Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

SKKN Đổi mới cách kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn công nghệ bậc trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.05 KB, 31 trang )

SKKN 2012-2013“Đổi mới cách KT- ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT”
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT HẬU LỘC 2
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
ĐỔI MỚI CÁCH KT- ĐG KẾT QỦA HỌC TẬP
MÔN CÔNG NGHỆ BẬC THPT
Người thực hiện : Đinh Sỹ Hùng
Chức vụ: Giáo viên
SKKN môn Công nghệ
THANH HOÁ, NĂM 2013
GV: Đinh Sỹ Hùng Trường THPT Hậu lộc 2
1
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT HẬU LỘC 2
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
ĐỔI MỚI CÁCH KT- ĐG KẾT QỦA HỌC TẬP
MÔN CÔNG NGHỆ BẬC THPT
Người thực hiện : Đinh Sỹ Hùng
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác : Trường THPT Hậu lộc 2
SKKN : Môn Công nghệ
THANH HOÁ NĂM 2013
SKKN 2012-2013“Đổi mới cách KT- ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT”
LỜI NÓI ĐẦU
Đổi mới phương pháp dạy học trong chương trình giáo dục phổ thông nói
chung và giáo dục THPT nói riêng là vấn đề được đặt ra và thực hiện từ nhiều
năm nay . Để thực hiện vấn đề này, đã có nhiều những hình thức và biện pháp
dạy học được triển khai như: dạy học nêu vấn đề, tổ chức các hoạt động dạy học
nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, ứng dụng công


nghệ thông tin trong dạy học… Những biện pháp và hình thức đó, trong quá
trình thực hiện, đã góp phần thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao
hiệu quả giảng dạy của giáo viên và chất lượng học tập của học sinh. Tuy nhiên,
để nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học, bên cạnh các biện pháp, hình thức dạy
học như trên thì việc đổi mới KT - ĐG kết quả học tập của học sinh là vô cùng
quan trọng. KT - ĐG là một khâu không thể thiếu trong quá trình dạy học. Đó là
một yêu cầu khách quan đối với việc phát triển lí luận dạy học nói chung cũng
như phương pháp dạy học địa lí nói riêng. Đánh giá được xem là công cụ quan
trọng chủ yếu xác định năng lực nhận thức người học, điều chỉnh quá trình dạy
học. Đổi mới KT - ĐG sẽ tạo động lực thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học,
góp phần nâng cao chất lượng, bảo đảm thực hiện mục tiêu giáo dục.
Vậy, thế nào là đổi mới KT - ĐG ? KT - ĐG như thế nào để nâng cao hiệu
quả giảng dạy, bảo đảm thực hiện mục tiêu giáo dục? KT - ĐG trong môn Công
nghệ bậc THPT như thế nào để đảm bảo mục tiêu bộ môn? Đó là những câu hỏi
lớn mà cá nhân tôi cũng chưa có lời giải cụ thể. Nhưng, xuất phát từ thực tế
giảng dạy, dưới đây, tôi xin trình bày những kinh nghiệm của bản thân trong
việc KT - ĐG kết quả học tập của học sinh, theo cá nhân tôi, những biện pháp và
hình thức kiểm tra như vậy đã có tác dụng tích cực đến các hoạt động dạy học
của giáo viên chất lượng học tập của học sinh.
Những kinh nghiệm mà tôi trình bày sau đây chỉ mang tính chất cá nhân,
do đó sẽ khó tránh khỏi suy nghĩ chủ quan và chắc sẽ có nhiều điểm chưa phù
hợp, vì vậy rất mong nhận được sự góp ý của các đồng chí.
Xin chân thành cảm ơn!
GV: Đinh Sỹ Hùng Trường THPT Hậu lộc 2
2
SKKN 2012-2013“Đổi mới cách KT- ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT”
Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Kiểm tra và đánh giá (KT - ĐG) là hai khâu trong một quy trình thống
nhất nhằm xác định kết quả thực hiện mục tiêu dạy học. Kiểm tra là thu thập

thông tin từ riêng lẻ đến hệ thống về kết quả thực hiện mục tiêu dạy học. Đánh
giá là xác định mức độ đạt được về thực hiện mục tiêu dạy học. Đánh giá kết
quả học tập thực chất là việc xem xét mức độ đạt được của hoạt động học của
HS so với mục tiêu đề ra đối với từng môn học, từng lớp học, cấp học. Mục tiêu
của mỗi môn học được cụ thể hoá thành các chuẩn kiến thức, kĩ năng. Từ các
chuẩn này, khi tiến hành KT - ĐG kết quả học tập môn học, cần phải thiết kế
thành những tiêu chí nhằm kiểm tra được đầy đủ cả về định tính và định lượng
kết quả học tập của HS.
Môn Công Nghệ là một môn học trong chương trình học bậc trung học phổ
thông (THPT), nó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh
phổ thông, thực hiện chỉ đạo của Đảng và Nhà nước cũng như nguyện vọng của
toàn xã hội trong thời đại khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ.
Từ lâu Ngành Giáo dục quá chú ý đến đổi mới phương pháp dạy
học (PPDH), nhưng ít chú ý đến khâu KT - ĐG, đây là vấn đề cốt lõi đã ảnh
hưởng đến hiệu quả của việc cải tiến đổi mới PPDH. KT - ĐG là một thành tố
của quá trình sư phạm, nó giúp quá trình sư phạm được thực hiện toàn
vẹn có hiệu quả, vì thế từ lâu các nhà lý luận đã xem KT - ĐG có vai trò như
nội dung.
Xuất phát từ quan niệm chất lượng giáo dục phổ thông là sự phù hợp với
mục tiêu giáo dục phổ thông, quá trình sư phạm là một quá trình thống nhất toàn
vẹn được cấu trúc bởi các thành tố: mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục,
phương pháp giáo dục, người dạy, người học, KT - ĐG kết quả… Tôi cho rằng
việc cải tiến đổi mới kiểm tra KT - ĐG môn Công Nghệ có vai trò hết sức quan
trọng đối với việc vận dụng quan niệm dạy học mới “Dạy-học hướng tập trung
vào người học”. Đổi mới PPDH nhưng KT-ĐG không đổi mới đương nhiên sẽ
GV: Đinh Sỹ Hùng Trường THPT Hậu lộc 2
3
SKKN 2012-2013“Đổi mới cách KT- ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT”
hạn chế việc đổi mới PPDH. Chính cách KT - ĐG của giáo viên làm thay đổi
cách học của học sinh.

Từ thực trạng trên, để việc KT - ĐG đạt hiệu quả tốt hơn và để đáp ứng
được mục tiêu giáo dục, tạo nên sự công bằng trong đánh giá tôi đã mạnh dạn
đưa ra đề tài:
‘‘Đổi mới cách KT - ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT ’’
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.

Ở bậc THPT, việc học môn Công nghệ là môn học có nhiều kiến thức mới
mẻ và mang tính chất khoa học. Đặc thù của môn học công nghệ là môn học khó
truyền đạt đối với giáo viên, khó làm đối với học sinh. Là môn học có rất nhiều
kiến thức mới, trừu tượng mang tính công nghiệp. Chính vì lý do đó mà phân
phối chương trình của Bộ giáo dục và đào tạo đã dành cho khối 12 là 35 tiết,
khối 11 là 52 tiết.
Chính vì vậy việc đổi mới KT- ĐG là vấn đề cần thiết hiện nay. Vì nó đánh
giá được học sinh có thể hiểu và nhớ được những kiến thức cơ bản của môn học,
chủ yếu là nhớ ý nghĩa theo hệ thống kiến thức của chương trình. Đánh giá được
việc áp dụng kiến thức để giải quyết tình huống cụ thể, sự độc lập sáng tạo của
học sinh. Đánh giá được động cơ, hứng thú, thái độ học tập của học sinh.
3. KẾT QUẢ CẦN ĐẠT.

Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “Giúp học sinh phát triển toàn diện về
dạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách, trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh
tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia bảo vệ tổ quốc”.
Trong các trường THPT hiện nay, việc dạy học không chỉ chủ yếu là dạy cái gì
mà còn dạy học như thế nào. Đổi mới phương pháp dạy học là một yêu cầu cấp
bách có tính chất đột phá để nâng cao chất lượng dạy học. Đổi mới phương pháp
dạy học đòi hỏi phải tiến hành một cách đồng bộ đổi mới từ nội dung chương
trình sách giáo khoa, phương pháp dạy học cho đến KT - ĐG kết quả dạy học.
GV: Đinh Sỹ Hùng Trường THPT Hậu lộc 2

4
SKKN 2012-2013“Đổi mới cách KT- ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT”
KT - ĐG có vai trò rất to lớn đến việc nâng cao chất lượng đào tạo. Kết quả của
KT - ĐG là cơ sở để điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học và quản lý giáo
duc. Nếu KT - ĐG sai dẫn đến nhận định sai về chất lượng đào tạo gây tác hại to
lơn trong việc sử dụng nguồn nhân lực. Vậy đổi mới KT - ĐG trở thành nhu cầu
bức thiết của ngành giáo dục và toàn xã hội ngày nay. KT - ĐG đúng thực tế,
chính xác và khách quan sẽ giúp người học tự tin, hăng say, nâng cao năng lực
sáng tạo trong học tập.
4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu của đề tài “Kiểm tra đánh giá theo chuẩn kiến thức kỹ
năng môn công nghệ” trong trường THPT bao gồm cả thầy và trò.
Về phía Thầy:
- Có kiến thức về phương pháp dạy học, phương pháp KT - ĐG. Đặc biệt
là phải nắm vững chuẩn kiến thức kỹ năng của môn học.
- Có kiến thức sâu về chuyên ngành được đào tạo.
- Biết phối hợp các phương pháp giáo dục truyền thống và hiện đại, cách
KT - ĐG sao cho phù hợp với các đối tượng học sinh khác nhau để có kết quả
giáo dục cao nhất.
Về phía trò:
- Tích cực chủ động trong việc tiếp thu kiến thức, có khả năng tư duy sáng
tạo trong quá trình học tập.
- Có khả năng tư duy, tổng hợp kiến thức để nắm bắt được các kiến thức
đã học trong sách và kiến thức thu được ở ngoài đời sống thực tế.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài ‘‘Đổi mới cách KT - ĐG kết quả học tập môn
Công nghệ bậc THPT ’’ được xây dựng và thực hiện trong các giờ lên lớp, các
bài kiểm tra 15 phút, 45phút và học kỳ tại trường THPT Hậu Lộc 2 từ năm học
2012 đến nay.
GV: Đinh Sỹ Hùng Trường THPT Hậu lộc 2

5
SKKN 2012-2013“Đổi mới cách KT- ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT”
PhầnII. NỘI DUNG.
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ
A. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ
1. Khái niệm kiểm tra đánh giá:
a. Khái niệm kiểm tra.
Trong Đại từ điển Tiếng Việt, Nguyễn Như Ý định nghĩa kiểm tra là xem
xét thực chất, thực tế. Theo Bửu Kế, kiểm tra là tra xét, xem xét, kiểm tra là soát
xét lại công việc, kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét.
Còn theo Trần Bá Hoành, kiểm tra là cung cấp những dữ kiện, những thông tin
làm cơ sở cho việc đánh giá.
Như vậy, các nhà khoa học và các nhà giáo dục đều cho rằng kiểm tra với
nghĩa là nhằm thu thập số liệu, chứng cứ, xem xét, soát xét lại công việc thực tế
để đánh giá và nhận xét.
Trong giáo dục, kiểm tra có các hình thức như kiểm tra thường xuyên
(kiểm tra hàng ngày), kiểm tra định kì (kiểm tra hết chương, hết phần ) và kiểm
tra tổng kết (kiểm tra cuối học kì).
Kiểm tra là theo dõi, sự tác động của người kiểm tra đối với người học
nhằm thu được những thông tin cần thiết cho việc đánh giá.
Kiểm tra có 3 chức năng bộ phận liên kết, thống nhất, thâm nhập vào
nhau và bổ sung cho nhau đó là: đánh giá, phát hiện lệch lạc và điều chỉnh.
Về mặt lý luận dạy học, kiểm tra có vai trò liên hệ nghịch trong quá trình
dạy học. Kiểm tra biết những thông tin, kết quả về quá trình dạy của thầy và quá
trình học của trò để từ đó có những quyết định cho sự điều khiển tối ưu của cả
thầy lẫn trò. Học sinh sẽ học tốt hơn nếu thường xuyên được kiểm tra và được
đánh giá một cách nghiêm túc, công bằng với kỹ thuật cao và đạt kết quả tốt.
b. Khái niệm đánh giá
Đánh giá là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về kết quả
công việc dựa vào sự phân tích những thông tin thu được, đối chiếu với những

mục tiêu, tiêu chuẩn đề ra, nhằm đề xuất những quyết định thích hợp để cải
GV: Đinh Sỹ Hùng Trường THPT Hậu lộc 2
6
SKKN 2012-2013“Đổi mới cách KT- ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT”
thiện thực trạng, điều chỉnh nâng cao chất lượng và hiệu qủa công việc. Theo
Đại từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý, đánh giá là nhận xét bình phẩm về
giá trị. Theo từ điển Tiếng Việt của Văn Tân thì đánh giá là nhận thức cho rõ giá
trị của một người hoặc một vật.
Đánh giá trong giáo dục, theo Dương Thiệu Tống là quá trình thu thập và
xử lý kịp thời, có hệ thống thông tin về hiện trạng và hiệu quả giáo dục. Căn cứ
vào mục tiêu dạy học, làm cơ sở cho những chủ trương, biện pháp và hành động
trong giáo dục tiếp theo. Cũng có thể nói rằng đánh giá là quá trình thu thập
phân tích và giải thích thông tin một cách hệ thống nhằm xác định mức độ đạt
đến của các mục tiêu giáo dục về phía học sinh. Đánh giá có thể thực hiện bằng
phương pháp định lượng hay định tính.
Như vậy đánh giá là việc đưa ra những kết luận nhận định, phán xét về
trình độ học sinh. Muốn đánh giá kết quả học tập của học sinh thì việc đầu tiên
là phải kiểm tra, soát xét lại toàn bộ công việc học tập của học sinh, sau đó tiến
hành đo lường để thu thập những thông tin cần thiết, cuối cùng là đưa ra một
quyết định. Do vậy kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của học sinh là hai khâu
có quan hệ mật thiết với nhau. Kiểm tra nhằm cung cấp thông tin để đánh giá và
đánh giá thông qua kết quả của kiểm tra. Hai khâu đó hợp thành một quá trình
thống nhất là KT - ĐG.
Đánh giá kết quả học tập là quá trình đo lường mức độ đạt được của học
sinh về các mục tiêu và nhiệm vụ của quá trình dạy học. Mô tả một cách định
tính và định lượng: tính đầy đủ, tính đúng đắn, tính chính xác, tính vững chắc
của kiến thức, mối liên hệ của kiến thức với đời sống, các khả năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn, mức độ thông hiểu, khả năng diễn đạt bằng lời nói, bằng
văn viết, bằng chính ngôn ngữ chuyên môn của học sinh… và cả thái độ của học
sinh trên cơ sở phân tích các thông tin phản hồi từ việc quan sát, kiểm tra, đánh

giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao, đối chiếu với những chỉ tiêu, yêu
cầu dự kiến, mong muốn đạt được của môn học.
GV: Đinh Sỹ Hùng Trường THPT Hậu lộc 2
7
SKKN 2012-2013“Đổi mới cách KT- ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT”
Đánh giá kết quả học tập của học sinh là một quá trình phức tạp và công
phu. Vì vậy để việc đánh giá kết quả học tập đạt kết quả tốt thì quy trình đánh
giá gồm những công đoạn sau:
- Phân tích mục tiêu học tập thành các kiến thức, kỹ năng.
- Đặt ra các yêu cầu về mức độ đạt được các kiến thức, kỹ năng dựa trên
những dấu hiệu có thể đo lường hoặc quan sát được.
- Tiến hành đo lường các dấu hiệu đó để đánh giá mức độ đạt được về các
yêu cầu đặt ra, biểu thị bằng điểm số.
- Phân tích, so sánh các thông tin nhận được với các yêu cầu đề ra rồi
đánh giá, xem xét kết quả học tập của học sinh, mức độ thành công của phương
pháp giảng dạy của giáo viên… để từ đó có thể cải tiến, khắc phục nhược điểm.
- Trong đánh giá phải quán triệt nguyên tắc vừa sức, bám sát yêu cầu của
chương trình.
2. Mục đích, ý nghĩa, vai trò của KT - ĐG kết quả học tập
của học sinh
a. Mục đích của việc KT-ĐG
Công khai hóa nhận định về năng lực và kết quả học tập của mỗi học sinh
và tập thể lớp, tạo cơ hội cho học sinh phát triển kỹ năng tự đánh giá, giúp học
sinh nhận ra sự tiến bộ của mình, khuyến khích động viên việc học tập.Giúp cho
giáo viên có cơ sở thực tế để nhận ra những điểm mạnh và điểm yếu của mình,
tự hoàn thiện hoạt động dạy, phân đấu không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu
quả dạy học.
Như vậy, KT - ĐG không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và định
hướng, điều chỉnh hoạt động của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định
ra thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.

b. Ý nghĩa của việc KT - ĐG
KT - ĐG có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với học sinh, giáo viên và đặc
biệt là đối với cán bộ quản lí.
* Đối với học sinh:
GV: Đinh Sỹ Hùng Trường THPT Hậu lộc 2
8
SKKN 2012-2013“Đổi mới cách KT- ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT”
- Việc KT - ĐG có hệ thống và thường xuyên cung cấp kịp thời những
thông tin "liên hệ ngược" giúp người học điều chỉnh hoạt động học.
- Về giáo dưỡng chỉ cho học sinh thấy mình đã tiếp thu điều vừa học đến
mức độ nào, còn thiếu sót nào cần bổ khuyết.
- Về mặt phát triển năng lực nhận thức giúp học sinh có điều kiện tiến
hành các hoạt động trí tuệ như ghi nhớ, tái hiện, chính xác hóa, khái quát hóa, hệ
thống hóa kiến thức, tạo điều kiện cho học sinh phát triển tư duy sáng tạo, linh
hoạt vận dụng kiến thức để giải quyết các tình huống thực tế.
- Về mặt giáo dục học sinh có tinh thần trách nhiệm cao trong học tập, có
ý chí vươn lên đạt những kết quả cao hơn, cũng cố lòng tin vào khả năng của
mình, nâng cao ý thức tự giác, khắc phụ tính chủ quan tự mãn.
* Đối với giáo viên:
- Việc KT - ĐG học sinh cung cấp cho giáo viên những thông tin "liên hệ
ngược ngoài", qua đó rút kinh nghiệm, điều chỉnh lại mục tiêu, lựa chọn
phương pháp và nội dung trọng tâm trong quá trình giảng dạy.
- KT - ĐG kết hợp với việc theo dõi thường xuyên giúp cho giáo viên
nắm được một cách cụ thể và khá chính xác năng lực và trình độ mỗi học sinh
trong lớp, từ đó có biện pháp cụ thể, thích hợp bồi dưỡng riêng cho từng nhóm
học sinh, nâng cao chất lượng học tập chung cho cả lớp.
* Đối với cán bộ quản lí giáo dục:
Cung cấp cho cán bộ quản lí giáo dục những thông tin về thực trạng dạy
và học trong một đơn vị giáo dục để có những chỉ đạo kịp thời, uốn nắn được
những lệch lạc, khuyến khích, hỗ trợ những sáng kiến hay, bảo đảm thực hiện

tốt mục tiêu giáo dục.
c. Vai trò của KT - ĐG trong dạy học hiện nay
Trong nhà trường hiện nay, việc dạy học không chỉ chủ yếu là dạy cái gì
mà còn dạy học như thế nào. Đổi mới phương pháp dạy học là một yêu cầu cấp
bách có tính chất đột phá để nâng cao chất lượng dạy học. Đổi mới phương pháp
dạy học đòi hỏi phải tiến hành một cách đồng bộ đổi mới từ nội dung chương
trình sách giáo khoa, phương pháp dạy học cho đến KT - ĐG kết quả dạy học.
GV: Đinh Sỹ Hùng Trường THPT Hậu lộc 2
9
SKKN 2012-2013“Đổi mới cách KT- ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT”
KT - ĐG có vai trò rất to lớn đến việc nâng cao chất lượng đào tạo. Kết quả của
KT - ĐG là cơ sở để điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học và quản lý giáo
dục. Nếu KT - ĐG sai dẫn đến nhận định sai về chất lượng đào tạo gây tác hại to
lơn trong việc sử dụng nguồn nhân lực. Vậy đổi mới KT - ĐG trở thành nhu cầu
bức thiết của ngành giáo dục và toàn xã hội ngày nay. KT - ĐG đúng thực tế,
chính xác và khách quan sẽ giúp người học tự tin, hăng say học tập, nâng cao
năng lực sáng tạo của bản thân trong học tập.
3. Chức năng của KT - ĐG:
Kiểm tra gồm 3 chức năng bộ phận liên kết thống nhất với nhau đó là:
đánh giá, phát hiện lệch lạc và điều chỉnh.
Nhờ đánh giá sẽ phát hiện ra cả những mặt tốt lẫn mặt chưa tốt trong trình
độ đạt tới của học sinh, trên cơ sở đó tìm hiểu kỹ nguyên nhân của những lệch
lạc, về phía dạy cũng như phía học, hoặc có thể từ khách quan. Phát hiện ra lệch
lạc, tìm ra nguyên nhân của lệch lạc là rất quan trọng. Vì sự thành đạt trong kết
quả là điều đã dự kiến trong mục tiêu, còn những lệch lạc thường bị bỏ qua, mà
GV: Đinh Sỹ Hùng Trường THPT Hậu lộc 2
10
SKKN 2012-2013“Đổi mới cách KT- ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT”
nếu sửa chữa loại trừ chúng thì chất lượng sẽ được tốt lên.Từ đánh giá và phát
hiện lệch lạc giáo viên điều chỉnh, uốn nắn, loại trừ những lệch lạc đó, tháo gỡ

