Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

quản trị tài chính Tại sao nhà quản trị của công ty lại quyết định mua thương hiệu LILAMA để thực hiện hoạt động kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.41 KB, 28 trang )

ĐỀ TÀI 3: KHỞI LẬP DOANH NGHIỆP
I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT:
1. Mua bán, chuyển nhượng thương hiệu:
Mua bán, nhượng quyền thương hiệu hiện nay được xem là xu hướng phát triển
của kinh tế thị trường, và thực sự là cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp trong
việc xây dựng lợi thế cạnh tranh và phát triển mở rộng thương hiệu của mình.
Việc mua bán công ty, nhượng quyền thương hiệu là hoạt động thương mại theo
đó hai bên có những thoả thuận cam kết rõ ràng trong việc sở hữu hay sử dụng
thương hiệu để tiến hành việc mua bán hàng hoá / cung ứng dịch vụ theo những
điều kiện do hai bên đặt ra. Thương hiệu hiện nay đã thể hiện được vai trò quan
trọng của mình và được xem là một trong những tài sản giá trị nhất của công ty, vì
vậy hoạt động mua bán nhượng quyền thương hiệu sẽ là xu hướng phát triển mới
của kinh tế thị trường. Trên thế giới, mua bán nhượng quyền thương hiệu là một
hoạt động rất phổ biến và được xem là một biện pháp hiệu quả nhất trong việc rút
ngắn thời gian xây dựng thương hiệu và tận dụng sức mạnh của thương hiệu trong
hoạt động kinh doanh và thu lợi nhuận. Tuy nhiên tại Việt Nam, mặc dù mua bán
nhượng quyền thương hiệu đã được nhiều người biết đến nhưng vẫn chưa thực sự
được xem xét như một cơ hội phát triển kinh doanh. Hiện tại Việt Nam chỉ mới có
số ít trường hợp mua bán nhượng quyền thương hiệu thành công như Kinh Đô
mua lại kem Wall, chuỗi cửa hàng phở 24… Những doanh nghiệp còn lại vẫn
chưa thực sự quan tâm cũng như tìm hiểu kĩ lưỡng về những cơ hội có được thông
qua hoạt động này.
Mua lại "thương hiệu" là đường tắt để đi vào thị trường nhanh nhất.
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đang diễn ra
nhanh chóng, mạnh mẽ. Nếu doanh nghiệp không kịp thời nắm bắt công nghệ hiện
đại để đổi mới thiết bị, máy móc, nâng cao năng suất lao động, tăng lợi nhuận,
tăng tính cạnh tranh trên thị trường.
 Thuận lợi:
 Đây là con đường nhanh, rẻ và ít rủi ro hơn so với việc tự mở rộng chính cơ
cấu công ty. Mục tiêu đòi hỏi của các doanh nghiệp là không chỉ phát triển
thương hiệu mà phải là phát triển nhanh và có hệ thống. Một trong những lộ


trình phát triển đáp ứng điều đó là mô hình mua bán nhượng quyền thương
hiệu, giúp các doanh nghiệp rút ngắn thời gian xây dựng và mở rộng
thương hiệu cho mình.
 Việc mua lại thương hiệu sẽ mang đến những cơ sở sản xuất mới nhanh
hơn. Hơn nữa, trong điều kiện kinh tế thị trường luôn luôn biến động, yếu
tố thời gian là vô cùng quan trọng. Nhà quản trị khó có thể xác định được
chính xác mức cầu của thị trường đối với một loại sản phẩm sẽ tồn tại trong
bao lâu. Vì vây, doanh nghiệp càng sớm tăng cường thêm được cơ sở và
nhanh chóng đi vào sản xuất, kinh doanh bao nhiêu thì càng có điều kiện
tận dụng những thuận lợi do thị trường mang lại bấy nhiêu. Các cơ sở sản
xuất kinh doanh cần thiết có thể được hình thành với giá rẻ hoặc hợp lý
bằng cách mua quyền sở hữu của công ty đã có thương hiệu. Chứng khoán
của công ty này vì nhiều lý do có thể bán thấp hơn so với giá trị thực của
nó. Mặt khác, khi mua lại thương hiệu, doanh nghiệp tận dụng được những
lợi ích vốn có của công ty có thương hiệu. Việc mua lại thương hiệu là một
phương pháp khá hiệu quả để giúp đảm bảo cho hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp được ổn định.
 Bất lợi :
 Những công ty chọn chiến thuật mua lại làm phương tiện để đạt mục tiêu
tăng trưởng đang gặp nhiều thách thức. Nghiên cứu cho thấy việc nhất định
phải mua lại một công ty khác là dấu hiệu của sự yếu kém và ngày nay đại
đa số các vụ mua lại đều gặp thất bại.
 Các doanh nghiệp sẽ không lường trước được những khó khăn và phức tạp
khi cùng quản lý quá nhiều nhãn hàng một lúc. Thông thường các công ty
thường bỏ qua các khách hàng thân quen trong khi lại quá quan tâm đến
việc cắt giảm chi phí và kết hợp hoạt động theo guồng máy đã định sẵn. Do
mua thương hiệu của doanh nghiệp khác nên doanh nghiệp mới thành lập
sẽ phải phục vụ rất nhiều đối tượng khách hàng khác nhau nên việc phục vụ
khách hàng sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn và mức độ thoả mãn của khách
hàng đối với công ty bị giảm sút.

2. Các hình thức tài trợ vốn và vai trò:
• Vốn kinh doanh:
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được hiểu là số tiền ứng trước về toàn bộ
tài sản hữu hình và tài sản vô hình phục vụ cho sản xuất - kinh doanh của doanh
nghiệp nhằm mục đích kiếm lời.
• Phân loại:
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có vốn: vốn đầu tư ban
đầu và vốn bổ sung để mở rộng sản xuất kinh doanh. Đối với một doanh nghiệp,
vốn đầu tư được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Có thể có các nguồn vốn
do Ngân sách Nhà nước cấp, nguồn vốn do chủ kinh doanh bỏ ra, nguồn vốn tích
lũy được trong quá trình kinh doanh, nguồn vốn do liên doanh, nguồn vốn từ phát
hành cổ phiếu và nguồn vốn huy động khác.
- Nguồn vốn từ Ngân sách nhà nước: là nguồn vốn do Ngân sách nhà nước
cấp cho các doanh nghiệp nhà nước lúc mới hình thành doanh nghiệp.
Nguồn vốn Ngân sách nhà nước cấp phát cho các doanh nghiệp nhà nước
sẽ có xu hướng giảm đáng kể cả về tỷ trọng và số lượng. Các doanh nghiệp
nhà nước phải chủ dộng bổ sung vốn bằng các nguồn tài trợ khác.
- Nguồn vốn tự có là nguồn vốn do chủ đầu tư bỏ ra. Nguồn vốn gốc của vốn
tự có là tiền để dành, tích lũy được từ lợi nhuận hàng năm của doanh
nghiệp hoặc huy động vốn cổ phần do phát hành cổ phiếu. Cổ phiếu là giấy
chứng nhận quyền sở hữu của số vốn đã góp vào công ty cổ phần và nhờ đó
được hưởng những quyền lợi của doanh nghiệp. Huy động vốn bằng cách
phát hành cổ phiếu là một phương thức huy động có hiệu quả các nguồn tài
chính trong xã hội để có một số vốn lớn, ổn định cho đầu tư kinh doanh.
- Nguồn vốn liên doanh: là những nguồn đóng góp theo tỷ lệ giữa các chủ
đầu tư để cùng kinh doanh và cùng hưởng lợi nhuận. Việc góp vốn liên
doanh có thể được hình thành từ nhiều nguồn tùy theo từng loại hình doanh
nghiệp, có thể là liên doanh giữa nguồn vốn ngân sách với các nguồn vốn
tự có của tư nhân, liên doanh giữa vốn ngân sách của quốc gia này với quốc
gia khác hoặc liên doanh giữa tư nhân với nhau … Hình thức góp vốn liên

