Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

SKKN ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY VÀ HỌC MÔN LỊCH SỬ TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.83 KB, 25 trang )

SỞ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO NAM ĐỊNH
Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong - Nam Định

SÁNG KIẾN DỰ THI CẤP TỈNH
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP
DẠY VÀ HỌC MÔN LỊCH SỬ
TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG HIỆN NAY
Tác giả: Trần Thị Kim Oanh
Trình độ chuyên môn: Cử nhân Lịch sử
Chức vụ: Tổ trưởng tổ Sử - Địa – GDCD
Nơi công tác : Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong – Nam Định
Nam định, tháng 5 năm 2014
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1.Tên sáng kiến:
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP
DẠY VÀ HỌC MÔN LỊCH SỬ
TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG HIỆN NAY
2.Lĩnh vực áp dụng sáng kiến : Áp dụng cho giáo viên dạy môn Lịch sử và
học sinh học môn Lịch sử phạm vi toàn quốc
3.Thời gian áp dụng sáng kiến : Từ năm 2000 đến nay
4.Tác giả :
Họ và tên : Trần Thị Kim Oanh
Năm sinh : 1964
Nơi thường trú : 11B/ 9 Gốc Mít 1 Vị Xuyên – Nam Định
Trình độ chuyên môn : Cử nhân sư phạm Lịch sử
Chức vụ công tác : Nhóm trưởng nhóm Sử, Tổ trưởng tổ Sử - Đia – GDCD
Nơi làm việc : Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong
Địa chỉ liên hệ : Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong – 76 Vị Xuyên – Nam
định
Điện thoại : 0902141696


5. Đồng tác giả : Không
6.Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị : Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong
Địa chỉ : 76 Vị xuyên – Nam định - Điện thoại : 0350 3640297
I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến:
Đã nhiều năm nay, trường THPT chuyên Lê Hồng Phong có nhiều học sinh
tham dự thi học sinh giỏi Tỉnh, Cụm Đồng bằng - Duyên hải Bắc bộ và Quốc gia đạt
nhiều giải cao, tỉ lệ đỗ vào các trường Đại học cũng cao. Môn Lịch sử cũng có sự
đóng góp sức mình trong đó. Là một giáo viên dạy môn Lịch sử của trường, tôi luôn
có ý thức giảng dạy để đạt 3 mục tiêu:
• Lên lớp - Tốt nghiệp
• Thi đại học
• Thi học sinh giỏi
Tôi xin trình bày một số kinh nghiệm, ý kiến riêng thông qua việc đổi mới
phương pháp dạy và học môn Lịch sử trong tình hình hiện nay.
Bản thân và các đồng nghiệp tham gia giảng dạy môn Lịch sử, bồi dưỡng Học
sinh giỏi, luyện thi Đại học môn Lịch sử thấy đây là 1 việc làm khó khăn, cần có sự
nỗ lực, kiên trì của cả thầy và trò.
Trong những năm gần đây, chất lượng dạy Sử và học Sử đang thu hút sự quan
tâm chú ý của toàn xã hội. Trước sự quan tâm ấy, tôi – giáo viên dạy môn Lịch sử
luôn trăn trở về việc dạy của mình, làm sao để nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử,
làm sao để các em học sinh yêu thích môn học này…trong bối cảnh xã hội đầy biến
động, phát triển rất nhanh chóng. Cách mạng khoa học công nghệ cũng phát triển
như vũ bão đã làm cho khối lượng tri thức tăng lên hàng ngày theo cấp số nhân,
trong khi đó, thời gian học ở trường có hạn. Vì vậy phải có sự thay đổi trong
phương pháp dạy và học.
Cũng như các môn học khác, môn Lịch sử có nhiệm vụ và khả năng góp phần
vào việc thể hiện mục tiêu đào tạo của trường phổ thông nói chung. Bộ môn Lịch sử
cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ sở của khoa học Lịch sử, nên đòi hỏi học
sinh không chỉ nhớ mà còn phải hiểu và vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống.

Cho nên, cùng với các môn học khác, việc học tập Lịch sử đòi hỏi phát triển tư duy,
thông minh, sáng tạo.
Đã có quan niệm sai lầm cho rằng học Lịch sử chỉ cần học thuộc lòng sách
giáo khoa, ghi nhớ các sự kiện - hiện tượng Lịch sử là đạt, không cần phải tư duy -
động não, không có bài tập thực hành… Đây là một trong những nguyên nhân làm
suy giảm chất lượng môn học.
Người giáo viên trong dạy học Lịch sử đa số chỉ làm nhiệm vụ nói lại nội
dung sách giáo khoa. Như vậy, bài giảng không thể gây hứng thú cho học sinh học
tập, gây nhàm chán trong tâm lý dạy - học của cả giáo viên lẫn học sinh.
Đa số học sinh coi bộ môn Lịch sử là môn phụ, dễ học. Vì vậy, các em ít chú
ý nghe giảng. Các em ghi chép những gì giáo viên ghi trên bảng và chỉ học thuộc
lòng những gì đã được ghi trong vở, không biết kết hợp với sách giáo khoa và
không biết tìm hiểu mối liên quan giữa Lịch sử với các môn học khác Các em lười
suy nghĩ, không biết phân tích vấn đề, hay nhớ nhầm lẫn giữa nội dung này với nội
dung khác, không biết nêu vấn đề để thảo luận và tìm hiểu.
Vị trí môn Lịch sử trong trường phổ thông chưa thật sự được coi trọng, cả
giáo viên và học sinh đều có sự nhìn nhận chưa đúng về môn học. Thái độ học môn
Lịch sử của các em học sinh còn mang tính chất đối phó với các kì thi, kiểm tra, ghi
nhớ kiến thức, sự kiện lịch sử một cách máy móc, học vẹt, không hiểu sâu sa bản
chất vấn đề.
Đối với các em học ban C, môn Sử vẫn là môn mà các em không lấy làm
thích thú khi học. Kết quả là trong ba môn Văn - Sử - Địa, thì môn Sử là môn đạt
điểm thấp nhất.
Vậy trước thực trạng trên, nguyên nhân tại đâu? Có thể nói rằng, có nhiều
nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. Song cần phải kể đến một số nguyên nhân rất
quan trọng như:
+ Nội dung kiến thức quá nhiều trong khi thời lượng ít làm cho cả thầy và trò
phải chạy theo thời gian để học hết chương trình. Quá nhiều các sự kiện học sinh
phải nhớ. Điều này khiến các em “sợ” học môn Sử.
+ Phương pháp dạy học chưa có sự đổi mới thật sự. Trong giờ học, người