những khó khăn trở ngại, thúc đẩy chất lượng dạy học lên rất nhiều.
4. Bản chất của KT - ĐG.
Trong dạy học, KT - ĐG là một vấn đề hết sức phức tạp, nếu không cẩn
thận dễ dẫn đến sai lầm. Vì vậy đổi mới phương pháp dạy học nhất thiết phải đổi
mới, cải cách KT - ĐG, sử dụng kỹ thuật ngày càng tiên tiến, có độ tin cậy cao,
bên cạnh đó còn có công cụ KT - ĐG cho học sinh để họ tự đánh giá kết quả
lĩnh hội kiến thức của bản thân mình, từ đó điều chỉnh uốn nắn việc học tập của
bản thân.
Như vậy, việc KT - ĐG của người dạy phải khuyến khíchvà thúc đẩy
được sự tự KT - ĐG của người học. Hai mặt này phải thống nhất biện chứng với
nhau. KT - ĐG phải có tác dụng làm cho học sinh thi đua học tốt với chính mình
chứ không phải để ganh đua với người khác.
5. Các tiêu chuẩn về nhận thức áp dụng cho bài KT - ĐG.

Có 6 tiêu chuẩn về quá trình nhận thức được áp dụng cho KT - ĐG: đó là
các mức độ nhận thức đi từ thấp đến cao của hoạt động tư duy.
- Biết (còn gọi là nhớ lại):đây là khả năng thấp nhất trong lĩnh vực kiến thức.
- Hiểu: là kỹ năng học sinh hiểu được vấn đề họ biết, có khả năng áp dụng
những kiến thức đã biết vào việc giải quyết những vấn đề mới.
- Ứng dụng: là khả năng vận dụng các kiến thức quy luật, khái niệm, định
luật… nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể. Học sinh có khả năng tư duy tốt sẽ
vận dụng kiến thức tốt.
- Phân tích: là khả năng tách ra từng phần để nghiên cứu, để tìm hiểu rõ đối
tượng hay hiện tượng. Phân tích còn là sự phân biệt các dấu hiệu, các đặc tính
riêng biệt của đối tượng hay hiện tượng đó theo một hệ thống nhất định.
- Tổng hợp: Là kỹ năng kết hợp các yếu tố riêng biệt để rút ra những cái chung,
các bản chất nhất của đối tượng hay hiện tượng, tức là những dấu hiệu trong một
tổng thể phân tích và tổng hợp có sự liên kết mật thiết với nhau là hai mặt của
GV: Đinh Sỹ Hùng Trường THPT Hậu lộc 2
11

SKKN 2012-2013“Đổi mới cách KT- ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT”
một quá trình tư duy thống nhất, nó có tác dụng quan trọng trong việc lĩnh hội
các khái niệm khoa học.
- Đánh giá: Có thể coi là mức độ cao nhất của sự phát triển các kỹ năng về trí
tuệ. Dựa trên sự hiểu biết những phân tích và tổng hợp để rút ra kết luận đúng
nhất, chính xác nhất, xem xét kết luận này có ưu nhược điểm gì, có vai trò ra
sao, tiến hành áp dụng nó thế nào. Đó chính là kỹ năng mà có thể đề xuất việc
nhận định chất lượng học tập của học sinh.
6. Quy trình của việc KT - ĐG.
Về cơ bản quy trình này gồm 5 bước:
Bước 1: Xây dựng hệ thống chỉ tiêu về nội dung KT - ĐG và tiêu chí KT - ĐG
(KT -ĐG cái gì? cho điểm số thế nào?) tương ứng với hệ thống mục tiêu dạy học
đã được cụ thể hoá đến chi tiết.
Bước 2: Thiết kế công cụ KT - ĐG (hay lựa chọn hình thức KT - ĐG) và kế
hoạch sử dụng chúng, tuỳ theo mục đích KT - ĐG mà có thể lựa chọn các dạng
kiểm tra (kiểm tra sơ bộ, kiểm tra thường ngày, kiểm tra định kỳ và kiểm tra
tổng kết); hoặc các hình thức kiểm tra (kiểm tra miệng, viết 15', 45', học kỳ).
Bước 3: Thu nhập số liệu KT - ĐG: theo đáp án, bảng đặc trưng, giáo viên chấm
bài kiểm tra, thống kê điểm kiểm tra.
Bước 4: Xử lý số liệu
Bước 5: Hình thành hệ thống kết luận về việc KT - ĐG và đưa ra những đề xuất
điều chỉnh quá trình dạy học.
7. Những yêu cầu và nguyên tắc để KT - ĐG kết quả học tập
của học sinh
a. Những yêu cầu sư phạm cần tuân thủ khi KT - ĐG kết quả học tập
của học sinh
Khi KT - ĐG cần phải tuân thủ những yêu cầu sau:
- KT - ĐG phải xuất phát từ mục tiêu dạy học.
- Công cụ KT - ĐG phải đảm bảo mức độ chính xác nhất định.
GV: Đinh Sỹ Hùng Trường THPT Hậu lộc 2

12
SKKN 2012-2013“Đổi mới cách KT- ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT”
- KT - ĐG phải mang tính khách quan, toàn diện, có hệ thống và công
khai.
- KT - ĐG phải đảm bảo tính thuận tiện của việc sử dụng công cụ KT -
ĐG.
b. Những nguyên tắc để KT-ĐG kết quả học tập của học sinh
Để KT - ĐG kết quả học tập cần dựa vào những nguyên tắc mang tính
tổng quát và cụ thể.
Những nguyên tắc mang tính tổng quát:
- KT - ĐG là quá trình tiến hành, có hệ thống để xác định phạm vi đạt
được của các mục tiêu đề ra. Vậy, phải xác định rõ mục tiêu KT - ĐG là gì.
- Khi KT - ĐG phải chọn mục tiêu KT - ĐG rõ ràng, các mục tiêu phải
được biểu hiện dưới dạng những điều có thể quan sát được.
- Khi KT - ĐG giáo viên phải biết nó là phương tiện để di đến mục đích,
chứ bản thân không phải là mục đích. Mục đích KT - ĐG là để có nhưng quyết
định đúng đắn, tối ưu nhất cho quá trình dạy học.
- KT - ĐG bao giờ cũng gắn với việc học tập của học sinh, nghĩa là trước
tiên phải chú ý đến việc học tập của học sinh. Sau đó mới kích thích sự nỗ lực
học tập của học sinh, cuối cùng mới KT - ĐG bằng điểm số.
- KT - ĐG bao giờ cũng đi kèm theo nhận xét để học sinh nhận biết những
sai sót của mình về kiến thức kỹ năng, phương pháp để học sinh nghiên cứu,
trao đổi thêm kiến thức.
- Qua những lỗi mắc phải của học sinh, giáo viên cần rút kinh nghiệm để
phát hiện ra những sai sót trong quá trình dạy và KT - ĐG của mình để thay đổi
cách dạy sao cho phù hợp với học sinh.
- Trong KT - ĐG nên sử dụng nhiều phương pháp và hình thức khác nhau
nhằm tăng độ tin cậy và chính xác.
- Lôi cuốn và khuyến khích học sinh tham gia vào quá trình KT - ĐG.
- Giáo viên phải thông báo rõ các loại hình câu hỏi để KT - ĐG giúp học

