Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Thực tiễn đất nước ta trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế thực hiện mục tiêu CNH – HĐH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.42 KB, 23 trang )

Lời mở đầu
Việt Nam đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất - kỹ
thuật thấp kém, trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát triển, quan hệ sản xuất
mới được thiết lập, chưa được hoàn thiện. Vì vậy, quá trình công nghiệp hoá chính
là quá trình xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân. Mỗi bước
tiến của quá trình CNH-HĐH là một bước tăng cường cơ sở vật chất -kỹ thuật cho
CNXH, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản
xuất XHCN. Đặc biệt khi Việt Nam ra nhập WTO ngày 07/11/2006 (chính thức vào
ngày 12/01/2007) thì nền kinh tế Việt Nam càng có sự chuyển dịch cơ cấu rõ ràng.
Đó cũng chính là mục tiêu tổng quát trong sự nghiệp CNH – HĐH của nước ta
được Đảng Cộng Sản Việt Nam xác định tại Đại hội VIII :
Xây dựng nước ta trở thành một Nước có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có
cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với quá trình phát triển của
lực lượng sản xuất, đồi sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững
chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Với tư cách là một trong những nội dung chủ yếu của quá trình CNH – HĐH,
vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình CNH – HĐH luôn được quan tâm
và là một trong những điểm trọng tâm của thời kỳ phát triển kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH đã được Đảng và Nhà
nước ta xác định là con đường tất yếu để Việt Nam nhanh thoát khỏi tình trạng lạc
hậu, chậm phát triển trở thành một quốc gia văn minh, hiện đại.
1
Chương I: Lý luận về việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong tiến trình CNH –
HĐH
1. Những vấn đề chung về CNH – HĐH.
1.1. Khái niệm về CNH – HĐH.
Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (1/1994) đã có bước đột phá mới trong nhận
thức về CNH - HĐH. Bước đột phá này thể hiện trước hết ở nhận thức về quan
điểm CNH, HĐH.
“ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao


động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công
nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển công
nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
1.2. Mục tiêu của CNH – HĐH.
- Là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật
hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng -
an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
- Để thực hiện mục tiêu trên, ở mỗi thời kỳ phải đạt được những mục tiêu cụ
thể. Đại hội X xác định mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri
thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng đến năm
2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
1.3. Phương hướng CNH – HĐH theo các ngành kinh tế quốc dân.
 Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề
nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
• Một là, về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn: chuyển dịch mạnh cơ cấu nông
nghiệp và kinh tế nông thôn theo định hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao,
gắn với công nghiệp chế biến và thị trường. Đẩy mạnh tiến bộ khoa học - kỹ thuật
và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh
tranh của nông sản hàng hóa, phù hợp đặc điểm từng vùng và từng địa phương.
Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch
vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp.
• Hai là, về quy hoạch và phát triển nông thôn: khẩn trương xây dựng các quy hoạch
phát triển nông thôn, thực hiện chương trình nông thôn mới; hình thành các khu dan
cư đô thị với kết cấu kinh tế - xã hội đồng bộ; phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi
với việc xây dựng nếp sống văn hóa, nâng cao trình độ dân trí , bảo đảm an ninh,
trật tự , an toàn xã hội.
• Ba là, giải quyết vấn đề lao động, việc làm ở nông thôn: chú trọng dạy nghề , giải
quyết việc làm cho nông dân. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng
giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng làm công nghiệp và

2
dịch vụ. tạo điều kiện để lao động nông thôn có việc làm trong và ngoài khu vực
nông thôn, kể cả đi lao động nước ngoài; đầu tư mạnh cho các chương trình xóa đói
giảm nghèo.
 Phát triển nhanh hơn công nghiệp , xây dựng và dịch vụ
• Một là, đối với công nghiệp và xây dựng : khuyến khích phát triển công nghiệp
công nghệ cao, công tác chế tác, công nghệ phần mềm và công nghệ bổ trợ có lợi
thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển
một số khu vực kinh tế mở và đặc khu kinh tế ; nâng cao hiệu quả các khu công
nghiệp và các khu chế xuất; tích cực thu hút vốn trong và ngoài nước để thực hiện
các dự án quan trọng, hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô. Có chính sách thu hút
chuyên gia giỏi ở nước ngoài; xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kỹ thuật kinh tế -
xã hội, phát triển công nghiệp nặng gắn với công nghệ tiết kiệm năng lượng, tăng
nhanh năng lực và HĐH bưu chính viễn thông.
• Hai là, đối với dịch vụ: tạo bước phát triển vượt bậc các ngành dịch vụ, nhất là
những ngành có chất lượng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh; ở rộng và
nâng cao các ngành dịch vụ truyền thống như vận tải, thương mại, ngân hàng, bưu
chính viễn thông, du lịch. Phát triển mạnh các dịch vụ phục vụ sản xuất nông, lâm,
ngư nghiệp; phục vụ đời sống khu vực nông thôn; đổi mới cơ chế quản lý và
phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng.
 Phát triển kinh tế vùng
• Một là, có cơ chế chính sách phù hợp để các vùng trong nước phát triển nhanh hơn
trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của từng vùng , đồng thời tạo ra sự liên kết giữa
các vùng , khắc phục tình trạng chia cắt khép kín theo địa giới hành chính.
• Hai là, xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam
để tạo động lực phát triển và sự lan tỏa đến các vùng khác, có chính sách trợ giúp
nhiều hơn về nguồn lực để phát triển các vùng khó khăn.
 Phát triển kinh tế biển
• Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển ( hệ thống cảng biển và
vận tải biển, công nghiệp đóng tàu, khai thác và chế biến dầu khí, khai thác và chế

biến hải sản, phát triển du lịch, …. ) sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về
kinh tế biển trong khu vực , gắn với đảm bảo quốc phòng – an ninh và hợp tác quốc
tế.
 Chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu công nghệ
• Một là, phát triển nguồn nhân lực có cơ cấu đồng bộ và chất lượng cao ; giảm tỷ lệ
lao động trong nông nghiệp.
• Hai là, lựa chọn và đi ngay vào công nghệ hiện đại ở một số ngành và lĩnh vực then
chốt. chú trọng phát triển công nghệ cao để tạo đột phs và công nghệ sử dụng nhiều
lao động để giải quyết việc làm.
• Ba là, kết hợp chặt chẽ giưa hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục và đào
tạo. thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài.
3
• Bốn là, đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, đặc biệt là cơ chế tài chính.
 Bảo vệ, sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên
• Một là, tăng cường quản lý tài nguyên quốc gia. Quan tâm đầu tư vào lĩnh vực môi
trường , khắc phục tình trạng xuống cấp môi trường . ngăn chặn các hành vi hủy
hoại và gây ô nhiễm môi trường ; thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải xử
lý ô nhiếm hoặc chi trả cho việc xử lý ô nhiễm.
• Hai là, từng bước hiện đại hóa công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng thủy văn, chủ
động phòng chống thiên tai, tìm kiếm, cứu nạn.
• Ba là , xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát triển kinh tế và đô thị hóa với
bảo vệ môi trường, đảm bảo phát triển bền vững
• Bốn là, mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên thiên
nhiên, chú trọng lĩnh vực quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên nước
1.4. Quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH.
• Phát triển LLSX - cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH trên cơ sở thực hiện cơ khí
hóa nền sản xuất xã hội và áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật CNH, HĐH:
- Cải tiến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng máy móc, tức là
phải cơ khí hóa nền kinh tế quốc dân. Đó là bước chuyển đổi căn bản từ nền kinh tế
nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp.