giáo viên giữ vai trò chủ đạo, vẫn học theo lối cũ, có nghĩa là:
Khi tiến hành bài học, giáo viên đọc cho học sinh chép đề cương của bài
giảng, giáo viên tự sưu tầm tài liệu lịch sử và thông báo trình bày cho các em trong
giờ học. Các sự kiện lịch sử, hiện tượng lịch sử, nhân vật lịch sử… không được
trình bày một cách cụ thể, sinh động, gợi cảm. Học sinh không làm việc trực tiếp
với sử liệu. Người giáo viên, không tận dụng được khả năng tạo ra sự xúc động, sự
rung cảm của học sinh trước các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Do đó, tác dụng giáo
dục bộ môn bị hạn chế. Người học còn bị thụ động trong quá trình lĩnh hội kiến
thức.
+ Các phương tiện hỗ trợ cho việc dạy và học Lịch sử còn quá sơ sài, việc dạy
trên lớp của giáo viên, chủ yếu là dạy chay, không có hình ảnh minh hoạ… hoặc nếu
có thì cũng quá ít, chủ yếu là các hình ảnh đã phổ biến. Do đó giờ học thường diễn
ra buồn tẻ, không sinh động, không tác động đến hứng thú học tập của các em.
+ Quan niệm coi môn Sử là môn phụ vẫn còn tồn tại phổ biến trong nhà
trường, học sinh, phụ huynh học sinh và cả xã hội. Điều này đã tạo ra một sự bất
bình đẳng giữa môn Sử với các môn học khác trong nhà trường. Trong khi đó, các
môn học đều có nhiệm vụ trong việc góp phần giáo dục thế hệ trẻ theo nội dung, sở
trường và ưu thế của bộ môn mình.
+ Các đề thi môn Lịch sử ở tất cả các cấp học, kể cả đề thi Đại học và Học
sinh giỏi quốc gia vẫn chủ yếu là kiểm tra kiến thức học thuộc và ghi nhớ, yêu cầu
của đề thi và đáp án thường dừng lại mức độ nhận biết, thiếu cấp độ thông hiểu và
vận dụng. Nếu có những câu được coi là “mở” để phát huy khả năng tư duy của học
sinh thì đáp án vẫn không mở. Thậm chí còn xảy ra tình trạng mà công luận cho
rằng đề một đằng, đáp án một nẻo. Với cách kiểm tra, đánh giá như thế thì để đi thi
đạt được kết quả khả quan thì học thuộc vẫn là phương án an toàn nhất đối với học
sinh.
II. Biện pháp để đổi mới cách dạy và học môn Lịch sử
Trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã nêu rõ cần “tiếp tục
đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, phát huy tính tích cực, sáng tạo của người
học, khắc phục lối truyền thụ một chiều. Hoàn thiện hệ thống đánh giá và kiểm định

chất lượng giáo dục. Cải tiến nội dung và phương pháp thi cử nhằm đánh giá đúng
trình độ tiếp thu tri thức, khả năng học tập. Khắc phục những mặt yếu kém và tiêu
cực của giáo dục” [16; tr.97].
Từ mục tiêu chung của giáo dục phổ thông, mục tiêu của giáo dục trung học
phổ thông được cụ thể hóa như sau: “Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học
sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện
học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có
điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại
học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động” (Điều 27, mục
2, chương 2, luật giáo dục 2005) [36]
Cùng với các môn học khác, bộ môn Lịch sử có vị trí, vai trò quan trọng
trong việc phát triển toàn diện học sinh. Mục tiêu của bộ môn Lịch sử ở trường
trung học phổ thông được xây dựng trên cơ sở mục tiêu giáo dục của cấp học, quan
điểm đường lối của Đảng về Sử học và giáo dục. Nó cũng được căn cứ vào nội
dung, đặc trưng của hiện thực lịch sử và nhận thức lịch sử; yêu cầu của tình hình và
nhiệm vụ cách mạng hiện nay.
Mục tiêu của môn lịch sử ở trường phổ thông là phải thực hiện những nhiệm
vụ sau:
* Về kiến thức: Cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản của khoa học
lịch sử, bao gồm: sự kiện lịch sử cơ bản, các khái niệm thuật ngữ, nhân vật, niên đại,
những hiểu biết về quan điểm lý luận đơn giản, những vấn đề về phương pháp
nghiên cứu học tập phù hợp với yêu cầu và trình độ của học sinh.
Ví dụ: Ở bậc trung học phổ thông.
- Học sinh được tìm hiểu những kiến thức chủ yếu về quá trình phát triển của
lịch sử Việt Nam với những sự kiện nổi bật. Trên cơ sở đó giúp học sinh nắm được
những quy luật chung và đặc thù của xã hội Việt Nam.
- Về lịch sử thế giới, học sinh được tìm hiểu những sự kiện chính của lịch sử
xã hội loài người từ nguyên thủy cho đến nay mà trọng tâm là thời kỳ cận hiện đại.
Qua đó học sinh hiểu rõ hơn quy luật phát triển của xã hội loài người, những tác
động của lịch sử thế giới tới lịch sử dân tộc, mối quan hệ giữa lịch sử Việt Nam với

lịch sử các nước láng giềng.
- Hơn nữa, học sinh còn được nâng cao và hoàn chỉnh hơn những nhận thức
mácxít- lênninnít về lịch sử. Đồng thời được cung cấp những kiến thức sơ giản về
phương pháp tìm hiểu nghiên cứu lịch sử, cải tiến phương pháp học tập, phát huy
tính tích cực trong học tập lịch sử.
* Về phát triển kỹ năng: Môn lịch sử ở trường phổ thông giúp cho người học
phát triển và rèn luyện năng lực tư duy như phân tích, so sánh, tổng hợp kỹ năng
học tập và kỹ năng thực hành gồm cả kỹ năng thực hành bộ môn và kỹ năng thực
hành trong cuộc sống. Cụ thể là bồi dưỡng:
- Tư duy trong nhận thức và hành động, biết phân tích đánh giá liên hệ
- Kỹ năng học tập và thực hành bộ môn: sử dụng SGK, các tài liệu tham
khảo khác, khả năng trình bày nói và viết, làm và sử dụng một số đồ dùng trực quan,
những hoạt động ngoại khóa của môn học.
- Vận dụng các kiến thức đã học vào cuộc sống hiện nay.
* Về tư tưởng tình cảm: Lịch sử có sở trường và ưu thế trong việc giáo dục
thế hệ trẻ, từ thời cổ đại người ta đã thấy rằng “lịch sử là cô giáo của cuộc sống”, “là
bó đuốc soi đường đi tới tương lai”. Do đó, giáo dục cho học sinh quan điểm tư
tưởng, lập trường, phẩm chất đạo đức, nhân cách, tình cảm là một yêu cầu quan
trọng cần chú ý thực hiện trong dạy học lịch sử. Tri thức lịch sử không chỉ có tác
dụng giáo dục trí tuệ mà còn giáo dục cả tình cảm tư tưởng, góp phần đào tạo con
người toàn diện.
Thông qua việc học tập lịch sử ở trường trung học phổ thông, những phẩm
chất, đạo đức, tư tưởng, tình cảm được bồi dưỡng một cách hệ thống ở những điểm
chủ yếu sau:
- Trước hết học sinh được bồi dưỡng lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa, lòng
yêu quê hương- một biểu hiện của lòng yêu nước, trong lao động sản xuất cũng như
trong đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.
- Thứ hai, cần bồi dưỡng cho học sinh tinh thần đoàn kết quốc tế, tình hữu
nghị với các dân tộc đấu tranh cho độc lập, tự do, văn minh, tiến bộ xã hội, hòa
bình, dân chủ.

