Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Vệ sinh môi trường không khí và ô nhiễm không khí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.49 KB, 27 trang )

1
Vệ sinh môi trường không khí và ô nhiễm không khí
YHP-Khoa YTCC, Dương Thị Hương
MỤC TIÊU:
1. Định nghĩa môi trường không khí, mô tả được vai trò của không khí đối với
sự sống con người và sinh vật.
2. Liệt kê được các chỉ số đánh giá vệ sinh trong môi trường không khí, tiêu
chuẩn chất lượng môi trường không khí cho phép ngưỡng tối đa của một số
chất khí.
3. Định nghĩa được thế nào là ô nhiễm không khí, nêu khái quát về lịch sử của
sự ô nhiễm không khí.
4. Nêu được các nguồn gây ô nhiễm, các tác nhân gây ô nhiễm, và quá trình
gây ô nhiễm, các tác hại của ô nhiễm không khí.
5. Đề xuất được các biện pháp bảo vệ và khống chế sự ô nhiễm môi trường
không khí.
NỘI DUNG:
1. Tổng quan về ô nhiễm không khí
1.1 Thành phần khí quyển
Khí quyển là hỗn hợp của không khí khô và hơi nước. Hơi nước được đánh giá
theo độ ẩm (%). Còn không khí khô, khi chưa bị ô nhiễm có thành phần chủ yếu:
nitơ 78%, oxy 21%, và các khí khác CO
2
, CO, SO
2
, NO khoảng 1-2%.
Con người và mọi sinh vật sống cần có quá trình trao đổi không khí, hít thở oxy và
thải khí cacsbonic. Không có oxy con người không sống được.
1.2 Ô nhiễm không khí
Ô nhiễm không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan trọng trong
thành phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây ra sự tỏa mùi, có
mùi khó chịu, giảm tầm nhìn xa do bụi.


2
Hiện nay, ô nhiễm khí quyển là vấn đề thời sự nóng bỏng của cả thế giới chứ
không phải riêng của một quốc gia nào. Môi trường khí quyển đang có nhiều biến
đổi rõ rệt và có ảnh hưởng xấu đến con người và các sinh vật. Hàng năm con
người khai thác và sử dụng hàng tỉ tấn than đá, dầu mỏ, khí đốt. Đồng thời cũng
thải vào môi trường một khối lượng lớn các chất thải khác nhau như: chất thải sinh
hoạt, chất thải từ các nhà máy và xí nghiệp làm cho hàm lượng các loại khí độc hại
tăng lên nhanh chóng.
Ô nhiễm môi trường khí quyển tạo nên sự ngột ngạt và "sương mù", gây nhiều
bệnh cho con người. Nó còn tạo ra các cơn mưa axít làm huỷ diệt các khu rừng và
các cánh đồng.
Điều đáng lo ngại nhất là con người thải vào không khí các loại khí độc như: CO
2
,
đã gây hiệu ứng nhà kính. Theo nghiên cứu thì chất khí quan trọng gây hiệu ứng
nhà kính là CO
2
, nó đóng góp 50% vào việc gây hiệu ứng nhà kính, CH
4
là 13%,,
nitơ 5%, CFC là 22%, hơi nước ở tầng bình lưu là 3%
Nếu như chúng ta không ngăn chặn được hiện tượng hiệu ứng nhà kính thì trong
vòng 30 năm tới mặt nước biển sẽ dâng lên từ 1,5 – 3,5 m (Stepplan Keckes). Có
nhiều khả năng lượng CO
2
sẽ tăng gấp đôi vào nửa đầu thế kỷ sau. Điều này sẽ
thúc đẩy quá trình nóng lên của Trái Đất diễn ra nhanh chóng. Nhiệt độ trung bình
của Trái Đất sẽ tăng khoảng 3,60 °C (G.I.Plass), và mỗi thập kỷ sẽ tăng 0,30 °C.
Theo các tài liệu khí hậu quốc tế, trong vòng hơn 130 năm qua nhiệt độ Trái Đất
tăng 0,40 °C. Tại hội nghị khí hậu tại Châu Âu được tổ chức gần đây, các nhà khí