- Đồng thời phải hiện đại hóa các ngành để nhằm nâng cao NSLĐ cũng như
chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Đi liền với cơ khí là điện khí hóa, tự động hóa sản
xuất từng bước và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Sự nghiệp CNH – HĐH đòi hỏi phải xây dựng và phát triển mạnh mẽ các ngành
công nghiệp (vì đây là ngành chế tạo ra TLSX), là “đòn neo” để cải tạo, phát triển
kinh tế quốc dân, phát triển kinh tế khu vực nông – lâm – ngư nghiệp.
- Sử dụng kỹ thuật công nghệ cao làm tăng NSLĐ xã hội, chất lượng, đời sống
xã hội nâng cao. Đồng thời sản phẩm tốt dẫn đến cạnh tranh hàng hóa, nền kinh tế
thị trường phát triển. Do đó ngành dịch vụ phải được quan tâm, chú trọng đặc biệt
• Rút ngắn khoảng cách tụt hậu giữa nước ta với các nước tiên tiến
• Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa các doanh nghiệp, nền kinh tế để từ đó tham
gia hội nhập kinh tế quốc tế ở thế chủ động.
2. Những khái niệm chung về cơ cấu kinh tế.
2.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các quan hệ kinh tế hợp thành nền kinh tế quốc dân,
nền kinh tế của một địa phương, một cơ sở. Các quan hệ này có mối quan hệ chặt
chẽ và tác động lẫn nhau tồn tại như một chính thể mang tính hệ thống, thường
được thể hiện ở chất lượng, nhịp độ phát triển và tỷ trọng giá trị của từng bộ phận
cấu thành tổng thể diễn ra trong điều kiện kinh tế xã hội nhất định nhằm thực hiện
mục tiêu phát triển nền kinh tế trong từng thời kỳ.
4
2.2. Phân loại cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế có nhiều cách phân loại khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên
cứu, qua những thay đổi của các từng loại mà đánh giá được những thay đổi của cơ
cấu hay sự chuyển dịch của các bộ phận cầu thành. Thường người ta phân chia
thành cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu thành phần kinh tế.
a. Cơ cấu ngành kinh tế:
Là tổ hợp các ngành hợp thành các tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối liên hệ giữa
các nhóm ngành của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành phản ánh phần nào trình
độ phân công lao động xã hội chung của nền kinh tế và trình độ phát triển của lực

lượng sản xuất. Khi phân tích cơ cấu ngành của một quốc gia người ta thường phân
tích theo 3 nhóm ngành chính:
- Nhóm ngành nông nghiệp: Gồm các ngành nông lâm, ngư nghiệp.
- Nhóm ngành công nghiệp: Gồm các ngành công nghiệp và xây dựng.
- Nhóm ngành dịch vụ: Gồm thương mại, du lịch…
Chúng ta cần nghiên cứu loại cơ cấu này nhằm tìm ra cách thức duy trì tính tỷ
lệ hợp lý của chúng và những lĩnh vực cần ưu tiên tập trung cao nguồn lực có hạn
của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ nhằm thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân một cách nhanh nhất, có hiệu quả nhất.
b. Cơ cấu vùng, lãnh thổ kinh tế:
Nếu cơ cấu ngành kinh tế hình thành từ quá trình phân công lao động xã hội và
chuyên môn hoá sản xuất thì cơ cấu vùng - lãnh thổ lại được hình thành chủ yếu từ
việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý. Cơ cấu vùng - lãnh thổ kinh tế và cơ cấu
ngành kinh tế thực chất là hai mặt của một hệ thống nhất và đều là biểu hiện của sự
phân công lao động xã hội. Cơ cấu vùng lãnh thổ hình thành gắn liền với cơ cấu
ngành và thống nhất trong vùng kinh tế. Trong cơ cấu vùng - lãnh thổ kinh tế có sự
biểu hiện của cơ cấu ngành trong điều kiện cụ thể của không gian lãnh thổ. Loại cơ
cấu này phản ánh những mối liên hệ kinh tế giữa các vùng lãnh thổ của một đất
nước trong hoạt động kinh tế. Thông thường cơ cấu này bao gồm cơ cấu khu vực
kinh tế thành thị và nông thôn, khu vực kinh tế trọng điểm và phi trọng điểm, khu
vực kinh tế đồng bằng và miền núi…
c. Cơ cấu thành phần kinh tế:
Nếu như phân công lao động sản xuất đã là cơ sở hình thành cơ cấu ngành và
cơ cấu lãnh thổ - vùng, thì chế độ sở hữu là cơ sở hình thành cơ cấu thành phần kinh
tế. Cơ cấu thành phần kinh tế cũng là nhân tố tác động đến cơ cấu ngành kinh tế và
cơ cấu vùng - lãnh thổ. Sự tác động đó là biểu hiện sinh động của mối quan hệ giữa
các loại cơ cấu trong nền kinh tế. Loại cơ cấu này phản ánh các mối quan hệ giữa
con người trong quá trình sản xuất trong đó nổi bật lên hàng đầu là quan hệ sở hữu
đối với các tư liệu sản xuất. Mô hình chung về số lượng thành phần kinh tế trong
5

nền kinh tế các nước bao gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân,
kinh tế hỗn hợp. Tỷ lệ giữa các thành phần kinh tế này thường không giống nhau.
Điều này tạo ra tính đặc thù trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia
cũng như trong mỗi giai đoạn phát triển của từng quốc gia.
Trên đây là ba bộ phận cơ bản hợp thành cơ cấu kinh tế trong đó cơ cấu ngành
kinh tế có vai trò quan trọng hơn cả cơ cấu ngành và thành phần kinh tế chỉ có thể
được chuyển dịch đúng đắn trên phạm vi không gian lãnh thổ và trên phạm vi cả
nước. Mặt khác việc phân bố không gian vùng một cách hợp lý có ý nghĩa quan
trọng thúc đẩy phát triển các ngành và thành phần kinh tế trên vùng, lãnh thổ kinh
tế.
3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
3.1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Chuyến dịch cơ cấu là sự thay đổi của cơ cấu kinh tế theo thời gian từ trạng thái
và trình độ này tới một trạng thái và trình độ khác phù hợp với sự phát triển kinh tế
xã hội và các điều kiện vốn có nhưng không lặp lại trạng thái cũ.
3.2. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta.
a. Do yêu cầu tất yếu của sự nghiệp CNH – HĐH
 Phát triển lực lượng sản xuất – cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội trên cơ sở thực
hiện cơ khí hóa nến sản xuất xã hội và áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật
công nghệ hiện đại.
- Cải tiến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng
máy móc tức là phải cơ khí hóa nền kinh tế quốc dân. Đó là bước chuyển đổi căn
bản từ nông nghiệp sang công nghiệp.
- Đồng thời phải hiện đại hóa các ngành nhằm nâng cao năng suất lao động
cũng như chất lượng sản phẩm hàng hóa. Đi liền với cơ khí hóa là điện khí hóa, tự
động hóa sản xuất từng bước vào trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Sự nghiệp CNH – HĐH đòi hỏi phải xây dựng và phát triển mạnh mẽ các
ngành công nghiệp (vì đây là ngành chế tạo ra tư liệu sản xuất), là đòn bẩy để cải
tạo phát triển nền kinh tế quốc dân, phát triển khu vực kinh tế nông – lâm – ngư
nghiệp.

