Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về bản chất dân chủ của nhà nước xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng trong đổi mới tổ chức, hoạt động của hội đồng nhân dân các cấp ở nghệ an hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.76 KB, 107 trang )

mục lục
Trang
Mở đầu 1
Chơng 1: t tởng hồ chí minh về bản chất dân chủ của
nhà nớc xã hội chủ nghĩa và vận dụng
trong tổ chức, hoạt động của Hội đồng
nhân dân
6
1.1 T tởng Hồ Chí Minh về dân chủ và bản chất dân chủ của Nhà
nớc xã hội chủ nghĩa
6
1.2. Hội đồng nhân dân - thiết chế thể hiện bản chất dân chủ của
Nhà nớc xã hội chủ nghĩa ở địa phơng theo t tởng Hồ Chí
Minh
31
Chơng 2: vận dụng t tởng hồ chí minh về bản chất dân
chủ của nhà nớc xã hội chủ nghĩa trong đổi
mới tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân
dân ở nghệ an
55
2.1. Thực trạng vận dụng t tởng Hồ Chí Minh về bản chất dân
chủ của Nhà nớc xã hội chủ nghĩa trong tổ chức, hoạt động
của Hội đồng nhân dân ở Nghệ An
55
2.2 Một số giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục vận dụng t tởng Hồ
Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nớc xã hội chủ nghĩa
trong đổi mới tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân ở
Nghệ An hiện nay
82
Kết luận 99
1


danh mục tài liệu tham khảo 101
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự ra đời và phát triển của Nhà nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam nói chung và Hội đồng nhân dân (HĐND) nói riêng gắn liền với tên
tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong cuộc đời hoạt động của mình, Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo việc củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân dựa trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức, xây dựng Nhà nớc Việt Nam thật sự là Nhà nớc của
dân, do dân, vì dân. Ngời yêu cầu các cơ quan nhà nớc phải lấy dân làm
gốc, nhân dân là ngời chủ đất nớc, thực hiện quyền lực nhà nớc thông qua
Quốc hội và HĐND. Ngời nhấn mạnh: "Quốc hội là cơ quan quyền lực cao
nhất của Nhà nớc. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực của Nhà nớc ở
địa phơng" [45, tr. 591].
T tởng Hồ Chí Minh về nhà nớc là một tài sản tinh thần quý báu của
Đảng và của dân tộc ta. Đã có nhiều công trình nghiên cứu t tởng Hồ Chí
Minh về Nhà nớc từ những góc độ tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, việc khái
quát những nội dung cơ bản trong t tởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ
của Nhà nớc là hớng tiếp cận mới cha đợc đề cập. Đặc biệt, hớng tiếp cận
này lại càng có ý nghĩa khi chúng ta vận dụng t tởng Hồ Chí Minh về bản
chất dân chủ của Nhà nớc trong tổ chức, hoạt động của HĐND để HĐND
xứng đáng là thiết chế thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nớc ở địa phơng.
Sắc lệnh tổ chức và hoạt động của HĐND và ủy ban Hành chính
(UBHC) (số 63/SL ngày 22-11-1945) do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký là văn
2
bản pháp luật đầu tiên đặt nền móng cho việc tổ chức, hoạt động của
HĐND các cấp. Trải qua các giai đoạn lịch sử, thiết chế HĐND đã không
ngừng đợc hoàn thiện, đóng một vai trò hết sức quan trọng trong bộ máy
nhà nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, trong những năm
qua, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan nên trong thực tế hoạt

động của HĐND ở nhiều địa phơng vẫn còn mang tính hình thức cha phát
huy một cách có hiệu quả vị trí, vai trò của mình. Việc vận dụng t tởng Hồ
Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nớc trong tổ chức, hoạt động của
HĐND vẫn còn nhiều bất cập. Với những lý do đó, tác giả chọn vấn đề "T
tởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nớc xã hội chủ nghĩa và
sự vận dụng trong đổi mới tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân
các cấp ở Nghệ An hiện nay" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt
nghiệp thạc sĩ Luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Một số vấn đề liên quan đến đề tài nh: T tởng Hồ Chí Minh; đổi mới
hệ thống chính trị; cải cách bộ máy nhà nớc; Nhà nớc pháp quyền đã đợc
các nhà nghiên cứu đề cập dới nhiều góc độ khác nhau.
- Nguyễn Anh Tuấn (Chủ biên), Nguyễn Xuân Tế - Bùi Ngọc Sơn,
T tởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nớc kiểu mới ở Việt Nam, Nxb Đại
học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2003.
Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ T pháp, Kỷ yếu Hội thảo:
Nghiên cứu t tởng Hồ Chí Minh về Nhà nớc và pháp luật, Hà Nội, 1993.
- Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ T pháp, Kỷ yếu Hội thảo:
Các nội dung cơ bản t tởng Hồ Chí Minh về Nhà nớc kiểu mới, Nhà nớc
thực sự của dân, do dân, vì dân, Hà Nội, 1997.
- Lê Minh Thông (Chủ biên), Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001.
3
- Tô Tử Hạ, Nguyễn Hữu Trị, Nguyễn Hữu Đức (đồng Chủ biên),
Cải cách hành chính địa phơng lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1998.
- Bùi Xuân Đức, Bàn về tính chất của Hội đồng nhân dân trong
điều kiện cải cách bộ máy nhà nớc hiện nay, Tạp chí Nhà nớc và pháp luật,
12/2003.

- Nguyễn Thị Hồi, Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân ở nớc ta
hiện nay, Tạp chí Luật học, 1/2004.
- Nguyễn Hoàng Anh, Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân
dân cấp xã trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, 3/2003.
- Chu Đức Thành, Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan đại
diện ở nớc ta hiện nay, Luận án phó tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, 1996
Nhìn chung, những công trình trên đã đề cập tới t tởng Hồ Chí Minh
về Nhà nớc hoặc tổ chức và hoạt động của HĐND. Song, cha có đề tài nào
nghiên cứu về bản chất dân chủ của nhà nớc xã hội chủ nghĩa (XHCN) và
tổ chức, hoạt động của HĐND từ cách tiếp cận về bản chất dân chủ của Nhà
nớc theo t tởng Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn: Trên cơ sở làm rõ về phơng diện lý luận t t-
ởng của Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nớc XHCN và việc thực
hiện t tởng đó trong tổ chức, hoạt động của HĐND, luận văn nêu ra một số
giải pháp chủ yếu nhằm vận dụng t tởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ
của Nhà nớc XHCN trong đổi mới tổ chức, hoạt động của HĐND nhằm
phát huy vai trò là thiết chế thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nớc ở địa ph-
ơng.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
4
- Góp phần làm rõ t tởng Hồ Chí Minh về dân chủ, bản chất dân chủ
của Nhà nớc XHCN và thực tiễn vận dụng t tởng đó trong tổ chức, hoạt
động của HĐND.
- Phân tích thực trạng thực hiện dân chủ trong tổ chức, hoạt động
của HĐND ở Nghệ An theo t tởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của
Nhà nớc XHCN.
- Kiến nghị một số giải pháp nhằm không ngừng hoàn thiện tổ chức,
hoạt động của HĐND trên cơ sở vận dụng một cách triệt để, sáng tạo t tởng

Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nớc XHCN.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tợng nghiên cứu: Nghiên cứu t tởng Hồ Chí Minh về bản chất
dân chủ của nhà nớc XHCN và vận dụng t tởng đó trong tổ chức, hoạt động
của HĐND.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ giới hạn việc nghiên cứu những
nội dung cơ bản trong t tởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nớc
XHCN và khảo sát việc vận dụng t tởng đó trong tổ chức, hoạt động của
HĐND ở Nghệ An qua nhiệm kỳ 1999-2004 và 2004-2009 (tính đến tháng
7 năm 2005).
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, t tởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về dân chủ, về việc xây dựng và
hoàn thiện Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và kế thừa quan
niệm của các nhà nghiên cứu có liên quan đến đề tài này.
- Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng các phơng pháp phân
tích và tổng hợp kết hợp với phơng pháp lôgíc, phơng pháp thống kê, điều
tra xã hội học.
5
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần khái quát những nội dung cơ bản của t tởng Hồ
Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nớc XHCN.
- Qua phân tích thực tiễn vận dụng t tởng Hồ Chí Minh về bản chất
dân chủ của Nhà nớc XHCN trong tổ chức, hoạt động của HĐND để khẳng
định: HĐND - thiết chế thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nớc ở địa phơng.
- Từ thực trạng tổ chức, hoạt động của HĐND ở Nghệ An, tác giả đề
xuất một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới tổ chức, hoạt động của HĐND
bảo đảm phát huy bản chất dân chủ của Nhà nớc XHCN theo t tởng Hồ Chí
Minh.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Thực hiện thành công mục đích và nhiệm vụ nói trên, đề tài sẽ góp
phần nhận thức sâu hơn về bản chất của Nhà nớc XHCN nói chung và
HĐND nói riêng từ một cách tiếp cận mới, từ đó có những quan điểm về
đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND để nó thật sự trở thành một thiết
chế thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nớc tại địa phơng theo t tởng Hồ Chí
Minh.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy về nhà nớc, pháp luật và cho những ai quan tâm tới việc nghiên
cứu t tởng của Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ của Nhà nớc.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chơng, 4 tiết.
6
Chơng 1
T tởng Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ
của Nhà nớc xã hội chủ nghĩa và vận dụng
trong tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân
1.1. t tởng Hồ Chí Minh về dân chủ và bản chất dân chủ
của Nhà nớc xã hội chủ nghĩa
1.1.1. Quan niệm về dân chủ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã suốt đời tranh đấu đa dân tộc Việt Nam từ
dân tộc nô lệ thành dân tộc tự do, đa ngời dân từ thân phận dân thuộc địa
lên địa vị công dân làm chủ đất nớc.
Hồ Chí Minh đã đa ra một hệ thống các luận điểm về dân chủ, từ
quan niệm cho đến sự thể hiện của chúng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa - xã hội , cũng nh phơng thức hiện thực hóa chúng trong thực tiễn.
Cho dù xét theo cách tiếp cận nào thì quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ
vẫn nổi lên nội dung chính trị, khi Ngời luôn nhấn mạnh tới vấn đề Nhà nớc
và mối quan hệ giữa Nhà nớc với nhân dân. Từ góc độ này có thể khái quát
quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ trên các nội dung sau:

- Dân là chủ
Từ các tác phẩm và đặc biệt là hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh
có thể khẳng định rằng: Toàn bộ cuộc đời cách mạng sôi nổi, kiên định của
Ngời là cả một quá trình đấu tranh quên mình để khẳng định trong thực tế
đời sống một nguyên lý mà Ngời sớm nhận biết đó là: Nhân dân là ngời chủ
xã hội. Nhận thức này đã thôi thúc Ngời dấn thân vào con đờng cách mạng,
đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đi theo con đờng cách mạng vô sản và trở
thành ngời dẫn dắt cả dân tộc đi đến lý tởng, mục tiêu cao cả là khẳng định
7
trên thực tế địa vị là chủ của nhân dân đối với xã hội, đất nớc: "Nớc ta là n-
ớc dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ" [42, tr. 515].
- Dân làm chủ
Nói "dân là chủ" là để khẳng định vị thế, t cách xã hội của ngời dân.
Tuy nhiên, cần có sự phân biệt giữa t cách "là chủ" của dân với trạng thái
"dân làm chủ" trên thực tế. Trong t duy và trong hoạt động thực tiễn, Hồ
Chí Minh đặc biệt chú ý đến sự khác biệt, đến khoảng cách giữa t cách "dân
là chủ" với trạng thái "dân làm chủ". Bởi vì, trong lịch sử đã có nhiều cứ
liệu chứng minh sự khác biệt về chất này, đó là làm chủ trên thực tế và làm
chủ trên danh nghĩa. Từ "dân là chủ" đến "dân làm chủ" là cả một bớc nhảy
vọt về chất đầy khó khăn. Hồ Chí Minh đã có lần nói đến một thực tế nh là
một điều trăn trở khôn nguôi: Làm sao cho nhân dân biết hởng quyền dân
chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm.
ở đây, Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu yêu cầu: Làm sao cho nhân dân
biết hởng quyền dân chủ. Đây là nguyên tắc thuộc bản chất của Nhà nớc và
thực chất của chế độ xã hội mới: "Nớc độc lập mà dân không hởng hạnh phúc
tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì" [40, tr. 56]. Điều đáng chú ý ở
đây là Hồ Chí Minh thờng dùng từ "hởng" để chỉ một nội dung rất cơ bản của
quyền dân chủ. Khi nói đến việc "nhân dân hởng hạnh phúc tự do, ăn no, mặc
ấm " thì "hởng" ở đây hoàn toàn không bao hàm nghĩa nh là một thứ ân huệ
do đợc ban tặng, mà đó là thành quả đấu tranh của nhân dân. Trong suốt cuộc

