Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Luận văn tốt nghiệp ngữ văn cái tôi trong thơ tú xương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.63 KB, 58 trang )

Cái tôi trong thơ Tú Xương
Mục Lục
Trang
Mở đầu 02
1. Lý do chọn đề tài 02
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 03
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 03
4. Mục đích nghiên cứu 03
5. Phương pháp nghiên cứu 03
6. Đóng góp của luận văn 04
7. Cấu trúc của luận văn 04
Chương 1 V ị trí thơ văn tú xương trong văn học
trung đại Việt Nam 05
1.1.Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác 05
1.1.1.Cuộc đời 05
1.1.2.Sự nghiệp sáng tác 07
1.2.Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật trong thơ văn Tú Xương 08
1.2.1. Giá trị nội dung 08
1.2.2. Giá Trị nghệ thuật 21
1.4. Tiểu kết 29
Chương 2 Cái tôi trong thơ Tú Xương 30
2.1. Cái tôi phản tỉnh trong thơ trào phúng 30
2.1.1. Cái tôi ăn chơi 31
2.1.2. Cái tôi ngông nghênh 36
2.2. Cái tôi suy tư, dằn vặt trong thơ trữ tình 42
2.2.1. Cái tôi bế tắc, tuyệt vọng 42
2.2.2. Cái tôi cô đơn và tâm sự yêu nước thầm kín 47
2.3. Tiểu kết 56
Kết luận 57
Tài liệu tham khảo 58
1


Cái tôi trong thơ Tú Xương
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tú Xương là một trong những nhà thơ lớn của văn hoc Việt Nam cuối
thế kỉ XIX. Cuộc đời của ông ngắn ngủi, đầy bất hạnh lận đận trong nghiệp
thi cử nổi ám ảnh nhất đời của ông. Ông lại sống trong xã hội giao thời đầy bi
kịch.Giữa hai chế độ thực dân và phong kiến .
Thơ văn Tú Xương phản ánh mặt trái của thời đại, đồng thời cũng nêu
lên được tâm sự chung của tầng lớp Nho sĩ cuối mùa thất thế.Ngoài mảng thơ
trào phúng Tú Xương còn có một bộ phận sáng tác viết về bản thân mình.
Ông viết về cuộc sống tâm tư tình cảm của bản thân, ở đây cái tôi cá nhân Tú
Xương thể hiện rất rõ nhưng dường như có sự mâu thuẫn trong cái tôi ấy.
Ở mảng thơ trào phúng, cái tôi của ông là cái tôi ngông nghênh ăn chơi
bừa bãi vô trách nhiệm và cường điệu hóa những mặt tiêu cực và nhược điểm
của bản thân mình. Nhưng bên cạnh một Tú Xương ngông nghênh vô trách
nhiệm trước thời cuộc, thì chúng ta lại bắt gặp một Tú Xương thể hiện được
cái tôi cô đơn bế tắc, bất lực và đầy tuyệt vọng nhưng luôn tha thiết với vận
mệnh của đất nước, dân tộc .
Để nắm vững giá trị nội dung và nghệ thuật thơ Tú Xương. Cũng như
phát hiện nét độc đáo trong cái tôi của ông được thể hiện trong thơ.Nên chúng
tôi chọn đề tài cái tôi trong thơ Tú Xương làm luận văn tốt nghiệp cuối khóa .
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Thơ Tú Xương là một hiện tượng độc đáo của văn học nước nhà, vì vậy
từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả về thơ ông,
tiêu biểu là các công trình nghiên cứu sau:
Công trình nghiên cứu Thân thế và thơ Văn Tú Xương của Vũ Đăng
Văn (1951).
Tiếp đến, Khảo luận về Trần Tế Xương của Nguyễn Đình Chú và Lê
Mại do NXB Giáo dục phát hành năm 1984.
2

Cái tôi trong thơ Tú Xương
Đến năm 1997, có công trình Tú Xương con người và tác phẩm của
Ngô Văn Phú NXB Hội nhà văn phát hành.
Trong giáo trình văn học Việt Nam nữa cuối thế kỉ XVII I- hết XIX của
Nguyễn Lộc phát hành Năm 1997 [ Tr,765-798] tác giả đề cập những nét cơ
bản về giá trị nội dung và nghệ thuật thơ Tú Xương.
Năm 2000 hai tác giả Phạm Trọng Thanh và Giang Phong đã cho xuất
bản Tú Xương ắt hẳn nghìn thu tiếng hãy còn.
Đến năm 2003 NXB Giáo dục đã tổng hợp nhiều công trình nghiên cứu
và bài viết của các tác giả được tuyển tập lại trong Trần Tế Xương về tác gia
và tác phẩm.
Ngoài ra còn có rất nhiều bài viết của các tác giả được đăng trên các
tạp chí đã đề cập đến cuộc đời sự nghiệp, thời đại, cái hay cái đẹp trong thơ
của ông như: Trần Thanh Mại, Tú Mỡ, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Nguyễn
Công Hoan, Trần Mạnh Hảo, Chế Lan Viên…
Tuy nhiên chưa có một công trình nào đề cập đến cái tôi trong thơ Tú
Xương một cách hệ thống.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối Tượng nghiên cứu của luận văn là cái tôi qua một số sáng tác tiêu
biểu của ông như: Tự trào, Tự cười mình, Đau mắt, Than nghèo, Đêm hè,
Đêm dài, Chợt giấc… được tập hợp in trong giáo trình văn học Việt Nam nữa
cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX của giáo sư Nguyễn Lộc do NXB Giáo
dục phát hành năm 1997 [Tr,765-798], và một số tài liệu có liên quan để bài
viết thêm phong phú.
4. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát một cách hệ thống về cái tôi trong thơ Tú Xương. Qua đó thấy
được con người của ông với đầy nỗi niềm tâm sự của cá nhân mình. Đồng
thời, khẳng định vị trí của ông đối với văn học trung đại Việt Nam nử a cuối
thế kỷ XIX.
5. Phương pháp nghiên cứu

3
Cái tôi trong thơ Tú Xương
Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau cơ bản sau đây:
Phương pháp tiếp cận văn bản và phương pháp phân tích tổng hợp, phương
pháp đối chiếu so sánh.
6. Đóng góp của luận văn
Qua việc khảo sát về cái tôi trong thơ Tú Xương để thấy được nét độc
đáo giữa cái tôi trữ tình và cái tôi phản tỉnh của ông. Trên cơ sở đó giúp
chúng tôi có những hiểu biết sâu sắc hơn về giá trị nội dung và nghệ thuật, và
cũng như về nhân cách của Tú Xương được thể hiện trong thơ. Điều này, sẽ
giúp ích rất nhiều trong việc giảng dạy của chúng tôi sau này.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo luận văn sẽ được
triển khai trong hai chương sau đây:
Chương1: Vị trí thơ văn Tú Xương trong văn học trung đại Việt Nam
Chương 2: Cái tôi trong trong thơ Tú Xương
4
Cái tôi trong thơ Tú Xương
Chương 1
VỊ TRÍ THƠ VĂN TÚ XƯƠNG TRONG VĂN HỌC
TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
1.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
1.1.1. Cuộc đời
Tú Xương chính tên là Trần Duy Uyên, tự là Mặc Trai, hiệu là Mộng
Tích, khi đi thi Hương lấy tên là Tế Xương, khoa cuối cùng lấy tên là Trần
Cao Xương để mong thi đỗ như vẫn cứ thi hỏng. Ông đã phải thốt lên rằng:
"Tế đổi làm Cao mà chó thế
Kiện ra trong tiệp hỡi trời ơi"
Ông sinh ngày 10 tháng 8 Năm canh Ngọ (1870) tức là ngày 5 tháng 9
năm 1870 ở làng Vị xuyên, huyện Mỹ Lộc tỉnh Nam Định cũ nay là phố Hàng