- Sử dụng kỹ thuật công nghệ cao sẽ làm tăng năng suất lao động xã hội. Đồng
thời, sản phẩm tốt đãn đến sức cạnh tranh hàng hóa làm cho thị trường phát triển.
Do đó ngành dịch vụ phải được quan tâm chú trọng đặc biệt.
 Rút ngắn khoảng cách tụt hậu xa về kinh tế giữa nước ta với các nước tiên tiến
 Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa các doanh nghiệp, cả nền kinh tế để từ đó
tham gia hội nhập kinh tế quốc tế ở thế chủ động.
b. Do yêu cầu của việc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
6
Quá trình hình thành và phát triển của các ngành kinh tế đặc biệt là những
ngành có hàm lượng khoa học cao, sự xuất hiện của các vùng sản xuất chuyên canh
tập trung… không chỉ là biểu hiện của sự phát triển lực lượng sản xuất, phát triển cơ
sở vật chất kỹ thuật trong tiến trình CNH – HĐH mà còn làm cơ cấu kinh tế thay
đổi hợp lý.
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp sẽ tạo ra tư liệu sản xuất cho ngành
nông nghiệp để ngành nông nghiệp ngày càng sản xuất nhiều sản phẩm đạt chất
lượng tốt mà lực lượng sản xuất tập trung trong ngành này càng giảm hơn.
Mạng lưới dịch vụ với tư cách là một ngành kinh tế phát triển có thể phục vụ
tốt hơn cho sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp.
c. Do yêu cầu tất yếu của việc nâng cao sức cạnh tranh chủ động hội nhập kinh
tế khu vực, quốc tế.
Trong việc mở cửa đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên trọng
điểm giảm thiểu lượng tư liệu sản xuất cũng như hàng hóa nhập khẩu. Như vậy kinh
tế trong nước mới phát triển, đời sống nhân dân mới được nâng cao.
Mở rộng quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước khác trở thành một tất yếu
kinh tế, tạo khả năng để nước ta tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm tổ
chức quản lý… nâng cao tỷ trọng kinh tế ngành công nghiệp mũi nhọn.
Muốn xây dựng nền kinh tế mới đòi hỏi phải điều chỉnh cơ cấu kinh tế vừa hội
nhập khu vực, vừa hội nhập toàn cầu
Như vậy, để đưa Việt Nam thoát khỏi nhóm nước có nền kinh tế lạc hậu, yếu

kém, đời sống nhân dân tăng cao, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế là điều tất yếu,
khách quan.
7
Chương II: Thực tiễn đất nước ta trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế thực
hiện mục tiêu CNH – HĐH
1. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Trong hơn hai thập kỷ qua, nền kinh tế Việt Nam không những tăng trưởng
tương đối cao mà cơ cấu kinh tế có sự dịch chuyển rõ nét theo hướng HĐH. Tỷ
trọng đóng góp của ngành nông - lâm - thủy sản có xu hướng giảm dần. Trong khi
đó, các ngành công nghiệp và xây dựng ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, còn tỷ trọng
của ngành dịch vụ được duy trì khá ổn định. Xét trong từng nhóm ngành, cơ cấu
ngành kinh tế cũng có sự thay đổi tích cực. Trong nhóm ngành nông - lâm - thủy
sản, tỷ trọng của ngành nông nghiệp và lâm nghiệp đã giảm, nhường chỗ cho ngành
thủy sản tăng lên. Trong cơ cấu ngành công nghiệp, tỷ trọng của ngành công nghiệp
chế tác cũng không ngừng tăng. Cơ cấu ngành dịch vụ cũng thay đổi theo hướng
tăng nhanh tỷ trọng của các ngành dịch vụ có chất lượng cao như tài chính, ngân
hàng, bảo hiểm, du lịch,
1.1. Nhóm ngành nông – lâm – ngư nghiệp
- Ngành nông nghiệp.
Trong giai đoạn 2006 – 2010, ngành nông nghiệp tiếp tục phát triển với nhịp độ
khá cao chủ yếu theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; an ninh
lương thực được đảm bảo.
Theo ước tính của Tổng cục Thống kê, tốc độ tăng trưởng của ngành năm 2010
vẫn đạt 2,8% (năm 2009 đạt 1,83%). Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006 -
2010 đạt 3,36%/năm, vượt mức mục tiêu 3 - 3,2%/năm của Đại hội Đảng X đề ra và
kế hoạch 5 năm của ngành. Giá trị sản xuất toàn ngành bình quân tăng 4,93%/năm
(mục tiêu kế hoạch là 4,5%) trong giai đoạn 2006 - 2010.
- Ngành thủy sản
8
Ngành thuỷ sản tiếp tục phát triển mạnh mẽ trên cả hai hướng khai thác và nuôi

trồng thuỷ sản, đang trở thành ngành chủ lực trong nông nghiệp.
Tốc độ tăng GTSX thuỷ sản dù chưa đạt chỉ tiêu kế hoạch của Chính phủ là
10,5%/năm nhưng cũng đạt mức khá cao trong 5 năm 2006-2010 (Bình quân
7,5%/năm).
Tỷ trọng GTSX thuỷ sản trong tổng giá trị sản xuất nông lâm thuỷ sản tăng từ
21,26% năm 2005 lên 24,26% năm 2010.
Sản lượng thuỷ sản khai thác đã tăng từ 1.987,9 ngàn tấn năm 2005 lên 2.395
ngàn tấn năm 2010, tăng 407 ngàn tấn.
Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng tăng nhanh từ 1,47 triệu tấn năm 2005 lên 2,8
triệu tấn năm 2010, bình quân mỗi năm tăng 266 ngàn tấn.
Cơ cấu giá trị sản xuất thủy sản tiếp tục có sự chuyển đổi theo hướng tăng
nhanh giá trị nuôi trồng từ 59,2% năm 2005 lên 67% năm 2010; ngược lại giá trị
khai thác đánh bắt giảm từ 40% năm 2005 xuống còn 33% năm 2010.
- Ngành lâm nghiệp
Ngành lâm nghiệp hoàn thành cơ bản nhiệm vụ Dự án trồng mới 5 triệu ha, giá
trị tăng trưởng liên tục tăng ở mức cao.
Tăng trưởng giá trị sản xuất lâm nghiệp từ 1,2% năm 2005 lên 4% năm 2010,
bình quân mỗi năm tăng 3%, vượt chỉ tiêu kế hoạch của Chính phủ (chỉ tiêu 2,3%).
Lâm nghiệp đã có chuyển biến theo hướng từ hoạt động khai thác là chính sang
bảo vệ rừng tự nhiên, tăng cường giao khoán bảo vệ rừng, thực hiện chủ trương
rừng có chủ nên rừng tự nhiên được khôi phục nhanh. Hoạt động lâm nghiệp đã
thực sự chuyển từ chủ yếu dựa vào quốc doanh sang phát triển lâm nghiệp xã hội
với nhiều thành phần kinh tế tham gia.
Trong giai đoạn 2006 - 2010, ngành lâm nghiệp tiếp tục triển khai Dự án 661
trên phạm vi cả nước theo các mục tiêu, nhiệm vụ đã được điều chỉnh theo Nghị
quyết 73/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006, đã đạt được kết quả cao: diện
tích trồng rừng mới cả nước đạt 1,091 triệu ha; khoán bảo vệ rừng 2.507.355 ha. Độ
che phủ rừng tăng từ 37,1% năm 2005 lên 39,5% năm 2010, trong 5 năm 2006 –
2010 tăng thêm 2,4%.
1.2. Nhóm ngành công nghiệp – xây dựng

Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP ngành công nghiệp – xây dựng giai đoạn
2006 – 2009 (%)
9
Năm 2006 2007 2008 2009
CN khai thác mỏ 0,58 - 2,03 - 3,83 7,62
CN chế biến 12,42 12,79 10,05 2,76
CN gas, điện, nước 12,07 11,93 11,89 9,02
Xây dựng 11,05 12,01 0,02 11,36
Nguồn:Tổng cục Thống kê (2009)
Kết quả kế hoạch 5 năm 2006 – 2010: Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp
đạt xấp xỉ thời kỳ phát triển ổn định. Tính chung cả năm 2010, giá trị sản xuất công
nghiệp tăng 14% so với năm 2009 và cao hơn kế hoạch năm (12%). Trong đó khu
vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng cao
hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của toàn ngành.
Ngành xây dựng đạt tốc độ tăng trưởng cao ngay từ đầu năm do việc tăng cường
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và sự phát triển của thị trường bất động
sản. Giá trị sản xuất ngành xây dựng tăng 22,5% so với năm 2009.
Giá trị gia tăng toàn ngành công nghiệp và xây dựng năm 2010 tăng 7,7% (kế
hoạch là 7%), trong đó công nghiệp tăng 7,03% và xây dựng tăng 10,06%.
Bảng 2: Tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp theo thành phần kinh
tế, 2005-2009 (%)
2005 2006 2007 2008 2009
Tổng số 17,2 17 17,1 14,6 7,6
Khu vực DNNN 8,7 9,1 10,3 4 3,7
Trung ương 13,1 11,9 13,3 5,5 5,5
Địa phương -2,0 2,0 3,0 -0,8 -2,9
10
Khu vực ngoài Nhà nước 24,1 23,9 20,9 18,8 9,9
Khu vực có vốn ĐTNN 20,9 18,8 18,2 18,6 8,1
Dầu mỏ và khí đốt -4,6 -6,5 -7,3 -4,3 9,2

Các ngành khác 28,1 25,4 23,2 21,1 8,0
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2009)
1.3. Ngành dịch vụ
Bảng 3: Tốc độ tăng trưởng ngành dịch vụ 2006 – 2009 (%)
Năm 2006 2007 2008 2009
Dịch vụ 8,29 8,68 7,2 6,63
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2009)
Trong số ba khu vực: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ thì ngành dịch vụ
tiếp tục là ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong năm 2009. Diễn biến trong
năm 2009, khu vực dịch vụ cũng đã thể hiện sự hồi phục khi tốc độ tăng trưởng cả
năm của hầu hết tất cả các ngành dịch vụ đều cao hơn vào những quý cuối năm.
Ngoại trừ khách sạn, nhà hàng vẫn còn khó khăn, những ngành có tỷ trọng lớn trong
khu vực dịch vụ đều có mức tăng trưởng cao so với mức tăng bình quân của toàn
khu vực, như thương mại, vận tải, bưu điện, quản lý nhà nước, giáo dục và đào tạo.
Nhìn chung, toàn bộ khu vực dịch vụ tăng trưởng khá đồng đều, chỉ những ngành
phụ thuộc vào yếu tố bên ngoài như du lịch, khách sạn (khách quốc tế năm nay
giảm mạnh) và ngành kinh doanh bất động sản là có tốc độ tăng trưởng thấp.
Hình 1: Tỷ trọng các ngành dịch vụ trong GDP ngành dịch vụ, 2009 (%)
Nguồn: Thống cục Thống Kê (2009)
1.4. Tổng thể cơ cấu ngành kinh tế.
Thúc đấy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh CNH, HĐH là một trong
những định hướng trong chiến lược Phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 của nước ta.
Dưới đây là biểu đồ thể hiện cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam qua 1 số năm:
Nguồn: Niên giám Thống kê
11
Sự tích cực của cơ cấu kinh tế trong những năm qua được thể hiện rõ nhất ở
chỗ chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH. Thời kỳ từ năm 1990 trở về trước, tỷ
trọng Khu vực I (nông, lâm, thủy sản) cao nhất trong 3 khu vực, với nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu, lương thực là trọng điểm số một là phù hợp, bởi là nước nông
nghiệp nhưng lại độc canh cây lúa, mà vẫn phải nhập khẩu lớn lương thực, một

phần không nhỏ thực phẩm, người sản xuất lương thực mà “tối thiểu mười ba, tối đa
mười tám” (là số kg lương thực gồm cả thóc, ngô, khoai, sắn… quy thóc, nếu quy
gạo chỉ đạt 8- 13 kg/tháng), còn phi nông nghiệp được phân phối thông qua tem
phiếu.
Khu vực II (công nghiệp) và khu vực III (dịch vụ) còn chiếm tỷ trọng nhỏ. Điều
đó chứng tỏ “phi nông bất ổn”. Từ năm 1991 trở đi, khi Việt Nam thoát dần ra khỏi
cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, đi vào ổn định, khi an ninh lương thực đã được
bảo đảm, xuất khẩu lương thực có khối lượng lớn đứng thứ hai, thứ ba thế giới,
nông nghiệp đã có điều kiện phát triển tương đối toàn diện, thì “phi công bất phú”,
“phi thương bất hoạt”; đồng thời nhờ đổi mới, mở cửa hội nhập, nên tăng trưởng
Khu vực II và Khu vực III đạt tốc độ nhanh hơn, tỷ trọng của hai khu vực này đã
cao lên. GDP bình quân đầu người đã tăng nhanh, tích luỹ và đầu tư đã tăng lên,
đưa đến sự chuyển dịch vị thế quốc gia theo mong ước từ nhiều đời…
Từ năm 2007 trở lại đây chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu làm cho tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến đổi phức tạp, khó lường,
nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn,thách thức tuy nhiên cơ cấu ngành
kinh tế và nôi bộ ngành đã chuyển dịch tích cực. Tổng sản phẩm trong nước(GDP)
năm 2008 theo giá so sánh 1994 tăng 6,23% so với năm 2007, trong đó khu cực
nông – lâm – ngư nghiệp tăng 3,79%, khu cực công nghiệp và xây dựng tăng
6,33%, khu vực dịch vụ tăng 7,2%. Năm 2009, GDP tăng 5,32% bao gồm khu vực I
tăng 1,83%, khu vực II tăng 5,52% và khu vực III tăng 6,63%
Bảng 4: Tốc độ tăng trưởng GDP và các ngành kinh tế thời kỳ 2007-2009 (%)
2007 2008 2009
Nông nghiệp 3,4 3,79 1,83
Công nghiệp 10,6 6,33 5,52
12
Dịch vụ 8,69 7,2 6,63
Tổng 8,48 6,23 5,32
Cùng với sự thay đổi mạnh mẽ tỷ trọng, giá trị sản lượng của các ngành công
nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ cùng thay đổi mạnh, cụ thể mức tăng khu vực nông