đời đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân, Ngời không ngừng giác ngộ cho dân
chúng nhận thức về t tởng tự lực cánh sinh, "việc ta ta phải gắng lo ", "công
nông mình cứu lấy mình", "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta ". Đây chính
là điểm mấu chốt để phân biệt "dân là chủ" và "dân làm chủ".
Để "dân làm chủ" phải có những điều kiện, mà điều kiện tiên quyết
có tính tiền đề là cuộc đấu tranh kiên dũng của nhân dân vì độc lập, tự do d-
ới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
8
Giành đợc chính quyền, nhân dân giành lại đợc quyền là ngời chủ
xã hội và cả quyền làm chủ xã hội, nhng từ địa vị "là chủ" đến "quyền làm
chủ" và làm chủ trên thực tế, cần phải có những điều kiện chặt chẽ kèm
theo. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giành chính quyền, làm chủ chính
quyền, xây dựng xã hội là sự nghiệp của toàn dân, của chính nhân dân,
không ai làm thay đợc. Nhng để tham gia cuộc đấu tranh và trong quá trình
đấu tranh đó nhân dân phải đợc giác ngộ, tập hợp, đoàn kết lại thành sức
mạnh: "Có lực lợng dân chúng, việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng đ-
ợc. Không có thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết
nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những ngời tài
giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra" [41, tr. 169].
Để thực hiện quyền làm chủ, nhân dân không những phải có quyền,
mà điều quan trọng là phải có khả năng, năng lực làm chủ. Đây chính là
mối quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ngời nói: "Muốn làm
chủ đợc tốt, phải có năng lực làm chủ" [46, tr. 86]. Sau Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thành công mối quan tâm đó luôn ở bên Ngời trong cả
chặng đờng cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: "Làm sao cho nhân
dân biết hởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói,
dám làm" [42, tr. 423] phải đợc xem nh là một lời di chúc của Ngời.
Cách mạng Tháng Tám thành công, nhân dân ta đã làm chủ nớc nhà
và đã thực hành quyền làm chủ trên thực tế. Với t cách là ngời đứng đầu
nhà nớc, Hồ Chí Minh hiểu hơn ai hết thực trạng làm chủ của dân, cho nên,

Ngời thờng xuyên chăm lo, bồi dỡng cho sức mạnh làm chủ của nhân dân.
Cho dù việc bồi dỡng sức dân, bồi dỡng năng lực làm chủ của dân có nhiều
khó khăn, phức tạp, nhng đó không phải là một tình trạng không thể vợt
qua.
Có thể thấy, Hồ Chí Minh luôn tâm niệm về sự cần thiết bồi dỡng
sức dân thực hiện quyền làm chủ bằng cả một quốc sách đợc triển khai trên
9
quy mô rộng lớn - công cuộc nâng cao dân trí, bồi dỡng dân khí - những nhân
tố hàng đầu hình thành "năng lực làm chủ" của nhân dân. Điều đặc sắc là ở
chỗ, chủ trơng, chính sách mà Hồ Chí Minh khởi xớng, phát động, cổ vũ, triển
khai thực hiện mang tính hoàn thiện, đồng bộ, hệ thống và có tính chiến lợc.
Ngời thấy đợc ý nghĩa sâu xa căn bản của các cải cách xã hội đối với việc bồi
dỡng sức dân, xây dựng nền dân chủ "chúng ta phải ra sức thực hiện những cải
cách xã hội, để nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự"
[43, tr. 323]. Để phát huy quyền làm chủ và mở rộng quyền làm chủ của nhân
dân, Hồ Chí Minh đòi hỏi Nhà nớc phải có tầm nhìn bao quát, toàn diện và cụ
thể. Có thể nêu những dẫn chứng tiêu biểu về cách làm này của Ngời: Trong
bài báo đăng trên Báo Cứu quốc phát động phong trào luyện tập thể dục trong
những năm tháng đầu của chính quyền nhân dân, Ngời đã chỉ ra ý nghĩa chính
trị, dân chủ to lớn của việc luyện tập thể dục vốn là một việc làm thông thờng
của mỗi ngời. Ngời xem đây là bổn phận của mỗi một ngời yêu nớc, "giữ gìn
dân chủ, xây dựng nớc nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần phải có sức
khỏe mới làm thành công. Mỗi một ngời dân mạnh khỏe tức là cả nớc mạnh
khỏe" [40, tr. 24]. Trong Chơng trình hành động của Chính phủ lâm thời với
6 nhiệm vụ cấp bách đợc trình bày tại phiên họp Chính phủ ngày 3-9-1945,
có 2 nhiệm vụ đợc Ngời đặt lên hàng đầu là chống nạn đói, nạn dốt. Những
nhiệm vụ này trực tiếp hoặc gián tiếp đều có tác dụng bồi dỡng sức dân,
nâng cao dân trí, nuôi dỡng dân khí, khơi dậy ở mỗi ngời dân và ở tất cả các
tầng lớp nhân dân ý thức, tinh thần làm chủ nớc nhà, ý thức trách nhiệm tr-
ớc vận mệnh của Tổ quốc vừa giành đợc quyền độc lập, tự do.

Mọi ngời Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình,
bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào
công cuộc xây dựng nớc nhà và trớc hết phải biết đọc, biết viết
chữ quốc ngữ Chúng ta học tập chính là để có đủ năng lực làm
chủ, đủ năng lực tổ chức cuộc sống mới Bởi vậy, ý thức làm chủ
10
không phải chỉ tỏ rõ ở tinh thần hăng hái lao động, mà còn phải
tỏ rõ ở tinh thần say mê học tập để không ngừng nâng cao năng
lực làm chủ của mình [40, tr. 36].
Trong t tởng Hồ Chí Minh, dân làm chủ không chỉ để hởng quyền
dân chủ, dù đó là hởng thành quả do chính mình tạo nên, mà còn để "biết
dùng quyền dân chủ, dám nói, dám làm", điều đó thể hiện một thái độ chủ
động, tích cực, xây dựng và sáng tạo từ phía ngời dân. Cách dùng từ "biết"
đặt bên cạnh "hởng quyền dân chủ" và "dùng quyền dân chủ" thể hiện một
đòi hỏi cao về năng lực "làm chủ', đó là trình độ "dân trí" của nhân dân. Chỉ
khi ngời dân hiểu đợc "quyền dân chủ" của mình thì khi đó họ mới "dám
nói, dám làm".
- Đi đến dân chủ thực sự
Năm 1953, tại Hội nghị nông vận và dân vận, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã có bài phát biểu quan trọng. Mở đầu bài nói này, Ngời khẳng định: "Nớc
ta phải đi đến dân chủ thực sự" [43, tr. 25]. Trong điều kiện cụ thể của năm
1953, Ngời nói đến "dân chủ thực sự" với nội dung thực hiện cách mạng
ruộng đất, giải phóng nông dân khỏi ách áp bức, bóc lột của phong kiến địa
chủ. Tuy nhiên, ý nghĩa nhận thức luận của khái niệm này lại có tính phổ
biến. Không phải ngẫu nhiên, Hồ Chí Minh bổ sung tính từ "thực sự" bên
cạnh khái niệm "dân chủ" khi đề cập đến trạng thái dân chủ trong xã hội
Việt Nam ở thời kỳ này. ở đây, Ngời nói đến "dân chủ thực sự" là muốn
gián tiếp đối lập nó với một thứ dân chủ chung chung, hình thức, cha thực
sự hoặc không thực sự. Trong di sản t tởng mà Ngời để lại, khái niệm dân
chủ với các tính từ "thực sự", "thật sự", "đầy đủ" đợc sử dụng nhiều lần,