hậu học trên thế giới đã đưa ra dự báo rằng đến năm 2050 nhiệt độ của Trái Đất sẽ
tăng thêm 1,5 – 4,50 °C nếu như con người không có biện pháp hữu hiệu để khắc
phục hiện tượng hiệu ứng nhà kính.
Một hậu quả nữa của ô nhiễm khí quyển là hiện tượng lỗ thủng tầng ôzôn. CFC là
"kẻ phá hoại" chính của tầng ôzôn. Sau khi chịu tác động của khí CFC và một số
loại chất độc hại khác thì tầng ôzôn sẽ bị mỏng dần rồi thủng.
1.2.1 Tính chất của chất gây ô nhiễm không khí
3
Mặc dù con người đã gây ô nhiễm không khí kể từ khi họ biết sử dụng lửa trong
sinh hoạt nhưng tính nghiêm trọng của vấn đề ô nhiễm không khí nhân tạo thực sự
gia tăng nhanh chóng khi công nghiệp hóa bắt đầu khởi phát ở nhiều quốc gia trên
Thế giới. Ngoài những chất gây ô nhiễm không khí phổ biến thì nhiều hợp chất
hữu cơ bay hơi và các hợp chất vô cơ và kim loại vi lượng đang được thải vào
không khí từ những hoạt động của con người.
Các vật gây ô nhiễm không khí có thể ở thể rắn(bụi, bồ hóng, muội than), ở dưới
dạng giọt (sương mù sunphat) hay ở thể khí (SO
2
, NO
2
, CO) [2].
• Các sol khí: các hạt nhỏ ở thể rắn hoặc lỏng lơ lửng trong không khí tạo nên
một hỗn hợp gọi là sol khí. Các sol khí thường gồm một hỗn hợp các hạt
vật chất ở thể rắn, sự kết hợp các hạt thể rắn và lỏng, đôi khi là các giọt nhỏ
chất lỏng lơ lửng.
• Bụi: gồm các hạt vật chất ở trạng thái rắn. Khi bụi ở trong không khí được
gọi là các hạt vật chất lơ lửng
• Khói gồm hỗn hợp các hạt ở thể rắn, đôi khi ở thể lỏng và các khí thải ra từ
quá trình đốt cháy. Khói là hỗn hợp phức tạp về hóa học và thường thay đổi
về thành phần, phụ thuộc vào nhiên liệu đốt.
• Tro là dạng rắn của khói đặc biệt sau khi chúng đọng thành các hạt bụi cực

nhỏ
• Sương mù: Thành phần chất lỏng của ô nhiễm không khí thường là nước
hoặc dạng nước vì những giọt hợp chất hữu cơ dễ bay hơi sẽ nhanh chóng
trở thành chất ở dạng khí. Một đám mây hay một tập hợp các giọt nhỏ với
mật độ dày được gọi là sương mù
• Khí: ô nhiễm không khí có thể do hỗn hợp nhiều khí khác nhau và đặc tính
quan trọng nhất của chúng là khả năng hòa tan trong nước cũng như hoạt
tính hóa học.
4
Kích cỡ và thành phần hóa học là hai đặc điểm quan trọng của các sol khí và quyết
định hoạt động của chúng. Kích cỡ quyết định các hạt chuyển động trong không
khí và lắng đọng ở bề mặt các vật. Những hạt vật chất lớn hơn được gió và chuyển
động của không khí giữ lại trong khí quyển và chúng thường có xu hướng lắng
xuống dưới tác động của trọng lực tro trong điều kiện không khi không chuyển
động. Các hạt có kích thước nhỏ hơn thường giữ lại trong không khí, chuyển động,
hiện tượng chuyển động Brown [11].
Kích thước của các hạt trong sol khí quyết định khả năng xâm nhập sâu vào đường
hô hấp và do đó xác định những ảnh hưởng gây ra cho phổi. Đồng thời kích cỡ
cũng liên quan tới khối lượng; các hạt có kích thước càng nhỏ thì càng nhẹ. Trong
tất cả các sol khí đa phân tán, số lượng lớn các hạt nhỏ chỉ chiếm một phần trăm
nhỏ trong tổng khối lượng sol khí, trong khi với một số lượng ít của các hạt có
kích thước lớn hơn lại chiếm phần lớn khối lượng của sol khí. Điều này rất quan
trọng vì một số hạt như những hạt chứa chì hoặc thủy ngân có thể không gây tổn
thương cho phổi nhưng với một lượng lớn các hạt có chứa các chất có độc tính này
có thể được hấp thụ vào và gây ảnh hưởng tiêu cực tới một số bộ phận trong cơ
thể.
Các hạt được tạo ra với kích cỡ khác nhau phụ thuộc vào nguồn phát sinh chúng.
Thành phần của các hạt cũng phụ thuộc vào các nguồn phát sinh. Các hạt từ các
nguồn khác nhau có thể có sự phân bố kích cỡ khác nhau. Những hạt lớn có thể là
bụi lơ lửng hoặc muội than thải ra từ các hoạt động đốt cháy ngoài trời, một số thì