- Đồng thời học sinh cũng cần có niềm tin vào sự phát triển hợp quy luật của
xã hội loài người và dân tộc, dù trong tiến trình lịch sử có những bước quanh co,
khúc khuỷu, tạm thời tụt lùi hay dừng lại.
- Thứ tư, học sinh có ý thức làm nghĩa vụ công dân, sẵn sàng thực hiện nghĩa
vụ quốc tế.
- Và đặc biệt người học cần có những phẩm chất cần thiết trong cuộc sống
cộng đồng
Tóm lại, mục tiêu bộ môn lịch sử ở trường trung học phổ thông là cung cấp
kiến thức cơ bản có hệ thống về lịch sử phát triển hợp quy luật của dân tộc và xã hội
loài người. Trên cơ sở đó giáo dục lòng yêu nước tự hào dân tộc, lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, rèn luyện năng lực tư duy và thực hành. Như vậy, để có
thể thực hiện được tốt chức năng và nhiệm vụ của bộ môn trong nhà trường người
giáo viên phải sử dụng đa dạng các phương pháp dạy học và không ngừng đổi mới
cho phù hợp với sự phát triển của xã hội
Nhằm thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy - học, phát huy tính tích cực -
chủ động của học sinh; những năm gần đây các trường phổ thông đã chú ý đến việc
đổi mới soạn - giảng ở giáo viên và tổ chức học tập ở học sinh, trong đó coi trọng vị
trí, vai trò của người học - vừa là đối tượng - vừa là chủ thể. Thông qua quá trình
học tập, dưới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh phải tích cực, chủ động cải biến
chính mình.
Đổi mới phương pháp dạy học là một tất yếu khách quan, là một tiêu chí quan
trọng đánh giá việc dạy và học của mỗi nhà trường, mỗi môn học. Tuy nhiên, cần
căn cứ vào điều kiện sư phạm của từng trường, đặc trưng của từng bộ môn mà có
yêu cầu đổi mới riêng, để có mô hình và bước đi thích hợp. Theo tôi, cần đặc biệt
chú ý một số vấn đề sau đây:
* Việc tự học, tự bồi dưỡng
Để phục vụ cho việc giảng dạy và nâng cao trình độ của mình, tôi thường
xuyên cập nhật thông tin mới bổ sung cho bài dạy. Tôi viết các chuyên đề, sáng
kiến kinh nghiệm hàng năm, tập hợp các đề thi tuyển sinh, thi đại học, thi học sinh
giỏi tỉnh – cụm – quốc gia làm tư liệu tham khảo. Trong năm học, tôi thường xuyên

dự giờ đồng nghiệp để học tập, rút kinh nghiệm cho bản thân.
* Đổi mới về quan niệm cấu trúc của giáo án
+ Quan niệm cũ: Giáo án phải đầy đủ, đảm bảo các bước lên lớp theo
trình tự: Ổn định lớp, kiểm tra bài cũ, giảng bài mới, củng cố bài, dặn dò học sinh
và ra bài tập.
+ Quan niệm hiện nay: Cấu trúc giáo án không nhất thiết phải tuân thủ
trình tự 5 bước như trên mà tùy vào điều kiện cụ thể về đối tượng học sinh, cơ sở
vật chất, nội dung bài học mà vận dụng các bước lên lớp sao cho linh hoạt, sáng tạo,
mềm dẻo, không cứng nhắc, máy móc.Tôi căn cứ vào từng đối tượng học sinh để có
giáo án cho phù hợp ( khối chuyên, cận chuyên, cơ bản)
Giáo án đổi mới phải là giáo án có tính "mở". Trong đó giáo viên chỉ thực
hiện nhiệm vụ hướng dẫn học sinh tìm tòi nghiên cứu. Giáo án căn cứ vào mục tiêu
về kiến thức, tư tưởng tình cảm và phát triển các kĩ năng cho học sinh. Câu hỏi
chuẩn bị phải có tính cơ bản và tính nâng cao, ngoài những câu hỏi "Như thế nào?",
cần thiết đưa vào nhiều câu hỏi "Vì sao ?" lựa chọn đối tượng học sinh để hỏi, tạo
cho các em có sự tự tin khi phát biểu xây dựng bài học.Căn cứ vào nội dung, mục
tiêu bài học cần đạt được để chuẩn bị đồ dùng trực quan.
* Hướng dẫn học sinh một số phương pháp ghi nhớ sự kiện lịch sử
Ở trường phổ thông, kiến thức cơ bản của một số môn có thể được lặp đi, lặp
lại nhiều lần trong suốt quá trình dạy học. Ví dụ các công thức, các định lý cơ bản
trong toán học… Nhưng trong môn Lịch sử, sự kiện, hiện tượng và các các khái
niệm lịch sử thường giảng một lần không còn lặp lại nữa. Vì vậy, để học sinh dễ
ghi nhớ kiến thức lịch sử, tôi thường hướng dẫn các em một số biện pháp sau:
+ Ghi nhớ thời gian xảy ra sự kiện lịch sử. Mỗi bài, mỗi chương, mỗi
khóa trình đều có những sự kiện gắn với thời gian nhất định. Cần dạy các em có khả
năng ghi nhớ logic, biết tìm ra điểm tựa để nhớ, lập dàn ý, lập bảng hệ thống hóa…
. + Hướng dẫn học sinh ghi nhớ các nhân vật lịch sử: thông thường có
hai cách: lấy người để nói việc hoặc lấy việc để nói người
+ Hướng dẫn HS học theo cách lập sơ đồ tia, để nhớ nhanh, nhớ lâu
mà không thiếu kiến thức.