sinh định hướng khi trả lời.
GV: Đinh Sỹ Hùng Trường THPT Hậu lộc 2
13
SKKN 2012-2013“Đổi mới cách KT- ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT”
- Phải dựa trên những cơ sở của phương phá dạy học mà xem xét kết quả
của một câu trả lời, của một bài kiểm tra, kết hợp với chức năng chẩn đoán hoặc
quyết định về mặt sư phạm.
- Trong các câu hỏi xác định về mặt định lượng, giáo viên thông qua các
câu hỏi yêu cầu học sinh giải thích bằng lời để xác định rõ nhận thức của học
sinh.
- Phương pháp và cách thức tiến hành KT-ĐG phải diễn ra trong hoàn
cảnh thoải mái, học sinh cảm thấy tự nguyện, không lo lắng hay sợ sệt.
- Không nên đặt những câu hỏi mà bản thân giáo viên không thể trả lời
một cách chắc chắn được.
B. CÁC PHUƠNG PHÁP KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ
I. KT - ĐG bằng phương pháp quan sát
1. Bản chất
Phương pháp quan sát là phương pháp trong đó GV tổ chức cho HS sử
dụng các giác quan để tri giác có mục đích đối với các đôí tượng trong tự nhiên
và xã hội mà không có sự can thiệp vào các quá trình diễn biến của các hiện
tượng hoặc sự vật đó.
2. Quy trình thực hiện
Bước 1: Lựa chọn đối tượng quan sát
Tuỳ theo nội dung học tập, GV sẽ chọn đối tượng quan sát phù hợp với
trình độ HS và điều kiện địa phương.
Bước 2: Xác định mục đích quan sát.
Trong quá trình quan sát không phải lúc nào học sinh cũng rút ra được
những đặc điểm của đối tượng. Vì vậy, với mỗi đối tượng, GV cần xác định mục
đích của việc quan sát.
Bước 3: Tổ chức và hướng dẫn HS quan sát.

- Có thể tổ chức cho HS quan sát cá nhân, quan sát theo nhóm hoặc cả
lớp. Điều đó phụ thuộc vào số đồ dùng chuẩn bị được và năng lực quản lý của
GV.
GV: Đinh Sỹ Hùng Trường THPT Hậu lộc 2
14
SKKN 2012-2013“Đổi mới cách KT- ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT”
- Sử dụng những câu hỏi nhằm hướng dẫn học sinh:
+ Quan sát tổng thể rồi mới đi đến bộ phận, chi tiết.
+ Quan sát từ bên ngoài rồi mới đi vào bên trong.
+ So sánh với các đối tượng cùng loại (mà các em đã biết) để tìm ra những
đặc điểm giống nhau và khác nhau.
Bước 4: Tổ chức cho HS báo cáo kết quả quan sát được về đối tượng.
3. Ưu điểm:
- HS được sử dụng phối hợp nhiều giác quan để tri giác sự vật, hiện tượng,
hình thành được các biểu tượng, khái niệm cụ thể về hiện tượng
- Tạo hứng thú học tập, phát triển khả năng tập trung, chú ý, óc tò mò
khám phá khoa học.
- Phát triển tư duy và nâng cao tính tự lực, tích cực của học sinh.
4. Hạn chế
Không phải lúc nào cũng tìm được đối tượng quan sát phù hợp với nội
dung học tập.
5. Một số lưu ý
- Đối với môn Công nghệ đối tượng quan sát của HS không chỉ là tranh
ảnh, mẫu vật, mô hình mà còn là các đoạn phim, các dụng cụ thực tế trong sinh
hoạt hàng ngày trong tự nhiên và xã hội…Vì vậy GV có thể tổ chức cho HS
quan sát ở trong lớp hay ngoài thực tế hay có thể đi tới các xí nghiệp, nhà máy.
GV nên sử dụng đối tượng quan sát như là nguồn thi thức để tổ chức cho HS
tiến hành các hoạt động học tập, từng bước phát hiện ra kiến thức mới.
II. KT - ĐG bằng phương pháp vấn đáp
1. Bản chất

Phương pháp vấn đáp (đàm thoại) là phương pháp, trong đó giáo viên đặt ra
những câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc có thể tranh luận với nhau và cả giáo viên,
qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học.
Căn cứ vào tính chất hoạt động nhân thức, người ta phân biệt 3 hình thức vấn
đáp sau:
GV: Đinh Sỹ Hùng Trường THPT Hậu lộc 2
15
SKKN 2012-2013“Đổi mới cách KT- ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT”
- Vấn đáp tái hiện: GV đặt ra những câu hỏi chỉ yêu cầu HS nhớ lại kiến thức
đã biết và trả lơì dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Đó là hình thức được dùng
khi cần đặt mối liên hệ giữa kiến thức đã học với kiến thức sắp học hoặc khi cần
củng cố kiến thức vừa mới học.
- Vấn đáp giải thích – minh hoạ: Nhằm mục đích làm sáng tỏ một vấn đề
nào đó, GV lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để HS
dễ hiểu, dễ nhớ. Hình thức này đặc biệt có hiệu quả khi có sự hỗ trợ của các
phương tiện nghe nhìn.
- Vấn đáp gợi mở (hay còn gọi là vấn đáp tìm tòi): GV dùng một hệ thống câu
hỏi được sắp xếp hợp lý để dẫn dắt HS từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật,
tính quy luật của hiện tượng đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết.
Trong quá trình dạy học, GV có thể sử dụng cả 3 hình thức, tuy nhiên cần
khuyến khích GV sử dụng hình thức vấn đáp tìm tòi.
2. Quy trình thực hiện
Ở bậc học THPT, GV thường tổ chức hoạt động của HS trong phương pháp
vấn đáp theo các bước sau:
- Bước 1: GV đặt câu hỏi nhỏ, riêng rẽ.
- Bước 2: GV chỉ định từng HS trả lời hoặc để học sinh tự nguyện trả lời
(mỗi học sinh trả lời một câu hỏi và trước mỗi câu hỏi nên để thời gian cho HS suy
nghĩ câu trả lời)
- Bước 3: GV tổng hợp ý kiến và nêu ra kết luận dựa trên những câu trả lời
đúng của HS