doanh thích hợp với các công ty có quy mô nhỏ, tổ chức quản lý sản xuất
và quản lý vốn, chia lãi giản đơn.
- Nguồn vốn tín dụng: là khoản vốn mà doanh nghiệp có thể vay dài hạn của
các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm hoặc các tổ
chức tài chính trung gian khác, huy động của cán bộ công nhân viên làm
việc trong doanh nghiệp hoặc vay nước ngoài theo cơ chế tự vay tự trả,
cũng có thể bằng hình thức doanh nghiệp phát hành trái phiếu để huy động
vốn cho đầu tư kinh doanh. Trái phiếu là phiếu nhận nợ do doanh nghiệp
phát hành khi vay vốn của người khác để kinh doanh, cam kết trả lợi tức và
hoàn trả vốn vay theo thời hạn nhất định. Theo định kỳ, doanh nghiệp phải
trả cho người có trái phiếu một khoản lợi tức cố định và đến thời hạn thanh
toán doanh nghiệp phải thanh toán số tiền vay.
Đối với doanh nghiệp, trái phiếu là phương tiện tài chính để vay vốn trên thị
trường. Tuy nhiên vay được hay không còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố của doanh
nghiệp. Các chủ nợ cho doanh nghiệp vay thường quan tâm đến các vấn đề như:
tình hình tài chính của bản thân doanh nghiệp có lành mạnh không, mà trước tiên
là khả năng thanh toán, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, cho vay có bị mất
vốn hay không. Ở đây có tác động của yếu tố lạm phát làm giảm sức mua của vốn
cho vay, có cả rủi ro của doanh nghiệp, lãi suất thực tế có được bao nhiêu… Còn
đối với doanh nghiệp khi vay cần phải cân nhắc xem xét kỹ:
Nếu hiệu quả thực tế của khoản vay không đủ để trả giá cả khoản vay thì
không nên vay.
Nếu hiệu quả thực tế của khoản vay tương đương với giá cả khoản vay thì
cân nhắc kỹ, nhất là phải tính tới các rủi ro có thể xảy ra.
Nếu hiệu quả thực tế các khoản vay cao hơn giá cả các khoản vay thì nên
vay, vì vay tốt hơn là phát hành cổ phiếu (bán bớt quyền sở hữu tài sản)
• Vai trò
Vai trò của vốn đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
hiện nay là vô cùng cần thiết .
Vốn kinh doanh của các DN có thể thuộc sở hữu nhà nước, cá nhân, tập thể.

Vốn trong các DNNN hình thành từ nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp thuộc
sở hữu nhà nước. Nhưng dù ở hình thức sở hữu nào thì vai trò của vốn cũng không
thay đổi. Với mọi DN dù ở hình thức nào thì muốn hoạt động được đều phải có
lượng vốn nhất đinh. Đây là điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất cho sự ra đời tồn
tại và phát triển của DN. Tuỳ theo loại hình kinh doanh mà luật qui định DN phải
có số vốn pháp định nhất định. Tuỳ theo nguồn vốn kinh doanh cũng như phương
thức huy động vốn mà DN có các tên gọi khác nhau như:DNTN, DNNN, công ty
cổ phần, công ty TNHH…Do đó, DN có vốn mới có điều kiện để trang bị các thiết
bị, cơ sở vật chất cần thiết cho hoạt động sxkd như văn phòng, phương tiện hoạt
động, … cùng với việc ứng dụng khoa học vào hoạt động sxkd, vốn cũng quyết
định đến khả năng đổi mới thiết bị, công nghệ, phương pháp quản lý…của DN
trong suốt quá trình hoạt động. Số lượng vốn của DN lớn hay nhỏ là một trong
những tiêu thức quan trọng để xếp doanh nghiệp vào qui mô lớn, hay nhỏ và nó
cũng là điều kiện để sử dụng các tiềm năng hiện có cũng như các yếu tố đầu vào
DN.
Nghiên cứu nội dung, tính chất của các nguồn vốn giúp cho doanh nghiệp
có thể lựa chọn nguồn vốn, khai thác huy động vốn phù hợp với nhu cầu và khả
năng cho phép của mỗi doanh nghiệp. Mỗi một loại hình doanh nghiệp cũng chỉ có
thể khai thác huy động vốn trên một số nguồn nhất định. Chẳng hạn, đối với doanh
nghiệp nhà nước được phép huy động nguồn vốn từ Ngân sách nhà nước, còn các
loại hình doanh nghiệp khác thì không có khả năng. Đối với công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân, ngoài nguồn vốn tự có của
mình, thì có thể vay của các tổ chức tài chính trung gian để bổ sung vốn sản xuất
kinh doanh, nhưng không được phát hành chứng khoán. Trong khi đó, đối với các
công ty cổ phần, để huy động vốn cho sản xuất kinh doanh thì thông qua việc phát
hành chứng khoán lại là chủ yếu. Việc nghiên cứu các nguồn vốn không chỉ giúp
cho các doanh nghiệp lựa chọn nguồn vốn và khai thác các nguồn vốn đó phục vụ
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, mà còn tạo cho doanh nghiệp có
biện pháp huy động vốn nhanh, đáp ứng kịp thời cho nhu cầu của doanh nghiệp
với chi phí (giá cả) thấp nhất, đồng thời có phương hướng sử dụng hợp lý số vốn

đã huy động được từ các nguồn vốn khác nhau cho các nhu cầu khác nhau của
doanh nghiệp. Chẳng hạn, khi cần huy động vốn bổ sung cho quá trình kinh doanh
của mình thì doanh nghiệp có thể xem xét, lựa chọn hình thức nào có lợi nhất để
phát hành cổ phiếu, phát hành trái phiếu, đi vay vốn của các tổ chức tài chính
trung gian hay gọi vốn liên doanh. Dù huy động dưới hình thức nào cũng phải trả
một khoản chi phí và đảm bảo những điều kiện nhất định, đòi hỏi doanh nghiệp
phải tính toán hiệu quả, cân nhất lãi suất, thời hạn và điều kiện.
Đối với doanh nghiệp cũng cần phải hiểu rằng khi có nhu cầu đầu tư vốn
dài hạn, trước hết doanh nghiệp phải huy động tối đa nguồn vốn từ bên trong để
thực hiện kế hoạch đầu tư của mình. Chỉ khi nguồn vốn từ bên trong không đủ đáp
ứng thì doanh nghiệp mới bổ sung nguồn vốn từ bên ngoài. Việc huy động nguồn
vốn bên trong doanh nghiệp là một vấn đề hết sức quan trọng trong sự phát triển
của doanh nghiệp. Nguồn tài trợ từ bên ngoài là cần thiết nhưng không nên mong
đợi quá mức vào nguồn vốn đó.
Nhận biết được vai trò của vốn trong kinh doanh, nhưng để có được lượng
vốn cần thiết thì doanh nghiệp phải có các biện pháp tạo lập hữu hiệu và phù hợp,
đồng thời phải có chính sách sử dụng hiệu quả và hợp lý. Tuy nhiên sử dụng hình
thức tạo lập nào, thời hạn dài hay ngắn, chi phí huy động cao hay thấp… bắt buộc
doanh nghiệp phải luôn có sự cân nhắc, vừa đảm bảo hoạt động sản xuất kinh
doanh, vừa tối thiểu hoá chi phí, hạn chế thấp nhất rủi ro nhằm thực hiện được các
mục tiêu của mình. Mặt khác mỗi DN đều có các đặc điểm riêng, có những lợi thế
riêng và những hạn chế nhất định. Chính vì vậy mỗi DN phải tự đánh giá phân tích
những ưu và nhược điểm của mình để tìm ra những phương thức tạo lập vốn phù
hợp nhất hiệu quả nhất phát huy khả năng tiểm ẩn và hạn chế những nhược điểm
của DN mình. Đây chình là chìa khóa thành công của các doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường với nhiều cạnh tranh hiện nay trong việc sử dụng vốn để nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tối đa hóa lợi nhuận.
3. Các phương pháp tính khấu hao
Việc lựa chọn phương pháp tính khấu hao thích hợp cho doanh nghiệp có ý nghĩa
quan trọng. Trước hết nó góp phần bảo toàn vốn cố định, tránh hao mòn vô hình

