại quốc tế rủi ro ngày càng lớn cho nên bảo lãnh ngày
càng có vai trò quan trọng. Nhà NK không tin cậy hoàn toàn vào khả năng thực

hiện hợp đồng của người XK, họ sẽ nhờ vào bảo lãnh của ngân hàng. Hình thức
này trong ngân hàng gọi là bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Loại bảo lãnh này nhằm
chống đỡ rủi ro cho người hưởng thụ trong trường hợp người cung cấp không
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng, chẳng hạn như giao hàng chậm trễ, không
đúng chất lượng, số lượng… Bảo lãnh thực hiện hợp đồng được sử dụng thay thế
cho yêu cầu ký quỹ mà người đặt hàng đề nghị đối với người cung ứng để đảm
bảo bồi thường vi phạm hợp đồng. Do đó giá trị tối đa của bảo lãnh là tương
đương với bồi thường (tính tỷ lệ % trên giá trị hợp đồng, dao động ở mức 10%-
- 18 -
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thanh Xuân
15%). Thông thường hiệu lực của loại bảo lãnh này chấm dứt khi người được
bảo lãnh hoàn thành nghĩa vụ cung ứng của họ.
c) Tài trợ bằng các L/C đặc biệt
• Tài trợ bằng L/C điều khoản đỏ (Red Clause L/C)
L/C điều khoản đỏ là một loại L/C không thể huỷ ngang, được phát hành
được phát hành với một điều khoản trong nội dung cho phép của ngân hàng
thông báo ứng trước cho nhà XK một phần hoặc toàn bộ giá trị L/C theo các điều
khoản, điều kiện cụ thể và ngân hàng thông báo có thể xác nhận L/C nếu khách
hàng yêu cầu điều đó.
Thực chất đây là hình thức tài trợ ứng trước tiền hàng cho người XK để
đổi lấy một cam kết rằng người XK sẽ sử dụng khoản ứng trước vào việc thu
gom hoặc sản xuất hàng hoá để xuất giao và trình bộ chứng từ phù hợp với quy
định của L/C. Ngân hàng thông báo (hoặc ngân hàng xác nhận) khi nhận được
L/C có điều khoản đỏ cùng với sự uỷ quyền của ngân hàng phát hành sẽ ứng tiền
trước khi giao hàng cho nhà XK. Trách nhiệm tài trợ ở đây thuộc về ngân hàng
phát hành. Do đó bất kể kết quả thực hiện hợp đồng của nhà XK như thế nào,
ngân hàng phát hành cũng phải có trách nhiệm trực tiếp đối với việc hoàn trả cho
ngân hàng thông báo (hoặc ngân hàng xác nhận) cả gốc và lãi khoản nợ vay ứng
trước tiền hàng. Nếu nhà NK là người đề nghị khoản ứng trước này cho nhà XK
thì nhà NK sẽ phải chịu trách nhiệm trước ngân hàng về việc bồi hoàn tài trợ nếu

nhà XK không thực hiện nghĩa vụ giao hàng theo quy định của L/C. Như vậy,
trước khi đồng ý thực hiện L/C điều khoản đỏ, nhà NK cần tin tưởng chắc chắn
vào uy tín và năng lực kinh doanh của nhà XK.
• Tài trợ bằng L/C giáp lưng (Back – to – Back L/C)
L/C giáp lưng ra đời khi nhà XK sử dụng một L/C (L/C gốc) do người
- 19 -
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thanh Xuân
nhập khẩu mở cho mình hưởng để làm cơ sở yêu cầu phát hành một L/C khác
(L/C giáp lưng) cho người cung ứng hàng thực sự. L/C giáp lưng thuộc loại
không thể huỷ ngang, được sử dụng phổ biến trong các thương vụ tay ba, trong
đó người hưởng L/C gốc đóng vai trò là trung gian thương mại giữa nhà cung
ứng thực sự và người mua có nhu cầu NK mặt hàng đó.
Nhìn chung, L/C gốc và L/C giáp lưng giống nhau, tuy nhiên cũng có một vài
điểm khác biệt giữa chúng:
- Số chứng từ của L/C giáp lưng phải nhiều hơn L/C gốc
- Kim ngạch của L/C giáp lưng phải nhỏ hơn hơn L/C gốc, khoản chênh
lệch này do người XK trung gian hưởng dùng để trả chi phí mở L/C giáo lưng và
hưởng phần hoa hồng của họ.
- Thời gian giao hàng của L/C giáp lưng phải sớm hơn L/C gốc.
Hình thức này được sử dụng khá phổ biến trong mô hình mua bán trung
gian. Do không đủ khả năng tự thanh toán tiền hàng cho nhà cung ứng nên nhà
XK có thể sử dụng L/C gốc làm cơ sở để phát hành L/C thứ hai cho nhà cung
ứng hàng thực sự. Nhờ đó, nhà XK trung gian có thể tiến hành kinh doanh chênh
lệch giá mà không cần phải bỏ đồng vốn nào. Nhưng nghiệp vụ tài trợ này rất
phức tạp, nó đòi hỏi phải có sự phối hợp khéo léo và chính xác các điều kiện của
L/C gốc và L/C giáp lưng, nếu không bộ chứng từ NH chuyển giao sẽ bị từ chối.
Nhìn chung, NH phát hành L/C giáp lưng sẽ phải đương đầu với nhiều rủi ro liên
quan đến sự phức tạp của chứng từ xuất trình, cũng như uy tín thanh toán, năng
lực kinh doanh và đạo đức kinh doanh của người XK trung gian.
• Tài trợ bằng L/C chuyển nhượng (Transferable L/C)

