1
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA LUẬN ÁN
1.1. Văn hoá Óc Eo là một nền văn hoá khảo cổ, được giới khoa học biết
đến từ những năm 80 của thế kỷ XIX. Tên gọi của nền văn hoá này do nhà khảo
cổ học người Pháp Louis Malleret đặt ra sau cuộc khai quật vào tháng 4 năm
1944 ở cánh đồng Óc Eo (Thoại Sơn - An Giang). Cho đến nay hàng loạt di tích
ở khắp các tỉnh TNB khác được khai quật. Các di tích khai quật đã làm lộ diện
về sự tồn tại của một nền văn hoá khảo cổ, đều có chung đặc điểm, tính chất văn
hoá với khu di tích Óc Eo (An Giang).
Văn hoá Óc Eo tồn tại trong một không gian rộng và một thời gian dài,
trải qua nhiều thời kỳ khác nhau; nó được nhìn nhận là chứng cứ vật chất của
một “vương quốc” lớn có địa vực bao trùm cả một vùng Nam Đông Dương mà
thư tịch cổ Trung Quốc gọi là “Phù Nam”. Bên cạnh đó, khu di tích Óc Eo luôn
được coi như một điểm giao hội của văn hoá Đông - Tây, là “kho” hàng hoá
lớn trên con đường thương mại quốc tế, giữa hai châu lục Âu - Á. Cho đến nay
hàng trăm di tích Óc Eo phân bố trên diện rộng và con số lớn hơn gấp nhiều lần
các di tích phát hiện lẻ tẻ đã được phát hiện trước năm 1975. Thêm vào đó, số
lượng lớn các hiện vật đã được phát hiện, sưu tầm và lưu giữ trong các bảo tàng
trung ương và bảo tàng các tỉnh, tiêu biểu là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tại
Tp.HCM, BTAG, BTKG, BTCT, BTĐT, BTLA
1.2. Các nguồn tư liệu quan trọng trên, giúp cho các nhà nghiên cứu tìm
hiểu nhiều lĩnh vực khác nhau về nền văn hoá này. Đến nay, đã có khoảng hơn
400 bài viết, sách chuyên khảo, kỷ yếu hội nghị và các báo cáo khảo sát điều
tra liên quan tới nền văn hoá này. Đây là kết quả nghiên cứu của nhiều học giả
trong và ngoài nước, nội dung bao gồm: thông báo các phát hiện mới; tình
trạng của các di tích, các loại hình di vật phát lộ; nghiên cứu các vấn đề về
nguồn gốc hình thành, sự phát triển của văn hoá Óc Eo; các quan hệ giao lưu
văn hoá và thương mại với bên ngoài Một số khía cạnh về đời sống văn hoá
xã hội của cư dân được đề cập tới qua việc nghiên cứu các tài liệu lịch sử và so
sánh với tài liệu khảo cổ học.
2
Những thành quả này của các nhà khoa học về văn hoá Óc Eo rất đáng
trân trọng. Tuy nhiên, những kết quả nghiên cứu nói trên mới chủ yếu là dưới
góc độ các nghiên cứu khảo cổ học. Việc tìm hiểu khối tư liệu khảo cổ học từ
hướng tiếp cận văn hoá học còn rất hạn chế. Việc nghiên cứu phạm vi phân bố,
nội dung và đặc điểm, niên đại và quá trình phát triển của các di tích, cội nguồn
và truyền thống của văn hoá Óc Eo trong mối liên hệ với cư dân - chủ nhân
của nền văn hoá này còn chưa đầy đủ. Những vấn đề lịch sử liên hệ văn hoá Óc
Eo với các thể chế chính trị đương thời như nước Phù Nam, đến Chân Lạp
vẫn cần tiếp tục tìm tòi, lý giải, minh định. Trong đó, vấn đề mối quan hệ giữa
con người với dấu tích văn hoá mà cư dân Óc Eo để lại; vấn đề bảo tồn và phát
huy giá trị DSVH đó trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội
nhập quốc tế đang là những vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn nhất cần
được làm sáng tỏ.
1.3. Tác giả luận án là người sống ngay trong vùng đất sản sinh ra nền
văn hoá nổi tiếng này và thường xuyên được tiếp xúc với các di tích khảo cổ
Óc Eo. Đồng thời tác giả đã có một số kinh nghiệm trong quá trình nghiên
cứu các vấn đề về văn hoá và quản lý DSVH. Vì thế, tác giả mong muốn sẽ có
những khám phá, cách tiếp cận mới về văn hoá Óc Eo ở TNB.
Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: Đời sống văn hoá của cư
dân Óc Eo ở Tây Nam Bộ (Qua tư liệu khảo cổ học) để làm luận án Tiến sĩ,
chuyên ngành Văn hoá học của mình.
2. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu các mặt đời sống văn hoá của cư dân Óc Eo ở miền TNB
thông qua việc phân tích, diễn giải các nguồn tư liệu khảo cổ học.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá các tư liệu và kết quả nghiên cứu văn hoá Óc Eo cả về mặt
khảo cổ lẫn các nghiên cứu của các học giả trong cũng như ngoài nước, nhằm
cung cấp cho các nhà khoa học nguồn tư liệu cập nhật về văn hoá Óc Eo.
3
- Trên cơ sở nguồn tư liệu đó, luận án hướng tới việc phân tích xác định
các di tích di vật là minh chứng của đời sống văn hoá xã hội Óc Eo. Từ đó đưa
đến hiểu biết về những thành tựu cơ bản về kinh tế - văn hoá - xã hội của cư dân
Óc Eo trong khung cảnh chung của quá trình phát triển từ giai đoạn tiền sơ sử
lên hình thức tổ chức nhà nước ở vùng miền TNB; tìm hiểu sự biến đổi của cư
dân Óc Eo ở miền TNB trong quá trình giao lưu thương mại với các nền văn
minh khác. Từ đó tìm ra những nét đặc trưng của cư dân Óc Eo ở miền TNB.
- Bằng phương pháp tiếp cận văn hoá học, công trình làm rõ những khía
cạnh đời sống văn hoá xã hội của cư dân Óc Eo ở miền TNB góp phần nâng cao
nhận thức về đời sống văn hoá của cư dân Óc Eo ở một giai đoạn lịch sử quan
trọng của vùng đất này.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là các tư liệu khảo cổ học, bao gồm các
di tích trọng điểm, các sưu tập hiện vật trong các bảo tàng, các bài báo cáo khảo
cổ học, các công trình nghiên cứu di tích, di vật dưới góc độ khảo cổ học…
- Bên cạnh đó, các tư liệu thành văn khác, thư tịch cổ và các công trình
nghiên cứu có liên quan đến đời sống văn hoá của cư dân Óc Eo ở miền TNB là
những tài liệu bổ trợ, soi rọi thêm cho tư liệu khảo cổ học.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Dấu vết của văn hoá Óc Eo được phát hiện trong phạm
vi rất rộng, bao trùm hầu hết các tỉnh Nam Bộ. Trong luận án này, tác giả sẽ tập
trung nghiên cứu các khía cạnh đời sống văn hoá của cư dân Óc Eo ở các tỉnh
miền TNB, bao gồm các tỉnh: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh
Long, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Cà
Mau, Bạc Liêu, trong đó tập trung ở ba tỉnh có các di tích văn hoá Óc Eo tiêu
biểu nhất là: An Giang, Đồng Tháp và Kiên Giang.
- Về thời gian: Việc phân kỳ các giai đoạn của văn hoá Óc Eo còn chưa
được giải quyết triệt để. Tuy nhiên, với các tư liệu khảo cổ học, văn hoá học hiện
4
có, tác giả tập trung tìm hiểu về văn hoá Óc Eo chủ yếu vào giai đoạn từ khoảng
thế kỷ II đến thế kỷ VII, là thời kỳ hình thành rõ nét và phát triển những đặc
trưng cơ bản của nền văn hoá này.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử trong nghiên cứu văn hoá quá khứ, nhằm nhìn nhận và đánh
giá khách quan, khoa học về DSVH.