* Tiếp tục sử dụng có hiệu quả cách dạy học truyền thống (trình bày
miệng: tường thuật, miêu tả, nêu đặc điểm, giải thích…)
Theo tôi, đổi mới phương pháp dạy học ở đây không phải là tạo ra một
phương pháp khác với cái cũ, để loại trừ cái cũ, mà trên cơ sở kế thừa cái cũ, phát
triển cái mới tiến bộ hơn. Trong dạy học nói chung và dạy học môn Lịch sử nói
riêng, lời nói giữ vai trò chủ đạo. Với ngôn ngữ trong sáng, gợi cảm, giàu hình ảnh,
giáo viên sẽ dẫn dắt học sinh trở về với quá khứ lịch sử. Tuy nhiên, để sử dụng
phương pháp trình bày miệng có hiệu quả, tôi thường sử dụng kèm theo các đồ dùng
trực quan bộ môn, đoạn trích trong các tài liệu tham khảo, thơ văn, các câu chuyện
để gây hứng thú cho học sinh
* Sử dụng hệ thống câu hỏi nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học
sinh
Sử dụng câu hỏi trong dạy học nói chung, dạy học Lịch sử nói riêng là một
trong những biện pháp quan trọng, rất có ưu thế để phát triển tư duy học sinh. Vì
vậy, khi tổ chức dạy học, tôi thường sử dụng các dạng câu hỏi sau:
+ Câu hỏi nêu vấn đề:
Trước hết tôi dẫn dắt học sinh vào tình huống có vấn đề.
Nêu vấn đề một cách rõ ràng bằng một câu hỏi có tính chất bài tập nhận thức.
Tổ chức, hướng dẫn, gợi mở để giúp học sinh tự giác, tích cực giải quyết vấn
đề từng bước, từng phần.
+ Xác định mối liên hệ giữa câu hỏi với các sự kiện, hiện tượng lịch sử
Xác định mối liên hệ giữa câu hỏi với các sự kiện, hiện tượng lịch sử có tác
dụng lớn đối với việc phát triển tư duy học sinh. Do đó, khi giảng dạy tôi đã triệt để
sử dụng dạng câu hỏi này vào những bài phù hợp. Dựa trên những kiến thức này, tôi
yêu cầu học sinh lập mối liện hệ giữa các câu hỏi và sự kiện lịch sử. Từ đó học sinh
tìm ra được câu trả lời, hiểu bài nhanh, nhớ lâu.
+ Sử dụng loại câu hỏi đối chiếu, so sánh giữa sự kiện, hiện tượng lịch sử này
với sự kiện hiện tượng lịch sử khác cùng loại
Đây là loại câu hỏi rất thích hợp với đối tượng là các lớp cận chuyên và
chuyên. Ưu điểm của câu hỏi này vừa giúp học sinh củng cố, ôn lại kiến thức cũ, vừa

tiếp nhận kiến thức mới.
Để sử dụng câu hỏi cho học sinh có hiệu quả, tôi thường bám vào một số nguyên tắc
sau:
Câu hỏi, bài tập phải vừa sức, phù hợp với từng đối tượng cụ thể: ban cơ bản,
cận chuyên hay chuyên
Mỗi giờ học nên đưa lượng câu hỏi vừa phải, có hệ thống, có mối liên hệ chặt
chẽ làm nổi bật chủ đề, nội dung, tư tưởng của bài.
Sử dụng câu hỏi trong sách giáo khoa kết hợp với câu hỏi được sáng tạo trong
quá trình soạn giảng phải đảm bảo tính khoa học, phát huy được tư duy, rèn luyện
các kĩ năng học tập cho học sinh.
* Sử dụng thích hợp phương pháp trao đổi đàm thoại kết hợp với phương
pháp thảo luận, hoạt động nhóm
Trong thực tế giảng dạy bộ môn, tôi nhận thấy phương pháp trao đổi đàm
thoại kết hợp với phương pháp thảo luận, hoạt động nhóm giúp tiết học rất sôi nổi,
gây hứng thú cho học sinh. Tuy nhiên, tùy theo yêu cầu nội dung của bài học, đối
tượng học sinh mà tổ chức các phương pháp trên cho phù hợp, hiệu quả, chứ không
tổ chức theo hình thức, phong trào.
Việc sử dụng phương pháp này rất phù hợp và hiệu quả đối với học sinh lớp
chuyên. Ví du, khi dạy xong phần các cuộc kháng chiến, khởi nghĩa chống ngoại
xâm từ thế kỉ X – XV, tôi thường tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm, thảo
luận các vấn đề:
+ Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của các cuộc kháng chiến, khởi
nghĩa chống ngoại xâm từ thế kỉ X – XV.
+ Phân tích nét độc đáo về nghệ thuật quân sự qua các cuộc kháng chiến, khởi
nghĩa từ thế kỉ X – XV.
+ Đánh giá công lao của các anh hùng dân tộc từ thế kỉ X - XV
* Khai thác và sử dụng các loại đồ dùng trực quan hiện có.
Do đặc điểm của việc học tập lịch sử nên sử dụng đồ dùng trực quan có ý
nghĩa rất quan trọng. Có nhiều loại đồ dùng trực quan khác nhau, cách sử dụng và
hiệu quả cũng khác nhau, song đều có tác dụng nâng cao chất lượng dạy và học lịch

sử. Hiện nay, đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử khá phong phú: hệ thống bản
đồ, tranh ảnh, mô hình, các loại phương tiện kỹ thuật hiện đại khác. Do đó, tôi
thường xuyên khai thác, sử dụng các loại đồ dùng trực quan vào giảng dạy bộ môn.
* Tăng cường hướng dẫn học sinh tự học:
Tổ chức học sinh tự học, tự kiểm tra đánh giá được thực hiện cả trên lớp và ở
nhà. Cả hai quá trình này đều phải diễn ra dưới sự chỉ đạo, định hướng của giáo viên
mới có hiệu quả.
- Tổ chức học sinh tự học trên lớp:
Tổ chức cho học sinh tự học trên lớp không có nghĩa là phủ nhận vai trò của
người thầy, trái lại rất cần có sự hướng dẫn, điều khiển của người thầy. Điều mà
chúng ta cần chú trọng trên lớp không phải chỉ cung cấp kiến thức cho học sinh mà
thông qua đơn vị kiến thức cụ thể đó để dạy cho các em phương pháp tư duy, giúp
các em tự lĩnh hội được các kiến thức khác, phát triển kĩ năng tự đánh giá, từ đó tự
điều chỉnh được cách học cho phù hợp với mình.
Để phát huy tinh thần tự học ở trên lớp của học sinh, tôi sử dụng phương
pháp dạy học nêu vấn đề hay phương pháp thảo luận nhóm. Đặc biệt thông qua hoạt
động nhóm tạo điều kiện cho học sinh đánh giá lẫn nhau, qua đó rèn cho học sinh
khả năng giải quyết vấn đề một cách độc lập, biết bảo vệ những quan điểm, ý kiến
riêng của mình.
- Tổ chức học sinh tự học ở nhà:
Sẽ là không đầy đủ nếu người giáo viên chỉ chú ý phát huy tính tích cực của
học sinh ở trên lớp bởi muốn đạt được hiệu quả làm việc trên lớp thì học sinh phải
có sự chuẩn bị chu đáo ở nhà. Việc tự học của học sinh phải được tiến hành thường
xuyên, liên tục trong quá trình học tập. Tuy nhiên thực tế trong các giờ giảng, giáo
viên thường ít quan tâm đến việc hướng dẫn học sinh tự học ở nhà hoặc nếu có cũng
chỉ là đưa ra các bài tập để học sinh làm thêm hay giới thiệu một vài cuốn sách tham
khảo cho học sinh tìm đọc.
Học sinh thường gặp nhiều khó khăn khi tự học ở nhà như khối lượng kiến
thức quá nhiều mà thời gian tự học lại ít, nguồn tài liệu thì nhiều nhưng không biết
chọn lọc phân loại, không biết dựa vào các tiêu chí nào để tự đánh giá Vì vậy,