Là loại L/C không huỷ ngang, theo đó người hưởng lợi thứ nhất chuyển
nhượng một phần hay toàn bộ nghĩa vụ thực hiện L/C cũng như quyền đòi tiền
mà mình có được cho người hưởng lợi thứ hai, mỗi người hưởng lợi thứ hai nhận
- 20 -
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thanh Xuân
cho mình một phần của thương vụ.
Người hưởng lợi thứ nhất thường yêu cầu mở L/C chuyển nhượng trong
những trường hợp sau:
- Khi người hưởng thứ nhất không đủ khả năng cung ứng một phần hoặc
toàn bộ hàng hoá trong L/C và vì vậy muốn chuyển nhượng một phần hoặc toàn
bộ quyền và nghĩa vụ của mình cho người thụ hưởng thứ hai.
- Khi người hưởng lợi thứ nhất không được ngân hàng phục vụ mình đồng
ý phát hành L/C giáp lưng.
- Khi người thụ hưởng thứ nhất hoạt động với tư cách là đại lý hoặc người
cung cấp chính đối với hàng hoá trong L/C cho nhà NK.Giá trị của những L/C
này thường rất lớn và người thụ hưởng thứ nhất chịu trách nhiệm phân bổ nó cho
các nhà cung cấp khác nhau thông qua ngân hàng thông báo.
L/C chuyển nhượng chỉ cho phép chuyển nhượng một lần và người hưởng
lợi ban đầu vẫn bị ràng buộc trách nhiệm với người NK bởi hợp đồng thương
mại, đồng thời phải thanh toán các khoản thủ tục phí, lệ phí chuyển nhượng.
Thông thường người hưởng đầu tiên là một người trung gian kinh doanh bằng
cách bán lại hàng hoá lượng lớn với mức chênh lệch khiêm tốn. Đây là một biện
pháp hỗ trợ cho những nhà XK (hay người hưởng lợi) thiếu vốn hoặc khả năng
tài chính hạn hẹp vì ở đây nhà XK (hay người hưởng lợi) không cần phải đi vay
hoặc dùng vốn của mình để mua hàng từ nhà cung ứng. Mặt khác, nhà XK(hay
người hưởng lợi) cũng không cần phải yêu cầu ngân hàng cho vay bảo đảm
thanh toán số tiền chuyển nhượng vì việc chuyển nhượng được cho phép chính
thức trong nội dung L/C và không cần một cam kết nào của ngân hàng thực hiện
chuyển nhượng.
1.2.2.2. Tài trợ sau khi giao hàng