3. Ưu điểm
- Kích thích tính tích cực, độc lập sáng tạo trong học tập của HS
- Bồi dưỡng cho HS năng lực diễn đạt những vấn đề học tập bằng lời.
- Tạo không khí học tập sôi nổi trong giờ học.
4. Hạn chế
Nếu người giáo viên chưa có nghệ thuật tổ chức, điều khiển phương pháp
đàm thoại thì mang một số hạn chế sau:
GV: Đinh Sỹ Hùng Trường THPT Hậu lộc 2
16
SKKN 2012-2013“Đổi mới cách KT- ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT”
- Dễ làm mất thời gian, ảnh hưởng tới việc thực hiện kế hoạch bài học.
- Có thể biến đàm thoại thành cuộc tranh luận giữa GV và học sinh, giữa các
thành viên của lớp với nhau.
5. Một số lưu ý
- Giáo viên cần chuẩn bị thật tốt hệ thống câu hỏi. Các câu hỏi có liên quan
chặt chẽ với nhau, câu hỏi trước là tiền đề cho câu hỏi sau, câu hỏi sau là sự kế tục
và phát triển kết quả của câu hỏi trước. Mỗi câu hỏi là một cái “nút” của từng bộ
phận mà HS cần lần lượt tháo gỡ thì mới được kết quả cuối cùng.
- Để tăng thêm hiệu quả của việc sử dụng phương pháp vấn đáp, GV cần tổ
chức đối thoại theo nhiều chiều: GV  HS, HS HS; và HS GV.
III. KT - ĐG bằng phương pháp viết.
1. Phương pháp trắc nghiệm tự luận
a. Khái niệm.
Trắc nghiệm tự luận là phương pháp đánh giá kết quả học tập bằng việc
sử dụng công cụ đo lường là các câu hỏi. Thông thường một bài thi thường có 1
đến 5 câu hỏi, học sinh phải trả lời dưới dạng một bài viết trong một khoảng
thời gian định trước, đây là phương pháp thông dụng nhất hiện nay
Bài trắc nhiệm tự luận cần bao gồm cả nội dung định tính lẫn định lượng,
có như thế khi làm bài học sinh mới thể hiện hết những hiểu biết của mình về
vấn đề đã học cũng như khả năng vận dụng hiểu biết đó vào những tình huống

khác nhau.
Khi chọn nội dung kiểm tra giáo viên cần chú ý đến trình độ chung của
học sinh trong lớp và thời gian cần thiết để hoàn thành bài làm. Không nên chỉ
chọn một đề bài, mà cần chọn nhiều đầu bài có nội dung tương đương nhau
nhưng hỏi về nhiều khía cạnh khác nhau.
b. Ưu điểm
- Có thể đo được nhiều trình độ nhận thức theo hệ thống phân loại
B.Bloom, đặc biệt là ở trình độ tổng hợp. Không những kiểm tra được kiến thức
GV: Đinh Sỹ Hùng Trường THPT Hậu lộc 2
17
SKKN 2012-2013“Đổi mới cách KT- ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT”
học sinh mà còn kiểm tra được kỹ năng kỹ xảo về giải bài tập, thực hiện các
phép tính, vẽ đồ thị, chứng minh các công thức.
- Có thể kiểm tra đánh giá các mục tiêu liên quan đến thái độ, sự hiểu biết
những ý niệm sở thích và diễn đạt tư tưởng.
- Hình thành cho học sinh thói quen suy diễn, khái quát, phát huy tính
độc lập sáng tạo
- Việc chuẩn bị câu hỏi rễ hơn, ít tốn kém hơn so với trắc nghiệm khách
quan.
c. Nhược điểm
- Độ tin cậy thấp do số lượng câu hỏi hạn chế và việc chọn mẫu câu hỏi
thiếu tính chất tiêu biểu, độ tin cậy còn bị giảm đi vì phụ thuộc vào tính chất chủ
quan, trình độ của người chấm.
- Độ giá trị thấp do phụ thuộc vào yếu tố chủ quan khi chấm bài. Cùng
một bài thi cùng một người chấm nhưng ở hai thời điểm khác nhau hoặc hai
người chấm độc lập thì điểm số hầu như khác nhau.
- Việc chấm điểm khó chính xác so với trắc nghiệm khách quan.
2. Phương pháp trắc nghiệm khách quan
a. Khái niệm.
Trắc nghiệm khách quan (objective test), là một cụm từ đã xuất hiện trên

thế giới hàng trăm năm nay, theo các nhà nghiên cứu cũng như những nhà thực
tiễn thường gọi cụm từ này để chỉ hình thức tổ chức kiểm tra hoặc hình thức tổ
chức thi cử, bằng cách cho thí sinh lựa chọn và đánh dấu lên các mẫu tự để trả
lời các câu hỏi trực tiếp hoặc gián tiếp của đề thi.
Trắc nghiệm có thể hiểu như là một hoạt động kiểm tra và đo
lường kiến thức cũng như năng lực của các đối tượng nào đó, nhằm mục đích
xác định. Đề thi trắc nghiệm thường gồm nhiều câu hỏi, mỗi câu hỏi nêu ra một
vấn đề cùng với những thông tin cần thiết, sao cho thí sinh phải trả lời vắn tắt
cho từng câu là trắc nghiệm khách quan (TNKQ).
Kiểu câu hỏi TNKQ phổ biến là câu trắc nghiệm nhiều lựa chọn (multiple
choise questions - gọi tắt là MCQ). MCQ có 2 phần: phần đầu gọi là phần dẫn
GV: Đinh Sỹ Hùng Trường THPT Hậu lộc 2
18
SKKN 2012-2013“Đổi mới cách KT- ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT”
(hay câu dẫn), nêu ra vấn đề, cung cấp thông tin cần thiết hoặc nêu một câu hỏi;
phần sau là các phương án dành cho học sinh lựa chọn để trả lời (thông thường
phần trả lời của mỗi câu hỏi , có 4 lựa chọn A, B, C, D). Học sinh trả lời chỉ
được quyền chọn một câu đúng nhất. Các câu hỏi đồng nhất về hình thức và
điểm số, điều này thuận lợi cho việc chấm và tính điểm bằng máy. Thời gian
làm một bài kiểm tra chỉ trong 45 phút với khoảng 40 đến 50 câu trắc nghiệm.
Đề thi trắc nghiệm gồm nhiều câu hỏi, được lấy ra ngẫu nhiên, theo những yêu
cầu nhất định từ ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm. Ngân hàng này được "xây
dựng" quanh năm, do đó có thể gia công những câu trắc nghiệm có độ chính xác
cao và có thể xác định các đặc trưng của câu hỏi như độ khó, độ dễ trước khi
làm đề. Bài thi trắc nghiệm được chấm tự động trên máy quét quang học,
nên thí sinh được phát đề thi in sẵn, được phát một phiếu trả lời trắc nghiệm.
Khi trả lời cho câu hỏi trắc nghiệm nào thì học sinh chọn phương án đúng nhất
(A hoặc B, C, D) và phải làm động tác "tô đen" - tức là dùng bút chì đen loại
mềm (2B, 6B) tô kín ô tròn tương ứng với một trong các chữ cái. Tô kín cả ô
thật đậm để máy chấm có thể ghi nhận được. Trong trường hợp tô nhầm hoặc