nhiệm vụ của người giáo viên ngoài việc rèn cho học sinh thói quen tự học, định
hướng về nội dung thì cần dạy cho học sinh phương pháp tự học sau mỗi bài học cụ
thể trên lớp theo đặc trưng của từng bộ môn.
Với môn Sử là môn học sinh thường ngại học vì nội dung kiến thức nhiều, cụ thể và
chi tiết nên sau mỗi bài giảng giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh phương pháp tự
học ở nhà. Có thể tiến hành các bước sau:
+ Hướng dẫn học sinh cách học để nắm vững các kiến thức cơ bản của bài
như lập bảng tóm tắt, bảng so sánh, vẽ sơ đồ, điền vào lược đồ trống
+ Giao các bài tập hay các bài thảo luận để học sinh chuẩn bị với những yêu
cầu cụ thể.
+ Giới thiệu các tư liệu tham khảo và yêu cầu học sinh so sánh đối chiếu nội
dung kiến thức bài giảng trên lớp với nguồn tư liệu tham khảo đó.
+ Chuẩn bị bài mới: đọc trước bài mới, tóm tắt những nội dung chính hay ghi
lại những suy nghĩ về bài mới.
+ Kiểm tra việc tự học ở nhà của học sinh trong các giờ dạy tiếp theo.
*Kết hợp hoạt động nội khóa và ngoại khóa
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục là nhằm đào tạo con người phát triển toàn diện
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nên giáo viên cần trang
bị cho học sinh những kiến thức khoa học, hiện đại đồng thời cũng phải rèn luyện
cho học sinh kỹ năng vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống chứ không
phải dừng lại ở học thuộc lòng, ghi nhớ máy móc. Vì thế việc đánh giá học sinh cần
dựa vào cả quá trình phấn đấu học tập của học sinh và toàn diện trên nhiều mặt.
Trước đây chúng ta thường quan tâm nhiều đến việc đánh giá học sinh trong giờ học
nội khoá qua các bài kiểm tra định kì hoặc kiểm tra thường xuyên nhưng trong xu
hướng đổi mới giáo dục, cần quan tâm đúng mức đến việc đánh giá học sinh trong
các giờ ngoại khoá. Thực tế cho thấy trong các giờ hoạt động ngoại khoá, học sinh
rất hào hứng, tích cực, những cá tính, phẩm chất ý thức và khuynh hướng của học
sinh được bộc lộ rõ rệt. Từ đó giúp người giáo viên có đánh giá toàn diện về học
sinh của mình.
Với môn Lịch sử, có thể tiến hành các hoạt động ngoại khoá như sau:

- Tổ chức cho học sinh sưu tầm tài liệu lịch sử để xây dựng thư viện tư liệu
bộ môn (thường là với các lớp chuyên). Tư liệu các em sưu tầm bao gồm những tài
liệu sách tham khảo, vở ghi của học sinh đội tuyển, các tư liệu trực quan, các đề
kiểm tra và đáp án
- Tổ chức các buổi thảo luận theo chủ đề: đây là dịp để học sinh củng cố
những kiến thức đã học, trao đổi tư liệu với nhau, và quan trọng hơn là học sinh
được bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình về một vấn đề lịch sử. Với giáo viên, đây
cũng là dịp để giáo viên đánh giá được kiến thức học sinh nắm đến đâu, kịp thời bổ
sung những thiếu sót, uốn nắn những lệch lạc. Các chủ đề thảo luận thường gắn liền
với nội dung bài học chính khoá hay những vấn đề về lịch sử địa phương.
- Tổ chức các buổi nói chuyện lịch sử, gặp gỡ các nhân chứng lịch sử: thường
được tổ chức nhân ngày kỉ niệm lịch sử một sự kiện quan trọng, một danh nhân,
lãnh tụ cách mạng Những hoạt động này thường có ý nghĩa giáo dục rất lớn, gây
được ấn tượng sâu sắc trong học sinh.
- Tổ chức tham quan học tập lịch sử: thường gắn liền với việc giảng dạy lịch
sử địa phương như tổ chức cho học sinh tham quan học tập ở khu di tích đền Trần,
bảo tàng Nam Định, nơi ở và làm việc của cố tổng bí thư Trường Chinh, vườn quốc
gia Cúc phương
Những bài tập giao cho học sinh trong các giờ ngoại khoá thường là những bài tập
phát huy kĩ năng thực hành, vận dụng thực tế.
- Tổ chức cho học sinh viết chuyên đề và hội thảo. Công việc này thích hợp
với các lớp chuyên. Các em rất hứng thú và tích cực tìm tài liệu trên mạng hoặc
trong sách,báo,tạp chí, đi thực tế ở địa phương,viết bài và trình bày.Các em được
rèn luyện cách sử dụng tài liệu, viết chuyên đề và thuyết trình – đây là việc làm
không những nâng cao kiến thức, rèn kĩ năng cho học sinh mà còn giúp hoàn thiện
nhân cách để các em tự tin bước vào giảng đường Đại học.
* Cải tiến việc kiểm tra đánh giá
Đổi mới phương pháp dạy học cần gắn liền với đổi mới về đánh giá quá trình
dạy học cũng như đổi mới việc kiểm tra và đánh giá thành tích của học sinh.
Trong đánh giá thành tích học tập của học sinh không chỉ đánh giá kết quả mà

chú ý cả quá trình học tập. Cần sử dụng phối hợp các hình thức, phương pháp kiểm
tra, đánh giá khác nhau. Kết hợp giữa kiểm tra miệng, kiểm tra viết và bài tập thực
hành. Kết hợp giữa tự luận và trắc nghiệm khách quan.
Trong lúc kiểm tra miệng, tất cả học sinh phải chú ý, vì vậy cần yêu cầu các
em không được giở sách giáo khoa mà phải theo dõi để nhận xét, bổ sung câu trả lời
của bạn.
Thỉnh thoảng tôi kết hợp cách cho học sinh mở sách,vở để làm bài kiểm
tra.Hình thức kiểm tra này đòi hỏi học sinh phải hiểu vấn đề và có kĩ năng tổng hợp,
phân tích, đánh giá và liên hệ. Nhìn chung có tới hơn 90% học sinh thích hình thức
kiểm tra này