một cách hữu hiệu và góp phần xác định giá thành chính xác, tránh được hiện
tượng lãi giả lỗ thật đang còn tồn tại ở các doanh nghiệp.
Có 4 phương pháp khấu hao cơ bản, đó là:
• Phương pháp khấu hao đường thẳng.
Phương pháp khấu hao đường thẳng (còn gọi là phương pháp khấu hao
tuyến tính cố định, khấu hao tuyến tính cố định) là phương pháp khấu hao mà tỷ lệ
khấu hao và mức khấu hao hằng năm được xác định theo một mức cố định trong
suốt thời gian sử dụng TSCĐ. Công thức xác định mức khấu hao hằng năm như
sau:
Trong đó : MG: nguyên giá của TSCĐ
N: thời gian sử dụng của TSCĐ (tính theo năm)
M: mức khấu hao trung bình hằng năm.
Hoặc
Đặt T=1/N , T được gọi là tỷ lệ khấu hao bình quân hằng năm, ta có:
Nếu doanh nghiệp thực hiện việc trích khấu hao theo quý, hoặc theo tháng thì lấu
mức khấu hao trung bình năm chia cho số quý, hoặc số tháng trong năm.
Trường hợp thời gian sử dụng, hay nguyên giá TSCĐ thay đổi, doanh nghiệp phải
xác định lại mức trích khấu hao trung bình của TSCĐ bằng cách lấy giá trị còn lại
trên sổ kế toán chia cho thời gian sử dụng xác định lại, hoặc thời gian sử dụng
còng lại (được xác định là chênh lệch giữa thời gian sử dụng đã đăng ký trừ đi thời
gian đã sử dụng) của TSCĐ.
Ở Việt Nam, theo thông tư 45/2013/QĐ-BTC, phương pháp khấu hao đường
thẳng có thể được áp dụng đối với mọi TSCĐ tham gia vào hoạt động kinh doanh.
Riêng đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả cao, được tính
khấu hao nhanh nhưng tối đa không quá 2 lần mức khấu hao xác định theo phương
pháp đường thẳng để nhanh chóng đổi mới công nghệ. TSCĐ tham gia vào hoạt
động kinh doanh được trích khấu hao nhanh phải là máy móc, thiết bị, dụng cụ
làm việc đo lường, thí nghiệm, thiết bị và phương tiện vận tải, dụng cụ quản lý,
súc vật, vườn cây lâu năm. Khi thực hiện trích khấu hao nhanh, doanh nghiệp phải
đảm bảo kinh doanh có lãi.

• Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh.
Khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh là phương pháp khấu hao
trong đó mức khấu hao trong những năm đầu của thời gian sử dụng TSCĐ được
xác định bằng cách lấy giá trị còn lại của TSCĐ nhân với một tỷ lệ khấu hao điều
chỉnh. Còn trong những năm cuối của thời gian sử dụng TSCĐ thì mức khấu hao
được xác định theo phương pháp đường thẳng dự trên giá trị còn lại và thời gian
sử dụng còn lại của TSCĐ. Tỷ lệ khấu hao điều chỉnh và mức khấu hao hằng năm
được xác định theo công thức sau:
Trong đó:
M(i): mức khấu hao năm thứ i
G(i): giá trị còn lại của TSCĐ ở đầu năm thứ i
i: số nguyên và nằm trong đoạn [từ 1 đến N]
: tỷ lệ khấu hao điều chỉnh
T: là tỷ lệ khấu hao xác định theo phương pháp đường thẳng (T=1/H)
H: hệ số điều chỉnh, được xác định như sau:
H=1,5 nếu năm
H=2,0 nếu
H=2,5 nếu
Riêng những năm cuối, khi mức khấu hao năm xác định theo phương pháp
số dư giảm dần nối trên bằng hoặc thấp hơn giá trị trung bình ( tính bằng cách lấy
giá trị còn lại chia cho số năm sử dụng còn lại của TSCĐ), thì kể từ năm đó mức
khấu hao được tính bằng giá trị trung bình kể trên.
Trong phương pháp khấu hao này , nếu doanh nghiệp muốn thực hện việc
trích khấu hao hàng quý, hoặc hàng tháng thì lấy mức khấu hao năm chia cho số
quý, hoặc số tháng trong năm.
Ở Việt Nam, theo thông tư 45/2013/QĐ-BTC, phương pháp khấu hao theo
số dư giảm dần có điều chỉnh chỉ được áp dụng đối với những doanh nghiệp thuộc
lĩnh vực có công nghệ đòi hỏi phải thay đổi, phát triển nhanh. TSCĐ tham gia vào
hoạt động kinh doanh được trích khấu hao theo phương pháp số dư giảm dần có
điều chỉnh phải thỏa mãn đồng thời các điều kiện sau:

• Là các TSCĐ đầu tư mới chưa qua sử dụng
• Là các máy móc, thiết bị, dụng cụ làm việc đo lường, thí nghiệm.
• Phương pháp khấu hao theo tỷ lệ khấu hao giảm dần.
Phương pháp khấu hao theo tỷ lệ khấu hao giảm dần (còn gọi là phương
pháp khấu hao lũy thoái) là phương pháp khấu hao có mức khấu hao giảm dần qua
các năm được xác định bằng cách lấy nguyên giá TSCĐ nhân với tỷ lệ khấu hao
giảm dần qua các năm. Tỷ lệ khấu hao và mức khấu hao hàng năm được xác định
như sau:
Trong đó:
M(i): mức khấu hao của TSCĐ năm thứ i
T(i): tỷ lệ khấu hao năm thứ i
NG: nguyên giá TSCĐ
N: thời gian sử dụng TSCĐ (năm)
i: số thứ tự năm sử dụng
, i là số nguyên
• Phương pháp khấu hao theo sản lượng.
Đây là phương pháp khấu hao theo đó tỷ lệ khấu hao và mức khấu hao
được xác định trên cơ sở số lượng, khối lượng sản phẩm (gọi tắt là sản lượng) mà
TSCĐ thực tế sản xuất được trog kỳ và sản lượng biểu hiện thời gian sử dụng hữu
ích (sản lượng theo thiết kế) của TSCĐ. Công thức tính như sau:
Trong đó:
: mức trích khấu hao TSCĐ trong kỳ i
NG: nguyên giá TSCĐ
: sản lượng thực tế ,mà TSCĐ sản xuất được trong kỳ i
: tổng sản lượng theo công suất thiết kế của TSCĐ
Ở đây biểu hiện thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ, còn phản ánh
mức độ thực tế khai thác, sử dụng TSCĐ.
Trường hợp công suất thiết kế, hoặc nguyên giá của TSCĐ thay đổi, doanh
nghiệp phải xác định lại mức trích khấu hao của TSCĐ theo công suất mới hoặc
nguyên giá mới.