Nâu, thuộc khu Định Hữu trong một gia đình đông con nhà nghèo. Ông thân
sinh của nhà thơ là Trần Duy Nhuận, một người có đi học, đi thi nhưng không
đỗ đạt gì.Về sau làm tự thừa giúp việc trong dinh Đốc học Nam Định .
Tú Xương khôi ngô hoạt bát thông minh, tính tình phóng khoáng ăn nói có
duyên, đặc biệt là khiếu hài hước và thường hay châm biếm khác người. Ông
lấy vợ sớm, vợ là Phạm Thị Mẩn, một người phụ nữ tảo tần có tiếng.
Ông xuất thân Nho gia nên sớm đã theo đòi Khổng học. Năm 15 tuổi đi
thi Hương nhưng không đậu. Hai khoa tiếp theo cũng trượt cả hai. Mãi đến khoa
Giáp ngọ năm 1894, ông mới đậu tú tài, năm ấy nhà thơ 24 tuổi. Trong bài "Phú
hỏng thi", ông đã thuật lại sự việc này một cách khôi hài thật chua xót:
"Tú rớt bảng trong năm Giáp ngọ, nổi tiếng tài hoa
Con nhà dòng ở đất Vị Xuyên, ăn phần cổ nọng".
Thời bấy giờ mảnh bằng tú tài may lắm là có thể làm thầy đồ dạy học,
chứ không làm được chức quan gì nên nhà thơ lại tiếp tục vác lều chỏng đi thi
mong kiếm chút cử nhân mới có thể làm việc được. Nhưng các khoa thi sau từ
năm 1897, năm 1900, năm 1903, năm 1906 cứ ba năm một lần ông lại có mặt
5
Cái tôi trong thơ Tú Xương
tại trường thi không bỏ sót khoa nào nhưng vẫn trượt. Đến khoa thi tiếp thì
không còn ai thấy mặt nhà thơ nữa vì ông đã từ trần trước đó hai năm trong
một trường hợp rất đặc biệt. Ngày rằm tháng chạp năm Bính ngọ tức ngày 20
tháng 1 năm 1907 Tú Xương về quê ngoại ăn giỗ đi đường gặp mưa, trời lại
rét. Ông bị cảm nặng không chạy chữa kịp, ông mất ngay đêm ấy tại nhà họ
ngoại, thuộc làng Đại Tứ huyện Mỹ Lộc tỉnh Nam Định.
Đối với Tú Xương, dấu ấn thi cử đậm nét trong cuộc đời ngắn ngủi của
ông. Tú Xương đã phản ánh trong thơ của mình về nghiệp thi cử, thái độ của
ông lúc đầu có vẻ chế giễu cười đùa, nhưng càng về sau thì không còn cười
đùa nữa mà là cay đắng chua xót và tủi nhục.
Khoa thi Canh tý (năm 1900) ông hỏng thi nên rất bực dọc "Đau quá
đòn hằn, Rát hơn lửa bỏng" nhà thơ cảm thấy thẹn với bản thân "Hổ bút hổ

nghiên, Hổ lều hổ chõng, Nghĩ đến chữ Nam nhi đắc chí thêm nổi thẹn thùng,
Ngẫm đến câu Quyền thổ trùng lai nói ra ngập ngọng". Ông lại tự an ủi bản
thân mình "Thế mới biết học tài thi phận, miệng đàn bà con trẻ nói vậy mà
thiêng nào ai ngờ chữ tốt văn hay, tài bảng nhãn thám hoa lỡ ra cũng hỏng…"
Đến khoa Quý mão (năm 1903) thì nhà thơ đã thở dài thất vọng:
"Trách mình phận hẩm lại duyên ôi,
Đổ suốt hai trường hỏng một tôi"
(Hỏng thi)
Đến khoa thi cuối cùng của cuộc đời ông, tiếng thở dài lại càng não
ruột hơn nhiều qua bài thơ "Buồn thi hỏng":
"Bụng buồn còn muốn nói năng chi,
Đệ nhất buồn là cái hỏng thi!
Một việc văn chương thôi cũng nhảm,
Trăm năm thân thế có ra gì?"
Ngoài việc thi cử cuộc đời nghèo túng của gia đình cũng để lại dấu ấn
đậm nét trong thơ Tú Xương. Gia đình ông có tám người con, sáu trai hai gái,
tất cả đều do người vợ tảo tần nuôi con. Quanh năm buôn bán nơi đầu sông
6
Cái tôi trong thơ Tú Xương
cuối bể, đảm đang chịu thương chịu khó để nuôi chồng ăn học, cùng với một
đàn con dại.
Ông Tú vẫn có tiền để ăn tiêu nhưng lúc nào cũng túng thiếu. Nhà thơ
đã ghi lại cảnh nghèo của gia đình mình một cách chân thật, nợ nần luôn đeo
bám nhà thơ "Van nợ lắm khi trào nước mắt", lúc nào cũng phải lo cuộc sống
từng ngày vì thiếu thốn "Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi".
Nguyễn Công Trứ ngày xưa đã ngửa tay đi vay mượn bọn phú hộ để
mà chịu nhục:
"Gặp khi chân sẩy đường cùng, nên phải tới cửa này cửa nọ.
Than thở to to nhỏ nhỏ, ta đã mỏi cẳng ngồi chờ
Dần dà nọ nọ kia kia nó cũng vuốt râu làm bộ"