trong những hoàn cảnh khác nhau, thể hiện một quan niệm nhất quán về
tính chất của sự việc, đồng thời thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Ngời về
thực trạng của nền dân chủ trong xã hội.
11
Trong t duy của Hồ Chí Minh, "thực sự", "thật sự" phải là một thuộc
tính, một dấu hiệu không thể thiếu của Nhà nớc dân chủ và xã hội dân chủ.
"Bao giờ ở nông thôn nông dân thật sự nắm chính quyền, nông dân đợc giải
phóng thì mới là dân chủ thực sự" [43, tr. 25]; " phải thật sự bảo đảm nam
nữ bình quyền và dân tộc bình đẳng" [41, tr. 322]; "phải thật sự tôn trọng
quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không đợc lên mặt "quan cách
mạng", "ra lệnh, ra oai" [46, tr. 311].
Trong xã hội ta, "thật sự dân chủ" trở thành một điều kiện, một thớc đo
thực chất của chính quyền. Do vậy, thực hành dân chủ có ý nghĩa, tác dụng là
"chìa khóa vạn năng có thể giải quyết đợc mọi khó khăn" [47, tr. 249], qua
đó, Ngời chỉ rõ tầm quan trọng của phát huy dân chủ.
Nhà nớc ta phát huy dân chủ đến cao độ đó là do tính chất Nhà nớc
ta là Nhà nớc của nhân dân. Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động
viên đợc tất cả lực lợng của nhân dân đa cách mạng tiến lên Có dân chủ
mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến Dân chủ, sáng kiến,
hăng hái, ba điều đó rất quan trọng với nhau [41, tr. 244].
Tóm lại, với quan niệm: Dân chủ là "dân là chủ"; "dân làm chủ"
cùng với "thực hành dân chủ" Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh tới vị thế (là chủ)
và hành động (làm chủ) của ngời dân - ngời chủ xã hội trong mối quan hệ
với nhà nớc của dân, do dân và vì dân.
1.1.2. Bản chất dân chủ của Nhà nớc xã hội chủ nghĩa theo t tởng
Hồ Chí Minh
Nhà nớc dân chủ theo t tởng Hồ Chí Minh là một Nhà nớc dân chủ
kiểu mới, Nhà nớc do nhân dân lao động làm chủ. Trong t tởng của Ngời,
bản chất dân chủ của Nhà nớc kiểu mới có nội dung rất rộng và thể hiện cả
trong tổ chức và hoạt động của Nhà nớc. Bớc đầu nghiên cứu vấn đề này,

chúng tôi có thể khái quát thành những nội dung cơ bản sau đây.
12
1.1.2.1. Nhà nớc dân chủ là tổ chức chính trị của nhân dân do
nhân dân tổ chức ra
Với quan điểm: "Nớc ta là nớc dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì
dân làm chủ" [42, tr. 515], Hồ Chí Minh đã khẳng định việc nhân dân làm
chủ nhà nớc bằng con đờng tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu, trực tiếp, bỏ
phiếu kín. Hồ Chí Minh nhận thức tổng tuyển cử là một quyền chính trị mà
nhân dân giành đợc qua đấu tranh cách mạng, là hình thức dân chủ, thể hiện
năng lực thực hành dân chủ của nhân dân.
Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những
ngời có tài, có đức để gánh vác việc nớc nhà. Trong cuộc tổng tuyển cử, hễ
là ngời muốn lo việc nớc thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là ngời công dân thì
đều có quyền đi bầu cử
Do tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội, Quốc hội sẽ cử ra
Chính phủ. Chính phủ đó thật sự là Chính phủ của nhân dân [40, tr. 133].
Thông qua việc bầu Quốc hội và HĐND, nhân dân thực hiện quyền
lực của mình bằng hình thức dân chủ trực tiếp và gián tiếp, xây dựng nên
một nhà nớc hợp pháp theo ý nguyện của toàn dân.
Theo Hồ Chí Minh: "Chế độ tuyển cử chúng ta thực hiện dân chủ, đồng
thời thực hiện sự đoàn kết toàn dân. Mọi ngời công dân từ 18 tuổi trở lên đều
có quyền bầu cử, từ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử. Việc tuyển cử tiến hành
theo nguyên tắc phổ thông bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín" [45, tr. 591].
Với vai trò là một nội dung làm chủ nhà nớc của nhân dân, quyền
bầu cử, ứng cử đợc ghi rõ trong Hiến pháp năm 1945, Hiến pháp năm 1959
do Hồ Chí Minh chỉ đạo soạn thảo và ban hành.
Trong Hiến pháp năm 1946, quyền này đợc thể hiện trong
ba điều:
13
Điều thứ 17: Chế độ bầu cử là phổ thông đầu phiếu. Bỏ