được tạo thành từ sự kết hợp giữa nhiều hạt nhỏ hơn. Những hạt lớn thường là ở
trạng thái rắn nhưng cũng có thể hấp thụ các khí hoặc phần bề mặt của chúng có
thể là ở thể lỏng. Những hạt nhỏ, đặc biệt là loại siêu nhỏ thường được tạo thành
từ một số dạng hoạt động đốt cháy như liên quan với khí thải ống xả diezen, các
nhà máy nhiệt điện hoặc các phản ứng đốt cháy nhanh ở nhiệt độ cao. Những hạt
nhỏ với kích thước khoảng 10µ còn có thể được hình thành từ sự kết hợp của các
5
hạt bụi siêu nhỏ với kích thước khoảng 2,5µ. Các hạt siêu nhỏ thường gồm một
hỗn hợp các hợp chất chứa cacbon và sulphat ở dạng hòa tan, hấp thụ hay rắn, các
kim loại vi lượng và hơi nước. Những hạt vật chất có kích thước nhỏ và siêu nhỏ
thường nguy hiểm hơn so với hạt có kích thước lớn. Thành phần của một sol khí
sẽ quyết định phản ứng hóa học và mật độ của các hạt.
Kích thước hạt bụi cho phép bụi vào sâu trong đường hô hấp hay không. Ảnh
hưởng của các hạt ô nhiễm không khí gây ra cho cơ thể phản ánh khả năng xâm
nhập sâu vào trong phổi và hoạt động hóa học của chúng cũng như độc tính khi
chúng tiếp xúc với phổi hay các cơ quan khác trong cơ thể.
Các hạt có kích thước 100µ có thể gây kích thích đối với màng nhày mắt, mũi,
họng nhưng không thể vào sâu hơn trong đường hô hấp
Hạt có kích thước dưới 100µ và trên 20µ: có thể vào đường hô hấp nhưng không
vào đến đường hô hấp dưới (tính từ thanh quản xuống dưới)
Hạt bụi có kích thước dưới 20µ và trên 10µ vào tới khí quản và phế quản lớn
Các hạt bụi có kích thước dưới 10µ và trên 0,1µ (được gọi là bụi hô hấp) dễ dàng
vào phế nang và đọng lại
Các hạt bụi có kích thước siêu hiểm vi (dưới 0,1µ) có khả năng đi sâu vào phế
nang thường tồn tại lơ lửng và thở ra ngoài trừ khi chúng tích điện
Hình 1:Mức độ thâm nhập bụi vào đường hô hấp và kích cỡ bụi [11], [9]
100µ
10 µ
<5 µ
20 µ

Hít thở
Thanh quản
Vùng mũi hầu họng
Vùng khí phế quản
Vùng phế nang
6
Mặc dù hình dạng hạt thường không được chú ý khi tính kích cỡ nhưng hình dạng
hạt có ảnh hưởng quan trọng quyết định ảnh hưởng hạt có thể gây ra cho cơ thể.
Amiang với hình dạng sợi dài và mảnh đã làm tổn thương tới phổi và có thể gây
ung thư phổi và u trung biểu mô ở màng phổi. Những hạt có chiều dài gấp 5 lần
chiều rộng trở lên được gọi là sợi
Ô nhiễm không khí có thể do hỗn hợp nhiều khí khác nhau và đặc tính tính quan
trọng nhất là khả năng tan trong nước và hoạt tính hóa học. Những chất ô nhiễm
khí tương đối dễ hòa tan trong nước là NO
x
hoặc SO
x
và những khí này có thể bị
ion hóa trong nước. Trong không khí chúng có thể kết hợp để tạo thành những hạt
siêu hiểm vi và hạt hiểm vi. Những khí như O
3
, SH
2
và các hợp chất hữu cơ thì ít
tan trong nước hơn. Khả năng tan trong nước của các khí cũng quan trọng như
kích cỡ các hạt, quyết định khả năng đi sâu vào trong đường hô hấp. Một khí dễ
tan trong nước bao ngoài màng nhầy đường hô hấp trên sẽ được loại ra khỏi lượng
khí vào sâu trong phổi. Một khí và không tan trong nước sẽ không được đào thải
ra và sẽ dễ dàng xâm nhập sâu vào phế nang.
Những khí có hoạt tính cao như ozone mặc dù ít tan trong nước nhưng thường có