(Hàn nho phong vị phú)
Cho hay đời nào cũng thế, cái cảnh của những người tài danh mà phải
chịu lụy những kẻ trọc phú quả là những bức tranh thiên cổ. Nó tượng trưng
cho nỗi nhọc nhằn của những người có tài mà phải gặp cảnh nghèo khó.
Hỏng thi, nghèo túng và cuộc đời riêng chẳng ra gì của nhà thơ lại trôi
qua từng ngày ở một nơi đô hội, cuộc sống lúc nào cũng là quần là áo lượt
vang lên tiếng guốc giày. Nhà thơ chạy theo nó nhưng càng ngày lại càng đối
lập gay gắt với nó. Từ cảnh ngộ riêng của cá nhân của gia đình ông lại đến
gần với cảnh ngộ của quần chúng. Nhà thơ thấy rõ cuộc đời đầy đen bạc xấu
xa của xã hội. Tiếng thơ của ông mang tính tố cáo đanh thép xã hội bấy giờ.
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Tú Xương sống vào giai đoạn thoái trào của phong trào Cần Vương.
Thực dân Pháp bắt đầu công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Cuộc đời
ông bất hạnh nghèo khổ thất bại trên con đưòng thi cử lại sống giữa một thành
phố đã chịu sự chi phối của thực dân nửa phong kiến với nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa dưới hình thức thuộc địa bắt đầu hình thành. Gắn liền với sự thay
đổi trong cơ cấu kinh tế là sự thay đổi trong sinh hoạt, trạng thái tâm lí xã hội.
Đây là lúc ông làm thằng, thằng làm ông là lúc "cô Thống cô Thông" (Hà
7
Cái tôi trong thơ Tú Xương
thành thất thủ ca), cô Tư Hồng (thơ Nguyễn Khuyến) cậu bồi, cậu bếp, thầy
thông, thầy kí …bất tài vô dụng sẽ lên làm anh chị nghênh ngang lên mặt với
đời. Và đây cũng là lúc nho phong tàn tạ, sĩ khí tiêu tan, bút lông hết được săn
đón, mọi giá trị cũ đang sụp đổ trước uy lực của đồng tiền. Đến lúc này "có
tiền mua tiên cũng được" Tú Xương đã chứng kiến thực trạng xã hội lúc bấy
giờ. Chính nó đã chi phối cuộc đời, tác động đến tâm lí Tú Xương, ông rất
nhạy bén với thực trạng đó để đưa vào thơ của mình. Tú Xương để lại khá
nhiều thơ, văn viết bằng chữ nôm gồm đủ loại thất ngôn bát cú, tứ tuyệt, lục
bát, văn tế, phú, câu đối …. Ngoài ra còn một số thơ dịch. Tú Xương ít làm
thơ chữ Hán. Đương thời Tú Xương làm thơ không ghi chép lại, chỉ đọc cho

bạn bè nghe vì thế thơ ông thất lạc rất nhiều. Người đương thời nghe thơ ông,
phẩm bình truyền tụng như một đặc sản của quê hương "ăn chuối ngự, đọc
thơ Xương" thể hiện sự nâng niu trân trọng đối với thơ của ông. Nhà thơ
Nguyễn Khuyến đã có lần nói "Kế dư chi hậu kỳ Xương hồ" nhưng không
ngờ Tú Xương lại mất trước Nguyễn Khuyến hai năm. Đánh giá về thi nghiệp
Tú Xương, Nguyễn Khuyến lại có câu đối điếu:
"Kìa ai chín suối Xương không nát
Có nhẽ nghìn thu tiếng hãy còn"
Không phải là "có nhẽ" nữa mà chắc chắn thế. Thơ văn Tú Xương sẽ
vẫn còn nguyên giá trị của nó và là niềm tự hào của người dân Việt Nam
hôm nay và cho đến mai sau.
1.2. Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật trong thơ văn Tú Xương
1.2.1. Giá trị nội dung
Sinh sau Nguyễn Khuyến ba mươi lăm năm, Tú Xương sống trong giai
đoạn thoái trào của phong trào chống Pháp, và bắt đầu khai thác thuộc địa lần
thứ nhất. Năm 1873 khi Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất, rồi tiến đánh
Nam Định Tú Xương mới 3 tuổi. Năm 1882 chúng tấn công Hà Nội lần thứ
hai và tràn đi cướp nốt các tỉnh khác. Năm 1884 triều đình nhà Nguyễn kí
hiệp ước Pa-tơ-nôt cả nước ta chính thức bị đặt dưới quyền đô hộ của thực
8
Cái tôi trong thơ Tú Xương
dân Pháp. Kẻ thù tạm thắng nhưng chúng đã phải gặp bao nhiêu khốn đốn
trước các lực lượng đấu tranh của dân tộc ta. Tiếp theo phong trào kháng
chiến của sĩ phu và nhân dân Nam Kỳ, phong trào Cần Vương chống Pháp sôi
nổi khắp cả nước. Ở Nam Định quê hương ông có phong trào của các giới sĩ
phu như Phạm Văn Nghị, Kỳ Đồng ….nhưng tất cả đều bị thực dân Pháp dập
tắt. Tú Xương lớn lên cũng là lúc xã hội phong kiến ở nước ta nhanh chóng
giải thể nhường chỗ cho một xã hội nửa thực dân phong kiến ra đời. Thực dân
Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa thì một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
dưới hình thức thuộc địa bắt đầu hình thành, gắn liền với sự thay đổi về kinh

tế, giai cấp, sinh hoạt, tâm lí xã hội. Tú Xương chỉ sống quanh quẩn ở thành
phố quê hương, điều đầu tiên đập vào con mắt sắc sảo của nhà thơ đó là
những cái lố lăng, kỳ quặc của xã hội giao thời bấy giờ. Nhà thơ đã ghi lại rất
sinh động, những người, những cảnh, những tập tục của nó.
Phản ánh cuộc sống là sứ mệnh cao cả của nghệ thuật. Văn học các giai
đoạn trước cũng đã phản ánh một cách sâu sắc xã hội Việt Nam trong thời kỳ
suy tàn của chế độ phong kiến cho đến văn học giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX,
đã giữ vững truyền thống này và nâng lên một bước có tính cụ thể lịch sử
trong việc phản ánh xã hội. Bức tranh xã hội trong thơ Tú Xương trước hết là
bức tranh thành phố Nam Định quê hương ông những năm giao thời cuối thế
kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Quê hương ông là một trong những thành phố đầu tiên
bị chiếm đóng trên miền Bắc, cuộc sống thực dân đã bắt đầu cắm rễ ở đây nó
là hình ảnh thu hẹp và tập trung của cuộc sống thực dân nửa phong kiến. Tú
Xương viết về Nam Định, nhưng ý nghĩa của nó không bó hẹp vào một địa
phương, mà nó có tính chất tiêu biểu cho bức tranh chung của xã hội Việt
Nam trong buổi giao thời bấy giờ. Nét đặc sắc của ông là thông qua những nét
kí họa để làm nổi bật sự chuyển hóa ấy.
Trong thơ Tú Xương có hình bóng những con người và sinh hoạt của
xã hội phong kiến cũ đã bị thực dân hóa và có những nhân vật mới, sinh hoạt
mới do xã hội thực dân đem lại .
9
Cái tôi trong thơ Tú Xương
Ông viết về những con người và sinh hoạt của xã hội phong kiến cũ,
mà tiêu biểu là tầng lớp quan lại, trước hết Tú Xương vạch trần tính chất tay
sai của chúng. Nhân câu chuyện về một cô hầu bị tên quan huyện đuổi đi vì
cho là thói lẳng lơ đĩ thõa. Ông đã làm bài thơ giả lời cô hầu để gửi cho viên
quan nhưng thực chất là vạch trần bản chất tay sai của hắn. Mượn cái cớ là
chuyện riêng tư mà phê phán chuyện theo giặc, lời thơ đanh thép tiểu biểu cho
tinh thần phê phán nghiêm chỉnh của ông:
"Chỉ trách người sao chẳng trách mình ?