Trong giao dịch thương mại, nhà XK phải đối mặt với rủi ro thanh toán,
- 21 -
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thanh Xuân
tức là bên mua chậm hoặc mất khả năng thanh toán hay không muốn thanh toán
ngay khi nhận hàng hoặc vào thời điểm trong hợp đồng. Mức độ rủi ro cao hay
thấp phụ thuộc phần lớn vào kỳ hạn tín dụng mà nhà XK cho bên mua được
hưởng, vào bản chất và tình hình kinh doanh của bên mua và năng lực tài chính
của người này. Nhằm hạn chế rủi ro thanh toán, đồng thời bảo đảm vốn cho sản
xuất kinh doanh liên tục, nhà XK khi cần tiền có thể xuất trình bộ chứng từ để
chiết khấu hoặc ứng tiền trước tại ngân hàng đã được chỉ định rõ trong L/C hoặc
ở bất cứ ngân hàng nào.
a) Chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất
Đây là hình thức tài trợ của XK của ngân hàng thông qua việc mua lại
hoặc cho vay căn cứ vào bộ chứng từ hàng hoá. Hoạt động này của ngân hàng
nhằm tài trợ vốn lưu động cho người XK để đảm bảo sản xuất kinh doanh liên
tục, không bị gián đoạn trong thời gian chờ người NK nước ngoài thanh toán tiền
hàng.
Khi chiết khấu bộ chứng từ phải hoàn hảo và xuất trình đúng thời gian quy
định. Ngân hàng mở L/C phải có uy tín trên thị trường quốc tế và có quan hệ
giao dịch thường xuyên với ngân hàng chiết khấu. Tình hình sản xuất kinh doanh
và tình hình tài chính của doanh nghiệp ổn định, đảm bảo khả năng thanh toán,
có uy tín với ngân hàng. Số tiền chiết khấu phải nằm trong hạn mức tín dụng.
Sau khi tiếp nhận bộ hồ sơ từ phía khách hàng, ngân hàng kiểm tra bộ chứng từ
một cách cẩn thận và hợp lý vì nếu bộ chứng từ có sai sót có thể sẽ bị từ chối
thanh toán, ngân hàng sẽ khó thu hồi nợ. Ngân hàng kiểm tra sự phù hợp trên bề
mặt của chứng từ so với các điều khoản đã ghi trong L/C. Ngân hàng xem xét
quyết định tỷ lệ chiết khấu, hiện nay vào khoảng 90% giá trị L/C xuất. Tuy
nhiên, tuỳ từng trường hợp mà ngân hàng sẽ quyết định tỷ lệ chiết khấu. Có hai
hình thức chiết khấu:
- 22 -

Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thanh Xuân
- Chiết khấu miễn truy đòi là hình thức người XK bán hẳn bộ chứng từ
cho ngân hàng và ngân hàng sau khi thanh toán tiền cho nhà XK thì không có
quyền truy đòi tiền nếu bộ chứng từ không được thanh toán. Giá mua sẽ thấp hơn
giá trị bộ chứng từ, do ngân hàng tính trừ lại phí chiết khấu và thời gian cần thiết
trung bình để đòi tiền người NK nước ngoài.
- Chiết khấu truy đòi là hình thức chiết khấu mà ngân hàng sau khi thanh
toán tiền cho nhà XK có quyền truy đòi tiền nếu bộ chứng từ không được thanh
toán. Khi đó, trách nhiệm của nhà XK vẫn còn cho đến khi ngân hàng đòi được
tiền của người NK. Phí chiết khấu được tính dưới hình thức lãi chiết khấu tính
theo ngày và mức phí dĩ nhiên thấp hơn với trường hợp chiết khấu có truy đòi và
điều này cũng đồng nghĩa với việc rủi ro mà ngân hàng phải chịu cũng thấp hơn.
b) Ứng trước tiền hàng cho nhà xuất khẩu
Trường hợp bộ chứng từ không hội đủ điều kiện chiết khấu, có những sai
sót ngân hàng không đồng ý chiết khấu thì nhà XK có thể yêu cầu ngân hàng ứng
trước tiền hàng thông thường tỷ lệ khoảng 50%-60% giá trị hàng xuất.
Ngân hàng tiến hành thu nợ bằng cách gửi bộ chứng từ ra nước ngoài để
đòi nợ, trong vòng 60 ngày kể từ ngày gửi chứng từ đòi tiền mà không nhận
được báo Có của ngân hàng nước ngoài, ngân hàng sẽ tự động ghi Nợ vào tài
khoản tiền gửi của khách hàng. Nếu tài khoản của khách hàng không đủ số dư thì
ngân hàng sẽ chuyển số tiền chiết khấu hoặc ứng trước sang nợ quá hạn trong
vòng 7 ngày làm việc. Khi được thanh toán từ phía ngân hàng nước ngoài, sẽ
khấu trừ trực tiệp khoản vay cùng với các chi phí khác có liên quan.
1.2.2.3. Các hình thức tài trợ khác
• Bao thanh toán tương đối (Factoring)
Đây là hình thức tài trợ XNK ngắn hạn. Bản chất factoring là một nghiệp
vụ chiết khấu các khoản phải thu của nhà XK. Để thực hiện nghiệp vụ này các
- 23 -
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thanh Xuân
NHTM lớn tiến hành thành lập các công ty Factoring và các công ty chuyên môn