xu hướng tác động tới đường hô hấp chứ không phải phế nang trừ khi ở nồng độ
cao
Các chất gây ô nhiễm nhân tạo chính trong môi trường không khí:
Các khí NO
x
(NO
2
, NO, N
2
O), SO
2
, H
2
O, CrO, các khí halogen (clo, brom,
iot )
Các loại khí flor
Các chất tổng hợp etsxăng (benzpyene, acetic, acid ete )
Các chất lơ lửng như bụi lơ lửng (bụi rắn, bụi lỏng, bụi vi sinh vật, nitrat,
sulfat, các phân tử cacbon, sol khí, muội, khói, sương mù, phấn hoa…
Các loại bụi nặng: bụi đất, đá, bụi kim loại đồng, chì, sắt, kẽm, niken, thiếc,
catmi
7
Khí quang hóa như ozone, N, NO
x
, andehyt, etylen…
Chất thải phóng xạ
Nhiệt
Tiếng ồn
Các thành phần ô nhiễm chủ yếu là các chất ô nhiễm do quá trình đốt cháy nhiên
liệu và sản xuất công nghiệp sinh ra.

Có hai nguồn gây ra ô nhiễm cơ bản đối với môi trường không khí nói chung:
Nguồn ô nhiễm tự nhiên
Nguồn ô nhiễm do hoạt động của con người
1.2.2 Đơn vị đo lường ô nhiễm không khí và biểu thị mức độ ô nhiễm
Các chỉ số đánh giá:
- Tổng sol khí lơ lửng được đo bằng tổng số hạt lơ lửng (TSP) hoặc sử dụng
đo kích cỡ (PM) với kích thước hạt dưới 10µ (PM
10
) và dưới 2,5µ (PM
2,5
).
- Đo lường các khí theo đơn vị µ g/m
3

theo giờ hay 24 giờ
Các tiêu chuẩn về chất lượng không khí, giới hạn các mức phát thải cho phép hoặc mức
phát thải không làm giảm chất lượng không khí vượt quá giới hạn nào đó. Các tiêu chuẩn
có thể ở hai dạng:
- Các tiêu chuẩn chất lượng không khí xung quanh: là chất lượng chung của không
khí ngoài trời ở một vùng nào đó.
- Các tiêu chuẩn phát thải qui định lượng ô nhiễm được thải ra từ một nguồn nào đó
Các tiêu chuẩn hoặc hướng dẫn về chất lượng không khí xung quanh là những giá
trị về chất lượng không khí mà chính quyền ở vùng đó không cho phép vượt quá.
Chất lượng không khí xung quanh được quan trắc tại nhiều điểm khác nhau trong
vùng; vượt ngưỡng xảy ra khi nồng độ của một chất OONKK nào đó vượt quá
mức cho phép.
8
Cơ quan Bảo vệ môi trường của Mỹ biểu thị ô nhiễm không khí bằng chỉ số chuẩn
ô nhiễm (PSI-Product Sustainbility Index), theo ngưỡng an toàn và nguy hiểm đối
với sức khoẻ của người. PSI là một chỉ số thu được khi tính tới nhiều chỉ sống ô

nhiễm, ví dụ tổng các hạt lơ lửng, SO
2
,CO, O
3
, NO
2
được tính theo m g/m
3
/giờ
hoặc trong 1 ngày.
Nếu PSI từ 0-49 là không khí có chất lượng tốt.
Nếu PSI từ 50-100 là trung bình, không ảnh hưởng tới sức khoẻ của người.
Nếu PSI từ 100-199 là không tốt.
Nếu PSI từ 200-299 là rất không tốt.
Nếu PSI từ 300-399 là nguy hiểm, làm phát sinh một số bệnh.
Nếu PSI trên 400 là rất nguy hiểm, có thể gây chết người.
Bảng 1: PSI tại điểm quan trắc chất lượng không khí tại bưu điện Darussalam,
Brunei trong năm 1998 [5]
Chỉ số Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9
PSI PM
10
18 12 12 - 23 12 13 12 24
PSI NO
2
9 12 12 - 23 21 20 18 19
PSI O
3
32 35 39 37 29 25 23 27
PSI CO 19 34 65 6 36 37 43 46 47
PSI SO