Mình trung đâu đấy, trách người trinh
Áo dày cơm nặng bao nhiêu đức?
Chiếu cạnh giường bên, mấy hột tình
Tơ tóc nổi riêng thì xét nét
Giang sơn nghĩa cả nỡ mần thinh !
Cổ cong mặt lệnh người đâu thế
Cái cóc bôi vôi khéo dại hình!"
(Cô hầu gửi quan lớn)
Trong bài "Hát tuồng" lợi dụng đặc điểm nghệ thuật này, Tú Xương đả
kích tính chất bịp bợm giả dối của bọn quan lại trên sân khấu chính trị bấy
giờ, thực chất chỉ là bù nhìn mà thôi:
"Nào có ra chi lũ hát tuồng
Cũng hò cũng hét, cũng y uông
Dẫu rằng dối được đàn con trẻ ,
Cái mặt bôi vôi nghĩ cũng buồn !"
Cũng như những nhà thơ khác, Tú Xương còn vạch trần thói tham ô
của chúng. Ở thời đại này, thời đại mà đồng tiền tác oai tác quái ghê gớm nó
càng xấu xa và thối nát. Nguyễn Khuyến đã lợi dụng bài thơ "Vịnh Kiều" đã
kích bọn quan lại một cách kín đáo:
"Có tiền viêc ấy mà xong nhỉ
Ngày trước làm quan cũng thế a !"
10
Cái tôi trong thơ Tú Xương
Tú Xương không cần kín đáo ông đả kích một cách quyết liệt, chức
quan đuợc mua như một món hàng, mà lại còn cò kè về giá cả:
"Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang
Đứa thời mua tước đứa mua quan"
(Năm mới chúc nhau)
Hay trong bài "Bỡn ông phó bảng":
"Tri huyện lâu nay giá rẻ mà

Ví vào tay tớ quyết không tha"
Ông thẳng tay đả kích thói ăn tiền của bọn chúng thật trơ trẽn:
"Tri phủ Xuân Trường được mấy niên.
Nhờ trời hạt ấy cũng bình yên,
Chữ "y" chữ "chiểu" không phê đến,
Ông chỉ quen phê một chữ tiền."
(Đùa ông phủ)
Phê phán quan lại ăn tiền thật ra không có gì mới, cái mới ở đây là cách
phê phán của Tú Xương có cá tính hơn, sắc sảo hơn nó mang nét cảm hứng
thời sự lúc bấy giờ.
Ông chửi thẳng vào một viên quan chấm thi, gian dối mà dốt nát:
"Thánh cắt ông vào chủ việc thi,
Đêm ngày coi sóc chốn trường quy.
Chẳng hay gian dối vì đâu vậy ?
Bá Ngọ thằng ông biết chữ gì".
(Chế ông huyện Đ.)
Tú Xương đã dựng lên bức tranh nhỏ về thế giới quan lại ở "Phố Hàng
Song" có thể coi là điển hình cho tất cả một lũ bất tài vô tướng với nhân cách tồi tệ:
"Ở phố Hàng Song thật lắm quan
Thành thì đen kịt, Đốc thì lang
Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố
Đậu lại quan xin nọ chú hàn"
11
Cái tôi trong thơ Tú Xương
Tú Xương đã dựng được nhiều chân dung giới quan lại mỗi người một
vẻ, sắc cạnh. Ngoài Tú Xương hiếm có nhà thơ nào làm được như vậy. Đối
với bọn chúng, nhà thơ không dừng lại ở những nét bên ngoài mà dường như
qua cá tính của bọn chúng, ông muốn gợi lên một nét chung có tính cách thời
đại, đó là ông huyện "Mình trung đâu đấy trách người trinh",ông Ấm "chạy
lăng quăng Ấm chẳng ngồi", ông Hàn "nay lành mai vỡ ", ông Đốc "cờ bạc ăn

chơi rặt một màu"… Những nét tính cách này tuy không rõ nét, nó không
hoàn toàn là tính cách của bọn quan lại trong xã hội thuần túy, mà nó đã
phảng phất hình bóng của bọn quan lại dưới chế độ thực dân. Trong bức tranh
này, tác giả đã vẽ lên hình ảnh xã hội phong kiến cũ còn có các Nho sĩ đi thi,
những ông cử, ông tú hình ảnh của một nền Nho học tiêu biểu cho chốn trường
thi, đồng thời cũng nói lên được đạo đức lễ giáo phong kiến thời bấy giờ.
Thời đại Tú Xương một mặt là thời đại múa may đắc chí của bọn hãnh
tiến cầu danh, cầu lợi. Nhưng mặt khác lại là thời buổi bần cùng thất thế của
Nho học vốn đã có mấy nghìn năm lịch sử. Chỉ với dăm ba sự việc điển hình
biểu hiện cho một hình tượng độc đáo Tú Xương đã cực tả cái không khí và
quang cảnh buổi xế chiều:
"Đạo học ngày nay đã chán rồi,
Mười người đi học chín người thôi.
Cô hàng bán sách lim dim ngủ,
Thầy khóa tư lương nhấp nhổm ngồi.
Sĩ khí rụt rè gà phải cáo,
Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi.
Tôi đâu dám mỉa làng tôi nhỉ,
Trình có ông tiên thứ chỉ tôi!"
(Than Đạo Học)
Nho học suy đồi địa vị tâm lý của người theo Nho học cũng thay đổi
trong đó có cả nhà thơ Tú Xương:
"Nào có ra gì cái chữ nho,
12
Cái tôi trong thơ Tú Xương
Ông nghè ông cống cũng nằm co.
Chi bằng đi học làm thầy phán,
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò".
(Chữ Nho)
Tú Xương đã than thở cho số phận của những ông nghè, ông cống và

mỉa mai chế giễu các "thầy phán". Nhưng thật ra đó là sự chua xót đau đớn,
nó vẫn mang tinh thần dân tộc. Tâm lý chung của người theo Nho học đã thay
đổi thì không có gì khó hiểu khi thấy canh trường thi đầy rẫy những chuyện
kỳ quặc. Bức tranh về cảnh trường thi của Tú Xương cũng sinh động, mỉa mai
châm biếm đặc tả không kém gì về giới quan lại, như trong bài "Lễ xướng
khoa thi Đinh dậu":
"Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trong lại nước nhà !"
Không khí trang nghiêm của khoa thi lúc này bị phá vỡ hoàn toàn.
Tầng lớp quan lại, sĩ tử từ xưa đến nay vẫn được người đời trân trọng họ đã tỏ
rõ một phong thái ung dung, đàng hoàng đĩnh đạc của tầng lớp trên "duy hữu
độc thư cao". Giờ đây hình hài thân phận của họ lôi thôi, nhếch nhác. Thái độ
tiếng nói của họ thì lúng túng "ậm ọe". Trong khi đó, bọn người thống trị
phương tây xa lạ nghênh ngang đường hoàng. Tú xương đã sử dụng lối tiểu
đối: "sĩ tử" thì lôi thôi, quan trường thì "ậm ọe", hình ảnh lại đối chọi với âm
thanh, lúc này tiếng cười bật lên chua chát khi cái lọng của quan sứ đối với
cái váy của mụ đầm. Khôi hài hơn là hình ảnh ông cử đối nghịch với mụ đầm
trong bài "Giễu người thi đỗ":
13
Cái tôi trong thơ Tú Xương
"Một đàn thằng hỏng đứng mà trông,
Nó đỗ khoa này có sướng không ?
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng !"