phiếu phải tự do, trực tiếp và kín.
Điều thứ 18: Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên,
không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử, trừ những ngời
mất trí và mất công quyền. Ngời ứng cử là ngời có quyền bầu cử,
phải ít ra là 21 tuổi, và phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.
Công dân tại ngũ cũng có quyền bầu cử và ứng cử.
Điều thứ 19: Cách thức tuyển cử sẽ do luật định [57, tr. 10-11].
Chế độ tuyển cử đợc quy định tại Điều 5 của Hiến pháp năm 1959:
"Việc tuyển cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đều
tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, trực tiếp và bỏ phiếu kín" [57, tr. 27].
Và tại Điều 23 quy định:
Công dân nớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, không phân
biệt dân tộc, nòi giống, nam nữ, thành phần xã hội, tôn giáo, tín
ngỡng tình trạng tài sản, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn
c trú, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử, từ 21 tuổi trở lên đều
có quyền ứng cử, trừ những ngời mất trí hoặc những ngời bị tòa
án hoặc pháp luật tớc quyền bầu cử và ứng cử. Công dân đang ở
trong quân đội có quyền bầu cử và ứng cử [57, tr. 31-32].
Bầu cử và ứng cử trực tiếp các đại biểu vào cơ quan quyền lực nhà
nớc ở các cấp là một đặc điểm nổi bật trong tổ chức nhà nớc ở Việt Nam.
Dới sự lãnh đạo của bộ máy nhà nớc, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh,
các nguyên tắc Tổng tuyển cử đã đợc áp dụng nghiêm ngặt trong cuộc bầu
cử Quốc hội khóa I (6-1-1946).
Cuộc bầu cử Quốc hội khóa I mặc dầu đợc tiến hành trong một điều
kiện hết sức khó khăn, nhng đã đợc đánh giá là diễn ra đúng với tinh thần
dân chủ mà Hồ Chí Minh đã khởi xớng. Điều đó đợc thể hiện ở chỗ: tỷ lệ
14
cử tri đi bầu cử cao, bao gồm mọi thành phần, lứa tuổi, dân tộc (chiếm trên
90% danh sách cử tri), số lợng ứng cử viên nhiều, tạo ra khả năng lựa chọn
cho ngời dân. Trong thực tế, "tại kỳ bầu cử Quốc hội khóa I, ở Hà Đông có

14 đại biểu Quốc hội thì có 97 vị ra ứng cử, ở Nam Định có 15 đại biểu thì
có 70 vị ra ứng cử" [2, tr. 49].
Về độ tuổi đại biểu, có thể thấy, Quốc hội khóa I là một Quốc hội
có độ tuổi trung bình rất trẻ, thể hiện sức sống của một dân tộc đang vơn
lên sau giành đợc tự do, độc lập: Đại biểu từ 18 đến 25 tuổi chiếm 7%; đại
biểu từ 26 đến 40 tuổi chiếm 70%; đại biểu từ 41 đến 50 tuổi chiếm 18%;
đại biểu từ 51 đến 70 tuổi chiếm 5%.
Về yếu tố chính trị, Quốc hội khóa I có nhiều tổ chức chính trị, Đảng
phái tham gia: Đảng viên mác-xít có 10 đại biểu; đảng viên xã hội 27 đại
biểu; Đồng minh hội có 22 đại biểu; Việt Nam quốc dân Đảng có 26 đại biểu.
Đại biểu độc lập gồm: Chống phát xít (tiến bộ) có 82 đại biểu và xu hớng
quốc gia bảo thủ có 90 đại biểu [25, tr. 81-82, 102].
Về chất lợng đại biểu, Quốc hội khóa I đã phần nào đáp ứng đợc t t-
ởng chỉ đạo có tính nguyên tắc mà Hồ Chí Minh đã đề ra, đó là: "Có đủ
chất xám trong bộ máy chính quyền thì mới tăng đợc sức bật, sức bền của
khối xi măng cốt sắt đại đoàn kết toàn dân và xây dựng tổ quốc" [39, tr. 206].
Kết quả thành phần xã hội của đại biểu Quốc hội khóa I đã minh chứng cho
điều đó: Tri thức chiếm 61%; công kỹ nghệ chiếm 6%; buôn bán chiếm
5%; thợ thuyền chiếm 6%; nông dân chiếm 22% [25, tr. 81-82; 102].
Một đặc điểm không lặp lại của Quốc hội khóa I là: Vừa có bầu, lại
có cử. Ngoài 333 đại biểu bầu đợc trong ngày 06/01/1946, trong điều kiện
vận nớc hiểm nghèo, ngàn cân treo sợi tóc, để đoàn kết dân tộc Hồ Chí
Minh đề nghị giành 70 ghế Quốc hội cho Việt Nam quốc dân Đảng (Việt
Quốc) và Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt Cách) nhằm cô lập,
phân hóa các lực lợng chống đối và lôi kéo cả những ngời trong bộ máy nhà
15
nớc cũ tham gia xây dựng đất nớc. Đó là một quyết định có ý nghĩa vô cùng
to lớn, thể hiện t tởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng một Nhà nớc
đại đoàn kết dân tộc, vì mục tiêu cao cả của cách mạng đó là, giữ vững độc
lập tự do và từng bớc đa nớc nhà bớc vào thời kỳ quá độ lên XHCN.

Thắng lợi to lớn của cuộc tổng tuyển cử chính là đã lựa
chọn đợc các đại biểu xứng đáng của mình vào cơ quan quyền lực
nhà nớc cao nhất. Ngời dân đã biết "chọn mặt gửi vàng", ủng hộ
lãnh tụ, chấp nhận những quyết sách đúng đắn, tởng chừng nh
nghịch lý mà ngời ngoài cuộc không bao giờ hiểu đợc. Vấn đề
này đợc Hồ Chí Minh lý giải ngắn gọn, sắc sảo nhng lại đầy tính
biện chứng, một loại biện chứng trong t duy, phản ánh chính xác
phép biện chứng chính trị và hiện thực cuộc sống nớc ta lúc bấy
giờ.
Về ý nghĩa lịch sử thắng lợi của cuộc bầu cử Quốc hội khóa I, Hồ
Chí Minh có những đánh giá xác đáng và khái quát:
Cuộc Quốc dân đại biểu đại hội này lần đầu tiên trong
lịch sử của nớc Việt Nam ta. Nó là kết quả của cuộc Tổng tuyển
cử ngày 6 tháng 1 năm 1946 mà cuộc Tổng tuyển cử lại là cái kết
quả của sự đoàn kết của toàn thể đồng bào không kể già trẻ, lớn
bé, gồm tất cả các tôn giáo, tất cả các dân tộc trên bờ cõi Việt
Nam đoàn kết chặt chẽ thành một khối hy sinh không sợ nguy
hiểm tranh lấy nền độc lập cho tổ quốc [39, tr. 85-86].
1.1.2.2. Nhà nớc dân chủ là Nhà nớc đảm bảo cho nhân dân
tham gia quản lý nhà nớc và quản lý xã hội
Bản chất dân chủ của Nhà nớc không chỉ thể hiện ở việc nhân dân tự
tổ chức nên bộ máy nhà nớc, mà còn thể hiện đậm nét, đa dạng ở việc huy
16
động đợc sự tham gia đông đảo của nhân dân vào quản lý các công việc của
Nhà nớc.
Trình bày báo cáo trớc Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1959,
trong phần về tổ chức nhà nớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: "Nhà nớc phải phát huy quyền dân chủ, phát huy tính
tích cực và sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi ngời công dân Việt Nam
thực sự tham gia quản lý công việc nhà nớc" [45, tr. 590].