Ở Việt Nam, theo thông tư 45/2013/QĐ-BTC, phương pháp khấu hao theo
sản phẩm chỉ được sử dụng đối với những TSCĐ thỏa mãn các điều kiện:
+ TSCĐ là các loại máy móc, thiết bị tham gia vào hoạt động kinh doanh
và trực tiếp liên quan đến việc sản xuất sản phẩm.
+ Xác định được tổng số lượng, khối lượng sẳn phẩm sản xuất theo công
suất thiết kế của TSCĐ.
+ Công suất sử dụng thực tế bình quân tháng trong năm tài chính không
thấp hơn 50% công suất thiết kế.
4. Quản trị hàng tồn kho
Hàng tồn kho là tất cả những nguồn lực dự trữ nhằm đáp ứng cho nhu cầu hiện tại
hoặc tương lai. Hàng tồn kho không chỉ có tồn kho thành phẩm, mà còn tồn kho
sản phẩm dở dang, tồn kho nguyên vật liệu/ linh kiện và tồn kho công cụ dụng cụ
dùng trong sản xuất
Trong một doanh nghiệp, hàng tồn kho bao giờ cũng là một tài sản có giá trị lớn
nhất trên tổng tài sản của doanh nghiệp đó. Thông thường giá trị hàng tồn kho
chiếm đến 40% - 50% tổng giá trị tài sản của một doanh nghiệp.
• Sự cần thiết phải quản lý hàng tồn kho
Quản lý và sử dụng hợp lý các tài sản lưu động có ảnh hưởng rất quan trọng đến
việc hoàn thành những nhiệm vụ, mục tiêu chung đặt ra cho doanh nghiệp. Việc
quản lý tài sản lưu động thiếu hiệu quả cũng là một trong những nguyên nhân
khiến cho các công ty gặp khó khăn trong hoạt động, thậm chí dẫn đến phá sản
Ba vấn đề cơ bản về quản lý tài chính doanh nghiệp bao gồm: dự toán vốn đầu tư
dài hạn, cơ cấu vốn và quản lý tài sản lưu động.Trong đó, quản lý tài sản lưu động
liên quan đến hoạt động tài chính hàng ngày cũng như các quyết định tài chính
ngắn hạn của doanh nghiệp. Vì vậy, công tác quản lý tài sản lưu động đóng một
vai trò khá quan trong công tác quản lý tài sản nói chung.
Quản lý hàng tồn kho- một bộ phận của tài sản lưu quản động- có ý nghĩa kinh tế
quan trọng do hàng tồn kho là một trong những tài sản có giá trị lớn trong doanh
nghiệp.Bản thân vấn đề quản lý hàng tồn kho có hai mặt trái ngược nhau là: để
đảm bảo sản xuất liên tục, tránh đứt quãng trên dây truyền sản xuất,đảm bảo sản

xuất đáp ứng nhanh chóng nhu cầu của người tiêu dùng trong bất cứ tình huống
nào,doanh nghiệp có ý định tăng hàng tồn kho. Ngược lại, hàng tồn kho tăng lên,
doanh nghiệp lại phải tốn thêm những chi phí khác có liên quan đến dự trữ
chung.Vì vậy,bản thân doanh nghiệp phải tìm cách xác định mức độ cân bằng giữa
mức độ đầu tư cho hàng tồn kho và lợi ích do thỏa mãn nhu cầu của sản xuất và
nhu cầu người tiêu dùng với chi phí tối thiểu nhất.
Đối với một doanh nghiệp sản xuất chế tạo, yêu cầu hàng tồn kho càng gắt gao.Có
thể minh họa điều này bằng một vài con số: Bình quân mức tồn kho trong hệ
thống sản xuất chế tạo thường đạt vào khoảng 1,6 doanh số bán/ tháng hay khoảng
13% doanh số năm, công ty bán lẻ khoảng 1,2 doanh số bán/ tháng hay 12% doanh
số năm, công ty bán buôn khoảng 1,2 doanh số bán/ tháng hay 10% doanh số
năm.Quản lý hàng tồn kho tốt cũng góp phần hoàn thành kế hoạch sản xuất- kinh
doanh của doanh nghiệp trước những yêu cầu đặt ra ngày càng cao của thị trường
như:
• Rút ngắn thời gian cần thiết để hệ thống sản xuất có thể đáp ứng nhu cầu;
• Phân bổ chi phí cố định cho các đơn hàng hay lô sản xuất khối lượng lớn;
• Đảm bảo ổn định sản xuất và số lượng công nhân khi nhu cầu biến đổi
• Bảo vệ doanh nghiệp trước các sự kiện làm đình trệ sản xuất như đình
công, thiếu hụt trong khâu sản xuất,
• Bảo đảm sự mềm dẻo trong hệ thống sản xuất
• Các phương pháp quản lý hàng tồn kho
Khi đưa ra phương pháp quản lý hàng tồn khi , ta cần giải quyết 2 vấn đề quan
trọng đó là:
• Lượng hàng cho mỗi đơn hàng là
bao nhiêu thì chi phí sẽ thấp nhất
• Khi nào tiến hành đặt hàng
Quản lý dự trữ theo phương pháp cổ điển hay mô hình dự trữ hiệu quả nhất
EOQ
Mô hình kiểm soát dự trữ cơ bản EOQ được đề xuất từ những năm 1915, cho đến
nay nó vẫn được hầu hết các doanh nghiệp sử dụng. Kỹ thuật kiểm soát dự trữ

theo mô hình này rất dễ áp dụng, nhưng khi sử dụng nó, người ta đã phải dựa vào
những giả thiết quan trọng là:
Nhu cầu phải biết trước và nhu cầu không đổi
Phải biết trước thời gian kể từ khi đặt hàng cho tới khi nhận được hàng và thời
gian đó không đổi
Lượng hàng của mỗi đơn hàng được thực hiện trong một chuyến hàng và được
thực hiện ở một thời điểm đã được định trước;
Chỉ có duy nhất 2 loại chi phí là chi phí tồn kho dự trữ và chi phí đặt hàng;
Sự thiếu hụt trong kho hoàn toàn không xảy ra nếu như đơn đặt hàng được thực
hiện đúng thời gian.
Q*
Q*/2 Dự trữ trung bình
O A B C Thời gian
Trong đó:
Q* Sản lượng của một đơn hàng
O Dự trữ tối thiểu
Q*/2 Lượng dự trữ trung bình
OA=OB=BC là khoảng cách kể từ khi nhận hàng đến khi sử dụng hết hàng
của một đợt đặt hàng dự trữ
Với mô hình này, lượng dự trữ sẽ giảm theo một tỷ lệ không thay đổi vì nhu
cầu không thay đổi theo thời gian.
Xác định các thông số cơ bản của mô hình EOQ
Lượng đặt hàng tối ưu
Mục tiêu của các mô hình dự trữ đều nhằm tối thiểu hóa tổng chi phí dự
trữ.Khi nghiên cứu về chi phí hàng tồn kho ta có phương trình:
TIC = C
1
x Q/2 + C
2
x D/Q min(1)