Trong số những người trúng tuyển có kẻ không xứng đáng, có lẽ đỗ
được cũng nhờ gửi gắm chạy chọt nên nhà thơ một lần nữa đã kích bọn chúng
với nhân cách kém cỏi:
"Tiến sĩ khoa này được mấy người ?
Xem chừng hay chữ có ông thôi!
Nghe văn mà gớm cho văn mãi,
Cờ biển vua ban cũng lạ đời."
(Ông tiến sĩ mới)
Lại có những thí sinh đỗ nhờ thế lực của cha ông:
"Thử năm ông cử ai làm nổi,
Học trò quan đốc ở Hà Nội.
Nghe tin bà cố cười khì khì,
Đổ cả riêu cua xuống vũng lội."
(Ông cử thứ năm)
Ông lại vạch trần những ông cử ông tú kém tài không năng lực tranh
nhau chức thủ khoa "Hai đứa tranh nhau cái thủ khoa" để rồi giương giương
tự đắc về tài năng của mình "Tuân khoe văn hoạt, Nghị văn già"
Hay trong bài thơ "Than sự thi":
"Cử nhân: con ấm Kỷ,
Tú tài: con đô Mỹ !
Thi thế mà cũng thi,
Ới khỉ ơi là khỉ !"
Nhà thơ đã vẽ ra cảnh trường thi với thái độ giễu cợt không thương xót
tầng lớp của mình trong không khí sặc mùi áp bức chiếm đóng:
"Đi thi đi cử các thầy nho,
14
Cái tôi trong thơ Tú Xương
Ta dặn điều này phải nhớ cho.
Ra phố khăn ngang quàng lấy mặt.
Vào trường quần rộng xắn lên khu.

Câu văn đắc ý đừng nguây nguẩy
Chén rượu mền môi chứ gật gù.
Nghe nói khoa này nghiêm cấm lắm,
Đêm hôm phải sợ phép quan cò."
(Dặn người đi thi)
Thi cử đã trở thành món hàng mua bán nơi đút lót gửi gắm, huy động
hết mức thế và lực: thi cử đã bị lưu manh hoá và việc tổ chức thi lại hỏng nát
ngay từ cơ sở tỉnh; trong lúc thi khảo để chọn lựa người xứng đáng được đi
dự khoa thi hương, cũng đã xảy ra những sự việc gian dối.Tác giả thể hiện rất
rõ trong bài "Ông cử Nhu":
"Sơ khảo khoa này bác cử Nhu,
Thực là vừa dốt, lại vừa ngu.
Văn chương nào phải là đơn thuốc,
Chớ có khuyên xằng chết bỏ bu."
Tú Xương đã phản ánh chính sách bỏ thi chữ Hán, một mặt vì quan
điểm bảo thủ nhưng mặt khác ông thấy rõ mục đích của thực dân muốn thay
thế cái học mới vào cái học cũ, chẳng qua là để đào tạo đắc lực cho chúng,
chứ chẳng phải là khai hoá văn minh cho nước ta. Tú Xương mỉa mai lối đưa
dần các môn Sử, Toán Pháp, Cách Trí, luận Quốc Ngữ vào chương trình thi:
"Sử đề theo sách quan Ngô Giáp
Toán pháp thêm bài hội Trí Tri"
(Bảo nhau đi thi)
Ông ác cảm với cây bút chì vì nó tượng trưng cho cái học gán ép, lai
căng của thực dân Tú Xương đã ghi nhận sự việc này trong bài "Đổi thi":
"Nghe nói khoa này sắp đổi thi,
Các thầy đồ cổ đỗ mau đi!
15
Cái tôi trong thơ Tú Xương
Dẫu không bia đá còn bia miệng,
Ném bút lông đi, thay bút chì."

Từ cảnh trường thi nhốn nháo tây, ta với bao nhiêu thay đổi đó cũng là
hình ảnh một xã hội pha tạp hỗn độn buổi ban đầu của thực dân Pháp khi đặt
ách thống trị trên đất nước. Lớp người cũ tượng trưng cho nền văn hiến cổ xưa,
của dân tộc đang chết dần, để dành chỗ cho lớp người khác.Với những nét tả
thực đến trần trụi từ những âm thanh và hình ảnh tiếng cười vừa mạnh mẽ vừa
thấm thía nhiều khi nó là tiếng nấc nghẹn ngào xót xa. Bức tranh xã hội đậm
nét nhất là sự xuất hiện hàng loạt những nhân vật mới, nó là con đẻ thật sự của
chủ nghĩa thực dân. Và trong bức tranh này ngòi bút hiện thực của Tú Xương
phóng ra trực tiếp tả cảnh, vẻ người, cuộc sống và những chân dung.
Trước hết đó là sự thay đổi phá vỡ những thuần phong mĩ tục cũ của
dân tộc với sự xâm nhập lấn át của xã hội thực dân với tất cả những cái rởm
đời, lố lăng, sa đoạ. Trước kia xã hội phong kiến ràng buộc con người bằng
đạo đức phong kiến như tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức phản tự
nhiên, một thời đã bị con người đấu tranh chống lại chúng. Đó là ý nghĩ nhân
sinh tiến bộ, có tính chất chống phong kiến của văn học Việt Nam trong giai
đoạn trước. Xã hội thực dân phong kiến là một hiện tượng phản tự nhiên và
chính bản thân nó cũng không xây dựng được được một nền đạo đức nào cả
và nó cũng không theo đạo đức phong kiến bởi vì đạo đức phong kiến ngăn
cản con người, buộc con người sống trong khuôn khổ. Xã hội nửa thực dân
nữa phong kiến thực chất là xã hội, vô luân vô đạo. Tú Xương đã ghi lại tính
chất vô luân vô đạo ấy, không những phổ biến trên bề mặt của xã hội mà nó
đã ăn sâu đến từng gia đình, vốn là nền tảng vững chắc của xã hội phong kiến.
Tú Xương đã vạch ra trong gia đình này: con khinh bố mẹ, vợ chanh chua
chửi chồng thật đau xót với tiếng thở dài não ruột:
"Có đất nào như đất ấy không?
Phố phường tiếp giáp với bờ sông
Nhà kia lỗi phép con khinh bố
16
Cái tôi trong thơ Tú Xương
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng

Keo cú người đâu như cứt sắt
Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng
Bắc Nam hơi khắp người bao tỉnh
Có đất nào như đất ấy không?"
(Đất Vị Hoàng)
Thậm chí, một sự ngược đời khá đau lòng khi thi sĩ chứng kiến cảnh
trong gia đình kia mẹ vợ ăn nằm với chàng rể dẫn đến việc "Chép miệng bà
nuôi to cái dại, Phờ râu ông rể ẳm con so".
Mọi luân thường đạo trong gia đình không còn nữa, có gia đình khác chồng
đem hiến vợ mình cho Tây để thăng quan, nó ê chề nhục nhã. Một gia đình khác
thì bà mẹ goá muốn tựa cửa quan mà gả con gái cho một thằng nghiện:
"Gái goá đem mình tựa cửa quan,
Nghĩ rằng quan lớn thế thì sang.
Thương con toan lấy dây tơ buộc,
Kén rể vì tham cái lộng tàn."
(Thông gia với quan)
Còn có nhiều gia đình, các bà vợ chán các đức ông chồng quyết tâm
làm bạn với nhà sư để được thướt tha, được lườm nguýt dưới trướng thể hiện
trong bài thơ "Ông sư và mấý ả lên đồng":
"Chẳng khốn gì hơn cái nợ chồng
Thà rằng làm bạn quách với sư xong !
Một thằng trọc tếch, thằng khua mõ,
Hai ả tròn xoe đứng múa bông
Thấp thoáng bên đèn lên bóng cậu.
Thướt tha dưới án nguýt sư ông
Chị em thủ thỉ đêm thanh vắng
Chả sướng gì hơn lúc thượng đồng"
Lại có những bà "mẹ hiền" nhằm lúc các quý công tử đang ra đường
17
Cái tôi trong thơ Tú Xương

ngông nghênh vênh váo, thì "mẹ hiền" ở nhà thông dâm với đại diện của chữ
nghĩa diệt dục. Ông làm hai câu thơ để chế giễu cậu ấm kiêu căng nọ trong
bài "Thằng tiểu phù Long":
"Thôi đừng điếu tráp nghênh ngang nữa
Thằng tiểu phù Long nó chửi mày"
Lại có những cô gái chê chồng ngu mà mặc sức chơi nhăng:
"Vợ đẹp của người không giữ được
Chồng ngu mượn đứa để chơi nhăng"
(Để vợ chơi nhăng)
Xã hội phong kiến suy đồi, trong xã hội suy đồi không phải không có
những hiện tượng hình ảnh, con người mới. Đó là hình ảnh anh công chức
thuộc địa chỉ có trong xã hội thực dân, sống không lý tưởng và vô tích sự như
một cái máy. Nhưng những hiện tượng này lại xuất hiện với mức độ đậm đặc
như trong thơ Tú Xương thì chỉ có trong xã hội thực dân lúc bấy giờ thôi.
Không chỉ nói đến những hiện tượng của xã hội khi mà bộ cánh luân
thường đã rách nát. Tú Xương còn đưa vào bức tranh của mình hình ảnh
những con người mới. Đó là hình ảnh anh công chức thuộc địa chỉ có trong xã
hội thực dân sống không lý tưởng và vô tích sự "Bác này mới thật thái vô
tích" như một cái máy "sáng vác ô đi tối vác về!".
Lại có hạng người xoay sở đủ ngón, lợi dụng mọi cơ hội để kiếm chác,
khi thì đóng vai thầy dùi, thầy cò trong việc kiện cáo, lúc đóng vai thầy lang
thày bói bịp bợm để kiếm ăn và lúc nào cũng vênh váo lên mặt:
"Thầy tớ tớ phố xênh xang
Thoạt nhác trông ra ngỡ cóc vàng
Kiện hết sở tuần vô sở sứ,
Khi thì thầy số, lúc thầy lang"
(Bợm già)
Có khi là những công tử bột nghênh ngang trâng tráo sản phẩm tất yếu của
tình trạng phát triển xã hội thị dân trong bài "Anh hàng sắt giả danh nhà nho":
18

Cái tôi trong thơ Tú Xương
"Áo quần đinh đáo trông ra cậu,
Ăn nói nhễ nhàng khác giọng Ngô"
Trong bài "Khai lí lịch" ngòi bút của Tú Xương còn đả kích đến bọn
bồi bếp, bọn lính lệ lên mặt phong lưu "Tai cài ngọn bút, anh kia dòng tịch sĩ
xuất thân, Lưng dắt thẻ bài, chú nọ cùng lính tuần đựơc đất".
Ông còn đưa vào bức tranh của mình những người buôn bán mánh mối,
lợi dụng nhan sắc để câu khách, đầu cơ trục lợi, mua rẻ bán đắt. Đây là sự tích
trữ, vốn chỉ có trong xã hội giao thời lúc bấy giờ ảnh hưởng nền kinh tế tư
bản đang xâm nhập:
"Nước buôn như chị mới ăn người,
Chị thấy ai ru? chị cũng cười.
Chiều khách quá hơn nhà thổ ế,
Đắt hàng như thể mớ tôm tươi.
Tiền hàng kẻ thiếu, mi thường đủ, …
Giá gạo đâu năm đây vẫn mười…"
(Gái buôn 2)
Đặc biệt kệch cỡm nhất là bọn me Tây gái điếm, ông cũng đã bêu rếu
thói đĩ thoả, tà dâm của bọn chúng cậy thế, cậy thần tác yêu tác quái trong xã
hội này. Trong bài "Cô tây đi tu" nhà thơ đã thể hiện rõ nét:
"Rứt cái mề đay quẳng xuống sông
Thôi thôi tôi cũng mét xì ông !"
Tú Xương nêu lên cho mọi người thấy, chính những loại này mới là
nhân vật tiêu biểu cho xã hội thực dân nửa phong kiến. Thì lẽ tất nhiên, khi xã
hội đã xuất hiện những chủ thể mới, thì nó cũng mang theo một lối sống mới
quan niệm mới. Giờ đây in trên nền trời của xã hội mới này chính là cái đít vịt
của một mụ đầm béo núc ních, là cái dáng đỏng đảnh của mụ me Tây gái đĩ, là
cái dáng dị hình quái gỡ của bọn anh hùng sắt giả danh nhà nho, và vô số hình
thù của các ông quan "thành thì đen kịt, Đốc thì lang" của các quan bà "chồng
chung vợ chạ"của các vị tu hành chán sự đời, lại đú đởn vụng trộm trong chùa.