nghiệp năm 2008 cao hơn mức tăng năm 2007 và 2006 chủ yếu do sản xuất nông
nghiệp được mùa, sản lượng lúa cả năm tăng 2,7 triệu tấn so với năm 2007 và là
mức tăng cao nhất trong vòng 11 năm trở lại đây Tăng trưởng khu vực công nghiệp
và xây dựng năm 2008 đạt mức thấp hơn so với năm 2007 chủ yếu do sản xuất của
ngành công nghiệp khai thác giảm nhiều so với năm trước, công nghiệp chế biến
chiếm tỷ trọng 63,5% trong tổng giá trị tăng thêm nông nghiệp nhưng gía trị tăng
thêm chỉ ở mức 10%, thấp hơn mức tăng 12,8% của năm 2007, đặc biệt năm 2007
ngành này tăng ở mức 12%. Hoạt động của khu vực dịch vụ tuy ổn định hơn so với
khu vực công nghiệp và xây dựng nhưng giá trị tăng them vẫn thấp hơn mức tăng
8,7% của năm trước.
GDP tính theo giá thực tế năm 2008 tăng cao với mức tăng trưởng và tăng giá
khác nhau ở 3 khu vực nên cơ cấu kinh tế năm 2008 tăng ở 3 khu vực nông lâm
nghiêp thủy sản và giảm ở khu vực công nghiệp và xây dựng. Tuy nhiên xu hướng
này chỉ tạm thời trong bối cảnh đặc biệt của năm 2008 với sự tăng chậm lại của khu
vực công nghiệp và xây dựng và giá nông, lâm, thủy sản tăng cao. Tỷ trọng khu vực
nông, lâm và thủy sản chiếm 21,99% GDP, khu vực công nghiệp và xây dựng
chiếm 39,91%, khu vực dịch vụ 38,1%.
Nhìn chung từ năm 2007 trở lại đây sự tăng nhanh trong tỷ trọng giá trị trong
GDP của các ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, đồng thời giảm dần tỷ trọng
trong GDP các ngành nông - lâm - ngư nghiệp đã khẳng định cơ cấu kinh tế nước ta
đang chuyển dịch theo hướng CNH – HĐH.
2. Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế
2.1. Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế
Cùng với xu hướng chung của toàn nền kinh tế, trong 3 năm 2007 – 2009 tăng
trưởng kinh tế của tất cả các khu vực theo thành phần sở hữu đều giảm dần. Tuy
13
nhiên, tốc độ tăng trưởng của các khu vực khác nhau đáng kể, theo đó khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài có mức tăng trưởng cao nhất, và khu vực nhà nước có mức
tăng trưởng thấp nhất.
Năm 2008 – 2009 tốc độ tăng giá trị tăng trưởng của khu vực kinh tế ngoài nhà

nước đã tụt giảm mạnh, tương ứng đạt 2,0% và 2,3%, trong đó khu vực kinh tế
ngoài nhà nước có tốc độ tăng trưởng giá trị tăng trưởng cao, tương ứng đạt 8,4%
và 6,6%; gấp hơn ba lần mức đóng góp cho tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực
kinh tế nhà nước. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, mặc dù đã bị tác động
xấu từ cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu như các khu vực sở
hữu khác, vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng GTTT cao nhất với mức 10,2% năm
2008 và 8,8% năm 2009.
Cơ cấu kinh tế theo thành phần sở hữu đã có sự thay đổi đáng kể (bảng 5). Tuy
nhiên, do độ trễ của đầu tư so với sản xuất, thay đổi cơ cấu kinh tế theo sở hữu chủ
yếu là kết quả của đầu tư tong nước cách đây 3 – 5 năm dưới tác động của Luật
Doanh nghiệp. Tỷ trọng GDP của khu vực kinh tế nhà nước giảm dần, chỉ còn
33,2% năm 2009 so với 35,9% năm 2007. Tỷ trọng GDP của khu vực kinh tế ngoài
nhà nước tiếp tục xu hướng tăng từ 46,1% năm 2007 lên 45,7% năm 2009.
Bảng 5: Tốc độ tăng trưởng và cơ cấu kinh tế theo thành phần sở hữu 2005 –
2009 (%)
Khu vực kinh tế 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Tăng trưởng theo giá 1994 (%)
Kinh tế nhà nước 7.75 7.37 6.17 6.02 2.05 2.32
Kinh tế ngoài quốc doanh 6.95 8.21 8.22 9.38 8.37 6.65
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 11.51 13.22 15.22 12.81 10.22 8.77
Tốc độ tăng GDP 7.79 8.44 8.23 8.48 6.15 5.32
Cơ cấu GDP theo giá thực tế (%)
Kinh tế nhà nước 39.10 38.40 37.38 35.93 34.35 33.17
Kinh tế ngoài quốc doanh 45.76 45.61 45.63 46.12 46.97 47.51
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 15.13 15.99 16.98 17.96 18.68 19.32
Tổng GDP 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0
Nguồn: Tổng cục Thống kê
2.2. Dịch chuyển cơ cấu vùng kinh tế vùng
14
Cơ cấu kinh tế theo vùng đang chuyển dịch tương ứng với sự chuyển dịch cơ

cấu ngành. Trong nông nghiệp đang hình thành và phát triển các vùng nông nghiệp
sản xuất hàng hoá (Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và miền núi, trung du phía Bắc
chuyên môn hoá về trồng và chế biến cây công nghiệp; đồng bằng sông Cửu Long
và đồng bằng sông Hồng chuyên môn hoá về lương thực - thực phẩm). Trong công
nghiệp đang phát triển các khu công nghiệp tập trung, các khu chế xuất ở các tỉnh,
thành phố có lợi thế về vị trí địa lí, tài nguyên thiên nhiên, các công trình kết cấu hạ
tầng, nguồn lao động kỹ thuật. Các trung tâm công nghiệp mới đang hình thành.
Hiện nay, trên cả nước có 6 vùng kinh tế lớn: vùng trung du và miền núi Bắc
Bộ, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung,
vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ, vùng đồng bằng sông Cửu Long. Các địa
phương cũng đẩy mạnh việc phát triển sản xuất trên cơ sở xây dựng các khu công
nghiệp tập trung, hình thành các vùng chuyên canh cho sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, chế biến, nuôi trồng thuỷ sản, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá trên
cơ sở điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội của từng vùng. Điều này tạo thuận lợi cho
phát triển công nghiệp chế biến, góp phần tạo nên xu hướng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng CNH – HĐH.
- Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ, gồm 14 tỉnh, với tổng diện tích tự nhiên
95.346km2, chiếm khoảng 29% diện tích cả nước. Đây là địa bàn chiến lược quan
trọng về kinh tế, xã hội, an ninh - quốc phòng và đối ngoại của cả nước; có vai trò
to lớn về môi trường sinh thái của cả vùng Bắc bộ với nhiều tiềm năng lợi thế về
nông – lâm nghiệp, thuỷ điện, khoáng sản, du lịch, kinh tế cửa khẩu. Phát huy
những lợi thế của mình, trong năm 2010, hoạt động công nghiệp, thương mại trong
khu vực tăng trưởng khá. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng trưởng bình quân 9,5%.
Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ trên thị trường xã hội tăng bình quân 19,2%.
Kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng bình quân 22%. Giá trị gia tăng nông, lâm ngư
nghiệp chiếm 11,4%; công nghiệp xây dựng chiếm 3,8% và khu vực dịch vụ chiếm
5,5% so với cả nước (giá thực tế năm 2008).Cơ cấu kinh tế ngành đang có sự
chuyển dịch đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ từ 47,9% năm 1995 lên
54,8% năm 2000 và 62% năm 2008, sau khủng khoảng giảm còn 58,4%. Tỷ trọng
GDP nông lâm ngư nghiệp giảm từ 52,1% năm 1995 xuống 45,2% năm 2000 và