Xét từ góc độ thực thi quyền lực, việc bảo đảm cho nhân dân tham
gia quản lý các công việc nhà nớc là một hình thức thực hiện dân chủ đặc
thù, thể hiện bản chất tiến bộ của Nhà nớc ta - Nhà nớc của dân, do dân và
vì dân.
Trong các tác phẩm của mình, tuy Hồ Chí Minh không trực tiếp đề
cập đến các phạm trù, khái niệm dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp, nhng
điều đó hoàn toàn không có nghĩa là Ngời không có sự quan tâm đến các
phạm trù rất cơ bản này. Ngời thờng đề cập đến những phơng thức phổ biến
thực hành dân chủ nh: "Đa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách
giải quyết .Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích
cho dân chúng" [41, tr. 297].
Hồ Chí Minh nói nhiều đến yêu cầu nâng cao tinh thần trách nhiệm
công dân, làm chủ từ phía ngời dân và việc từ bỏ các tệ quan liêu, hách
dịch, xem thờng, khinh miệt quần chúng, vô tâm, tắc trách trớc các nhu cầu
của nhân dân từ phía các cơ quan, nhân viên nhà nớc. Ngời lu ý rằng: "Có
ngời thờng cho dân là dốt không biết gì, mình là thông thái, tài giỏi. Vì vậy,
không thèm học hỏi dân chúng, không thèm bàn bạc với dân chúng. Đó là
một sai lầm nguy hiểm lắm " [41, tr. 295]. Đồng thời, Ng ời nhắc nhở:
"Chúng ta tuyệt đối không theo đuôi quần chúng" [41, tr. 298].
Dân chúng không nhất luật nh nhau. Trong dân chúng, có
nhiều từng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau,
17
có lớp tiên tiến, có lớp chừng chừng, có lớp lạc hậu. Vì vậy, không
phải dân chúng nói gì, ta cũng nhắm mắt theo. Ngời cán bộ cũng
phải dùng cách so sánh của dân chúng mà tự mình so sánh Chọn
lấy ý kiến đúng, đa ra cho dân chúng bàn bạc, lựa chọn lại, để
nâng cao dần dần sự giác ngộ của dân chúng.
Luôn luôn phải theo tình hình thiết thực của dân chúng
nơi đó và lúc đó, theo trình độ giác ngộ của dân chúng, theo sự
tình nguyện của dân chúng mà tổ chức họ, tùy hoàn cảnh thiết

thực trong nơi đó và lúc đó đa ra tranh đấu [41, tr. 296-298].
Trong phát huy quyền dân chủ trực tiếp, huy động sự tham gia của
nhân dân vào quản lý nhà nớc thì vấn đề niềm tin của dân đối với chính
quyền và của chính quyền đối với dân là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, trong
thực tế vấn đề hoàn toàn không đơn giản, ngoài những lý do nhận thức sai
lệch, còn có tình trạng nh Hồ Chí Minh đã chỉ ra: "Những cán bộ có khuyết
điểm thờng sợ dân nói" [47, tr. 213] còn ngời dân cha nói hoặc không giám
nói, vì sợ cán bộ "trù" cán bộ "chụp mũ" hoặc do cách lãnh đạo không dân
chủ nên:
Đối với cơ quan lãnh đạo, đối với ngời lãnh đạo, nhân
dân, cán bộ dù có ý kiến cũng không giám nói, dù muốn phê
bình cũng sợ, không giám phê bình họ không nói, không phải
vì họ không có ý kiến nhng vì họ nghĩ nói ra cấp trên cũng không
nghe, không xét, có khi lại bị "trù" là khác.
Họ không giám nói ra thì họ cứ để trong lòng, rồi sinh ra
uất ức, chán nản. Rồi sinh ra "không nói trớc mặt, chỉ nói sau l-
ng", "trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng nhiều mồm", sinh ra thói
thậm thà thậm thụt và những thói xấu khác [41, tr. 243].
Một trong những hình thức thực hành dân chủ trực tiếp là quyền
giám sát, thanh tra của nhân dân. Hình thức thực hiện dân chủ quan trọng
18
này đã đợc ghi nhận trong các bản Hiến pháp của nớc ta và đã đợc thể chế
hóa thành các văn bản dới luật khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng tác
dụng của công tác giám sát, thanh tra, Ngời nói:
Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, muốn biết
các nghị quyết có đợc thi hành không, thi hành có đúng không,
muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách là
khéo kiểm soát. Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra
hết, hơn nữa, kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định sẽ bớt
đi [42, tr. 287].

Kiểm soát có hai cách: "Từ trên xuống và từ dới lên. Kiểm soát từ d-
ới lên do quần chúng thực hiện. Đây là cách tốt nhất để kiểm soát các nhân
viên" [41, tr. 286-287].
Phải nói rằng, đợc sự giáo dục, chăm lo thờng xuyên của Chủ tịch
Hồ Chí Minh mà bản thân Ngời là một mẫu mực nêu gơng sáng về mối
quan hệ giữa nhà nớc với nhân viên nhà nớc và nhân dân, dù trong điều kiện
ác liệt của chiến tranh kéo dài và chính quyền non trẻ, một loại quan hệ "cá
với nớc" đã trở thành một truyền thống tốt đẹp trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nớc, điều mà ngày nay trở thành nh một điểm sáng để
chúng ta noi theo và thực hiện.
1.1.2.3. Nhà nớc dân chủ là Nhà nớc trong đó nhân dân có quyền
bãi miễn những ngời không xứng đáng trong bộ máy nhà nớc
Trong t tởng Hồ Chí Minh, quyền lực tối cao của nhân dân không
chỉ thể hiện ở việc bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp mà còn ở quyền bãi
miễn họ, kiểm soát, giám sát hoạt động của các đại biểu.
Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã đề cao
một giá trị có ý nghĩa toàn nhân loại của cách mạng Mỹ 1776: "Giời sinh ra
ai cũng có quyền tự do, quyền giữ tính mệnh của mình, phải làm ăn cho
19
sung sớng Chính phủ nào có hại cho dân chúng, thì dân chúng phải đạp
đổ Chính phủ ấy đi, và gây nên Chính phủ khác" [37, tr. 270].
Sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh nhắc lại nguyên tắc này
nhng với tinh thần mới, xây dựng Nhà nớc pháp quyền dân chủ kiểu mới
của nhân dân, do nhân dân làm chủ: "Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có
quyền đuổi Chính phủ" [41, tr. 60].
Cơ chế bãi miễn dân chủ này nhằm làm cho Quốc hội bảo đảm đợc
sự trong sạch, giữ đợc phẩm chất, năng lực hoạt động, Hồ Chí Minh nêu rõ:
"Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân
dân đối với Nhà nớc" [45, tr. 591].