19
Cái tôi trong thơ Tú Xương
Đối với những bọn này thì tiêu chuẩn bình thường của cuộc sống đều bị lật
nhào xuống. Giờ đây bọn lố lăng sẽ trở thành sang trọng, kệch cỡm trở thành
quí phái, xấu xí lại trở thành ăn diện, nghèo kiết xác lại muốn tiêu hoang:
"Chí cha chí chát khua giày dép
Đen thủi đen thui cũng lượt là”
(Xuân)
Hoặc là trong bài "Chú Mán", tác giả đã ghi lại hình ảnh "Váy lĩnh cô
kia quét sạch hè". Sư sãi thì đua đòi chạy theo vinh hoa giả dối bỏ cả đức tính
khiêm tốn từ bi "Công đức tu hành sư có lọng", còn chú Mán thì "Xu hào xủng
xoảng Mán ngồi xe". Tú Xương đã điểm ra trên trang giấy của mình hình ảnh
những con người mới của xã hội lúc này, tất cả đều rõ nét và chân thực.
Trong bức tranh chung mà nhà thơ đã vẽ lên có những mảng đậm nét
phác hoạ đầy đủ. Nhưng có mảng nhạt chưa được rõ nét, nó chỉ thấp thoáng
hình bóng về bọn thực dân xâm lược. Lý do là vì Tú Xương chưa đủ dũng
khí. Đây cũng là điểm yếu chung của thơ ca thời này so với thơ ca của các sĩ
phu yêu nước vừa cầm gươm vừa cầm bút để chống lại thực dân Pháp trong
khuynh hướng văn học yêu nước. Lúc đó Pháp thắng ta nhưng chưa đủ mạnh
để đè bẹp ý chí của nhân dân. Vì thế, chúng phải ráo riết đối phó bằng cách
gây một không khí căng thẳng để uy hiếp dân chúng. Ở thành phố Nam Định
cũng như các thành thị khác chúng cho đủ các thứ lính: lính Pháp, lính khố
đỏ, lính khố xanh rầm rập giễu qua trước mặt nhân dân như "đèn kéo pháo".
Bọn chúng thiết quân luật, cứ 8 giờ tối là cấm mọi người đi lại ngoài đường.
Ai mà lỡ việc phải đi ra đường là bị bắt nhốt vào đồn. Ban ngày chúng thả
cảnh sát chặn các đường ai không mang thẻ là phạt. Chúng phạt bừa bãi, chó
chạy ra đường phạt, lớ ngớ không biết chổ để xe cũng phạt. Để chiếm đất làm
công sở hay mở đường xá, chúng cấm nhân dân có nhà dột không được sửa
chữa đến khi nào không dùng được nữa thì đâu thì đi chúng chiếm luôn. Tú
Xương đã phản ánh lại cái hiện thực đó, lại trả đũa bọn cảnh sát bất lương kia

bằng cách như giải phân vào miệng chúng:
20
Cái tôi trong thơ Tú Xương
"Ngớ ngẩn đi xia may vớ được
Chuyến này ắt hẳn kiếm ăn to"
(Ông cò)
Hình ảnh tên quan Pháp ấy chỉ mới thấp thoáng hiện lên nhưng là tư thế
của bọn thống trị. Một tên Tây cẩm (cảnh sát Tây) theo dõi việc đăng kí xe
tay cũng đủ tác oai tác quái, gây nên cảnh thầy kí Việt Nam phải đưa cô vợ trẻ
đẹp dâng cho quan. Thầy kí trông vào quyền hành của ông Tây nên làm ăn
phát đạt hẳn lên (Mồng hai tết viếng cô Ký). Đó là chưa nói đến vợ chồng tên
toàn quyền Đume (Doumer) tới xướng danh tại trường thi Nam Định mà như
choáng hết cả trời đất nước Nam, chúng nghênh ngang, bất chấp tất cả (Lễ
xướng danh khoa thi Đinh dậu).
Mặc dù, ngòi bút của Tú Xương chưa vạch trần hết bộ mặt của thực dân
Pháp nhưng ông đã phần nào tố cáo được tính chất xấu xa bỉ ổi của bọn chúng.
Nội dung trong thơ Tú Xương đã đề cập đến rất nhiều chuyển biến của
xã hội thực dân, bức ký hoạ có cái đa dạng về số lượng và cũng đã đi sâu
được về bản chất của vấn đề tất cả đều là hiện thân của cuộc sống trước kia
của dân tộc ta. Những hình tượng văn học ông xây dựng nên không những có
giá trị về mặt văn học mà còn có giá trị như những tư liệu chính xác về xã hội.
Chỉ cần đọc môt câu thơ "cô hàng bán sách lim dim ngủ. Thầy khoá tư lương
nhấp nhổm ngồi"cũng đủ cho người đọc thấm thía hình dung ngay ra trước
mắt quang cảnh tiêu điều thưa thớt của Nho học lúc bây giờ, nó không kém gì
một công trình nghiên cứu tình hình xã hội lúc bấy giờ. Tuy nhiên cũng phải
thấy rằng cái nhìn của Tú Xương trước hiện thực vẫn là phiến diện. Hình ảnh
con người chân chính ở đây quá hiếm. Nhưng nó vẫn chưa là thiếu xót quan
trọng. Trong thơ Tú Xương thiếu xót quan trọng là ông vẫn chưa phản ánh
được hiện thực trong cuộc sống thực lúc bấy giờ mà văn học muốn đạt tới
đỉnh cao nhất, đó chính là cuộc đấu tranh giữa dân tộc ta với thực dân Pháp.

1.2.2. Giá Trị nghệ thuật
Thơ văn Tú Xương một phần tố cáo hiện thực sâu sắc sâu sắc với bức
21
Cái tôi trong thơ Tú Xương
tranh xã hội đầy nhố nhăng lố bịch trong buổi giao thời đầy bi kịch bên cạnh
đó có một phần tâm sự yêu nước đậm đà của ông. nhưng nếu không có sức
mạnh của nghệ thuật với ngòi bút sắc sảo. Đương thời nhà thơ Nguyễn
Khuyến đã nói rằng "Kế dư chi hậu Kỳ Xương hồ", và đến khi Tú Xương mất
ông đã viết những câu điếu khẳng định tài năng của nhà thơ:
"Kìa ai chín suối Xương không nát
Có nhẽ nghìn thu tiếng hãy còn"
Thơ văn Tú Xương đã kết hợp tài tình hai yếu tố hiện thực và trữ tình.
Vấn đề kết hợp hai yếu tố này trong thơ ca nói chung và thơ ca trào phúng nói
riêng là một trong những vấn đề tiêu chuẩn để đánh giá nghệ thuật đạt hay
không đạt. Nguyễn Tuân đã cắt nghĩa sở dĩ thơ trào phúng Tú Xương không
"tắt gió" trong Nguyễn Tuân, không "bay ra khỏi" Nguyễn Tuân là vì " thơ Tú
Xương đi bằng cả hai chân hiện thực và lãng mạn" bởi vì "thi pháp Tú Xương
phối hợp cả hiện thực và trữ tình".
Tú Xương đã kết hợp nhuần nhuyễn hai yếu tố hiện thực và trữ tình. Sự
kết hợp trước hết là giữa bài này và bài nọ. Trong thơ văn ông bên cạnh
những bài thơ hiện thực trào phúng thì lại có những bài trữ tình thuần tuý
(Đêm dài, Đêm hè, Đau mắt, Chiêm bao, Dạ hoài, Chợt giấc, Nhớ bạn
phương trời, Gửi ông thủ khoa Phan …). Qua những bài trữ tình đó người ta
thấy Tú Xương không chỉ giỏi về thơ mà còn giỏi về thơ trữ tình. Thơ trữ tình
của Tú Xương đề tài không mở rộng. Ông chỉ có một số bài nói về tâm sự của
mình trước tình cảnh đau xót của đất nước, một số bài viết về tình cảm của
nhà thơ đối với bà vợ tảo tần, và cuộc sống nghèo khổ của bản thân, gia đình
một vài nét về nhà chí sĩ họ Phan. Nhà thơ hay châm biếm và cười này không
phải lúc nào cũng cười cợt, đã kích. Một khi để cho lòng mình lắng lại, tiếng
thơ của ông lại vang lên từ những cung bậc khác nhau của tiếng cười, mà từ