4.2. Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản đối với tư liệu
khảo cổ học và các nguồn tư liệu khác: Phương pháp thống kê; phân loại; phân
tích và tổng hợp; đối chiếu và so sánh
4.3. Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành Văn
hoá học đồng thời sử dụng một số phương pháp nghiên cứu liên ngành như:
Khảo cổ học, Bảo tàng học, Sử học, Xã hội học, Nhân học
5. NHỮNG KẾT QUẢ VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
5.1. Luận án tổng hợp, hệ thống hoá tư liệu khảo cổ học, kết quả nghiên
cứu văn hoá Óc Eo và các nguồn tư liệu khác, nhằm cung cấp một cách cập nhật
và có hệ thống nguồn tư liệu về văn hoá Óc Eo ở TNB; giúp cho việc nhận thức
nội dung văn hoá Óc Eo ở TNB được rõ ràng hơn, nhất là lĩnh vực đời sống văn
hoá - xã hội.
5.2. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, so sánh, đối chiếu những dấu tích
khảo cổ học và các sưu tập di vật của cư dân Óc Eo được phát hiện ở miền TNB,
luận án cung cấp những kiến giải về đời sống vật chất, tinh thần và làm rõ các
đặc điểm của nó nhằm có cái nhìn khách quan, toàn diện về bức tranh văn hoá
thời sơ sử ở TNB, Việt Nam.
5.3. Trên cơ sở so sánh, đối chiếu với các tư liệu ở các khu vực khác, luận
án xác định những đặc trưng văn hoá của cư dân Óc Eo ở TNB và sự biến đổi đời
sống văn hoá của cư dân Óc Eo trong quá trình giao lưu với các cư dân láng giềng.
5.4. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ cung cấp và góp thêm tư liệu cho
việc tìm hiểu văn hoá Óc Eo ở TNB, lịch sử văn hoá miền TNB nói chung, phổ
5
biến kiến thức văn hoá - lịch sử Óc Eo cho nhân dân miền TNB, nhân dân cả
nước và bạn bè quốc tế, góp phần cung cấp các kiến giải và luận cứ khoa học
cho việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ mở cửa, hội
nhập quốc tế hiện nay.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án bao gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về miền Tây Nam Bộ và lịch sử nghiên cứu
văn hoá Óc Eo
Chương 2: Đặc điểm đời sống văn hoá vật chất của cư dân Óc Eo ở miền
Tây Nam Bộ
Chương 3: Đặc điểm đời sống văn hoá tinh thần
Chương 4: Giao lưu thương mại và sự tác động tới đời sống văn hoá xã
hội của cư dân Óc Eo
6
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ MIỀN TÂY NAM BỘ
VÀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VĂN HOÁ ÓC EO
1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Văn hoá Óc Eo là một nền văn hoá khảo cổ. Tiếp cận văn hoá Óc Eo dưới
góc độ văn hoá học, cần làm rõ một số khái niệm: Văn hoá, văn hoá khảo cổ, văn
hoá Óc Eo, đời sống văn hoá. Chúng tôi xin đề cập một cách khái lược về những
khái niệm này để làm công cụ lý luận cho nội dung luận án.
Văn hoá: Văn hoá là một thuật ngữ đa nghĩa, thường được xem xét trên
nhiều khía cạnh khác nhau. Không nên coi văn hoá như một hoạt động riêng biệt
mà phải coi đó là một hoạt động nhằm phát huy những năng lực mang bản chất
con người, vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ. Là hoạt động nhằm tạo ra những
giá trị, những chuẩn mực xã hội, là môi trường thứ hai, cái nôi nuôi dưỡng sự
hình thành nhân cách của con người. Hiện có rất nhiều định nghĩa khác nhau về
văn hoá, nhưng cho đến nay vẫn chưa có được một sự thống nhất và cũng chưa
có định nghĩa nào thoả mãn được cả về định tính và định lượng, mỗi định nghĩa
phản ánh một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Để xác định khái niệm văn
hoá không đơn giản bởi mỗi học giả đều xuất phát từ những cứ liệu riêng, góc độ
riêng, mục đích riêng phù hợp với vấn đề mình cần nghiên cứu. Trong đời sống
hàng ngày, từ văn hoá được sử dụng trong nhiều ngữ cảnh khác nhau, vì thế nó
trở nên đa nghĩa. Tuy có nhiều cách diễn đạt khác nhau, nhưng mọi người đều
thừa nhận rằng văn hoá chỉ có con người mới có, là cái do con người học được,
chứ không phải do bẩm sinh di truyền. Văn hoá bao gồm ngôn ngữ, kiến thức,
phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, nghệ thuật… Tóm lại, văn hoá là
những gì còn lại sau những chu trình lịch sử khác nhau, qua đó người ta có thể
phân biệt được các dân tộc với nhau. Thông qua mỗi một chu kỳ của sự phát
triển, dân tộc đó tương tác với mình và với những dân tộc khác, cái còn lại được
gọi là bản sắc, hay còn gọi là văn hoá.
7
Quan niệm văn hoá của nguyên Tổng Giám đốc UNESCO Federico
Mayor nêu ra nhân dịp phát động “Thập kỷ thế giới phát triển văn hoá”
(1988 - 1997): Văn hoá phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sống
động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra
trong quá khử cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó
đã cấu thành một hệ thống các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà
dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình [3, tr.15].
Với ý nghĩa đó văn hoá có mặt trong bất cứ hoạt động nào của con người,
dù đó là hoạt động sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần hay trong quan hệ giao
tiếp ứng xử xã hội. Trong quá khứ hay hiện tại, văn hoá là những hệ thống có giá
trị; là cái bản sắc của mỗi cộng đồng, dân tộc; là cái không thể lẫn vào đâu được.
Văn hoá được truyền từ đời này qua đời khác.
Hay một quan niệm về văn hoá của Hồ Chí Minh được nhiều nhà khoa
học nhắc đến trong những năm gần đây:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật khoa học, tôn giáo,
văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và
các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là
văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với
biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu
cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [85, tr.431].
Vậy với khái niệm này, văn hoá là do con người sáng tạo ra, nhằm thích
ứng với nhu cầu của cuộc sống. Nó gắn liền với con người và môi trường; là sản
phẩm của con người và chỉ dành riêng cho con người, cộng đồng người, nó ra
cùng con người, cùng song song tồn tại và phát triển với con người. Văn hoá là
tổng hoà tất cả các khía cạnh đời sống của con người. Ngay cả những khía cạnh
nhỏ nhặt nhất của cuộc sống cũng mang những dấu hiệu văn hoá. Con người vừa
là khách thể, vừa là chủ thể của sự phát triển, hay vừa là mục tiêu, vừa là phương
tiện, điều đó chứng tỏ, con người và môi trường văn hoá có mối quan hệ mật
thiết với nhau.
8
Theo Phan Ngọc, khái niệm văn hoá dùng để chỉ trình độ phát triển về vật
chất và tinh thần của những xã hội, dân tộc, bộ lạc cụ thể; đôi khi theo nghĩa hẹp,
văn hoá chỉ liên quan đến đời sống tinh thần của con người [88, tr.14-17].
Như vậy có thể thấy, văn hoá là một khái niệm mang nội hàm rộng lớn
liên quan đến mọi mặt của cuộc sống con người, là một lĩnh vực cực kỳ phức
tạp, phong phú do vậy có nhiều cách hiểu khác nhau. Về mặt từ nguyên, nghĩa
của “văn” là “xăm thân”, và nghĩa gốc của “văn hoá” là “xăm mình” mà qua
đó người khác nhìn vào để nhận biết mình. Theo Bộ Từ Hải (bản năm 1989) thì
văn hoá vốn là một cách biểu thị chung của khái niệm văn trị và giáo hoá. Theo
ngôn ngữ phương Tây (Culture trong tiếng Anh và tiếng Pháp, Kultur trong tiếng
Đức,…) có nguồn gốc từ các dạng của động từ Latinh Colere là Colo, Colui,
cultus với nghĩa: giữ gìn, chăm sóc, trồng trọt và cầu cúng [50, tr.319].