38% năm 2005, lại tăng lên 40,6% năm 2008. Cơ cấu kinh tế đang có sự chuyển
biến nhưng còn rất chậm, chủ yếu là sản xuất nông, lâm nghiệp. sản xuất còn nhiều
lạc hậu, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, GDP bình quân đầu người còn thấp,
GDP bình quân đầu người của vùng năm 2008 mới đạt 8,5 triệu đồng/người.năm.
- Vùng đồng bằng sông Hồng bao gồm 11 tỉnh và thành phố là Hà Nội. Diện
tích tự nhiên là 14.862 km
2
(chiếm 4,5% diện tích cả nước), với khoảng 10,7 triệu
lao động đang làm việc và 85% số này ở trong độ tuổi 15 – 44. Năm 2008, GDP
toàn vùng khoảng 20,2 tỷ USD, chiếm 22,6% và đứng thứ hai trong cả nước (sau
15
vùng Đông Nam Bộ); GDP/người của vùng đạt khoảng 1.025 USD; kim ngạch xuất
- nhập khẩu của vùng ĐBSH ước đạt khoảng 63,6 tỷ USD, trong đó xuất khẩu là
khoảng 18,9 tỷ USD, chiếm30% so cả nước (đứng thứ hai trong cả nước sau
vùng ĐNB). Tốc độ tăng trưởng thời kỳ 2001 - 2008 của Vùng ĐBSH (7,3%) tuy
chưa đạt được kỳ vọng nhưng đã đóng góp 23,7% cho tăng trưởng của cả nước. Tốc
độ tăng trưởng công nghiệp và ngành dịch vụ ở mức khá đã tạo ra một cơ cấu
GDP tương đối hiện đại cho vùng ĐBSH tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp
chiếm trên 80%, trong đó ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất, hơn 41%.
- Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung bao gồm 14 tỉnh, thành phố dọc
theo quốc lộ 1 từ Thanh Hóa đến Bình Thuận. Diện tích tự nhiên vùng Bắc Trung
bộ và Duyên Hải Trung Bộ năm 2009 là khoảng 9,6 triệu ha (vùng Bắc Trung Bộ là
5,2 triệu ha và Duyên Hải Trung Bộ là 4,4 triệu ha), chiếm 29% diện tích tự nhiên
của cả nước. Trong đó 72,8% là đất nông lâm nghiệp. Đất đai miền Trung nhìn
chung không màu mỡ; điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt (hạn hán, lũ lụt…). Nhịp
độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 2001 - 2005 tính theo số liệu tổng hợp từ các tỉnh
lên đạt khoảng 10,0 %; thời kỳ 2006-2008 là 12,0%. Nhưng nếu điều chỉnh sự tính
trùng từ các địa phương thì tốc độ tăng trưởng GDP của vùng thời kỳ 2001-2005 đạt
khoảng 6,9% (cả nước 7,5%), thời kỳ 2006-2008 là 7,6% (cả nước là 7,7%) và sau
năm 2008 do ảnh hưởng của khủng khoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu

năm 2009 nền kinh tế của vùng chỉ đạt tăng trưởng bình quân khoảng 3,4% (cả
nước khoảng 5,2%). Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực, tỷ trọng các ngành
phi nông nghiệp tăng nhanh, đặc biệt cơ cấu trong nội bộ các ngành cũng có bước
thay đổi đáng kể theo hướng phát huy các lợi thế so sánh của tỉnh, đã góp phần
quan trọng thúc đẩy và nâng cao chất lượng tăng trưởng. Tỷ trọng trong GDP của
khu vực nông, lâm, thủy sản giảm từ 34,2% năm 2000 xuống 29,2% năm 2005. Tỷ
trọng ngành công nghiệp và xây dựng sau 10 năm tăng từ 25,6% năm 2000 lên
35,7% năm 2010. Một số ngành kinh tế biển phát triển nhanh, như đóng và sửa
chữa tàu biển, chế biến dầu khí, du lịch biển, vận tải biển, dịch vụ hàng hải, nuôi
trồng và chế biến thủy hải sản v.v
- Vùng Tây Nguyên gồm 5 tỉnh. Theo kết quả sơ bộ tổng điều tra dân số và nhà
ở năm 2009, dân số của vùng Tây Nguyên là 5,1 triệu người, trong đó dân số đô thị
là 1,4 triệu người. So với mặt bằng chung của cả nước, trình độ học vấn, dân trí của
vùng vẫn còn hạn chế. Các chỉ tiêu về chất lượng và hiệu quả giáo dục và đào tạo
của vùng còn thấp. Trong cơ cấu lao động, tỷ lệ lao động khu vực nông lâm ngư
nghiệp cao hơn nhiều vùng trong khi tỷ trọng công nghiệp – xây dựng còn khiêm
tốn mới đạt 8,4% năm 2008. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa hiện đại hóa vẫn còn chậm, tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp vẫn còn rất cao so
với tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.
16
- Vùng Đông Nam Bộ gồm 6 tỉnh và thành phố Hồ Chí Minh. Vùng Đông Nam
Bộ chiếm 16,3% dân số cả nước (2009). Đây là vùng trọng điểm về phát triển kinh
tế của Việt Nam, dẫn đầu cả nước về kim ngạch xuất khẩu, đầu tư nước ngoài,
GDP, cũng như các yếu tố xã hội khác. Vốn thu hút đầu tư của nước ngoài khu vực
này dẫn đầu cả nước. Vùng Đông Nam Bộ là khu vực phát triển kinh tế năng động
với mức tăng trưởng cao, nơi tập trung nhiều trung tâm kinh tế, công nghiệp thương
mại, dịch vụ, khoa học – kỹ thuật, đầu mối giao thông và giao lưu quốc tế, có lực
lượng lao động dồi dào, tay nghề cao, có nhiều cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học,
công nghệ; có hệ thống đô thị phát triển, các khu công nghiệp phát triển mạnh trở
thành trung tâm và đầu mối giao lưu của các tỉnh phía Nam với cả nước và quốc tế,