* Giao bài tập về nhà
.Hoàn thành các bài tập về nhà sẽ giúp học sinh nắm vững các kiến thức đã
học và rèn luyện được các kỹ năng. Để có thể làm tốt bài tập, học sinh trước hết cần
xác định được yêu cầu cụ thể của bài tập, sau đó nghiên cứu lại sách giáo khoa hoặc
tìm tài liệu tham khảo (nếu có) theo sự định hướng của giáo viên rồi mới tiến hành
làm bài tập (nếu bài tập là câu hỏi tự luận thì cần thiết phải lập đề cương sau đó mới
viết).
Học sinh tự trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa ở cuối mỗi mục, mỗi bài
nhằm rèn luyện cho mình khả năng tái hiện, tưởng tượng, ghi nhớ nhất là khả năng
tư duy và trình bày một vấn đề lịch sử.
Thực tế dạy học từ trước tới nay cả giáo viên và học sinh đều quan niệm rằng
học lịch sử thì không cần bài tập, nếu có thì chỉ là những câu hỏi có tính hình thức
mà không chú ý tới việc ra các bài tập thật sự phát triển hoạt động nhận thức độc lập
của học sinh.
Xây dựng và sử dụng các dạng bài tập lịch sử trong dạy học lịch sử có vai trò
quan trọng trọng việc củng cố tri thức lịch sử cho học sinh. Nó là một trong những biện
pháp phát triển năng lực nhận thức độc lập, trong đó đặc biệt là tư duy độc lập, sáng tạo
của các em. Sử dụng các dạng bài tập còn là hình thức quan trọng để kiểm tra, đánh giá
và tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Bởi khi hoàn thành bài tập học

sinh sẽ tự nhận thấy những thiếu sót của mình còn giáo viên sẽ nắm bắt được trình độ
nhận thức của học sinh.
Bài tập lịch sử không phải là lời dặn dò chung chung của giáo viên vào cuối
giờ học mà nó mang nội dung rộng và đòi hỏi tư duy, trí tuệ của học sinh.
Bài tập lịch sử được xây dựng trên cơ sở một số sự kiện quan trọng, một
số bài học, một chương hay một quá trình học tập. Nó khơi dậy tư duy của học
sinh đồng thời nó lại yêu cầu cao đối với các em nhằm khắc sâu, củng cố vững
chắc bài học và hoàn thiện kiến thức.
Bài tập lịch sử rất đa dạng, có thể phân chia thành: bài tập nhận thức, bài tập
thực hành bộ môn, bài tập trắc nghiệm…Trong dạy học lịch sử có thể sử dụng một
số loại bài tập về nhà như sau:
*Bài tập dưới dạng câu hỏi tổng hợp
Nội dung loại bài tập này không phải là sao chép lại những gì đã học trên lớp
mà phải yêu cầu học sinh xem xét lại những sự kiện đã học đặt trong những mối
quan hệ khác, đòi hỏi phát hiện thêm một khía cạnh mới của vấn đề hoặc làm cho
kiến thức đã biết thêm sâu sắc.
* Bài tập nhằm rèn kỹ năng thực hành, hệ thống khái quát hóa kiến thức và
vận dụng kiến thức.
- Bài tập lập niên biểu nhằm giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức như nêu
lên những sự kiện quan trọng theo trình tự thời gian, so sánh các sự kiện để rút ra
các dấu hiện bản chất, sự khác biệt giữa chúng. Tùy theo nội dung lịch sử cụ thể mà
giáo viên yêu cầu học sinh lập niên biểu tổng hợp, chuyên đề hay so sánh.
- Bài tập trắc nghiệm khách quan.
Bài tập về nhà thường được nêu ra vào cuối giờ học. Nó chỉ thực sự có kết
quả khi tiếp tục bồi dưỡng củng cố kiến thức đã học góp phần phát triển và giáo dục
tư tưởng đạo đức cho học sinh.
Như vậy, việc đưa ra các bài tập về nhà có chất lượng yêu cầu học sinh phải
hoàn thành đòi hỏi giáo viên phải đầu tư suy nghĩ, tìm tòi sáng tạo. Nội dung của bài
tập cần hướng vào những nội dung quan trọng của bài học để giúp học sinh tự kiểm
tra, đánh giá việc lĩnh hội kiến thức của mình. Đồng thời nội dung bài tập phải nhằm

phát huy tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh dựa trên các sự kiện cơ bản của sách
giáo khoa, tìm tòi các tài liệu tham khảo kết hợp với bài giảng của thầy nhằm nắm
vững kiến thức hơn.
Cùng với những biện pháp đã thực hiện như trên, do đặc thù ở trường
chuyên,cá nhân tôi đã thực hiện những biện pháp để giảng dạy và hướng dẫn
học sinh học tùy theo đối tượng từng khối lớp để đạt hiệu quả tốt. Cụ thể:
*Với khối chuyên Sử:
- Hướng dẫn học sinh tự đọc, tìm hiểu trước bài sẽ được học, hướng dẫn các em
cách trình bày theo ý hiểu của mình (tổ chức xêmina) rồi đưa ra những câu hỏi
để trao đổi thảo luận qua đó học sinh bước đầu tiếp cận với kiến thức.
- Sau đó tôi sẽ hệ thống kiến thức theo kết cấu của sách giáo khoa.
- Lập bảng hệ thống hoá kiến thức để qua đó giáo viên có thể nâng cao hiệu quả
hoạt động dạy và năng lực chuyên môn; học sinh nắm được kiến thức lịch sử một
cách có hệ thống, dễ thuộc và nhớ lâu, vận dụng làm bài hiệu quả đạt điểm cao,
rèn luyện các kĩ năng tư duy và thực hành, từ đó thêm yêu thích bộ môn. Bảng
hệ thống kíên thức lịch sử là bảng niên biểu giúp hệ thống hoá sự kiện lịch sử
theo thứ tự thời gian, đồng thời nêu lên mối liên hệ giữa các sự kiện. Có 3 loại
bảng (niên biểu tổng hợp, niên biểu chuyên đề và niên biểu so sánh). Việc lập
bảng được tiến hành theo trình tự: tìm vấn đề để lập bảng, chọn các tiêu chí phù
hợp và chọn những nội dung cơ bản, chính xác, ngắn gọn đưa vào bảng.
- Tôi hướng dẫn học sinh tự học ở nhà theo những vấn đề được tổng hợp từ
những bài cụ thể và học sinh có thể chọn để viết tiểu luận.
- Đồng thời, tôi cũng cung cấp và hướng dẫn các em tìm các nguồn tài liệu tham
khảo trên sách báo hay qua các nguồn thông tin trên mạng phục vụ cho bài học.
- Cho học sinh đi thực tế để tìm hiểu sử địa phương, thăm bảo tàng để kiến thức
đã học được cụ thể, sinh động hơn… Sau đó hướng dẫn học sinh viết thu hoạch
- Giao đề tài, hướng dẫn học sinh viết chuyên đề và tổ chức hội thảo
- Kiểm tra viết dưới hình thức thông thường tự luận hay mở sách,vở để tổng
hợp, đánh giá, phân tích, liên hệ, so sánh…
* Với khối cận chuyên:

Mục đích của các em là thi Đại học nên tôi kết hợp việc cung cấp những
phần kiến thức chuẩn mực để sử dụng cho bài viết cùng với việc rèn kĩ năng viết bài
cho các em.
*Với khối cơ bản:
Mục đích chính là cung cấp một phần kiến thức cơ bản để các em hiểu lịch sử
dân tộc, thế giới và thi tốt nghiệp: tôi thực hiện tinh giản kiến thức, chú trọng
tính giáo dục qua từng bài giảng và gây hứng thú cho học sinh đối với bộ
môn.Trong quá trình thực hiện bài giảng tôi chú ý tích hợp liên môn ( sử dụng
những kiến thức văn, địa và giáo dục tư tưởng, đạo đức )
.
III. Hiệu quả do sáng kiến đem lại :
Kết quả đạt được
“Cùng với quá trình quốc tế hóa ngày càng mở rộng thì trở về nguồn cũng là
một xu thế chung của các dân tộc trên thế giới. Với chúng ta đó chính là sự tìm tòi,
phát hiện ngày càng sâu sắc hơn những đặc điểm của xã hội Việt Nam, những phẩm
chất cao quý, những giá trị truyền thống và những bài học lịch sử giúp chúng ta lựa
chọn và tiến hành bước đi thích hợp, hướng mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội
công bằng văn minh”[32; tr.226].
Bộ môn lịch sử cũng không đơn thuần chỉ đòi hỏi học sinh ghi nhớ các sự
kiện, niên đại, địa danh mà còn yêu cầu học sinh phải có tư duy sáng tạo trong học
tập, nhận thức lịch sử. Bởi lịch sử luôn luôn xuất phát từ những sự kiện cụ thể cho
nên để có thể hiểu rõ những tri thức lịch sử người học phải phát triển tư duy của
mình. Ph. Ăngghen đã từng nói: “Lịch sử bắt đầu từ đâu thì quá tình tư duy cũng bắt
đầu từ đấy”[32; tr.269]. Trong quá trình dạy học, các nhà giáo dục nước ta cũng
như trên thế giới đều quan niệm và cố gắng thực hiện việc phát triển tư duy của học
sinh, hướng dẫn học sinh nhận thức từ hiện vật, các bằng chứng khoa học về quá
khứ để nhận biết chính xác và hiểu sâu sắc hơn những sự kiện đã xảy ra. Đây là một
vấn đề khó bởi đặc trưng của bộ môn là xuất phát từ sự kiện cụ thể.
Các biện pháp để tiến hành hoạt động dạy học phát huy tính tích cực của học
sinh là tránh việc dạy học theo lối đọc chép mà chuyển sang tổ chức hướng dẫn quá

trình tự học, tự khám phá, tìm hiểu kiến thức của học sinh.
- Học tập những kiến thức lịch sử sẽ giúp học sinh phát triển các kỹ năng
phân tích, đánh giá, so sánh các vấn đề, sự kiện lịch sử.
- Rèn luyện các kỹ năng sử dụng sách giáo khoa, quan sát kênh hình… trong
học tập.
- Ngoài ra còn giúp học sinh rèn luyện kỹ năng thực hành bao gồm có thực
hành bộ môn như lập bảng, vẽ bản đồ…và kỹ năng thực hành trong cuộc sống.
Tri thức lịch sử bao giờ cũng mang tính cụ thể cao, nó bao gồm các sự kiện,
nhân vật lịch sử, niên đại… Việc nhớ sự kiện là cơ sở giúp học sinh đi đến hiểu
được nội dung bản chất của sự kiện đó một cách có hệ thống.
Tuy nhiên, học tập lịch sử không chỉ dừng lại ở ghi nhớ và tái hiện các kiến
thức đã học mà còn phải hiểu được bản chất của các sự kiện, hiện tượng lịch sử đó.
Học sinh phải thấy được mối liên hệ giữa các sự kiện, hiện tượng trong bối cảnh lịch
sử cụ thể, phân tích, so sánh, đánh giá các sự kiện đó để rút ra kết luận.
Yêu cầu của xã hội đặt ra với ngành giáo dục hiện nay là phải đào tạo những con
người có năng lực thực hành cao, thích ứng với môi trường năng động của xã hội
hiện đại. Vì vậy nhiệm vụ ở nhà trường phổ thông không chỉ trang bị cho học sinh
về kiến thức lý thuyết mà phải giúp các em phát triển năng lực thực hành. Đối với
bộ môn lịch sử yêu cầu đặt ra là phải phát triển cho học sinh năng lực thực hành bộ
môn cũng như năng lực thực hành trong cuộc sống
- Với khối chuyên: Học sinh hứng thú say mê học Sử, kết quả các kỳ thi Học
sinh giỏi Quốc gia, Học sinh giỏi Tỉnh, Học sinh giỏi Cụm đều đạt nhiều giải cao.
- Với khối cận chuyên: Kết quả khá, số học sinh đỗ vào Đại học nhiều.Tuy
nhiên, một số năm gần đây điểm thi đại học chưa cao (một phần cũng là do đề thi
của Bộ).
- Với khối cơ bản: Các em yên tâm, đỡ lo lắng hơn về môn Sử, giờ học bớt
nặng nề, căng thẳng. Một số học sinh tỏ ra hào hứng, sôi nổi trong giờ học Sử.
Hạn chế
* Về phía học sinh:
- Học sinh lớp chuyên đầu vào rất kém so với các môn khác. Nhiều em thi

vào chuyên Sử không phải vì say mê môn Sử mà vì không còn sự lựa chọn nào
khác.
- Nhiều học sinh vẫn còn lười học môn Sử nhất là lớp chuyên và cận chuyên,
các em chưa ý thức được trách nhiệm với bộ môn của mình để thi học sinh giỏi và
thi đại học. Vì vậy kết quả thi đại học còn thấp.
- Nhiều học sinh và gia đình các em vẫn coi môn Sử là môn phụ, không có ý
thức học tập nghiêm túc, quay lưng lại với môn Sử.
- Học sinh vẫn quen với cách học thụ động, không chịu suy nghĩ, lười phát
biểu xây dựng bài.
* Về phía giáo viên
- Vẫn có giáo viên nặng về phương pháp dạy truyền thống, ngại đổi mới trong
cách soạn giáo án cũng như phương pháp giảng dạy trên lớp.
- Chưa thường xuyên ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy bộ môn
- Chưa tổ chức cho học sinh học tập với các loại hình khác như dạy học ngoài
thực địa…
- Chưa hướng dẫn học sinh học và tìm hiểu lịch sử địa phương một cách hiệu
quả.
- Việc dự giờ trong nhóm còn ít do số giờ dạy của mọi người đều nhiều và
còn tập trung cho các đội tuyển.
Những tồn tại trên do có một số nguyên nhân như: Do cách thi cử hiện nay,
điều kiện cơ sở vật chất, quan niệm của xã hội về bộ môn… hơn nữa, nhóm chúng
tôi dạy khá nhiều giờ/ tuần và còn thực hiện nhiệm vụ bồi dưỡng các đội tuyển
HSG…
Mặc dù có những khó khăn, song tôi thiết nghĩ để gây được niềm tin, hứng
thú học tập cho học sinh qua mỗi giờ học, chúng tôi phải tiếp tục coi đổi mới
phương pháp dạy và học là việc làm thường xuyên của bản thân, không ngừng học
tập đồng nghiệp để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ .
IV. Đề xuất, kiến nghị :
Những ý kiến đề nghị với nhà trường và cấp trên
- Đổi mới nội dung chương trình sách giáo khoa theo hướng tinh giản vì hiện