Từ góc độ tiếp cận và mục đích nghiên cứu của mình, các nhà khoa học đã
cố gắng làm sáng tỏ những yếu tố căn cốt nhất của văn hoá. Còn theo quan điểm
của chúng tôi, với việc nghiên cứu một nền văn hoá khảo cổ, thì Văn hoá là hệ
thống các giá trị vật chất (văn hoá vật thể) và tinh thần (phi vật thể) do con
người sáng tạo ra trong quá trình lao động, sản xuất, được tích luỹ từ thế hệ này
sang thế hệ khác.
Ở đây, chúng tôi xem xét văn hoá không phải ở những phong tục tập
quán, tôn giáo tín ngưỡng và những giá trị văn hoá hiện hữu, mà tiếp cận văn
hoá thông qua những sản phẩm vật chất (văn hoá vật thể) đã nằm sâu dưới lòng
đất để làm rõ yếu tố tinh thần trong đó.
Khảo cổ học là ngành khoa học nghiên cứu những nền văn hoá của loài
người qua quá trình phục chế, tìm hiểu tài liệu và phân tích những dữ liệu như:
di vật, di tích, hài cốt… [151].
Mục đích của khảo cổ học là đưa ra những lời giải đáp đầy đủ về nguồn
gốc, sự phát triển và tiến trình tiến hoá, bề dày lịch sử của loài người và của văn
hoá loài người. Đây là môn khoa học duy nhất đã thu thập và giải mã những
9
thông tin về thời tiền sử. Nó giúp cho con người hiểu biết về đời sống văn hoá
- xã hội của cư dân cổ đại.
Văn hoá khảo cổ: là nền văn hoá của một thời kỳ lịch sử cổ xưa được xác
định trên cơ sở tổng thể của một nhóm di tích khảo cổ có những đặc điểm giống
nhau, phân bố liền khoảnh, tồn tại trong một khung thời gian nhất định, có một
số về đặc trưng di tích, di vật ổn định phân biệt rõ với các văn hoá khác và chủ
nhân thường là một tộc người nhất định [102, tr.14-15].
Trong một nền văn hoá khảo cổ có thể tồn tại nhiều loại hình văn hoá
khác nhau. Mỗi loại hình văn hoá đều phản ánh những đặc tính của địa phương
một cách rõ nét. Để xác định được một nền văn hoá khảo cổ, cần phải nghiên
cứu một tập hợp các di tích khảo cổ, xác định giữa chúng có chung những đặc
trưng, tính chất, niên đại, chủ nhân, nguồn gốc, các giai đoạn phát triển… Khi
nghiên cứu nền văn hoá khảo cổ có thể phác thảo diện mạo văn hoá, làm rõ đời
sống vật chất, tinh thần và các hình thái kinh - tế xã hội của cư dân cổ.
Văn hoá Óc Eo: Óc Eo là tên gọi của một địa danh thuộc xã Vọng Khê,
huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Nhiều nhà khoa học đưa ra các giả thiết về ý
nghĩa của từ Óc Eo, song đến nay vẫn chưa có một cách giải thích nào được chấp
nhận. Theo nhà dân tộc học Pierre Bitard cho rằng: từ “Óc Eo” đồng âm với chữ
"Ur Kev" (gần với âm “Ô kéo”) của người Khmer. Nhưng George Coedes lại
không đồng tình với quan điểm đó. Ông cho rằng: từ "Ô Kéo" không phải là từ
cổ, từ "Kéo" là một từ thuộc nhóm ngôn ngữ Thái, không hề có ở Campuchia
thời Angkor (thế kỷ VIII - XII), theo ông từ “Óc Eo” có nghĩa là “rạch ngọc”
[22, tr.213-214]. Ý nghĩa của từ “Óc Eo” sẽ được các nhà khoa học nghiên cứu,
tranh luận tiếp. Hiện nay chúng ta biết đến Óc Eo là tên gọi một vùng đất đã tồn
tại trong lịch sử cư dân trong vùng ĐBSCL. Tại đây, vào năm 1944 Louis
Malleret đã khai quật và phát hiện một nền văn hoá cổ nằm sâu dưới lòng đất.
Nền văn minh này đã hình thành và phát triển trên vùng châu thổ sông Cửu Long
từ thế kỷ I đến thế kỷ VII SCN. Ông đặt tên cho nền văn hoá cổ này là “văn hoá
Óc Eo”.
10
Khái niệm “văn hoá Óc Eo” được hiểu là một nền văn hoá khảo cổ có
những đặc điểm chung về di tích, di vật được khảo cổ học phát hiện ở trên khắp
vùng Nam Bộ, trong đó di tích quan trọng nhất là di tích Óc Eo. Nhiều công
trình nghiên cứu khoa học dựa vào các kết quả khai quật khảo cổ đã chứng minh
văn hoá Óc Eo là sản phẩm vật chất của Vương quốc Phù Nam.
Theo các nhà nghiên cứu, Phù Nam là tên gọi theo cách phát âm
“founan” của người Trung Hoa. Còn phiên âm của tiếng Khmer cổ là “bnam”,
ngày nay gọi là “phnom” có nghĩa là “núi”. Vua Phù Nam có nghĩa như “vua
núi” theo tiếng Phạn là “parvatabhûpala”, tiếng Khmer là “kurung bnam”[135,
tr.84]. Vương quốc Phù Nam được coi là thể chế nhà nước đầu tiên ở khu vực
Đông Nam Á. Nó hình thành từ thế kỷ I SCN, suy vong từ khoảng thế kỷ VI và
mất hẳn từ thế kỷ VII.
Phù Nam được hình thành trên cơ sở kết hợp giữa một bộ lạc Môn cổ
sống bằng nghề săn bắn và thu hoạch lâm sản và một bộ lạc Nam Đảo làm nông
nghiệp, đánh cá và buôn bán trên biển. Phù Nam là đế chế bao gồm nhiều tiểu
vương quốc và lãnh địa. Trong mỗi tiểu vương quốc thường có một vị tiểu
vương làm thủ lĩnh lãnh đạo các thủ lĩnh khác (chư hầu). Lãnh vực của vương
quốc Phù Nam bao trùm một vùng rộng lớn, gồm phía Nam Việt Nam, Malaysia,
một phần Campuchia và Thái Lan.
Đời sống văn hoá: Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về đời sống
văn hoá.
Theo nhà nghiên cứu Mai Luân thì “đời sống văn hoá bao trùm lên trên
toàn bộ đời sống con người”. “Bởi vì con người chỉ có thể trở thành con người
khi con người trở thành con người văn hoá, còn vấn đề con người trở thành con
người - văn hoá đến mức nào đó lại là vấn đề khác”[32, tr.120]. Ở đây, tác giả
đã đồng nhất đời sống con người với đời sống văn hoá. Trong khi đó, đời sống
con người bao gồm cả những mặt tích cực và tiêu cực, cả thiện lẫn ác, cả ánh
sáng lẫn bóng tối. Đời sống con người có chứa đựng nhiều yếu tố văn hoá,
11
nhưng bên cạnh đó, cũng tồn tại những yếu tố phản ánh văn hoá. Tuy đời sống
văn hoá và đời sống con người đều hình thành trên cơ sở của đời sống vật chất
và đời sống tinh thần, nhưng một khi đã nhấn mạnh yếu tố văn hoá, thì đời sống
văn hoá phải có sự khác biệt về chất so với đời sống con người. Từ đó có thể
thấy, đời sống vật chất không thể đồng nhất với đời sống văn hoá vật chất, đời
sống tinh thần không thể đồng nhất với đời sống văn hoá tinh thần. Vì đời sống
vật chất không phải lúc nào cũng bao hàm giá trị văn hoá, đời sống tinh thần
cũng vậy. Sự tương tác giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần phong phú,
nhưng vấn đề quyết định đời sống ấy có phải là đời sống văn hoá tinh thần, đời
sống văn hoá vật chất hay không cần phải nghiên cứu, xem xét lại.