Hồ Chí Minh ý thức sâu sắc rằng, đây là nội dung làm chủ rất khó
khăn nhng thể hiện rất rõ t cách là chủ nhà nớc và năng lực thực hành dân
chủ của quần chúng lao động.
Với vai trò làm chủ nhà nớc, thực hiện sự ủy quyền của nhân dân,
các đại biểu đợc bầu ra phải có trách nhiệm gần gũi, sâu sát để hiểu dân,
lắng nghe ý kiến của nhân dân, với tinh thần trách nhiệm bàn bạc và giải
quyết những vấn đề thiết thực cho quốc kế dân sinh. Theo quan điểm Hồ
Chí Minh, để thể hiện nhân dân lao động làm chủ nhà nớc thì đại biểu do
dân bầu ra phải có mối liên hệ thờng xuyên, bằng nhiều "kênh" khác nhau
với nhân dân, thoát ly khỏi mối liên hệ này, Nhà nớc rất dễ rơi vào quan
liêu, trì trệ, đứng trên nhân dân, trái với bản chất dân chủ đích thực vốn có
của Nhà nớc kiểu mới. Thông qua tổng tuyển cử, bầu và có thể bãi miễn đại
biểu do mình bầu ra, quyền chính trị cơ bản của nhân dân đợc bảo đảm,
nhân dân thực hiện vai trò làm chủ nhà nớc, đứng ra tổ chức và xây dựng
Nhà nớc kiểu mới của mình.
Trong t tởng Hồ Chí Minh, Nhà nớc của dân, do nhân dân làm chủ
còn bao hàm một nội dung khác, đó là nhân dân có quyền kiểm soát nhà n-
20
ớc; thực hiện chức năng kiểm soát nhà nớc, nhân dân đợc đặt ở vị trí tối th-
ợng, có quyền đợc bảo đảm trên thực tế chứ không phải trên danh nghĩa, lời
nói. Hồ Chí Minh viết: "Chính phủ ta là Chính phủ của nhân dân, chỉ có
một đích là phụng sự cho lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng
bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình
là ngời đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân" [43, tr. 361].
Là ngời làm chủ nhà nớc, nhân dân có quyền thông qua cơ chế dân
chủ thực thi quyền lực, nhng đồng thời nhân dân phải có nghĩa vụ xây dựng
và bảo vệ nhà nớc, làm cho Nhà nớc ngày càng hoàn thiện, trong sạch, vững
mạnh. Hồ Chí Minh đề cập đến mặt thứ hai này của quyền dân chủ với tinh
thần nhất quán và triệt để cách mạng, Ngời cho rằng:
Chế độ ta là chế độ dân chủ, nhân dân là chủ Chính phủ là

đầy tớ của nhân dân, nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình
Chính phủ. Chính phủ thì việc to việc nhỏ đều nhằm mục đích
phục vụ lợi ích của nhân dân. Vì vậy, nhân dân lại có nhiệm vụ
giúp đỡ Chính phủ, theo đúng kỷ luật của Chính phủ và làm đúng
chính sách của Chính phủ, để Chính phủ làm tròn phận sự mà
nhân dân đã giao phó [43, tr. 368].
Nét độc đáo của Hồ Chí Minh là ở chỗ quan niệm nghĩa vụ công
dân không chỉ trên tinh thần luật pháp, mà còn cả trên bình diện đạo đức,
nhân cách công dân. Ngời chỉ rõ: "Nớc ta là nớc dân chủ, nghĩa là nớc nhà
do nhân dân làm chủ. Nhân dân có quyền làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm
tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân" [43, tr. 542].
ý thức làm chủ, thực hiện nghĩa vụ làm chủ phải trở thành hành
động tự giác, thấm sâu vào mỗi ngời, trong từng công việc cụ thể, hàng
ngày Hồ Chí Minh lu ý rằng:
Đã là ngời chủ Nhà nớc thì phải chăm lo việc nớc nh
chăm lo việc nhà. Ngời công nhân phải yêu quý máy móc nh yêu
21
quý con mình, ngời nông dân yêu quý trâu bò của hợp tác xã nh
bản thân của mình. Mọi ngời phải biết giữ gìn của công, phải
chăm lo việc tập thể nh chăm lo việc gia đình.
Đã là ngời chủ thì phải biết tự mình lo trong gánh vác,
không ỷ lại, không ngồi chờ. Mọi ngời phải ra sức góp công, góp
của để xây dựng nớc nhà. Chớ nên "ăn cỗ đi trớc, lội nớc đi sau"
[46, tr. 310].
1.1.2.4. Nhà nớc dân chủ là nhà nớc thực hiện nguyên tắc công
khai, lắng nghe ý kiến của nhân dân
Thực hiện nguyên tắc công khai, lắng nghe ý kiến nhân dân trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nớc kiểu mới là một trong những nội
dung cơ bản nhằm dân chủ hóa tổ chức hoạt động của Nhà nớc, bảo đảm
nhà nớc thật sự là của dân, do dân, vì dân. Thực hiện tốt nguyên tắc này đòi

hỏi mọi hoạt động của bộ máy nhà nớc phải công khai để dân biết. Đồng
thời trong quá trình tổ chức thực hiện các chủ trơng, chính sách, pháp luật,
kế hoạch, các quyết định của cơ quan nhà nớc phải lắng nghe, tiếp thu và
giải quyết ý kiến, nguyện vọng và những nhận xét, đánh giá của quần
chúng nhân dân.
Thực hiện công khai hóa tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà n-
ớc là bảo đảm cho nhân dân lao động có điều kiện hiểu biết, nhận thức và
phân tích các hoạt động của bộ máy nhà nớc. Ngời dân có thể bày tỏ ý kiến,
thảo luận và đánh giá các hoạt động đó, phát huy quyền làm chủ của mình
trong xây dựng nhà nớc và tham gia quản lý nhà nớc. Ngợc lại, các cơ quan
nhà nớc, cán bộ nhân viên nhà nớc phải gần dân, trọng dân, lắng nghe ý
kiến của nhân dân chính là để kiểm tra, đánh giá lại chủ trơng, chính sách
và các hoạt động của mình. Có nh vậy mới kịp thời sửa đổi, bổ sung, uốn
nắn những chủ trơng, chính sách và hoạt động đó cho phù hợp.
22
Giá trị của nguyên tắc này đã đợc ghi nhận ở Hiến pháp năm 1945,
đó là điều khoản quy định hình thức công khai của các kỳ họp Nghị viện:
"Nghị viện họp công khai, công chúng đợc vào nghe. Các báo chí đợc phép
thuật lại các thảo luận và quyết nghị của Nghị viện. Trong những trờng hợp
đặc biệt, Nghị viện có thể quyết định họp kín" [57, tr. 13].
Cũng ở Hiến pháp năm 1946, Điều 32 khẳng định nguyên tắc này
và còn quy định về chế độ trng cầu dân ý: "Những việc quan hệ đến vận
mệnh quốc gia sẽ đa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số Nghị
viện đồng ý [57, tr. 40-41].
Công khai mọi tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nớc không có
nghĩa là công khai cả những vấn đề thuộc bí mật quốc gia, dân tộc. Tuy
nhiên, thực hiện nguyên tắc này phải đặc biệt quan tâm tình hình tổ chức,
hoạt động của chính bộ máy nhà nớc. Ngoài việc công khai hóa những vấn
đề chủ trơng chính sách, pháp luật, lập kế hoạch còn phải kịp thời công khai
cả những yếu kém, khuyết điểm, thiếu sót của bộ máy nhà nớc, cán bộ công