cái âm vang sâu xa của một tâm hồn đầy cảm xúc chân thành, lời thơ tự
nhiên. Ông đã viết ra được những bài thơ trữ tình đậm đà.
Sự kết hợp giữa hai yếu tố hiện thực và trữ tình trong thơ Tú Xương
22
Cái tôi trong thơ Tú Xương
còn là sự kết hợp trong phạm vi một bài thơ. Trong những bài thơ của ông mà
lâu nay thường gọi là trào phúng nhưng không phải là vắng mặt chất trữ tình.
Trái lại, ở những bài trào phúng của ông, đặc biệt những bài thành công nhất
thì yếu tố trữ tình lúc này đã hỗ trợ cho yếu tố trào phúng thêm sâu sắc đầy ý
nghĩa. Ta có thể thấy rõ trong bài "Lễ xướng khoa thi Đinh dậu":
"Nhà nước ba năm mở một khoa ,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa .
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra
Nhân tài đất bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông lại nước nhà !"
Sáu câu đầu Tú Xương đã vẽ lên quang cảnh trường thi với đầy đủ các
thành phần tham dự nhưng nó mất đi tính chất trang nghiêm cổ kính của trường
thi, tất cả bây giờ là bệ rạc, đảo lộn đối lập gay gắt với nhau để tạo ra tiếng cười
chua chát mỉa mai. Đây chính là hiện thực của xã hội bây giờ. Nhưng hai câu
kết không còn châm biếm đã kích nữa mà đã nói lên tâm sự đau xót uất hận của
nhà thơ trước cảnh tượng trường thi trong buổi đầu mất nước.
Trong thơ Tú Xương có những bài hiện thực mà trào phúng ,có những
bài hiện thực mà không trào phúng nhưng dù ở thể loại nào đi chăng nữa vẫn
không thiếu chất trữ tình. Ở Tú Xương sự kết hợp giữa hiện thưc và trữ tình
có nhiều trường hợp ngay trong một câu thơ:
"Học đã sôi cơm nhưng chửa chín,
Thi không ăn ớt thế mà cay !"

(Buồn thi hỏng)
Rõ ràng nhà thơ đang đùa cợt về chuyện hỏng thi của mình, lại chính là
lúc nhà thơ thơ đớn đau tủi hổ cho bản thân. Ta có thể lấy thêm những câu thơ
khác để thấy được sự tài tình của nhà thơ trong việc kết hơp hai yếu tố này:
23
Cái tôi trong thơ Tú Xương
"Cái khó theo nhau mãi thế thôi.
Có ai hay chỉ một mình tôi ?"
(Than nghèo)
Ở câu thơ này với bốn chữ đầu "cái khó theo nhau", nhà thơ nói đến cái
nghèo khó mà tưởng chừng như đang đùa bỡn chạy theo nó nhưng đến ba chữ
tiếp theo "mãi thế này" thì cái nghèo khó đã đè nhà thơ xuống không cho ông
đùa bỡn ông kêu lên "Có ai không hay chỉ một mình tôi".
Nói đến sự kết hợp giữa hai yếu tố hiện thực trào phúng và yếu tố trữ
tình trong thơ Tú Xương qua phần phân tích ở trên nếu cứ tính câu nào là hiện
thực, câu nào là trữ tình, rồi đi phân tích có mấy câu hiện thực, mấy câu trữ
tình thì dễ thường sẽ lầm tưởng rằng mặt hiện thực là mặt chủ yếu, còn trữ
tình là thứ yếu. Thực ra hai chất đó quyện vào nhau nên khó nói cái nào là chủ
yếu, cái nào là thứ yếu. Theo nhà văn Nguyễn Tuân thì còn ngược lại, ông
cho rằng "Cái chân hiện thực ở người Tú Xương là cái chân trái. Tú Xương
lấy cái chân phải lãng mạn mà khiến cái chân trái tả thực. Chủ đạo cho đà thơ
là ở chân phải và Tú Xương đã băng được mình, đưa thơ tới chúng ta bằng
nước bước lãng mạn trữ tình".
Sức mạnh nghệ thuật trong thơ ông còn là sức mạnh của ngôn ngữ và
hình ảnh. Cùng với Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá
Quát, Nguyễn Khuyến. Tú Xương là bậc thầy về ngôn ngữ trong thơ. Ngôn
ngữ trong thơ Tú Xương có đầy đủ đặc tính của ngôn ngữ kết tinh: vừa giản
dị trong sáng, gợi cảm lại giàu hình ảnh. Ngôn ngữ của ông bắt rễ từ trong
văn học dân gian, tiếp thu từ ngôn ngữ văn thơ cổ điển và được nâng lên nhờ
cá tính sáng tạo của mình. Giữa Tú Xương và ngôn ngữ quần chúng có một

sự giao lưu rất tự nhiên, nhiều thành ngữ, tục ngữ của quần chúng nên khi đọc
lên ta có một cảm giác rất là quen thuộc:
"Nào ai có tiếc ai đâu
Áo bông ai ướt khăn đầu ai khô"
(Áo bông che bạn )
24
Cái tôi trong thơ Tú Xương
Có khi là:
"Chỉn e rày gió mai mưa
Lấy gì đi sớm về trưa với tình"
(Đi hát mất ô)
Ngược lại cũng có nhiều ngôn ngữ của ông như có khả năng chạy ra
nhập vào kho tàng thành ngữ của quần chúng. Sở dĩ Tú Xương đã có sự đóng
góp trở lại chính là vì ông đã có được lối suy nghĩ, lối diễn đạt theo thành ngữ
của quần chúng nhân dân: thi không ăn ớt, đau quá đòn hằn, học đã sôi cơm,
quắc mắt khinh đời…
Lại có nhiều khi câu thơ của tác giả sáng tác có vẻ giống như một câu
ca dao, tục ngữ hay thành ngữ ví dụ:
Sáng vác ô đi chiều vác về
- Sáng rượu sâm banh tối sữa bò
-Không dày mặt phấn quan không hỏi,
-Chẳng đủ phù trang gái chẳng về
-Nào có ra chi phường khố lúa
-Dù là cũng tủi kiếp hồng nhan
Tú Xương có khả năng vận dụng ngôn ngữ tài tình đi đôi với việc xây
dựng hình ảnh. Tú Xương có tài quan sát hiện thực, ông lại có tài chọn lựa
các sự kiện nên hình ảnh mà Tú Xương dựng lên vừa sinh động, vừa cô đọng
nói chung là có tính chất điển hình. Có thể nói ít có bài nào trong thơ Tú
Xương mà vắng hẳn cái nhịp điệu, cái âm nhạc, cái tinh thần dân tộc. Hình
tượng màu sắc âm thanh dân tộc hiện ra trong từng câu, từng chữ của ông.

Chúng ta thấy hình ảnh một người vợ tảo tần lam lũ: "lặn lội thân cò" để nuôi
chồng con, hình ảnh những anh học trò "lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ" và hình ảnh
bọn thực dân Pháp "lọng cắm rợp trời quan sứ đến. Váy lê quyét đất mụ đầm
ra"… Ông đã khéo léo dùng các hình tượng: Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ, ậm ẹo
quan trường miệng thét loa, một tuồng rách rưới, ba chữ nghêu ngao…
25

×