Theo GS.TS Hoàng Vinh “Đời sống văn hoá là một bộ phận của đời sống
xã hội, mà đời sống xã hội là một phức thể của những hoạt động sống của con
người, nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của nó”. Trong đó “Nhu
cầu vật chất được đáp ứng làm cho con người tồn tại như một sinh thể, còn nhu cầu
tinh thần giúp cho con người tồn tại như một sinh thể xã hội, tức một nhân cách
văn hoá”[133, tr.149]. Như vậy, ở đây tác giả nhìn nhận đời sống văn hoá gắn liền
với những nhu cầu cơ bản của con người, con người không thể tách rời hai nhu cầu
thiết yếu, đó là nhu cầu về vật chất và tinh thần. Tuy nhiên, sự phân biệt này cũng
chỉ có ý nghĩa tương đối vì thực chất, nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần
thường thống nhất với nhau trong hoạt động sống của con người. Nói đến đời
sống văn hoá vật chất hay đời sống văn hoá tinh thần chẳng qua là nhấn mạnh
một trong hai thành tố quan trọng cấu thành nên đời sống văn hoá. Trên thực tế,
mặc dù không thể tách bạch hai yếu tố vật chất và tinh thần, bởi chúng luôn
xuyên thấm và tác động lẫn nhau, nhưng phần lớn các nhà nghiên cứu đều thừa
nhận rằng: “Thiếu điều kiện vật chất thì không có sự tồn tại của con người,
nhưng thiếu điều kiện tinh thần thì xã hội không thể phát triển được” [110, tr.19-
20].
12
Tóm lại, đời sống văn hoá là toàn bộ hoạt động văn hoá của con người, đáp
ứng nhu cầu văn hoá vật chất và tinh thần nhằm duy trì cuộc sống của con người.
Đời sống văn hoá và đời sống xã hội có sự giao thoa với nhau, song điểm khác biệt
là đời sống văn hoá gạn lọc dần những yếu tố phản tiến bộ của đời sống xã hội,
nhằm đảm bảo các giá trị văn hoá được biểu hiện ở mức độ cao nhất. Điều này dẫn
đến các sản phẩm văn hoá cũng khác với các sản phẩm vật chất thông thường
khác ở chỗ nó mang giá trị và ý nghĩa tinh thần, độc đáo, không lặp lại, có khả
năng nâng cao nhận thức và tình cảm của con người, góp phần bồi dưỡng tâm
hồn và trí tuệ, nhân cách và bản lĩnh cho con người. Sản phẩm văn hoá bao gồm
hai loại: sản phẩm văn hoá vật thể và phi vật thể.
Sản phẩm văn hoá vật thể là loại sản phẩm văn hoá tồn tại hữu hình dưới
dạng vật thể như các công trình kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ, tác phẩm văn học, di
tích lịch sử văn hoá, danh lam thắng cảnh, cổ vật, bảo vật, các di tích khảo cổ học…
Sản phẩm văn hoá phi vật thể là loại sản phẩm văn hoá không hiện hữu
một cách cố định, tồn tại dưới dạng các quan niệm về giá trị và chuẩn mực xã
hội, được ghi nhận và lưu truyền trong ký ức của xã hội. Đó là các huyền thoại,
truyền thuyết, lễ hội, tín ngưỡng dân gian, anh hùng dân tộc, nhân thần có công
dựng nước và giữ nước, loại hình nghệ thuật trình diễn như vũ điệu, âm nhạc, hò
vè, sân chơi cổ truyền, đờn ca tài tử…; các giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc
như chủ nghĩa yêu nước, truyền thống nhân đạo, ý thức cộng đồng, tinh thần
khoan dung, đề cao nghĩa tình, đạo lý, lạc quan, yêu đời. Đó là các giá trị về đạo
đức, pháp lý và thẩm mỹ của dân tộc như lương tâm, phẩm giá, danh dự, trách
nhiệm…Với đề tài này thì đời sống văn hoá tinh thần (những phong tục tập quán,
tôn giáo tín ngưỡng, các loại hình nghệ thuật…) được thể hiện thông qua các di vật,
tức là thông qua đời sống vật chất.
Như vậy, đời sống văn hoá mà chúng ta hiểu ở đây là một lát cắt trong đời
sống chung của xã hội. Nó là tổng hoà của những yếu tố văn hoá vật thể và văn
hoá phi vật thể do con người sáng tạo ra.
1.2. KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN MIỀN TÂY NAM BỘ
13
Vùng ĐBSCL ngày nay là địa phận của 13 tỉnh, thành phố gồm: Long An,
Tiền Giang, Đồng Tháp, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, An Giang,
Kiên Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau, với diện tích tự nhiên
khoảng 40.604 km
2
. Phía Đông Bắc giáp vùng Đông Nam Bộ, Tây Bắc giáp
Campuchia, Tây Nam giáp vịnh Thái Lan, Đông Nam giáp Biển Đông. Được
xác định từ vĩ độ 8
0
30’ Bắc - 10
0
40’ Bắc và kinh độ 104
0
26’ Đông - 106
0
40’
Đông. Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm với tính chất cận xích đạo, có nền
nhiệt độ cao và ổn định. Nhiệt độ trung bình phổ biến khoảng từ 25 - 28
0
C. Một
năm chia làm hai mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12
đến tháng 4.
Vùng TNB có hai con sông lớn chảy qua: sông Tiền (ở phía Bắc) và sông
Hậu (ở phía Nam) là hạ lưu của hệ thống sông Mê Kông bắt nguồn từ Tây Trạng
(Trung Quốc). Ngoài ra, còn có một số sông như: sông Vàm Cỏ Đông, sông
Vàm Cỏ Tây; sông Sở Thượng, sông Sở Hạ; sông Giang Thành; sông Châu Đốc;
sông Cái Lớn, sông Cái Bé và một hệ thống kênh đào chằng chịt thuận tiện cho
việc đi lại và sản xuất nông nghiệp.
Sông Tiền nhận 2/3 lưu lượng nước của sông Mê Kông, từ biên giới
Campuchia đến cửa sông dài khoảng 200km, chạy qua các tỉnh An Giang (Tân
Châu), Đồng Tháp (Hồng Ngự, Tx. Hồng Ngự, Tam Nông, Thanh Bình, Tp. Cao
Lãnh, Cao Lãnh, Châu Thành và Tp.Sa Đéc), Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre đến
Cai Lậy (Tiền Giang) thì chia làm bốn con sông đổ ra biển bằng 6 cửa: sông Mỹ
Tho (Cửa Đại, Cửa Tiểu); sông Cổ Chiên (cửa Cổ Chiên, cửa Cung Hầu); sông
Hàm Luông (cửa Hàm Luông); sông Ba Lai (cửa Ba Lai).
Sông Hậu chảy qua An Giang (Châu Đốc, Long Xuyên) đến Cần Thơ
chia thành nhiều nhánh làm ranh giới tự nhiên giữa các tỉnh Đồng Tháp và Cần
Thơ, Vĩnh Long và Cần Thơ, Hậu Giang và Vĩnh Long, Trà Vinh và Sóc Trăng
rồi hội nhập lại, cuối cùng đổ ra biển Đông bằng cửa Ba Thắc(bị bồi lấp vào
khoảng những năm 70 của thế kỷ XIX), cửa Định An và cửa Tranh Đề.
14
TNB là sản phẩm bồi lắng phù sa của sông Mê Kông và bồi dần qua
những kỷ nguyên thay đổi mực nước biển. Qua từng giai đoạn kéo theo sự hình
thành những giồng cát dọc theo bờ biển. Những hoạt động hỗn hợp của sông và
biển đã hình thành những vạt đất phù sa phì nhiêu dọc theo đê ven sông lẫn dọc
theo một số giồng cát ven biển và đất phèn trên trầm tích đầm mặn trũng thấp
như vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên - Hà Tiên, Tây Nam sông Hậu
và bán đảo Cà Mau [152]. Địa hình khá bằng phẳng với đa phần diện tích có cao
độ nằm khoảng 0,5-1,5m, thấp dần theo hướng Bắc - Nam và Tây - Đông.
Dựa theo đặc tính về địa hình, TNB có thể được chia thành hai vùng
chính. Đó là vùng cửa sông, ven biển và vùng ngập lũ:
Vùng cửa sông, ven biển có địa hình khá bằng phẳng và thấp. Khu vực có
địa hình cao hơn là do quá trình hình thành các giồng cát ở cửa sông (Tiền
Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng…), có độ cao từ 0,75 - 1,81m so với mực
nước biển; khu vực có địa hình thấp hơn bởi quá trình bồi lắng trầm tích phù sa
(khu vực Bán đảo Cà Mau, ven vịnh Thái Lan), có độ cao từ 0,25 - 0,50m so với
mực nước biển.