Xét phương trình (1) ,ta lấy vi phân TIC theo Q. Từ đó tính được lượng hàng
cung ứng mỗi lần tối ưu Q* như sau:
Q* = √ 2DC
2
/C
1
Như vậy, lượng dự trữ tối ưu hay lượng đơn hàng tối ưu Q* sẽ là một luongj
xác định sao cho tại đó tổng chi phí TIC là nhỏ nhất. Q* tối ưu tại điểm có chi
phí đặt hàng và chi phí tồn dự trữ bằng nhau.
Khoảng cách giữa hai lần đặt hàng
Ký hiệu T là khoảng cách giữa 2 lần đặt hàng
T= Số ngày làm việc trong năm / Số lượng đơn đặt hàng mong muốn
Xác định thời điểm đặt hàng
Trong mô hình dự trữ EOQ ta giải thích rằng, sự tiếp nhận một đơn đặt hàng là
thực hiện trong vòng một chuyến hàng.Nói cách khác, doanh nghiệp sẽ chờ
đến khi hàng trong kho về đến đơn vị thì mới tiến hành đặt hàng tiếp và sẽ
không nhận ngay tức khắc.Tuy nhiên , trong thực tế thời gian giữa những lúc
đặt hàng và nhận hàng có thể ngắn trong vòng vài giờ hoặc cũng rất dài đến
hàng tháng.Đồng thời không có doang nghiệp nào đợi đến khi nguyên liệu hay
hàng tồn kho trong kho của mình hết mới đặt hàng tiếp. Cũng không có doanh
nghiệp nào đặt hàng từ quá sớm vì như vậy cũng làm tăng chi phí dự trữ hàng
hóa.
Do đó để quyết định khi nào sẽ đặt hàng ta phải xác định thời điểm đặt hàng
mới dựa trên số lượng hàng tồn kho sử dụng mỗi ngày nhân với độ dài thời
gian giao hàng.
Sơ đồ điểm đặt hàng ROP được thể hiện như sau:
Q*
ROP
L A Thời gian
Sơ đồ 3: Sơ đồ điểm đặt hàng lại ROP

Điểm đặt hàng lại: ROP = d xL trong đó:
L: thời gian vận chuyển đơn hàng
d: nhu cầu hàng ngày về hàng tồn kho
d = D/ Số ngày sản xuất trong năm
Lượng dữ trự an toàn
Đối với một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, rủi ro trong kinh doanh
là điều không thể lường trước, đặc biệt là các doanh nghiệp làm ăn theo thời vụ
hoặc sản xuất những sản phẩm nhạy cảm của thị trường.Tính không xác định
của nhu cầu và tính không xác định của thời gian đến sớm khi đặt hàng có thể
xảy ra hiện tượng hàng trong kho bị rỗng trước khi lượng bổ sung hàng đặt đến
nơi.Để đảm bảo sản xuất ổn định, doanh nghiệp cần duy trì lượng hàng tồn kho
dự trữ an toàn.Hơn nữa, hàng tồn kho là loại tài sản lưu động biến đổi hàng
ngày ,hàng giờ nên yêu cầu về lượng dự trữ an toàn càng cần thiết hơn.
Nói đến cơ cấu tài sản trong một doanh nghiệp ta thường phân làm 3 loại:
Tài sản cố định, tài sản lưu động thường xuyên và tài sản lưu động tạm
thời.Tài sản lưu động thường xuyên hay tài sản lưu dộng rong (NWC) được
xác định là chệnh lệch giữa tài sản lưu động và nợ ngắn hạn,Thành phần của
NWC bao gồm cả ba loại tài sản là tiền mặt như một tấm đệm cho việc chi tiêu
ngoài dự kiến, một số khoản phải thu có khả năng thu hồi cao và hàng tồn
kho.Vì vậy, lượng dự trữ an toàn chính là lượng hàng tồn kho nằm trong tài
sản lưu động ròng được duy trì trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Lượng dự trữ an toàn được hiểu là lượng hàng tồn kho dự trữ thêm vào lượng
dự trữ tại thời điểm đặt hàng.
Tông thực tế rất khó xác định lượng dự trữ an toàn thông qua chi phí tổn thất
do thiếu hàng. Người ta thường dựa vào nhu cầu khách hành có thể đáp ứng
bởi hàng tồn kho dự phòng trước khi đơn hàng mới nhập về kho.Mức phục vụ
kahchs hành được xác định càng cao thì mức độ tồn kho điểm hàng đặt cần
phải xác định càng cao.Vì thế, các doanh nghiệp cần cân nhắc hợp lý giữa chi
phí do thiếu hàng tồn kho và chi phí cho hàng tồn kho dự phòng.

Như vậy EOQ đã chỉ ra quy mô đặt hàng tối ưu làm tối thiểu hóa chi phí đặt
hàng và lưu kho.Tuy nhiên, mô hình này cũng có nhược điểm là cần quá nhiều
giả thiết, làm mất tính thực tiễn của nó.Vì vậy, trên cơ sở mô hình này người ta
đã thiết lập mô hình sản lượng đơn hàng sản xuất, nới lỏng giả thiết cho rằng
doanh nghiệp nhận được lô hàng trong một thời gian nhất định và mô hình
đánh giá chiết khấu giảm giá cho các đơn hàng khối lớn để xóa bớt những giả
thiết, tăng cường tính thực tiễn cho mô hình EOQ
II. LIÊN HỆ THỰC TẾ TẠI CÔNG TY
1. Tại sao nhà quản trị của công ty lại quyết định mua thương hiệu
LILAMA để thực hiện hoạt động kinh doanh? Theo bạn, việc
làm đó sẽ tạo cho công ty những thuận lợi và bất lợi gì?
Công ty LILAMA.MC quyết định mua thương hiệu của công ty LILAMA
- Chúng ta đều biết công ty LILAMA là một công ty hoạt động kinh doanh
trong lĩnh vực cơ khí, có đầy đủ tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, có
con dấu riêng, tổ chức và hoạt động theo điều lệ của công ty và Luật doanh
nghiệp. Đây là một trong những công ty có tiếng tăm và vị thế trên thị trường cơ
khí trong nước. Vì thế, khi công ty LILAMA.MC mua thương hiệu của công ty
LILAMA sẽ giúp cho công ty có được uy tín nhất định trên thị trường, đồng thời,
sẽ giúp công ty có thêm một lượng khách hàng đáng kể từ uy tín của công ty
LILAMA, giúp công ty có thêm cơ sở sản xuất, nhân công, nguồn vốn,…Bên cạnh
đó, việc mua thương hiệu LILAMA sẽ giúp cho công ty LILAMA.MC nhanh
chóng đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với những doanh nghiệp mới thì
việc cạnh tranh trên thị trường là rất khó khăn và khốc liệt. Vì vậy, việc làm này sẽ
giúp doanh nghiệp kiểm soát thị trường có thể thực hiện nhanh chóng và ít rủi ro
hơn.
Những thuận lợi và khó khăn khi công ty LILAMA.MC mua thương hiệu của
công ty LILAMA.
Thuận lợi:
 Công ty LILAMA đã được khẳng định qua một thời kỳ hoạt động và có vị
thế nhất định trên thị trường.