2
3 2 6 0 3 3 4 5 2
Tiêu chuẩn Việt Nam: Tiêu chuẩn chất lượng không khí TCVN 5937 qui định về
các thông số cơ bản: SO
2
CO, NO
x
O
3
, bụi lơ lửng PM
10
(bụi kích thước dưới 10µ)
và chì trong không khí xung quanh
Bảng 2: tiêu chuẩn chất lượng không khí xung quanh đơn vị tính µg/m
3
[TCVN5837]
Thống TB/1 TB/8 TB/24 Trung Phương pháp xác định
9
số giờ giờ giờ bình/năm
SO
2
350 - 125 50 Parasosalin hoặc huỳnh quang
cực tím
CO 30000 10000 - - Quang phổ hồng ngoại không
phân tán
NO
2
200 - - 40 Huỳnh quang hóa học pha khí
O
3

180 120 80 - Trắc quang tử ngoại
Bụi
TSP
300 - 200 140 Lấy mẫu thể tích lớn
Phân tích khối lượng
PM
10
- - 150 50 Phân tích khối lượng hoặc tách
quán tính
Pb - - 1,5 0,5 Lấy mẫu thể tích lớn và quang
phổ hấp thụ nguyên tử
Ghi
chú
PM
10
: bụi có kích thước khí động nhỏ hơn hoặc bằng 10µ
Dấu gạch ngang (-): không qui định
1.2.3 Nguồn ô nhiễm do hoạt động của con người
Công nghiệp hóa và quá trình đốt cháy nhiên liệu đã thải vào không khí các thành
phần gây ô nhiễm. Trên thế giới, khoảng 100.10
9
tấn SO
x
, 68. 10
9
tấn NO
x
, 57. 10
9
tấn các loại hạt lơ lửng (SPM) và 177. 10

9
tấn CO được thải vào không khí năm
1990 [11] do hoạt động của con người. Khí thải gây hiệu ứng nhà kính ước tính có
thể tăng từ 45. 10
9
tấn CO
2
trong năm 2005 lên 56. 10
9
tấn năm 2020 [7]. Con
người trong quá trình sống, phát triển đều gây ô nhiễm không khí ở mọi lĩnh vực
như: gia tăng đô thị hóa, tăng dân số đô thị; tăng các hoạt động trong lĩnh vực
công nghiệp; tăng sản xuất và sử dụng năng lượng từ các nguồn; tăng các phương
tiện giao thông-; Ô nhiễm từ sinh hoạt của con người; các nguồn ô nhiễm khác
như đốt rác thải, xây dựng…
• Nguồn gây ô nhiễm trong công nhiệp
Ô nhiễm công nghiệp là do các nhà máy, xí nghiệp sản xuất thải khí trong quá
trình đốt chất nhiên liệu và khí từ công nghệ sử dụng nguyên liệu ra môi trường.
Đặc điểm của chất thải do quá trình công nghệ là nồng độ chất độc hại cao, tập
trung trong khoảng không gian nhỏ, thường là hỗn hợp khí.
10
Các nhà máy có nguồn ô nhiễm không khí lớn: nhà máy nhiệt điện, xí nghiệp hóa
chất, nhà máy luyện kim, xí nghiệp cơ khí, nhà máy công nghiệp nhẹ, sản xuất vật
liệu xây dựng
• Nguồn ô nhiễm từ giao thông
Nguồn ô nhiễm này sản sinh ra gần 2/3 khí CO, ½ khí hydro cacbon và khí
oxitnitơ. Gia tăng đô thị hóa và gia tăng phương tiện giao thông làm tăng nhanh
mức độ ô nhiễm tại các đô thị lớn.
Những kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy chất lượng không khí ở khu vực
ngoại thành Hà nội chưa bị ô nhiễm bởi các khí thải từ phương tiện giao thông như