Vùng ngập lũ nằm phía Bắc và Tây Bắc TNB, chủ yếu thuộc các tỉnh Long
An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Hậu Giang, An Giang và Kiên Giang. Các khu vực
dọc sông Hậu và sông Tiền có địa hình tương đối cao hơn (1-3m) do quá trình bồi
đắp phù sa. Dựa vào phân vùng sinh thái đất nông nghiệp, vùng ngập lũ TNB có
thể chia thành 4 tiểu vùng chính: Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên, khu
vực Tây sông Hậu, và khu vực giữa sông Tiền và sông Hậu [5, tr.3-4].
Quá trình hình thành và biến đổi của vùng TNB cùng với những đặc điểm
về môi trường sinh thái là một trong những yếu tố rất cần thiết để hiểu hơn về sự
phân bố và cuộc sống của các cộng đồng cư dân vùng này qua các thời kỳ lịch sử.
Theo các nhà Địa - Sử học, quá trình hình thành vùng đất TNB diễn ra khá
lâu dài và phức tạp, chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: quá trình biển tiến,
biển thoái, vận động của vỏ trái đất qua hàng trăm triệu năm, các hoạt động bào
mòn và tích tụ…đã tạo nên những vùng sụt lún như vùng Đồng Tháp Mười hay
15
vùng trồi lên cao như dãy Bảy Núi (An Giang), đảo Phú Quốc (Kiên Giang)…
Trong đó,các đợt biển tiến, biển thoái có tác động mạnh mẽ nhất đến sự hình
thành vùng đất Nam Bộ.
Đợt biển tiến đầu tiên cách nay khoảng 11.000 đến 6.000 năm thì đạt đến
mức cực đại, cao hơn mực nước biển hiện tại 4 - 5m. Thời điểm đó, toàn vùng
TNB ngày nay tràn ngập nước mặn, trở thành vịnh biển nông rộng lớn. Những
ngọn đồi, quả núi trong vùng Bảy Núi (An Giang), Hà Tiên (Kiên Giang) đều trở
thành những hòn đảo nhấp nhô trong vịnh biển. Giai đoạn biển tiến này đã phân
hoá đồng bằng thành nhiều vùng có đặc điểm khác nhau: biển nông, biển nông
ven bờ, đầm lầy ven biển… Tại các vùng biển nông ven bờ động vật thân mềm,
da gai, san hô phát triển rất phong phú Đặc biệt, thời kỳ này hình thành và phát
triển phong phú thực vật nhiệt đới, tạo điều kiện cho sự hình thành các vùng
chứa than bùn rộng lớn ở thời kỳ tiếp theo [30, tr.16; 24, tr.18]…
Sau khi biển tiến đạt đến cực đại (+4 đến +5m), thì bắt đầu rút liên tục
khỏi đồng bằng (khoảng 1.600 năm) và dừng ở mực cao +2m (trong vòng 700
năm). Quá trình mực nước biển rút và sự bồi lắng của phù sa mới từ hệ thống
sông Mê Kông, miền TNB bắt đầu xuất lộ, hình thành nên các thềm phù sa ở độ
cao +3, +2m lấn ra phía biển [24, tr.18]. Quá trình này được thể hiện khá rõ trên
các giồng cát từ Cai Lậy trở xuống phía nam (có tuổi C
14
khoảng 4.000 - 4.500
năm). Các giồng cát này có hướng song song với đường bờ hiện tại. Khi mực
nước biển rút đã để lại các vùng đầm lầy rộng lớn thuận lợi cho sự phát triển của
thực vật tạo than [30, tr.16-17].
Sau đó, nước biển tiếp tục hạ thấp với tốc độ nhanh hơn (khoảng 250
năm), đây được xem là đợt biển thoái đầu tiên. Từ năm 1650 - 1400 TCN (3650
- 3400 năm cách nay), mực nước biển từ độ cao khoảng +2m đã hạ thấp dưới
mực nước biển hiện nay. Khi mực nước biển hạ thấp đến độ cao 1,5 - 1m thì cửa
biển Châu Đốc, sông Mê Kông tách chia hai nhánh, đồng thời chuyển dòng chảy
theo Tây Bắc - Đông Nam. Hai dòng chảy này về sau trở thành hai con sông chính
ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển chung diện mạo của toàn vùng
16
TNB… Tuy nhiên, phải tiếp tục trải qua quá trình trên dưới ngàn năm, sau đợt
biển tiến thứ hai, biển thoái thứ hai, vào khoảng TCN, bề mặt vùng TNB mới thực
sự hiện rõ nét [24, tr.19].
Đợt biển thoái thứ ba kéo dài khoảng 500 năm đầu Công nguyên (từ năm
50 TCN đến năm 500 SCN) có thể được xem là thời điểm mở đầu một thời kỳ
mới trong quá trình hình thành vùng TNB ngày nay. Thời điểm đó, mực nước
biển từ độ cao +0,4m (50 năm TCN) hạ thấp dần dưới mực nước biển hiện tại là
-0,8m, vùng TNB theo đó lại được mở rộng thêm về phía Đông nhờ nước biển
rút dần. Phù sa của các dòng chảy ngày càng bồi tụ mạnh về phía biển.
Tiếp đến, từ khoảng giữa thế kỷ VI, lại bắt đầu đợt biển tiến mới kéo dài
đến 800 năm (từ khoảng năm 550 đến khoảng năm 1150 SCN), với mực nước
biển dâng cao trung bình +0,8m. Nước mặn đã tràn ngập các vùng đất thấp ven
biển, có thể xâm nhập sâu vào những vùng trũng không có hệ thống giồng cát
che chắn (vùng rừng U Minh, Tứ Giác Long Xuyên). Ngoài ra, nước mặn còn
theo các sông rạch, lan toả vào các vùng trũng trong lòng châu thổ (vùng Đồng
Tháp Mười). Sự xâm nhập của nước biển đã ảnh hưởng đến cảnh quan tự nhiên,
môi trường sinh thái tại những địa bàn thấp trũng của châu thổ. Đến giữa thế kỷ
XII về sau, mực nước biển dần hạ thấp rồi dừng lại ở mức hiện tại. Vùng TNB
bước vào thời kỳ phát triển mới theo chiều hướng không ngừng mở rộng, phù hợp
với quy luật tự nhiên của nó [24, tr.20-21].
Thư tịch cổ, Khang Thái và Chu Ứng là quan triều đình nhà Ngô thời Tam
Quốc (230 - 280) được cử đi sứ đến nước Phù Nam. Khi về nước hai vị quan này
viết một vài quyển sách nói về chuyến đi của mình đến đất nước Phù Nam như:
Phù Nam ký, Phù Nam thổ tục, Phù Nam thổ tục truyện, Phù Nam dị vật chí. Tuy
nhiên, các sách này đều đã thất lạc, chỉ còn biết đến qua các trích dẫn trong một số
thư tịch cổ được ghi chép từ thế kỷ V - VI SCN về sau như Lương Thư, Nam Tề
Thư, Tuỳ Thư, Đường Thư Những nội dung này đã cho chúng ta những hình
17
dung về địa hình, thiên nhiên và môi trường sinh thái vùng TNB thời bấy giờ
(tương đương với thời kỳ biển thoái kéo dài khoảng 800 năm SCN).
Theo Nam Tề Thư: Nước Phù Nam ở phía Nam quận Nhật Nam, trong
vịnh lớn phía Tây biển lớn, diện tích rộng hơn 3.000 dặm, nước ấy có một con
sông lớn chảy theo hướng tây ra biển [104, tr.268]. Theo Lương thư: Nước phù
Nam cách Nhật Nam khoảng 7.000 dặm, ở phía Tây Lâm Ấp, cách nước ấy
3.000 dặm. Kinh thành cách biển 500 dặm. Trong nước có con sông lớn, rộng 10
dặm, chảy theo hướng Tây Bắc sang phía Đông đổ ra biển. Diện tích cả nước
rộng hơn 3.000 dặm. Đất đai nước ấy thấp và bằng phẳng. Khí hậu và phong tục
giống như Lâm Ấp [104, tr.273]. Sách Tam Tạng kinh - Cao Tăng truyện còn có
đoạn bổ sung “Phù Nam là cửa biển có ngàn con sông” [24, tr.23].