muốn thay đổi câu trả lời, học sinh phải dùng tẩy xóa thật sạch ô cũ và tô kín các
ô khác (nếu tẩy không sạch máy tính sẽ xem như có 2 ô được tô đen, câu đó sẽ
không được chấm điểm). Nếu học sinh trả lời ngay trên đề thi hoặc giấy nháp
thì coi như không hợp lệ, toàn bộ bài làm sẽ không được chấm.
b. Ưu điểm của trắc nghiệm khách quan
- Phạm vi kiến thức và kĩ năng rộng hơn nhiều so với tự luận. Thi tự luận,
mỗi câu hỏi, bài tập có thể rơi vào một vấn đề nào đó. Đề bài có tổng hợp đi
chăng nữa vẫn có xác suất trúng “tủ”. Tuy nhiên, với mỗi đề thi TNKQ có
khoảng 40 đến 50 câu hỏi có thể phủ kín phạm vi kiến thức của một môn học
.Vì vậy thi bằng TNKQ, học sinh không thể học “tủ” mà phải học toàn diện.
- Tiết kiệm thời gian : tiết kiệm thời gian coi thi vì thời gian làm bài trắc
nghiệm phải ngắn, tiết kiệm được thời gian chấm bài rất nhiều.
- Có tính tiện ích : Có thể sử dụng các phương tiện hiện đại trong
chấm bài và phân tích kết quả kiểm tra của HS (nếu bài thi trắc nghiệm được
GV: Đinh Sỹ Hùng Trường THPT Hậu lộc 2
19
SKKN 2012-2013“Đổi mới cách KT- ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT”
thiết kế trên máy tính). Chấm bài nhanh, chính xác, khách quan, dễ cho điểm,
đáng tin cậy.
- Sự may rủi hầu như không có: Vì một đề thi trắc nghiệm trải rộng gần
toàn bộ chương trình. Việc chọn ngẫu nhiên cũng có xác suất đúng được 25%.
Nhưng tần suất trả lời đúng đạt tối đa của xác suất này cũng chỉ là khoảng 25%
câu hỏi
c. Nhược điểm của trắc nghiệm khách quan
- Tốn rất nhiều thời gian ở khâu chuẩn bị, soạn đề
- Khuyến khích đoán mò: thí sinh vẫn có thể suy đoán nếu không nắm bài
đầy đủ
- Dễ quay cóp lúc làm bài : vì đáp án chỉ là a, b, c, d nên rất dễ đọc kết
quả cho nhau nên đòi hỏi khâu coi thi phải chặc chẽ, nghiêm túc
- Khó khăn trong việc soạn nội dung đề trắc nghiệm: Người soạn TNKQ

thường chủ quan, vì cho rằng TNKQ soạn dễ. Kết quả là: bộ câu hỏi thường rời
rạc, chuyên biệt, không bao quát, thường không quan tâm đúng mức đến các kĩ
năng phân tích và tổng hợp.
d. Các hình thức của câu hỏi trắc nghiệm khách quan
Về hình thức của câu hỏi trắc nghiệm khách quan: Hiện nay có khoảng 5
dạng câu
hỏi trắc nghiệm khách quan thường được sử dụng để soạn thảo câu hỏi cho các
đề kiểm tra và đề thi trong các trường phổ thông; đó là Câu trả lời ngắn, câu trả
lời đúng sai, Câu hỏi tương thích, Câu hỏi lựa chọn đa phương án, Câu
hỏi gốc là dạng câu hỏi tổng quát …
* Dạng câu trả lời ngắn
* Yêu cầu: Trả lời một câu hỏi hoặc điền thêm vào một câu cho đúng nghĩa
bằng một từ, một nhóm từ, một ký hiệu, một công thức…
* Ưu điểm
- Dễ xây dựng
- Học sinh không thể đoán mò
* Nhược điểm
GV: Đinh Sỹ Hùng Trường THPT Hậu lộc 2
20
SKKN 2012-2013“Đổi mới cách KT- ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT”
- Chỉ được dùng để kiểm tra trình độ mức độ nhận biết, hiểu.
- Đôi khi khó đánh giá chính xác nội dung trả lời
* Những điểm cần lưu ý:
- Nội dung của phần trả lời càng cô đọng càng tốt
- Nên dùng câu hỏi trực tiếp hơn là câu điền khuyết
- Chú ý về yêu cầu của đơn vị tính trong câu trả lời bằng số có thứ nguyên
- Khoảng trống dành cho các câu trả lời nên bằng nhau để tránh sự đoán mò
* Ví dụ: Hãy điền từ còn thiếu vào chỗ trống sao cho phù hợp.
Mạch điện tử là ………… mắc phối hợp giữa các linh kiện ………… để thực
hiện một chức năng nào đó trong kĩ thuật điện tử

* Dạng câu hỏi đúng - sai
* Yêu cầu: Chọn một trong hai phương án: Đúng – Sai, Phải – Không
phải, Đồng ý – Không đồng ý.
* Ưu điểm
- Dễ xây dựng
- Có thể ra nhiều câu một lúc vì ít tốn thời gian cho mỗi câu, vì vậy nội dung
bao phủ chương trình rộng hơn.
* Nhược điểm
- Thường chỉ được dùng để kiểm tra mức độ nhận biết, hiểu.
- Tỷ lệ đoán mò đúng cao.
* Những điều cần lưu ý:
- Tránh dùng câu phủ định nhiều lần.
- Lưu ý đến tính chặt chẽ khi dùng câu gồm hai mệnh đề có liên hệ nhân -
quả.
* Ví dụ: Em hãy tích vào đáp án.
- Điện trở là linh kiện bán dẫn Đúng Sai
- Lắp tụ hoá cần phải mắc đúng cực Đúng Sai
* Dạng câu hỏi tương thích
* Yêu cầu: Lựa chọn sự tương đương hoặc sự phù hợp cho mỗi cặp thông
tin từ 2 cột đối xứng.
GV: Đinh Sỹ Hùng Trường THPT Hậu lộc 2
21
SKKN 2012-2013“Đổi mới cách KT- ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT”
* Ưu điểm
- Dễ xây dựng
- Có thể hạn chế sự đoán mò bằng cách tăng lượng thông tin trong bảng
chọn.
* Nhược điểm
- Chủ yếu dùng để kiểm tra nhận biết
- Thông tin có tính dàn trải, không nhấn mạnh được những điều quan trọng.

* Ví dụ: Hãy nối ý cột bên trái sao cho phù hợp với cột bên phải
Triac Có 1 lớp tiếp giáp P - N
Tirixto Có 2 lớp tiếp giáp P - N
Tranzito Có 3 lớp tiếp giáp P - N
Điốt Có 4 lớp tiếp giáp P - N
* Dạng câu hỏi lựa chọn đa phương án
* Yêu cầu: Lựa chọn một phương án trả lời đúng hoặc đúng nhất trong
các phương án đã chọn.
* Ưu điểm
- Có thể sử dụng để kiểm tra các kỹ năng kiến thức bậc cao.
- Hạn chế được khả năng đoán mò của học sinh.
- Đánh giá chính xác kiến thức, kỹ năng của học sinh.
* Nhược điểm
- Khó biên soạn các câu dùng để đánh giá các kỹ năng đánh giá nhận thức
bậc cao hơn.
- Vì có nhiều phương án được chọn nên khó xây dựng hệ thống câu hỏi có
chất lượng cao.
- Tồn tại tỷ lệ đoán mò phụ thuộc vào tỷ lệ phương án được cho.
* Những điểm cần lưu ý:
- Không nên đưa nhiều ý khác nhau trong cùng 1 phương án
- Cần cẩn thận khi đưa vào phương án “tất cả câu trên đều đúng” hoặc “tất
cả câu trên đều sai”.
* Ví dụ: Mạch nào không phải là mạch điện tử điều khiển
GV: Đinh Sỹ Hùng Trường THPT Hậu lộc 2
22
SKKN 2012-2013“Đổi mới cách KT- ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT”
A. Mạch tạo xung C. Báo hiệu và bảo vệ điện áp
B. Tín hiệu giao thông D. ĐK bảng điện tử
* Dạng câu hỏi gốc
Là dạng câu hỏi tổng quát, có thể lắp ghép với các nội dung cụ thể nhằm