được gắn kết bởi đường bộ, đường biển, đường hàng không, tạo điều kiện thuận lợi
cho phát triển kinh tế - xã hội vùng cũng như mở rộng các quan hệ kinh tế liên vùng
và quốc tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Cơ cấu kinh tế của Vùng chuyển dịch theo
hướng hiện đại và hiệu quả. Tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế
Vùng năm 2009 vào khoảng 7,06% (năm 2000 là 10,5%). Tỷ trọng của ngành công
nghiệp năm 2009 đạt khoảng 55,84% (năm 2000 là 54,3%). Tỷ trọng của ngành
dịch vụ đạt 37,1%(năm 2000 là 35,2%).
- Vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) gồm 13 tỉnh, thành phố có diện
tích đất gần 40.000 km2; là vùng châu thổ phì nhiêu hàng năm cung cấp hơn 53%
sản lượng thóc và trên 90% sản lượng gạo xuất khẩu hàng năm của nước ta, cung
cấp khoảng 70% lượng trái cây, trên 40% sản lượng thuỷ sản đánh bắt và trên
74,6% sản lượng thuỷ sản nuôi trồng cả nước. Với một tiềm năng phong phú và đa
dạng không những về nông, thủy hải sản mà còn cả về du lịch, cảng biển, kinh tế
cửa khẩu rất thuận lợi cho phát triển kinh tế, ĐBSCL có đủ điều trở thành khu vực
kinh tế năng động, có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Tuy nhiên, kinh tế vùng
ĐBSCL tăng trưởng chưa ổn định và chưa vững chắc, phát triển chủ yếu theo chiều
rộng; việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đưa tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản
xuất còn rất chậm; chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của sản phẩm còn
thấp. Cơ cấu kinh tế của vùng đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực nhưng đến
năm 2008, tỷ trọng của ngành nông – lâm nghiệp trong GDP còn khoảng 45,9%.
17
Chương III: Giải pháp, kiến nghị, hướng đi thích hợp để thực hiện chuyển
dịch cơ cấu kinh tế
1. Những vấn đề cần quan tâm.
1.1. Những thành tựu đạt được.
Về cơ cấu ngành, tỉ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng từ 36,7%
năm 2000 lên 41% năm 2005 (kế hoạch 38 - 39%); tỉ trọng nông, lâm nghiệp và
thủy sản đã giảm từ 24,5% xuống còn 20,9% (kế hoạch 20 - 21%); tỉ trọng dịch vụ
ở mức 38,1% (kế hoạch 41 - 42%).
Trong từng ngành kinh tế đã có những chuyển dịch tích cực về cơ cấu sản xuất,

cơ cấu công nghệ theo hướng tiến bộ, hiệu quả, gắn sản xuất với thị trường.
Cơ cấu kinh tế vùng đã có bước điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so sánh
của từng vùng; các vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp, khu kinh tế và vùng
sản xuất chuyên môn hoá cây trồng, vật nuôi đang phát triển khá nhanh, đóng góp
quan trọng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Tỉ trọng lao động của ngành công nghiệp và xây dựng trong
tổng số lao động xã hội tăng từ 12,1% năm 2000 lên 17,9% năm 2005; lao động
trong các ngành dịch vụ tăng từ 19,7% lên 25,3%; lao động trong các ngành nông,
lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 68,2% xuống còn 56,8%. Tỉ trọng lao động đã qua
đào tạo tăng từ 20% năm 2000 lên 25% năm 2005.
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng
của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Khu vực kinh tế nhà
nước đang được tổ chức lại, đổi mới và chiếm 38,4% GDP, chi phối nhiều ngành
kinh tế then chốt và tập trung hơn vào những lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế. Kinh
tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, chiếm
45,7% GDP, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là giải quyết
việc làm và cải thiện đời sống nhân dân; trong đó, kinh tế hợp tác và hợp tác xã phát
triển khá đa dạng (đóng góp khoảng 6,8% GDP). Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm 15,9% GDP, là cầu nối quan trọng với
thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thương quốc tế.
1.2. Những hạn chế
- Cơ cấu nông – lâm – ngư nghiệp chuyển dịch chậm, công nghiệp chế biến
phát triển còn chậm
Cơ cấu tỷ trọng giá trị tổng sản lượng nông – lâm – ngư nghiệp trong 5 năm
2005 - 2010, trồng trọt tuy đã giảm từ 59,2% còn 55,5%, nhưng vẫn còn lớn; các
ngành chăn nuôi tăng từ 14,3% lên 15,6%, thuỷ sản từ 21,3% lên 24,5%, nhưng vẫn
còn thấp; lâm nghiệp, năm 2010 tăng ở mức khá 4%, nhưng lại giảm từ 3,5% xuống
còn 3,1%.
18

Riêng ngành nông nghiệp, tỷ trọng giá trị trồng trọt vẫn chiếm khá lớn, từ 78%
năm 2005 còn 76,2% năm 2010; chăn nuôi đã có bước phát triển khá nhưng vẫn
chiếm tỷ trọng khiêm tốn, từ 19% năm 2005 lên 21,6% năm 2010.
- Quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản ở một số địa
phương tự phát không theo quy hoạch, có nguy cơ kém bền vững
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản ngoài việc chịu tác động sâu rộng của
thời tiết, khí hâu, dịch bệnh, còn ảnh hưởng trực tiếp của thị trường tiêu thụ, đặc
biệt là thị trường xuất khẩu do nông nghiệp nước ta đang hướng mạnh ra nước
ngoài. Trong khi đó, nông dân chưa cập nhập được hết các thông tin cần thiết,
chuyển đổi tự phát theo tín hiệu của thị trường vừa gây phá vỡ các quy hoạch khác,
nhất là thuỷ lợi gây ảnh hưởng đến sản xuất chung của vùng vừa bị thua thiệt khi có
biến động trở lại của thị trường.
So với yêu cầu đặt ra, tốc độ chuyển dịch CCKT còn chậm và chất lượng chưa
cao. Ngành công nghiệp tuy có tốc độ tăng trưởng cao, nhưng yếu tố hiện đại trong
toàn ngành chưa được quan tâm đúng mức, trình độ kỹ thuật công nghệ nhìn chung,
vẫn ở mức trung bình. Công nghiệp chế biến, đặc biệt là những ngành công nghệ
cao chưa phát triển. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP giảm liên tục trong những năm gần
đây. Những ngành dịch vụ có hàm lượng chất xám và giá trị gia tăng cao như dịch
vụ tài chính – tín dụng, dịch vụ tư vấn chậm phát triển. Tình trạng độc quyền, dẫn
tới giá cả dịch vụ cao, chất lượng dịch vụ thấp còn tồn tại ở nhiều ngành như điện
lực, viễn thông, đường sắt. Một số ngành có tính chất động lực như giáo dục – đào
tạo, khoa học – công nghệ, tính chất xã hội hoá còn thấp, chủ yếu dựa vào nguồn
vốn của Nhà nước.
2. Giải pháp, kiến nghị
a, Xây dựng quy hoạch và đẩy mạnh chiến lược phát triển hợp lý, hiện đại 3 ngành
kinh tế quan trọng ( Công nghiệp – Nông nghiệp - Dịch vụ )
Cụ thể là :
* Công nghiệp
+ Chúng ta cần tập chung đầu tư theo chiều sâu : Huy động tối đa nguồn vốn
(cả trong nước và nước ngoài) đầu tư, mua mới những thiết bị, máy móc tiên tiến