 Đây là con đường nhanh, rẻ và ít rủi ro hơn so với việc tự mở rộng chính cơ
cấu công ty. Mục tiêu đòi hỏi của các doanh nghiệp là không chỉ phát triển
thương hiệu mà phải là phát triển nhanh và có hệ thống. Một trong những lộ
trình phát triển đáp ứng điều đó là mô hình mua bán nhượng quyền thương
hiệu, giúp các doanh nghiệp rút ngắn thời gian xây dựng và mở rộng
thương hiệu cho mình.
 Việc mua lại thương hiệu sẽ mang đến những cơ sở sản xuất mới nhanh
hơn. Hơn nữa, trong điều kiện kinh tế thị trường luôn luôn biến động, yếu
tố thời gian là vô cùng quan trọng. Nhà quản trị khó có thể xác định được
chính xác mức cầu của thị trường đối với một loại sản phẩm sẽ tồn tại trong
bao lâu. Vì vây, doanh nghiệp càng sớm tăng cường thêm được cơ sở và
nhanh chóng đi vào sản xuất, kinh doanh bao nhiêu thì càng có điều kiện
tận dụng những thuận lợi do thị trường mang lại bấy nhiêu. Các cơ sở sản
xuất kinh doanh cần thiết có thể được hình thành với giá rẻ hoặc hợp lý
bằng cách mua quyền sở hữu của công ty đã có thương hiệu. Chứng khoán
của công ty này vì nhiều lý do có thể bán thấp hơn so với giá trị thực của
nó. Mặt khác, khi mua lại thương hiệu, doanh nghiệp tận dụng được những
lợi ích vốn có của công ty có thương hiệu. Việc mua lại thương hiệu là một
phương pháp khá hiệu quả để giúp đảm bảo cho hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp được ổn định.
Bất lợi :
 Những công ty chọn chiến thuật mua lại làm phương tiện để đạt mục tiêu
tăng trưởng đang gặp nhiều thách thức. Nghiên cứu cho thấy việc nhất định
phải mua lại một công ty khác là dấu hiệu của sự yếu kém và ngày nay đại
đa số các vụ mua lại đều gặp thất bại.
 Các doanh nghiệp sẽ không lường trước được những khó khăn và phức tạp
khi cùng quản lý quá nhiều nhãn hàng một lúc. Thông thường các công ty
thường bỏ qua các khách hàng thân quen trong khi lại quá quan tâm đến
việc cắt giảm chi phí và kết hợp hoạt động theo guồng máy đã định sẵn. Do
mua thương hiệu của doanh nghiệp khác nên doanh nghiệp mới thành lập

sẽ phải phục vụ rất nhiều đối tượng khách hàng khác nhau nên việc phục vụ
khách hàng sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn và mức độ thoả mãn của khách
hàng đối với công ty bị giảm sút.
- Liên hệ tại Việt Nam: trên thế giới, các hợp đồng mua bán công ty, mua bán
thương hiệu hay nhượng quyền sử dụng nhãn hiệu là chuyện thường gặp. Câu
chuyện này tuy còn mới ở Việt Nam, nhưng không phải là hiếm có. Công ty
Phương Đông đã bán nhãn hiệu kem đánh răng P/S cho Unilever, phía đối tác
nước ngoài trong liên doanh nhà máy bia Đông Nam Á mua thương hiệu bia
Halida, công ty sản xuất xe máy tư nhân Hoa Lâm mua lại quyền sử dụng
thương hiệu động cơ xe máy Dealim của Hàn Quốc để tiêu thụ trên thị trường
Việt Nam, Công ty Cổ phần Kinh Đô mua lại thương hiệu kem Wall's cùng
toàn bộ nhà máy, dây chuyền sản xuất của nhà máy kem Wall's của Tập đoàn
Unilever…
2. Là DN sử dụng lượng vốn rất lớn nên khi có nhu cầu vốn kinh
doanh bạn sẽ lựa chọn hình thức tài trợ nào? Tại sao?
• Nguồn tài trợ của LILAMA:
 Nguồn vốn từ bên trong:
Nguồn huy động vốn bên trong là nguồn vốn có thể huy động được vào đầu tư
từ tài chính hoạt động của bản thân doanh nghiệp ngoài số vốn chủ sở hữu bỏ ra
ban đầu. Nguồn vốn bên trong thể hiện khả năng tự tài trợ của doanh nghiệp.
Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp xây dựng thường bao gồm:
Lợi nhuận để lại: hàng năm doanh nghiệp có thể sử dụng một phần lợi nhuận
sau thuế để bổ sung tăng vốn, tự đáp ứng nhu cầu đầu tư tăng trưởng của doanh
nghiệp.
Khoản khấu hao tài sản cố định: Tiền trích khấu hao tài sản cố định (TSĐC)
chủ yếu dung để tái sản xuất ginả đơn TSCĐ. Tuy nhiên do thời gian sử dụng của
các TSCĐ thường rất dài, phải sau nhiều năm mới cần thay thế đổi mới; trong khi
hàng năm doanh nghiệp đều tính khấu hao và tiền khấu hao được tích lũy lại. Vì
vậy, trong khi chưa có nhu cầu thay thế TSCĐ cũ, các doanh nghiệp có thể sử
dụng tiền khấu hao đó để đáp ứng nhu cầu đầu tư tăng trưởng của mình.

Ngoài hai nguồn trên, các doanh nghiệp còn có thể huy động một số nguồn vốn
bên trong khác, như tiền nhượng bán tài sản vật tư không cần dung, hoặc khoản
thu nhập ròng về thanh lý tài sản cố định để đáp ứng nhu cầu nguồn vốn dầu tư dài
hạn của mình.
Đối với Công ty TNHH Cơ khí LINAMA: nguồn vốn kinh doanh tự có là khá
lớn: 5.000.000.000 VND, trong đó vốn cố định: 4.400.000.000VND, vốn lưu
động: 600.000.000VND. Lợi nhuận sau thuế của công ty là khá cao,liên tục tăng
qua các năm: 960 trd (2007), 1.100 trd (2008), 1.270 trd (2009). Tỷ suất lợi nhuận
sau thuế/vốn điều lệ đạt: 19,2% (2007), 20% (2008), 21,6% (2009). Tỷ suất lợi
nhuận trên là cao so với tỷ lệ lợi nhuận của ngành cơ khí (5,5%, xu hướng tăng 9-
10%) do vậy doanh nghiệp có thể huy động vốn từ lợi nhuận giữ lại.
Huy động vốn được dựa trên kế hoạch sản xuất kinh doanh, công ty có thể tăng
tỷ lệ lợi nhuận giữ lại qua các năm để tái sản xuất mở rộng hoặc tăng vốn từ các
thành viên theo điều lệ. Sau đó, lên phương án kêu gọi tài trợ vốn cho các dự án
đầu tư nhằm đảm bảo tăng trưởng và hiệu quả. Hàng năm, công ty nên thực hiện
chính sách phòng ngừa rủi ro hoạt động và rủi ro tài chính.
 Nguồn vốn từ bên ngoài:
Tín dụng ngân hàng:
+/ Tín dụng ngân hàng:là quan hệ giữa ngân hàng,các tổ chức tín dụng và các tổ
chức kinh tế, cá nhân theo nguyên tắc hoàn trả.Tín dụng ngân hàng có ít nhất một
bên tham gia là ngân hàng và đối tượng cho vay trong tín dụng là tiền tệ.
+/ Nguồn vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng
nhất,không chỉ đối với sự phân tích của các doanh nghiêp mà còn đối với toàn bộ
nền kinh tế quốc dân.Trong quá trình hoạt động thường vay ngân hàng để đảm bảo
nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh,đặc biệt là đảm bảo có đủ
nguồn vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp.
Tín dụng thương mại:
Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp, được thực
hiện dưới hình thức mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp hàng hóa. Là loại
tín dụng rất phổ biến trong tín dụng quốc tế, là loại tín dụng giữa các nhà doanh