SO
2
, NO
2
, CO và TSP ngoại trừ các khu công nghiệp và các khu gần tuyến giao
thông liên tỉnh và đường cao tốc. Khu vực nội thành thì hầu hết các tuyến giao
thông chính đều bị ô nhiễm ở các mức độ khác nhau. Tại các tuyến giao thông, ô
nhiễm bụi lơ lửng (TSP) là chủ yếu, với nồng độ đo được cao hơn tiêu chuẩn cho
phép từ 3-4 lần. Nồng độ các khí SO
2
NO
2
trung bình hàng năm tăng khoảng
10%-60%, nồng độ CO tại trục giao thông chính cao 2,5 – 4,5 lần so với TCCP [1]
Hình 2, cho thấy tỷ lệ gia tăng các xe cơ giới và các khí ô nhiễm NO
x
, SO
x
, CO
phát sinh từ nguồn phương tiện giao thông
11
Hình 2: Nguồn phát ô nhiễm từ phương tiện giao thông tại Bangkok, 2000 [10]
• Nguồn ô nhiễm do sinh hoạt con người gây ra
Chủ yếu nguồn này do bếp đun và lò sưởi sử dụng nhiên liệu than đốt, củi,dầu hỏa
và khí đốt.
Tại Delhi, nguồn ô nhiễm do đốt nhiên liệu phục vụ sinh hoạt chiễm 6-9% trong
tổng số [unep1].
Tại Việt Nam: Mức độ biến động dân số và dân số tăng nhanh ở các đô thị lớn
không khi cơ sở hạ tầng không phát triển kịp cũng làm tăng ô nhiễm không khí đô
thị. Dự báo chỉ trong vòng 10 năm dân số thủ đô tăng 0,62 triệu người (gần 20%)

[1]. Hiện nay việc dùng than nấu phổ biến ở các đô thị, đặc biệt là vấn đề đáng
quan tâm với khu nhà khép kín, sử dụng bếp đun ở hành lang chung.
1.2.4 Nguồn ô nhiễm từ thiên nhiên
Loại phương tiên
Tấn/năm
Xe tải nhẹ
Xe tải TB
Xe tải nặng
moto
12
Nguồn ô nhiễm thiên nhiên do các hiện tượng thiên nhiên gây ra như là đất sa
mạc, đất trống bị mưa gió bào mòn, gồm bụi đất, đá, thực vật… Các núi lửa phun
nhiều nham thạch cùng với các khí từ lòng đất phun ra. Nước bẩn bốc hơi, sóng
biển tung bọt mang theo bụi muối biển lan tràn vào không khí. Các quá trình hủy
hoại, thối rữa thực vật và động vật tự nhiên cũng thải ra một số hóa chất ô nhiễm
môi trường
1.2.5 Phát tán ô nhiễm không khí và các yếu tố ảnh hưởng
Các yếu tố ảnh hưởng đến phát tán ô nhiễm
- Bản chất chất ô nhiễm và dạng tồn tại, kích thước
- Đặc điểm địa hình, không gian mở, không gian kín
- Chuyển động không khí
- Độ ẩm
- Nhiệt độ
Những đặc điểm địa hình và các chuyển động xảy ra trong khí quyển có ảnh
hưởng lớn đến sự tích tụ các hợp chất có hoạt tính hóa học trong không khí.
Những thung lũng, những dãy núi bao quanh và thiếu các khoảng trống như công
viên, rừng, khu vực hoang dã, sông suối… góp phần làm cho ô nhiễm vùng trở lên
trầm trọng hơn. Đặc điểm của những nơi này giống như túi khí, giữ và giới hạn
quá trình làm loãng cũng như hòa trộn của không khí. Những khối không khí
không chuyển động có thể tiếp nhận chất thải trong nhiều ngày. Trong điều kiện