nhằm đưa vào ứng dụng trong các ngành kinh tế.
+ Đặc biệt chú trọng đầu tư trong các ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp
chế biến, từ đó tạo tiền đề phát triển công nghiệp nặng.
+ Tập trung sản xuất những mặt hàng có khả năng xuất khẩu.
+ Công nghiệp hoá nông thôn.
+ Tạo dựng thị trường để các loại hình kinh tế đều có điều kiện tham gia và
phát triển.
19
+ Áp dụng khoa học công nghệ để phát triển các ngành công nghiệp tạo ra tư
liệu sản xuất : sản xuất dầu khí, luyện kim, hoá chất, cơ khí, điện tử.
+ Vận dụng hiệu quả công nghệ thông tin vào mọi lĩnh vực.
* Nông nghiệp
+ Dựa vào điều kiện tự nhiên, lao động của từng vùng sản xuất hàng hoá
chuyên canh phù hợp. Ứng dụng khoa học công nghệ, cụng nghệ sinh học vào sản
xuất. Gắn liền nông nghệp với công nghiệp chế biến. Liên tục khai hoang, mở rộng
đất thường xuyên. Phân bố lực lượng lao động thật hợp lý nhằm nâng cao thu nhập
cho người nông dân
+ Áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật một cách đồng bộ: chuyển đổi mùa vụ, cơ
cấu cấu cây trồng theo hướng thâm canh, tăng năng xuất lúa, tăng sản lượng các
loại rau quả và các loại sản phẩm đặc trưng khác theo hướng sản xuất hàng hóa.
Tăng sản lượng cây công nghiệp: cao su, chè, cà phê…Đồng thời tiến hành trồng và
cải tạo rừng để ổn định đời sống dân vùng núi.
+ Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi về vốn, kỹ thuật để phát triển hộ hoặc
nông trại chăn nuôi quy mô lớn. Ứng dụng công nghệ sinh học để cải tiến về con
giống, sinh sản nhân tạo, về nguồn thức ăn, các biện pháp chăn nuôi hiệu quả, tăng
cường công tác thú y… Đầu tư, trang bị phương tiện để phát triển đánh bắt xa bờ,
xây dựng hiệu quả và mở rộng ngành nuôi trồng thuỷ sản tạo nguyên liệu cho ngành
công nghiệp chế biến.
+ Phát triển thủ công nghiệp: đặc biệt là những ngành truyền thống như thêu,
mỹ nghệ, đan…

* Các ngành dịch vụ
+ Đa dạng hoá các loại hình phục vụ, nhằm tạo dựng thị trường tiêu thụ các sản
phẩm xã hội, đáp ứng và cải thiện đời sống.
+ Phát triển thương mại: nội thương và ngoại thương, quan tâm đến các vùng
nông thôn
+ Phát triển mạnh du lịch thành ngành mũi nhọn.
+ Nâng cấp, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật.
+ Cải thiện, nâng cao trình độ, mở rộng các ngành giao thông vận tải, bưu chính
viễn thông.
+ Phát triển các loại hình dịch vụ về tài chính, ngân hàng, tư vấn, dịch vụ y tế,
giáo dục
b, Hình thành các vùng kinh tế dựa trên tiềm năng, lợi thế của vùng, gắn với nhu
cầu của thị trường.
Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là quá trình chuyển biến căn bản
về phân công lao động xã hội theo lãnh thổ. Xoá bỏ tình trạng chia cắt về thị trường
giữa các vùng; xoá bỏ tình trạng tự cung tự cấp, đặc biệt là tự cung, tự cấp về lương
20
thực của từng vùng, từng địa phương. Mỗi địa phương cần đặt mình trong một thị
trường thống nhất, không chỉ là thị trường cả nước mà còn là thị trường quốc tế,
trên cơ sở đó xác định những khả năng, thế mạnh của mình để tập trung phát triển,
tham gia vào quá trình phân công và hợp tác lao động có hiệu quả.
c, Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH gắn với quá trình hình thành các
trung tâm kinh tế thương mại, gắn liền với quá trình đô thị hoá. Mặt khác, việc quy
hoạch xây dựng các khu đô thị, trung tâm kinh tế, thương mại có ảnh hưởng trực
tiếp trở lại tới quá trình chuyển dịch CCKT.
d, Giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng số lao động xã
hội.
Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là quá trình phân công lao động xã hội,
là quá trình chuyển dịch lao động từ ngành nông nghiệp sang các ngành công
nghiệp và dịch vụ. Đây là giải pháp vừa cấp bách, vừa triệt để để giải quyết tình

trạng thiếu việc làm ở nông thôn hiện nay, đồng thời là hệ quả tất yếu của quá trình
chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH.
e, Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH phải theo định hướng dẫn đến phát
triển bền vững.
Không chỉ vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế đơn thuần mà phải vì mục tiêu phát
triển kinh tế mà bao trùm lên cả là vì mục tiêu phát triển bền vững, trong đó có một
cấu thành bộ phận rất quan trọng và không thể thiếu là bảo vệ môi trường. Từ đó
cho thấy, các nhà lãnh đạo, nhà quản lý cho đến các doanh nghiệp, các địa phương,
cơ sở… cần phải hết sức chú ý thực hiện tốt vấn đề này, tránh tình trạng vì lợi
nhuận kinh tế trước mắt dẫn đến phá huỷ nghiêm trọng môi trường sinh thái tự
nhiên như vừa qua và hiện nay công luận vẫn đang tiếp tục lên án về không ít các
trường hợp doanh nghiệp đã vi phạm nghiêm trọng pháp luật bảo vệ môi trường.
21
Kết luận
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình cải biến kinh tế xã hội từ tình trạng lạc
hậu, mang nặng tính chất tự cấp, tự túc từng bước vào chuyên môn hóa hợp lý,
trang bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại, trên cơ sở đó tạo năng suất lao động cao, hiệu
quả kinh tế cao và nhịp độ tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế nói chung.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế không thể một sớm một chiều là có thể đem lại kết
quả, song cũng không thể là một quá trình không có hạn định về không gian và thời
gian. Điều đó còn hàm chứa nhắc nhở chúng ta không được mảy may, chủ quan,
giáo điều mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng để thực hiện
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công thì cần phải có những biện
pháp cụ thể kết hợp với một ý chí vươn lên mạnh mẽ của toàn Đảng, toàn dân mà
trước hết là bộ máy Đảng phải trong sạch vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo,
bộ máy nhà nước cần phải nhanh chóng đổi mới tổ chức và hoạt động để đưa nước
ta vươn lên phát triển bền vững.
22
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CNXH Chủ nghĩa xã hội
CNH – HĐH Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
LLSX Lực lượng sản xuất
NSLĐ Năng suất lao động
TLSX Tư liệu sản xuất
GTSX Giá trị sản xuất
CCKT Cơ cấu kinh tế

23

×