nghiệp cấp cho nhau vay, không có sự tham gia của ngân hàng hoặc cũng có thể
hiểu là loại tín dụng được cấp bằng hàng hóa dịch vụ chứ không phải bằng tiền.
Tài trợ bằng nợ và vốn cổ phần:
“Chi phí” được đề cập là chi phí có thể đo lường được cho việc huy động
vốn tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp. Với nợ, đó chính là chi phí lãi vay mà
doanh nghiệp phải trả cho khoản vay của mình. Với vốn cổ phần, chi phí sử dụng
vốn được hiểu như là quyền đối với thu nhập phải đủ thỏa mãn được các cổ đông
khi họ quyết định góp vốn vào công ty.
Đối với một công ty được kỳ vọng làm ăn tốt thì tài trợ nợ có thể được sử
dụng thường xuyên với mức chi phí thấp hơn so với tài trợ bằng vốn cổ phần. Tuy
nhiên, nếu công ty không thể vận hành tốt để tạo ra lượng tiền mặt đủ lớn, thì chi
phí lãi vay lúc này có thể là một gánh nặng. Đây chính là mặt trái của việc tài trợ
hoạt động doanh nghiệp bằng nợ. Từ đây có thể thấy, dù nợ có chi phí rẻ hơn vốn
cổ phần, doanh nghiệp nào cũng có thể hiểu được điều này, nhưng thời điểm nào
thì sử dụng nợ là hợp lý? Hợp lý ở đây có nghĩa là tận dụng được tối đa lợi ích của
nợ, tận dụng tối đa lợi ích từ đòn bẩy tài chính từ nợ. Khi nào thì doanh nghiệp
nên vay nợ và vay nợ bao nhiêu là thích hợp? Quá trình đi tìm lời giải cho bài toán
trên có lẽ sẽ vô cùng thú vị và cũng không ít “đau đầu” cho các nhà quản trị.
Dễ thấy, doanh nghiệp không bao giờ có thể chắc chắn 100% về lượng thu
nhập trong tương lai (mặc dù họ có thể có những dự đoán hợp lý) và khi thu nhập
tương lai của các doanh nghiệp càng không ổn định thì rủi ro càng tăng lên. Do đó,
doanh nghiệp trong ngành có rủi ro kinh doanh thấp, có dòng tiền ổn định thường
sử dụng nợ nhiều hơn là doanh nghiệp trong ngành nhiều rủi ro. Doanh nghiệp nhỏ
hoặc mới bắt đầu hoạt động cũng sử dụng nợ rất ít, nếu không muốn nói là không
có sử dụng nợ. Doanh nghiệp mới với sự không chắc chắn cao có thể phải trải qua
một thời gian đầy khó khăn để tìm được tài trợ bằng nợ vay, nên thường thì hoạt
động của chúng hầu hết được tài trợ bằng vốn cổ phần.
Ở Việt Nam, nhắc đến nợ, người ta thường có tâm lý e dè, nhất là đối với
các doanh nghiệp đang trong thời kỳ “sung mãn”, lượng tiền mặt dư thừa thì
dường như họ lại càng không quan tâm đến nợ, “tiền tôi có, tại sao phải vay?”.

Cũng vậy, sau 7 năm TTCK Việt Nam ra đời, đi vào hoạt động và đạt được sự
phát triển như hôm nay thì để giải quyết bài toán thiếu vốn, doanh nghiệp niêm yết
thường chọn giải pháp vốn cổ phần, chứ không mấy mặn mà với việc sử dụng tài
trợ bằng nợ. Các doanh nghiệp dường như đã quên đi lợi ích từ việc sử dụng đòn
bẩy tài chính. Hy vọng trong tương lai không xa, vấn đề tài trợ bằng nợ sẽ được
DN Việt Nam quan tâm thỏa đáng và đạt được hiệu quả tốt nhất trong việc sử
dụng nợ.
Kết luận: doanh nghiệp có thể lựa chọn các cách để huy động vốn là từ lợi
nhuận giữ lại hoặc từ hoạt động vay tài chính,tín dụng NH hoặc tín dụng thương
mại. Song, để có được nguồn vốn lớn, lâu dài, doanh nghiệp nên sử dụng tài trợ từ
vay nợ, nhưng cũng cần xem xét kĩ lưỡng về thực tế trả nợ của doanh nghiệp, việc
đánh giá các dự án đầu tư, khả năng sinh lời từ hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
3. Những phương pháp khấu hao nào bạn gợi ý DN này nên sử
dụng? Tại sao?
Theo thông tư 45/ 2013, dựa vào các quy định và điều kiện về tài sản cố định trong
thông tư thì công ty có thể áp dụng phương pháp khấu hao sau:
• Phương pháp khấu hao đường thẳng
Vì doanh nghiệp này là một doanh nghiệp về ngành cơ khí. 1 công ty nhỏ trong
một ngành kinh tế còn non yếu ,vừa trùng lặp vừa phân tán… gặp nhiều khó khăn
và bất ổn và các sản phẩm sản xuất chủ yếu của công ty là: Chế tạo và lắp đặt thiết
bị cho các nhà máy công nông nghiệp; Chế tạo và lắp đặt thiết bị kết cấu công
trình đường dây và trạm biến áp; Chế tạo và lắp đặt nồi hơi, ống áp lực, bồn bể
chịu áp lực cao; Chế tạo và lắp đặt thiết bị nâng, cần trục, cầu trục, cổng trục.
Và Ở Việt Nam, theo thông tư 45/2013/QĐ-BTC, phương pháp khấu hao đường
thẳng có thể được áp dụng đối với mọi TSCĐ tham gia vào hoạt động kinh doanh
ưu điểm nổi bật của phương pháp này là đơn giản, dễ tính. Mức khấu hao được
phân bổ vào giá thành này một cách đều đặn làm cho giá thành ổn định. Tuy nhiên
phương pháp này không phản ánh đúng giá trị hao mòn tài sản trong khối lượng
công tác hoàn thành và sẽ không thích hợp đối với các doanh nghiệp có quy mô

lớn, có khối lượng TSCĐ lớn, chủng loại phức tạp vì nếu áp dụng phương pháp
này dễ dẫn tới khối lượng tính toán nhiều, gây khó khăn cho công tác quản lý.
• Phương pháp khấu hao theo sản lượng.
Phương pháp này mức khấu hao mỗi năm là thay đổi tuỳ thuộc vào sản lượng
sản phẩm sản xuất ra bởi tài sản đó. Nhưng số tiền khấu hao được cố định cho
1 đơn vị sản phẩm đầu ra được tạo bởi sản phẩm đó
Phương pháp này có ưu điểm: Mức khấu hao trên từng TSCĐ được xác định đúng
theo công suất huy động thực tế của TSCĐ đó.
Mặt khác doanh nghiệp là công ty chế tạo các sản phẩm cơ khí truyền thống
cho các ngành công nghiệp năng lượng, hoá chất, vật liệu xây dựng, công
nghiệp thực phẩm, công nghiệp ôtô, xe máy, từng bước mở rộng sang lĩnh vực
chế tạo thiết bị nâng, chế tạo bình bể chịu áp lực, bồn bể chứa xăng dầu và
thiết bị khác. Là các sản phẩm thỏa mãn các điều kiện theo thông tư
45/2013/QĐ-BTC
Vậy DN có thể sử dụng các phương pháp khấu hao trên phù hợp theo tình hình
hoạt động của DN.
4. Giả sử bạn được giao nhiệm vụ quản lý hàng tồn kho của DN,
hãy dựa vào đặc thù lĩnh vực mà doanh nghiệp này hoạt động và
tư vấn cho lãnh đạo về cách thức quản trị khoản mục này sao
cho tối ưu nhất?
Đặc thù lĩnh vực mà doanh nghiệp này hoạt động: Do sản phẩm của ngành kinh
doanh của doanh nghiệp là:
- Chế tạo và lắp đặt thiết bị cho các nhà máy công nông nghiệp
- Chế tạo và lắp đặt thiết bị kết cấu công trình đường dây và trạm biến áp. - Chế
tạo và lắp đặt nồi hơi, ống áp lực, bồn bể chịu áp lực cao.
- Chế tạo và lắp đặt thiết bị nâng cần trục, cẩu trục, cổng trục. Hàng tồn kho của
doanh nghệp chủ yếu là các máy móc cơ khí. Các sản phẩm này có đặc thù:
 Dễ bị han rỉ điều kiện thời tiết, làm giảm chất lượng của sản phẩm: Do điều
kiện khí hậu nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa, mưa nhiều, độ ẩm trong
không khí cao. Đây là điều kiện không tốt cho việc bảo quản máy móc.