Dựa vào những mô tả khái quát về nước Phù Nam qua các ghi chép của
thư tịch cổ Trung Quốc, đa số các nhà khoa học đều có chung nhận định về vị trí
của nước Phù Nam nằm ở phía Nam Đông Dương, phía Nam quận Nhật Nam
(một phần đất phía Nam Việt Nam xưa) và Lâm Ấp (Nam Trung Bộ Việt Nam
ngày nay). Trong đó vịnh lớn phía Tây biển lớn là vịnh Thái Lan; con sông lớn,
rộng 10 dặm chảy theo hướng Tây đổ ra biển (hoặc chảy theo hướng Tây Bắc
sang phía Đông rồi đổ ra biển) tương ứng với phần hạ lưu sông Mê Kông, với
đất đai thấp, trũng và bằng phẳng. Có thể suy đoán đây là vùng TNB ngày nay.
Từ đó có thể cho rằng, vào khoảng thế kỷ V - VI vùng TNB đã hình thành, với
đồng bằng rộng lớn (có phần trũng thấp). Bên cạnh đó, theo thư tịch cổ, kinh
thành cách biển 500 dặm (trên 200 km), chứng tỏ là vùng đất được con người
khai phá với quy mô khá rộng lớn.
Đến thời kỳ tiếp theo, vùng đất này được xem là vùng đất của Thuỷ Chân
Lạp, theo Tuỳ thư mô tả nước này có bờ biển bao quanh và có nhiều hồ lớn. Tân
Đường thư khi viết về Thuỷ Chân Lạp thì viết là vùng đầm lầy rộng lớn. Theo
mô tả như trên vào khoảng thế kỷ VII - IX vùng đồng bằng châu thổ rộng lớn từ
bằng phẳng, mênh mông, nhiều sông ngòi đã bị biến thành nhiều hồ lớn, vùng
18
đầm lầy rộng [24, tr.23-24]. Sự biến động này có thể liên quan trực tiếp đến đợt
biển tiến thứ tư dâng cao đến +1m diễn ra cùng thời.
Một số thư tịch cổ ghi lại cảnh quan vùng TNB từ thế kỷ XII trở về sau
đều có những mô tả khá giống nhau như: ký sự của Châu Đạt Quan trong“Chân
Lạp phong thổ ký” có đoạn viết: Từ Chân Bồ (Bà Rịa hay Vũng Tàu) theo
hướng Khôn-Thân (Tây Nam - 1/6 Nam), đi ngang qua biển Côn Lôn và vào cửa
sông. Sông này có hàng chục ngả, nhưng chỉ có thể vào được cửa thứ tư (Cửa
Tiền Giang vào Mỹ Tho ngày nay), các ngả khác có nhiều bãi cát thuyền lớn
không đi được. Nhìn lên bờ thấy toàn là cây mây cao vút, cổ thụ, cát vàng, lau
sậy trắng, thoáng qua không dễ gì biết được lối vào [100, tr.22]. Có đoạn khác
lại viết: Bắt đầu vào Chân Bồ hầu hết cả vùng đều là bụi rậm của khu rừng thấp,
những cửa rộng của con sông lớn chạy dài hàng trăm dặm, bóng mát um tùm của
những cây cổ thụ và cây mây dài tạo thành nhiều chỗ trú xum xuê. Tiếng chim
hót và thú vật kêu vang dội khắp nơi. Vào nửa đường trong cửa sông, mới thấy lần
đầu cánh đồng ruộng bỏ hoang, không có một gốc cây nào. Xa hơn tầm mắt chỉ
toàn là cỏ cây đầy rẫy. Hàng trăm hàng ngàn trâu rừng tụ họp từng bầy trong vùng
này. Tiếp đó, nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài hàng trăm dặm [100, tr.73]…
Đây là quang cảnh của vùng TNB mà Châu Đạt Quan ghi lại trong chuyến đi sứ
đến nước Chân Lạp vào khoảng năm 1296 - 1297 SCN.
Vào cuối thế kỷ XVIII, trong cuốn sách “Phủ biên tạp lục”, Lê Quý Đôn
có những mô tả: Phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ cửa biển Cần Giờ, Soài Lạp,
Cửa Đại, Cửa Tiểu… toàn là rừng rậm hàng mấy trăm dặm [24, tr.24]. Qua mô
tả từ các thư tịch cổ cho thấy, từ thế kỷ thứ XII đến cuối thế kỷ XVIII vùng TNB
phát triển theo chiều hướng ngày càng hoang dã, cảnh vật thiên nhiên như chưa
từng có ai khai phá.
Về khí hậu, theo các nhà nghiên cứu, những đặc điểm của các nhóm cổ
sinh đặc biệt là bào tử phấn hoa, cùng với đặc điểm của lớp vỏ phong hoá cổ có
thể xác định được khí hậu thời kỳ Pleistocen ở đồng bằng Nam Bộ có chế độ
19
nhiệt đới gió mùa rất rõ [30, tr.16-17]. Thảm thực vật toàn vùng đã phản ánh
điều kiện khí hậu thời kỳ Óc Eo mang tính nhiệt đới có sự xen kẽ nóng khô và
nóng ẩm. Như vậy có thể thấy điều kiện thiên nhiên và khí hậu những thế kỷ đầu
Công nguyên không khác so với ngày nay.
1.3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VÀ CÁC DẤU TÍCH VĂN HOÁ ÓC EO
1.3.1. Lịch sử nghiên cứu
Lịch sử phát hiện và nghiên cứu nền văn hoá Óc Eo ở đồng bằng Nam Bộ
không phải là một quá trình liên tục về thời gian. Nó được biết đến từ rất sớm
qua các thư tịch cổ Trung Quốc. Người đầu tiên thu thập và dịch những tư liệu
này chính là nhà nghiên cứu người Pháp P.Pelliot. Ông đã thu thập từ 22 tư liệu
cổ Trung Quốc liên quan đến vương quốc Phù Nam. Đây là nguồn tư liệu chữ
viết quý giá, các thông tin vô cùng phong phú, cho ta thấy được toàn cảnh đời
sống xã hội của cư dân Phù Nam lúc bấy giờ. Hầu hết các nhà nghiên cứu sau
này đều sử dụng nguồn tư liệu này để nghiên cứu, xem nó như là một công cụ
hữu hiệu để tìm hiểu về vương quốc cổ đại này. Tuy nhiên, những thông tin từ
các thư tịch khá phức tạp, vì có phần ghi trực tiếp qua các sứ giả, qua quan hệ
bang giao, có phần ghi qua những truyền thuyết trong khu vực, những lời kể
gián tiếp, hoặc người sau chép lại người trước [63, tr.178]…, không phải là
những chứng cứ xác thực để xác minh nền văn minh cổ đại này.
Đến nửa sau thế kỷ XVIII đầu thế XIX, nhiều nhà nghiên cứu người Pháp
và các học giả phương Tây đã phát hiện một số bia ký và thu thập hàng loạt di
vật khảo cổ học có niên đại khoảng thế kỷ I đến thế kỷ X SCN ở nhiều tỉnh Nam
Bộ: năm 1879, A.Corre đã lượm được một số cổ vật và thấy hai tấm bia đá khắc
chữ Phạn; đến năm 1912, O.Connel đã phát hiện một pho tượng thần Vishnu
khổng lồ; trong các năm 1922, 1928, 1936 Suzanne, Karpeles, Jean Bouchot,
F.Fraisse, H.Parmenlier đã lần lượt tìm thấy nhiều di tích, di vật mà phần lớn là
tượng thần, linh vật thờ bằng đá, tấm đá có chạm trổ. Những di vật này chủ yếu
nằm ở khu vực Ba Thê. Điều này đã phần nào chứng minh cho giả định ở vùng
20
ĐBSCL đã từng có một vương quốc tồn tại mà thư tịch cổ Trung Quốc nhắc đến
là “vương quốc Phù Nam”.