chức nhà nớc. Không vì sợ mất uy tín mà để xử lý nội bộ, rút kinh nghiệm nội
bộ, che giấu những yếu kém, khuyết điểm đó. Trái lại, càng thẳng thắn vạch
rõ và xử lý nghiêm minh, kịp thời những yếu kém, khuyết điểm của bộ máy
nhà nớc, của cán bộ, công chức sẽ làm cho bộ máy nhà nớc trong sạch,
vững mạnh, càng củng cố uy tín của Nhà nớc đối với nhân dân.
Ngay trong kỳ họp thứ 2 - Quốc hội khóa I (tháng 11 năm 1946),
Hồ Chí Minh đã nói:
Chính phủ hiện thời đã cố gắng liêm khiết lắm. Nhng
trong Chính phủ từ Hồ Chí Minh cho đến những ngời làm việc ở
các ủy ban làng hiện đông và phức tạp lắm. Dù sao Chính phủ đã
hết sức làm gơng và nếu làm gơng không xong thì sẽ dùng pháp
luật mà trị những kẻ ăn hối lộ, đã trị, đơng trị và sẽ trị cho kỳ hết
[40, tr. 158].
23
Hồ Chí Minh nhiều lần phê phán cán bộ, đảng viên không chấp
hành pháp luật của Nhà nớc, làm gơng xấu cho quần chúng. Việc lợi dụng
quyền thế vi phạm pháp luật cũng đợc Ngời chỉ ra:
Có cán bộ đảng viên lợi dụng quyền thế của Đảng và Nhà
nớc làm những việc trái với chính sách và pháp luật, xâm phạm
đến lợi ích và vật chất cũng nh quyền tự do dân chủ của nhân dân,
nhng cũng cha bị xử lý kịp thời nh vậy là kỷ luật cha nghiêm
[45, tr. 207].
Đối với Hồ Chí Minh, việc thởng phạt phải nghiêm minh, bởi vì:
Cán bộ ta nhiều ngời tận tụy, hết sức trung thành với
nhiệm vụ, với Chính phủ, với Quốc dân. Nhng cũng có ngời hủ
hóa, lên mặt làm quan cách mạng, hoặc là độc hành, độc đoán,
hoặc là dĩ công dinh t. thậm chí dùng phép công để báo thù t, làm
cho dân oán đến Chính phủ và đoàn thể trong một n ớc thởng
phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến
mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công [40, tr. 163].

1.1.2.5. Nhà nớc dân chủ là Nhà nớc trong đó nhân dân có quyền
kiểm tra, giám sát, nhận xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan nhà n-
ớc và cán bộ, công chức nhà nớc
Không chỉ xác định từ làm chủ, là chủ của nhân dân đối với Nhà nớc,
Hồ Chí Minh còn giải thích rất cụ thể mối quan hệ giữa Nhà nớc với nhân
dân trong nhiệm vụ phục vụ nhân dân: "Chính phủ cộng hòa dân chủ là gì? là
đầy tớ chung của dân, từ Chủ tịch toàn quốc đến làng. Dân là chủ thì Chính
phủ phải là đầy tớ. Làm việc ngày nay không phải để thăng quan phát tài.
Nếu Chính phủ hại đến dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ" [41, tr. 60].
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng khẳng định ngay trọng trách là chủ
và làm chủ của nhân dân: " khi dân cùng đầy tớ làm việc thì phải giúp đỡ
24
Chính phủ. Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình Chính phủ, phê bình nhng
không phải là chửi" [41, tr. 60].
Làm thế nào để nhân dân giao quyền mà không mất quyền, các cơ
quan nhà nớc đợc giao quyền mà không tiếm quyền dân và phải thực hiện
tốt nhiệm vụ phục vụ nhân dân, phát huy dân chủ, phát triển quyền dân chủ
và sinh hoạt chính trị của nhân dân ? Hồ Chí Minh đã xác định rất rõ mối
quan hệ giữa cơ quan đại diện quyền lực của nhân dân với nhân dân, chỉ ra
cơ chế và phơng pháp hoạt động để chính quyền thực hiện tốt nhiệm vụ của
mình. Ngời nói: "Chính phủ ta là Chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục
đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân, Chính phủ rất mong đồng bào
giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là
ngời đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân" [43, tr. 361-362].
Quan điểm đó chỉ ra sự tác động qua lại giữa nhân dân - Nhà nớc
trên tất cả các lĩnh vực của xã hội, đồng thời chỉ rõ vai trò, trách nhiệm làm
chủ của nhân dân đối với các hoạt động của Nhà nớc dân chủ. Việc giúp đỡ,
đôn đốc, kiểm soát và phê bình các hoạt động của Nhà nớc đợc thực hiện
thể hiện vai trò, trách nhiệm đó. Mặt khác, Nhà nớc phải có nhiệm vụ tạo ra
những điều kiện ngày càng tốt hơn để nhân dân thực hiện đầy đủ vai trò,

trách nhiệm của mình.
Tạo ra những điều kiện thực tế và ngày càng hoàn thiện hơn để nhân
dân thực hiện đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình là biện pháp tốt nhất để
phát huy tính chủ động và tính tích cực chính trị trong nhân dân. Vì theo Hồ
Chí Minh, kháng chiến, kiến quốc hay đổi mới và xây dựng đất nớc đều là
sự nghiệp của dân và trách nhiệm của dân, mọi lực lợng và quyền hạn đều ở
nơi dân. Ngời đã giải thích:
Chế độ ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ, Chính phủ
là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình
Chính phủ. Chính phủ thì việc to việc nhỏ đều nhằm mục đích
25

×