này sẽ mua lại các chứng từ thanh toán, các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán
để trở thành chủ nợ trực tiếp đứng ra đòi tiền nợ nhà NK nước ngoài. Để khắc
phục tình trạng nợ đọng trong quá trình thu tiền bán hàng, các công ty Factoring
cung ứng một khoản tiền tương ứng với khoản nợ đó cho doanh nghiệp, đảm bảo
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra liên tục. Tuỳ theo
tính chất hoàn hảo của chứng từ, tình hình tài chính và khả năng thanh toán của
người mắc nợ mà ngân hàng quyết định tỷ lệ mua nợ cao hay thấp.
• Bao thanh toán tuyệt đối
Forfaiting là hình thức tài trợ XK dựa trên việc chiết khấu các khoản nợ
dài hạn phát sinh do XK máy móc, thiết bị có giá trị lớn. Để hỗ trợ cho nhà XK,
ngân hàng sẽ mua lại khoản nợ này và gánh chịu hoàn toàn rủi ro của khoản nợ
đó. Nghiệp vụ Forfaiting nhằm tài trợ cho các nhà XK, giúp họ giảm thời gian
phải chờ thanh toán từ nước ngoài.
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của
Ngân hàng Thương mại
Hoạt động tài trợ ngoại thương mà cụ thể là hoạt động tài trợ XNK là hoạt
động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Do đó, việc mua bán ở đây có
những nét riêng phức tạp hơn nhiều so với mua bán trong nước bởi hoạt động
XNK chịu sự chi phối của nhiều yếu tố nên hoạt động này dễ đem lại kết quả đột
biến rất cao, dễ dàng gặp phải rủi ro, gây ra nhiều thiệt hại cho tất cả các bên
tham gia. Chính vì vậy, ngân hàng trước khi quyết định tài trợ cho khách hàng
thì phải lường trước những nhân tố ảnh hưởng và rủi ro có thể xảy ra. Căn cứ
vào khả năng kiểm soát ảnh hưởng của của ngân hàng đối với những nhân tố
này, ta có thể chia thành:
1.3.1. Nhóm nhân tố khách quan
- 24 -
Khoá luận tốt nghiệp Đinh Thanh Xuân
a) Các nhân tố nước ngoài
Khác với các đơn vị khác, doanh nghiệp kinh doanh XNK không chỉ có
quan hệ kinh doanh với các bạn hàng trong nước mà chủ yếu là các bạn hàng

nước ngoài. Trong mối quan hệ đó, khoảng cách về địa lý, sự khác biệt về ngôn
ngữ, luật pháp và tập quán thanh toán… gây ra rất nhiều khó khăn cho mỗi bên
và do đó tác động đến khả năng thu hồi vốn của ngân hàng.
• Sự khác biệt về đồng tiền
Mỗi quốc gia khác nhau sử dụng một đồng tiền thanh toán khác nhau.
Trong trường hợp tỷ giá ổn định thì việc lựa chọn đồng tiền của quốc gia nào
làm đồng tiền thanh toán không quan trọng, nhưng trên thực tế tỷ giá luôn thay
đổi. Từ đó kéo theo những ảnh hưởng rất lớn tới kết quả kinh doanh mà doanh
nghiệp khó có thể dự đoán được. Như vậy vấn đề đặt ra đối với mỗi ngân hàng
khi ký hợp đồng với khách hàng XNK là phải lường trước được những diễn biến
về tỷ giá từ đó lựa chọn đồng tiền cho vay một cách tối ưu.
Mặt khác việc thanh toán hàng NK cũng phải theo quy chế quản lý ngoại
hối của từng quốc gia. Do đó, ngân hàng khi thực hiện tài trợ không những phải
nắm rõ chế độ quản lý ngoại hối của nước mình mà còn phải nắm rõ quy chế của
nước đối tác.
• Sự khác biệt về luật pháp:
Mỗi quốc gia có chính sách riêng để hỗ trợ XNK thông qua các công cụ
như: hạn ngạch, thuế suất, cơ chế quản lý ngoại hối… Sự khác biệt về luật pháp
giữa các quốc gia cũng gây ra không ít khó khăn cho các doanh nghiệp và cả
ngân hàng.
• Sự khác biệt về khoảng cách địa lý:
Khoảng cách về địa lý làm phát sinh một số vấn đề như thời điểm và
- 25 -

×