đưa ra các câu hỏi trắc nghiệm hoàn chỉnh.
Một số dạng câu hỏi gốc: chi làm 2 nhóm
+ Nhóm 1: Hiểu biết khái niệm
- Chọn định nghĩa đúng cho khái niệm…
- …………… có nghĩa là
- Khái niệm đồng nghĩa với………là
- Sự khác nhau giữa ……. và…… là
- Sự giống nhau giữa…… và …….là
+ Nhóm 2: hiểu biết nguyên lý, định luật
- Nguyên lý chi phối hiện tượng……. là
- Nguyên nhân của hiện tượng … là
Qua việc tham khảo ý kiến của một số cán bộ lãnh đạo, giáo viên các
trường phổ thông và học sinh cũng đồng tình cho rằng kiểm tra đánh giá dưới
hình thức trắc nghiệm khách quan có nhiều ưu điểm hơn tự luận. Có thể tóm tắt
các ý kiến đó như sau:
- Tiết kiệm hơn và tốn ít thời gian làm bài của học sinh cũng như thời gian
chấm điểm của giáo viên.
- Năng lực của thí sinh được đánh giá chính xác, khách quan, công bằng
hơn do đề thi có nhiều câu hỏi, có thể rải khắp nội dung môn học, cho phép
kiểm tra một cách có hệ thống và toàn diện kiến thức và kỹ năng ở nhiều cấp độ
và đặc biệt là tránh được việc học tủ, dạy tủ. Khi tiến hành thi trắc nghiệm giáo
viên sẽ kiểm tra học sinh được hiều vấn đề, bên cạnh đó lại giảm áp lực cho
công việc chấm bài thi.
GV: Đinh Sỹ Hùng Trường THPT Hậu lộc 2
23
SKKN 2012-2013“Đổi mới cách KT- ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT”
II. THỰC TRẠNG KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ MÔN CÔNG
NGHỆ Ở TRƯỜNG THPT HẬU LỘC 2 .
Qua thực tế giảng dạy và tìm hiểu thêm ở đồng nghiệp về KT - ĐG tại
trường THPT Hậu Lộc 2 cho thấy cách KT - ĐG kết qủa học tập của học sinh

trước đây thường do giáo viên thực hiện. Cách đặt câu hỏi, ra đề kiểm tra
thường chú ý đến khả năng ghi nhớ và tái hiện kiến thức của học sinh.
Cách KT - ĐG bộc lộ những hạn chế nhất định như: các bài kiểm tra không
thể hiện được tất cả nội dung kiến thức mà các học sinh được học ở trường, bài
kiểm tra chỉ kiểm tra được những kiến thức mà học sinh ghi nhớ từ sách giáo
khoa, không kiểm tra được những kiến thức quan trọng khác. Kết quả KT - ĐG
chưa chính xác với kết quả học tập của học sinh trong cả quá trình. Việc cho
điểm không thống nhất giữa giáo viên trong cùng một tổ chuyên môn, một
trường và giữa các trường còn khá phổ biến
Những bất cập với hệ thống KT - ĐG ở nhà trường phổ thông hiện nay:
Hệ thống KT - ĐG học sinh trong nhà trường bao gồm việc xác định chuẩn mực
KT - ĐG, người KT - ĐG và phương thức KT - ĐG
* Chuẩn KT - ĐG học sinh
Mục tiêu đào tạo nhà trường đề ra là giáo dục toàn diện thể hiện qua các tiêu
chí Đức, Trí, Thể, Mỹ, Lao động. Học sinh trong nhà trường phổ thông được KT
- ĐG “theo những chuẩn” sau:
- Về Đức, học sinh được KT - ĐG thông qua giáo viên chủ nhiệm có tham
khảo giáo viên bộ môn và tổ chức Đoàn định kỳ hàng năm và học kỳ.
- Về Trí, học sinh được giáo viên bộ môn KT - ĐG qua điểm số đạt được
ở các môn học. Đây là nội dung KT - ĐG được nhà trường, gia đình và xã hội
quan tâm nhiều nhất với hệ thống KT - ĐG quy mô nhất trong các tiêu chí.
- Về Thể chất, học sinh chỉ mới được giáo viên thể dục KT - ĐG qua giờ
học bộ môn, chưa được KT - ĐG thể chất học sinh một cách toàn diện.
- Về Mỹ học, học sinh hầu như chưa được KT-ĐG, hay nói đúng hơn là
chỉ được KT-ĐG qua hai môn Nhạc, Họa (nếu có giáo viên giảng dạy).
GV: Đinh Sỹ Hùng Trường THPT Hậu lộc 2
24
SKKN 2012-2013“Đổi mới cách KT- ĐG kết quả học tập môn Công nghệ bậc THPT”
- Về Lao động hướng nghiệp, đây là nội dung quan trọng trong quá trình
đào tạo của nhà trường mới. Việc KT - ĐG học sinh ở lãnh vực này, chỉ được

giáo viên phụ trách ghi nhận thông qua môn Nghề phổ thông.
Với chuẩn KT - ĐG vừa nêu, ta thấy phần nào sự thiếu hoàn chỉnh của hệ
thống tiêu chí đánh giá quá trình đào tạo so với mục tiêu giáo dục toàn
diện của nhà trường.
Đánh giá kết quả quá trình dạy và học chủ yếu bằng các môn thi, bằng điểm
số. Những khía cạnh khác như: nhân văn, thẩm mỹ và thể lực trong nhà trường
chưa có những tiêu chí KT - ĐG chuẩn mực (chủ yếu là KT - ĐG định tính).
* Người KT - ĐG học sinh: Trong nhà trường hiện nay Người KT - ĐG
học sinh là giáo viên giáo viên bộ môn
Trong công tác đánh giá học sinh, hầu hết giáo viên đã làm việc
hết sức trách nhiệm, tương đối đảm bảo các yêu cầu đề ra của nhà trường. Tuy
vậy, giáo viên
vẫn còn những bất cập rất cơ bản như sau:
- Nhận thức về hoạt động KT-ĐG còn khá đơn giản cả về mục tiêu yêu
cầu cũng như về quy trình, điều kiện và kỹ năng KT - ĐG
- Kỹ năng KT - ĐG của giáo viên thường dựa vào thói quen kinh nghiệm,
dễ bị cảm tính chủ quan chi phối qua các mặt đạo đức, thể dục, âm nhạc, mỹ
thuật, lao động …
* Phương thức KT-ĐG học sinh: Trong nhà trường hiện nay Phương
thức KT-ĐG học sinh được thiết lập qua hai hoạt động cơ bản là KT - ĐG
thường xuyên hàng ngày, ghi nhận ở hệ thống sổ bộ như sổ điểm, sổ điểm danh,
sổ chủ nhiệm và KT - ĐG định kỳ qua bài kiểm tra học kỳ, cuối năm.
Đánh giá thường xuyên thường thực hiện qua kiểm tra bài cũ bằng cách
phát vấn hay kiểm tra viết 15 phút, 1 tiết. Ở đây, có giáo viên sử dụng các hình
thức thảo luận, thuyết trình hoặc giao việc, tổ chức thực hành cho học sinh, có
điểm thưởng cho những học sinh tham gia thực hiện tốt trong các giờ thực hành.
Định kỳ, nhà trường phổ thông hiện nay phổ biến vẫn còn áp dụng hình
thức đánh
GV: Đinh Sỹ Hùng Trường THPT Hậu lộc 2
25

×