nay chương trình và sách giáo khoa lạc hậu, vừa thừa vừa thiếu, thừa những cái
không cần thiết và thiếu một số nội dung cơ bản. SGK còn nhiều bất cập, nội dung
và chương trình nặng nề, chậm đổi mới và không bắt kịp so với thực tiễn và SGK
của một số nước tiên tiến trong khu vực; quy định đánh giá khô cứng; phương tiện
và những đồ dùng bổ trợ cho bộ môn nghèo nàn…
- Chú trọng việc đào tạo đội ngũ giáo viên ngay tại các trường sư phạm và
nên có những đợt bồi dưỡng giáo viên phổ thông theo chu kì thường xuyên.
- Nhà trường và xã hội cần nhìn nhận, đánh giá đúng về vị trí, vai trò của môn
Lịch sử, không nên coi môn học này là “môn phụ”- môn học khó “lập thân, lập
nghiệp”, khi mà dường như khoa học tự nhiên và công nghệ đang chiếm vị trí độc
tôn.
- Việc ra đề và đáp án trong các kỳ thi đại học và học sinh giỏi của Bộ cần đạt
chuẩn cả về nội dung và hình thức, tránh gây tranh cãi làm học sinh và giáo viên
hoang mang, ảnh hưởng đến quyền lợi của học sinh.
TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

Trần Thị Kim Oanh

CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
( xác nhận, đánh giá, xếp loại )
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 11/2006, Kỷ yếu
hội thảo khoa học “Đổi mới phương pháp dạy học và phương pháp đánh
giá đối với giáo dục phổ thông, cao đẳng và đại học sư phạm”, Hà Nội.
2. Nguyễn Thanh Bình, 2008, Giáo dục Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb
Đại học sư phạm.
3. Nguyễn Thị Côi, 2007, Hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông, thực
trạng và giải pháp, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 7/2007.
4. Nguyễn Thị Côi, 2008, Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy
học lịch sử ở trường phổ thông, (in lần hai), Nxb Đại học sư phạm.

5. N.G. ĐAIRI, 1973, Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào? (Đặng Bích Hà-
Nguyễn Cao Lũy dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Đảng Cộng Sản Việt Nam, 2006, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng Sản Việt Nam, 2007, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 52 (1992-
6/1993), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng Sản Việt Nam, 2007, Văn kiện Hội nghị lần thứ II BCHTW
khóa VIII (02- NQ/HNTW, 24/12/1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Phạm Văn Đồng, 1994, Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực- một
phương pháp vô cùng quý báu, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 12- 1994.
10.Trần Bá Hoành, 2007, Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và sách
giáo khoa (tái bản lần thứ nhất), Nxb Đại học sư phạm.
11. Trần Bá Hoành- Vũ Ngọc Anh- Phan Ngọc Liên, 2003, Áp dụng dạy và học
tích cực trong môn lịch sử (Tài liệu tham khảo dùng cho giảng viên sư phạm,
giáo viên trung học cơ sở môn lịch sử, giáo viên tiểu học môn tự nhiên và xã
hội), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
12. Đặng Vũ Hoạt- Hà Thị Đức, 1996, Lý luận dạy học đại học, Nxb Đại học
quốc gia Hà Nội- Trường đại học sư phạm.
13. T.A. ILINA, 1973, Giáo dục học, tập II (lý luận dạy học) (Hoàng Hạnh
dịch), Nxb giáo dục, Hà Nội.
14.Phan Ngọc Liên- Trần Văn Trị (cb), 1992, Phương pháp dạy học lịch sử,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
15.Phan Ngọc Liên (cb), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi, 2002, Phương
pháp dạy học lịch sử, tập 1, Nxb Đại học sư phạm.
16.Phan Ngọc Liên (cb), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi, 2002, Phương
pháp dạy học lịch sử, tập 2, Nxb Đại học sư phạm.
17.Phan Ngọc Liên- Trịnh Đình Tùng- Nguyễn Thị Côi- Trần Vĩnh Tường (đồng
chủ biên), 2002, Một số chuyên đề phương pháp dạy học lịch sử, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
18. Phan Ngọc Liên (cb)- Đinh Ngọc Bảo- Nguyễn Thị Côi- Nguyễn Đình Lễ-

Trương Hữu Quỳnh- Trịnh Đình Tùng- Nghiêm Đình Vì, 2003, Phương
pháp luận sử học, Nxb Đại học sư phạm.
19.Phan Ngọc Liên (Tổng chủ biên), 2007, Lịch sử 12, Nxb Giáo dục.
20.Phan Ngọc Liên (Tổng chủ biên), 2007, Lịch sử 12 (Sách giáo viên), Nxb
Giáo dục.
21.Phan Ngọc Liên (cb), 2008, Đổi mới nội dung và phương pháp dạy học lịch
sử ở trường phổ thông, Nxb Đại học sư phạm.
22. Luật giáo dục năm 2005 được sửa đổi bổ sung năm 2009, 2009, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
23.Đức Minh, 1975, Một số vấn đề lý luận về việc kiểm tra, đánh giá học sinh,
Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 36- 1975.
24. Vũ Ánh Tuyết, 2009, Phát triển năng lực thực hành cho học sinh trung
học phổ thông trong dạy học lịch sử, Tạp chí Giáo dục số 216 (kỳ 2- tháng
6/2009).
25. Nguyễn Cảnh Toàn (cb), Nguyễn Kỳ, Nguyễn Văn Tảo, Bùi Cường, 2001,
Quá trình Dạy- tự học (tái bản lần 2), Nxb Giáo dục.
26. Nguyễn Xuân Trường (cb)- Trương Hồng Phương, 2008, Tự học, tự kiểm
tra theo chuẩn kiến thức, kỹ năng môn lịch sử lớp 12, Nxb Đại học Sư
phạm.
27. Trịnh Đình Tùng, 2007, Để nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn lịch sử
ở trường phổ thông, Tạp chí Giáo dục số 155, Kỳ 1- tháng 2/2007.
28. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.
29. Tư liệu lịch sử lớp 10, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004.
30.Đặng Đức An (chủ biên), Những mẩu chuyện lịch sử thế giới, Tập 1, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 1999.
31.Phan Ngọc Liên (chủ biên), Những vấn đề lịch sử trong tác phẩm Hồ Chí
Minh, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006.
32.Trương Hữu Quýnh, Lê Mậu Hãn, Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Đại cương
lịch sử Việt Nam toàn tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002.

×