Cũng trong khoảng thời gian này, ở vùng đồng bằng miền Tây như Cạnh
Đền, Tân Long, Prasat pream Loven (Gò Tháp), di tích những đường nước cổ từ
Angkor Borei đến Ba Thê cũng đã được phát hiện. Chính từ những phát hiện này
đã thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp, trong
đó, có nhà khảo cổ học người Pháp L. Malleret - là người có những đóng góp
quan trọng trong việc phát hiện và có những nghiên cứu tiên phong cho nền văn
hoá này.
Những năm sau đó (1938 - 1945), L.Malleret và các cộng sự đã tổ chức
nhiều cuộc thăm dò, khảo sát, khai quật và phát hiện nhiều di tích mới ở vùng
đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Đến năm 1959 - 1963, những nghiên cứu
trước đó của ông, chủ yếu là cuộc khai quật ở Óc Eo, lần lượt được giới thiệu
trong 4 tập sách: “L’archéologie du Delta du Mékong”. Tập I (1959) mô tả khá
chi tiết các loại hình di tích, di vật được phát hiện ở vùng Hậu Giang. Tập II
(1960) trình bày những nghiên cứu của mình về các hiện vật thu được, đặc biệt
là đồ gốm. Tập III (1962) khảo cứu các loại hình đồ trang sức bằng kim loại quý,
đá quý… Tập IV (1963) ngoài phần trình bày những phát hiện mới ở vùng Tiền
Giang, ông còn phân tích diện mạo của nền văn minh Óc Eo ở vùng ĐBSCL.
Công trình này (4 tập) đã công bố những phát hiện, mở ra hướng nghiên cứu mới
cho các nhà khoa học. Nhiều dấu vết kiến trúc bằng gạch, bằng đá; nhiều cọc gỗ,
nhà sàn; nhiều di vật bằng gốm, đất nung, đá, đồng, chì, thiếc, vàng, bạc, đá quý,
thuỷ tinh…; nhiều tàn tích thực vật, xương cốt động vật nằm trong hai lớp cư trú
khác nhau, ở độ sâu từ 0,60 - 2,20m đã được L.Malleret phân tích, từ đó đưa ra
nhận định: Óc Eo là một thành phố có hoạt động mậu dịch, thương mại - là một
thành phố cảng có vị trí quan trọng về kinh tế, văn hoá và chính trị. Tại địa điểm
di tích Óc Eo đã có một quá trình cư trú lâu dài và đây được coi là một cảng biển
quốc tế đặc biệt phát triển lúc bấy giờ. Thông qua các hiện vật, nội dung của tập
21
sách đã đề cập đến một số vấn đề liên quan đến đời sống của cư dân Óc Eo. Tuy
nhiên, tập sách chỉ chủ yếu trình bày những phát hiện khảo cổ ở vùng châu thổ
sông Cửu Long trong vòng mấy chục năm trước đó. Còn rất nhiều vấn đề mang
tính chất khoa học về nền văn hoá này chưa được làm rõ như phạm vi phân bố,
đặc điểm, nội dung, quá trình phát triển và suy vong của văn hoá Óc Eo. Vấn đề
cuội nguồn và mối liên hệ của văn hoá Óc Eo với vương quốc Phù Nam, Chân
Lạp và Chămpa… vẫn cần chúng ta tiếp tục tìm tòi, nghiên cứu.
Từ sau các hoạt động nói trên của các nhà khảo cổ người Pháp, vì chiến
tranh và các lý do khác nhau, nên trong vài thập niên sau đó, không có một cuộc
khai quật, nghiên cứu nào về văn hoá Óc Eo ở vùng TNB. Các công trình nghiên
cứu trước đó chỉ mang tính chất mô tả, giới thiệu, giải thích sơ lược dưới nhiều
giác độ khác nhau về nền văn hoá Óc Eo, là hướng gợi mở cho các công trình
nghiên cứu tiếp theo, chưa đi sâu vào phân tích từng khía cạnh và minh định một
cách có hệ thống về nền văn hoá cổ Óc Eo ở miền TNB.
Sau năm 1975, khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước hoà
bình thống nhất, việc nghiên cứu các nền văn hoá cổ trong cả nước được nhiều
cơ quan khoa học, cơ quan quản lý nhà nước và các nhà khoa học, các cuộc hội
thảo đặc biệt quan tâm. Không ít nghiên cứu sinh chọn những vấn đề có liên
quan đến nền văn hoá Óc Eo làm đề tài nghiên cứu của luận án. Có nhiều NXB,
tạp chí khoa học đã đăng tải những công trình nghiên cứu của các tác giả viết về
văn hoá Óc Eo như Đào Linh Côn, Lê Xuân Diệm, Võ Sĩ Khải, Lê Thị Liên,
Nguyễn Thị Hậu, Bùi Phát Diệm, Đặng Văn Thắng…; một số cơ quan quản lý
nhà nước, viện nghiên cứu chuyên ngành cũng đã triển khai nghiên cứu các đề
tài, dự án cấp Nhà nước, cấp Bộ như Viện Khảo cổ học, Viện KHXH tại
Tp.HCM… Đến nay, có thể cho rằng, đã có hàng trăm công trình nghiên cứu
liên quan đến từng mặt của văn hoá Óc Eo, trong đó, chủ yếu là của các nhà
khảo cổ học nghiên cứu về các di tích, di vật đang nằm sâu dưới lòng đất. Bức
22
tranh về vương quốc Phù Nam và nền văn minh Óc Eo ngày càng hiện ra một
cách rõ ràng hơn.
- Nghiên cứu về đời sống văn hoá vật chất của văn hoá Óc Eo
Về lương thực, thực phẩm, đã có nhiều công trình đề cập đến. Đa số các
công trình đều cho rằng thời kỳ Óc Eo đã có nền nông nghiệp trồng lúa nước
phát triển, cho nên lương thực chính vẫn là lúa gạo, sau đó là các loại thuỷ hải
sản, động vật Điều này đã được nhiều tác giả chứng minh qua việc phát hiện
dấu tích lúa gạo và các loại xương động vật trong các di tích cư trú. Trong một
bài viết, Võ Sĩ Khải cho rằng, Óc Eo“là một xã hội nông nghiệp trồng lúa nước,
lương thực chính hiển nhiên là cơm. Thức ăn gồm cả các loại thịt rừng, hải sản
và thú nuôi (tôm, cá, sò, ốc, trâu, bò, hươu, nai, lợn rừng, lợn nhà, chó và cả
voi), các loại rau củ (dừa, trám, củ năng )” [55, tr.399]. Trong một nghiên cứu
khác, tác giả cùng với Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn cũng đã khẳng định việc
“phát hiện dấu vết của nhiều cánh hoa, cọng hoa và lá cây tương đối còn
nguyên dạng” và hàng chục tiêu bản xương răng động vật như:“lợn rừng, lợn
nhà, hươu đầm lầy, voi, trâu, bò, cá sấu, cá, rùa, chuột ” [23, tr.429]. Phần lớn
các di cốt động vật này là những đồ phế thải của bếp núc, một số có thể được
dùng cho những nghi thức thờ cúng. Điều này chứng tỏ cư dân nơi đây có cuộc
sống ẩm thực khá phong phú, với đa dạng các loại động, thực vật, họ không chỉ biết
đánh bắt thuỷ, hải sản mà còn biết nuôi trồng tạo nguồn thức ăn phong phú.
Qua những nghiên cứu trên cho thấy nguồn lương thực, thực phẩm của cư
dân Óc Eo thời kỳ này rất phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, trong những công
trình này, các tác giả chỉ đề cập đến các dấu tích lúa gạo, di cốt động vật, các loại
rau củ dưới dạng báo cáo khảo cổ học hoặc là những phát hiện mới về mặt
khảo cổ học. Đây sẽ là những cứ liệu xác thực nhất mà luận án kế thừa nhằm làm
rõ những đặc trưng trong văn hoá ẩm thực của cư dân Óc Eo ở miền TNB.