Máy móc không được bảo quản tốt sẽ dễ bị han rỉ dẫn đến bị hỏng và
những máy móc có chất lượng kém cũng rất dễ bị hỏng hay khiếm khuyết
trong thời gian bảo quản.
 Doanh nghiệp kinh doanh rất nhiều sản phẩm khác nhau, mỗi sản phẩm lại
có những đặc trưng riêng của nó. Điều này cũng gây rất nhiều khó khăn và
tốn kém trong việc tiến hành bảo quản.
 Chịu tác động lớn của giá cả thị trường: Giá cả hàng hoá là một trong
những nhân tố tác động chủ yếu đến tiêu thụ, có thể kích thích hay hạn chế
cung cầu. Do đó, nó sẽ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của hàng hoá.
Giá cả ổn định sẽ đảm bảo cho khả năng tiêu thụ và tránh được ứ đọng
hàng hoá.
 Tuy nhiên, sự biến động giá cả là không thể kiểm soát được. Nếu giá cả các
hàng hoá đột ngột tăng cao sẽ làm cho mức tiêu thụ của doanh nghiệp
chững lại, dẫn đễn lượng hàng hoá tồn kho tăng. Nhưng nếu giá cả sản
phẩm hàng hoá giảm xuống thì doanh số bán ra của doanh nghiệp tăng lên
mà doanh thu của doanh nghiệp thì lại giảm xuống nên lượng hàng tồn kho
sẽ giảm. Doanh nghiệp muốn kiểm soát sự ảnh hưởng của nhân tố này đến
mức tồn kho phải tiến hành nghiên cứu, phân tích và dự báo trước được
mức giá bán ra sao cho sự biến động của nó không làm giảm doanh thu và
doanh số tiêu thụ của doanh nghiệp.
 Có hao mòn vô hình: Máy móc tồn kho trong một thời gian dài có thể bị cũ
đi, bị hỏng, bị lỗi nên sẽ làm giảm giá trị của sản phẩm. Xã hội ngày càng
phát triển, khoa học công nghệ ngày càng tiến bộ, máy móc bảo quản trong
kho rất dễ bị lạc hậu về trình độ khoa học công nghệ. Điều này cũng làm
giảm giá trị của sản phẩm. Doanh nghiệp nếu không nắm bắt thông tin kịp
thời mà dự trữ hàng tồn kho hoặc mua phải sản phẩm máy móc không đảm
bảo chất lượng kỹ thuật, bị lạc hậu về trình độ công nghệ,… sẽ làm cho
mức tồn kho tăng lên vì không được người tiêu dùng chấp nhận. Còn nếu
doanh nghiệp có cơ hội dự trữ, tồn kho hoặc mua được lô hàng mới, đảm
bảo tiêu chuẩn kỹ thuật hiện đại thì mức tồn kho chắc chắn sẽ giảm.

 Đặc thù lĩnh vực kinh doanh của công ty đòi hỏi phải có lượng vốn đầu tư
rất lớn nên công ty phải có kế hoạch tiết kiệm chi phí, tránh lãng phí vào
các khoản không cần thiết.
 Đây là lĩnh vực kinh doanh có tính mùa vụ cao: Vào thời điểm cuối năm,
những tháng mùa khô, thời tiết thuận lợi cho việc xây dựng những công
trình thì nhu cầu về các mặt hàng của công ty LILAMA sẽ tăng lên và
ngược lại, vào thời điểm trái vụ thì nhu cầu về những mặt hàng này sẽ
giảm. Do vậy, công ty phải có kế hoạch dự trữ hàng hoá và sản xuất hàng
hoá sao cho vừa đáp ứng được nhu cầu thị trường, tăng doanh thu cho công
ty mà vừa tiết kiệm được chi phí.
Do đó tỷ lệ hàng tồn kho chủ yếu là các nguyên liệu, nhiên liệu để sản xuất và
các máy móc, sản phẩm cơ khí đã sản xuất chờ đem bán, các máy móc cũ cần
thanh lý và các máy móc, tài sản góp vồn của thành viên
Làm thế nào để quản lí tốt nhất, giảm thiểu chi phái hàng tồn kho một cách tốt
nhất, là một bài toán cần giải quyết càng sớm càng tốt. Công ty có thể sử dụng mô
hình EOQ để quản trị hàng tồn kho của doanh nghiệp: bởi vể khả năng quản trị, có
thể nói cái được lớn nhất của mô hình không phải là lợi ích kinh tế mà sẽ giúp cải
thiện được khả năng quản trị hàng tồn kho tại doanh nghiệp. Ở đây, mô hình này
không đòi hỏi phải áp dụng phương pháp hay cải thiện tổ chức quản lý sâu xa
trong nộ bộ công ty mà chỉ là xác định được sản lượng tối ưu cho mỗi lần đặt hàng
là bao nhiêu để từ đó công ty triển khai mua theo sản lượng này, tổ chức lại việc
thu mua cho phù hợp. Như thế không những tiết kiệm được chi phí tồn kho, đáp
ứng nhu cầu mà còn giúp công ty chủ động trong việc thu mua. Thay vì thu mua
một cách nhỏ lẻ, có bao nhiêu mua bấy nhiêu thì dường như bị động và lãng phí.
Theo mô hình này cồn ty sẽ biết được nên mua vào mỗi lần là bao nhiêu để tiết
kiệm chi phí tồn kho và vẫn đáp ứng được nhu cầu. Từ đó tập trung các nguồn lực
để tiến hành thu mua theo sản lượng trên.
Biện pháp quản trị hàng tồn kho trong công ty
Từ đó công ty LILAMA đã họp và đưa ra các giải pháp để giải quyết hàng tồn
kho:

• Xây dựng hệ thống thông tin, áp dụng công nghệ thông tin, phần mềm vào
quản lí hàng tồn kho.
1. Theo dõi tất cả các loại hàng tồn kho tại từng công đoạn của quá
trình sản xuất, hạch toán các mục khác nhau trong một biên bẩn
nhận hàng hoặc biên bản giao hàng đơn lẻ, theo dõi phế phẩm, theo
dõi hàng hóa bị trả lại, theo dõi địa điểm của hàng tồn kho và ở từng
công đoạn/quy trinhd sản xuất, và điều chỉnh thủ công đối với số
lượng và giá trị hàng hóa tồn kho.
2. Dự báo nhu cầu vật tự và thời gian chở hàng: các phần mềm trong
nước thường còn yếu hoắc không có khả năng dự báo trước đước
nhu cầu vật tư và thời gian cần giao hàng.

×