Về trang phục, theo Võ Sĩ Khải, trang phục của cư dân Óc Eo có sự khác
biệt, tuỳ theo tầng lớp trong xã hội mà có những cách mặc khác nhau “phụ nữ
23
mặc váy dài, phần trên để trần hoặc phủ kín; đàn ông đóng khố ngắn, phần trên
để trần, cả nam lẫn nữ đều đeo nhiều đồ trang sức, bùa đeo” [129, tr.399]. Theo
các tác giả Lê Thị Liên [74], Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải [23] có
thể nhận biết trang phục trong xã hội Óc Eo thông qua các tượng người, tượng
thần và tượng Phật. Tượng nam thần và nữ thần đều có trang phục tương đối
giống nhau: đầu đội mũ, phần trên cơ thể để trần, phía dưới quấn xăm pốt (nam)
hay mặc váy (nữ) và đeo thắt lưng. Với tượng Phật tác giả chia làm hai loại trang
phục: Loại thứ nhất khoác áo cà sa hở một bên vai; Loại thứ hai khoác áo cà sa
kín hai vai, dài đến mắt cá chân.
Như vậy, các tác giả đều nhận biết trang phục chủ yếu qua những di vật
tìm thấy ở các di tích cư trú, di tích kiến trúc văn hoá Óc Eo như các pho tượng
người, tượng thần, tượng Phật và các hình vẽ trên một số di vật khác để đưa ra
những nhận định về trang phục của cư dân Óc Eo. Tuy nhiên, những nhận định
này chỉ được các tác giả nhắc đến một cách khái quát trong quá trình phân tích
các di vật. Tác giả luận án dựa vào các báo cáo khảo cổ, những nhận định của
các tác giả đi trước về trang phục của các vị thần, phật để phân tích các loại trang
phục của cư dân Óc Eo, thông qua đó làm rõ thái độ ứng xử của con người với
môi trường tự nhiên vùng TNB những thế kỷ đầu Công nguyên.
Về cư trú, các tác giả Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải [23] đã
lần lượt liệt kê các di chỉ cư trú, kiến trúc tôn giáo, mộ táng trong văn hoá Óc Eo.
Theo các tác giả, cư dân Óc Eo chủ yếu sống trên nhà sàn, có một số dấu vết của
kiến trúc gạch ngói, nhưng đó có thể là kiến trúc của các đền thờ. Tác giả Lê Thị
Liên cũng cho rằng “kiến trúc nhà sàn là một trong những hình thức cư trú của
cư dân Óc Eo” còn cấu trúc kiên cố chủ yếu ở “trên gò hoặc vùng cao, dấu vết
kiến trúc chỉ được nhận thấy qua các mảnh gạch vỡ trong tầng văn hoá hoặc
trên bề mặt” [69, tr.437-442]. Còn theo Võ Sĩ Khải cư dân Óc Eo sống chủ yếu
trên nhà sàn hoặc thuyền bè, chỉ có những ngôi đền, chùa mới được xây dựng
kiên cố [129, tr.400]. Cũng trên quan điểm cư dân Óc Eo cư trú trên nhà sàn,
24
Huỳnh Công Bá cho rằng “cư trú trên nhà sàn là một truyền thống lâu đời” và
họ còn biết “đắp đất thành các gò rộng hàng hécta làm nền móng cho kiến trúc
đền thờ hay khu mộ táng” [1, tr.288].
Những công trình này đã đề cập đến một số hình thức cư trú của cư dân
Óc Eo như: cư trú trên nhà sàn, thuyền bè và nền gạch. Tuy nhiên, nó chỉ dừng
lại ở việc nêu lên một cách sơ lược về các hình thức cư trú, chứ chưa đi sâu phân
tích, lý giải tại sao cư dân Óc Eo lại chọn những hình thức cư trú này. Trên cơ sở
các công trình đi trước, tác giả luận án sẽ kế thừa, làm rõ hơn về mô hình cư trú,
các hình thức cư trú và thái độ ứng xử của con người đối với môi trường tự nhiên
mà họ đang sinh sống thông qua việc lựa chọn các hình thức cư trú phù hợp với
môi trường sống.
Về giao thông, Các tác giả Võ Sĩ Khải [55], Đào Linh Côn [13] đều cho
rằng, cư dân Óc Eo đi lại bằng cả đường thuỷ (đường biển, đường sông và các
kênh đào) lẫn đường bộ (sử dụng các loài voi, ngựa và có thể cả trâu bò). Các tác
giả khẳng định rằng, giao thông đường sông và đường biển trong thời đại Óc Eo
khá phát triển và đóng vai trò thiết yếu trong việc giao lưu văn hoá, kinh tế giữa
các vùng trong khu vực với nhau. Đặc biệt, theo Bùi Phát Diệm, chức năng của
hệ thống kênh đào không chỉ là tiêu, thoát nước cho đồng bằng ngập nước mà
còn phục vụ rất hữu hiệu cho việc đi lại. Người ta còn “thiết kế nhiều con tàu có
thể di chuyển trên chính những dòng kênh đó” [132, tr.363].
Trong một công trình khác [128], Dương Văn Truyện, Võ Sĩ Khải, Lưu
Nghĩa cho rằng, những di chỉ khảo cổ học thuộc văn hoá Óc Eo phần lớn được
phân bố ở các điểm tụ, đầu mối của những tuyến giao thông và được nối liền với
nhau bằng những đường nước cổ tạo thành một hệ thống đường thuỷ rộng lớn
trên phần châu thổ phía nam sông Hậu.
Về phương tiện giao thông thời kỳ này chủ yếu là thuyền bè sử dụng chất
liệu gỗ dễ bị huỷ hoại bởi thời gian cho nên hiện nay, chưa được phát hiện dưới
25
góc độ khảo cổ học. Những phát hiện của L.Malleret và các công trình nghiên
cứu này sẽ là gợi ý quan trọng, là chứng cứ xác thực để chúng tôi mạnh dạn đưa
ra những lý giải của mình trong vấn đề đi lại của cư dân Óc Eo.
Về các ngành sản xuất, thông qua những di vật phát hiện được có thể
thấy, các ngành nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp đặc biệt phát triển.
Các tác giả đều cho rằng, nông nghiệp có vị trí, vai trò quan trọng trong sự
phát triển kinh tế - xã hội của cư dân Óc Eo, đặc biệt là nền nông nghiệp lúa
nước. Theo Võ Sĩ Khải “cảng thị Óc Eo đã hình thành từ một xã hội nông
nghiệp lúa nước, thuộc dạng trồng lúa đầm lầy với một hệ thống kênh đào hỗ trợ
cho cây lúa”, cư dân Óc Eo đã biết cấy các loại lúa (Oryza sativa) và khai thác
các loại lúa trời (Oryza prosativa và Oryza nivara proparte). Tác giả còn khẳng
định “nền kinh tế nông nghiệp của cư dân Óc Eo đã thoát khỏi tình trạng tự
phát, đã có tính cộng đồng, có tổ chức quy mô rộng lớn trên toàn miền TNB vào
những thế kỷ đầu Công nguyên” [129, tr.394-395].
Theo tác giả Huỳnh Công Bá [1] và Đinh Trung Kiên [57]: Óc Eo chính là
quê hương của các loài lúa nổi, người Óc Eo có thể trồng nhiều loại lúa khác
nhau, còn có thể làm nương rẫy, khai thác thuỷ, hải sản. Còn tác giả Nguyễn
Xuân Hiền thì cho rằng, nghề trồng lúa ở ĐBSCL đã phát triển từ rất sớm,
khoảng từ thế kỷ I đến thế kỷ VII SCN. “Nghề trồng lúa có nhiều phần chắc
chắn là một nội dung chính của hoạt động nông nghiệp, chi phối toàn bộ hoạt
động này trong một môi trường phổ biến là sình lầy, ẩm thấp” [34, tr.239].
Cùng chung quan điểm này, tác giả Đào Linh Côn [13] cho rằng, xã hội
Óc Eo đã có nghề trồng lúa phát triển ở cả vùng cao lẫn vùng thấp. Trong đó, tác
giả đã phân tích bốn khía cạnh của nghề nông: nghề trồng lúa của cư dân Óc Eo
đã phát triển đến một trình độ nhất định, họ biết sản xuất nhiều giống lúa khác
nhau (lúa cạn, lúa nước và lúa nổi); có hệ thống kênh đào chằng chịt trên khắp
vùng, vừa đáp ứng nhu cầu trong sinh hoạt, giao thông và đáp ứng nhu cầu tưới
tiêu cho nghề nông; nghề làm vườn trồng các loại cây ăn củ, cây ăn quả, trồng