như buổi sáng hoặc có sự chuyển động không khí từ trên cao xuống thì sẽ tạo ra
một hiện tượng đặc trưng trong khí quyển gọi là sự nghịch đảo hay còn gọi là hiện
tượng nghịch đảo nhiệt. Khi hiện tượng nghịch đảo nhiệt xảy ra thì càng lên cao
nhiệt độ càng tăng lên thay vì lên cao nhiệt độ giảm đi trong điều kiện bình
thường. Lớp nghịch đảo này là một khối không khí với gradient nồng độ bị đảo
ngược (phía trên ấm hơn, phía dưới lạnh hơn). Chuyển động không khí trong lớp
nghịch đảo bị ngăn chặn và điều này giới hạn quá trình trộn lẫn và làm loãng các
13
chất ô nhiễm không khí. Hiện tượng nghịch đảo xảy ra khá phổ biến, đặc biệt ở
các thung lũng hay vùng bờ biển. Giai đoạn nguy hiểm nhất của ô nhiễm không
khí thường là khi hiện tượng nghịch đảo xảy ra trong nhiều ngày và lớp khí quyển
ở dưới bị ô nhiễm bởi các chất ô nhiễm không khí từ ngày này sang ngày khác
nhưng không có gió để hòa lẫn và làm loãng nồng độ [11].
Ô nhiễm không khí là một phức hợp hóa học và vật lý rất phức tạp. Chất gây ô
nhiễm có thể là hỗn hợp các khí hòa tan và các hạt vật chất lơ lửng trong không
khí. Các chất ô nhiễm không khí tương tác lẫn nhau và gây ra nhiều hậu quả trầm
trọng đối với sức khỏe con người và môi trường.
Mức độ ô nhiễm không khí thay đổi theo mùa, theo mức chiếu sáng ban ngày, theo
loại hoạt động công nghiệp, theo lưu lượng giao thông, theo hướng gió chính, theo
lượng mưa hay tuyết cùng với nhiều yếu tố liên quan khác. Vì vậy thành phần
củacác chất ô nhiễm không khí không phải là một hằng số ổn định từ ngày sang
ngày khác, từ tuần này sang tuần khác mà thường theo chu kì. Nồng độ trung bình
tăng lên hay giảm xuống khá ổn định tùy thuộc vào thời điểm trong năm nhưng
nồng độ thực chất thường thay đổi từ ngày này sang ngay khác.
Độ ẩm không khí là yếu tố quan trọng quyết định lượng nước trong các hạt. Khi
độ ẩm thấp nước bay hơi nhanh và một hạt lỏng có thể trở thành thể rắn. Khi độ
ẩm cao những hạt nhỏ hút một lượng nước lớn, nhờ sự hút ẩm này mà khối lượng
của hạt tăng lên, khả năng mang những thành phần hòa tan cũng tăng lên. Vì vậy ô
nhiễm không khí từ cùng nguồn có thể khác nhau trong điều kiện khí hậu ẩm và
khí hậu khô

2. Ảnh hưởng ô nhiễm không khí và vấn đề khí hậu toàn cầu
2.1. Suy thoái tầng ozone và phóng xạ tia cực tím
Trong tầng bình lưu, một lớp khí tương đối dày ở trên cùng-các phân tử ozonee có
khuynh hướng tích tụ lại thông qua phản ứng phóng xạ của tia cực tím (UV) lên
các phân tử oxy. Lượng tử năng lượng trong tia phóng xạ UV phá vỡ phân tử oxy
14
tạo thành ozone (O
3
). Oxon tích thụ theo thời gian trong tầng bình lưu và nó có xu
hướng hấp thụ các tia phóng xạ UV và hoạt động như màng ngăn cục bộ bảo vệ bề
mặt trái đất khỏi các mức phơi nhiễm cao hơn. Sự giảm lượng ozone ở tầng bình
lưu làm giảm khả năng hấp thụ UV và cho phép nhiều tia UV xâm nhập vào trái
đất.
Suy thoái ozone ở tầng bình lưu: không nên nhầm lẫn suy thoái ozone tầng bình
lưu với sự tích tụ ozone tầng đối lưu (tầng khí quyển thấp hơn). Mặc dù cùng phân
tử, cả hai loại ozone này , đều có những ảnh hưởng khác nhau đối với sức khỏe.
Ozone ở tầng đối lưu thấp hơn là một chất ô nhiễm không khí và trong tầng đối
lưu nó là một khí gây hiệu ứng nhà kính, nhưng trong tầng bình lưu nó lại là một
tấm khiên bảo vệ quan trọng chống lại các tia phóng xạ UV-B gây nguy hại tiềm
tàng. Ozone ở tầng bình lưu được tạo ra bằng cách phân chia và kết hợp oxy khi
nó hấp thụ năng lượng từ phóng xạ UV (quá trình quang phân). Ozone ở tầng bình
lưu chỉ bị ảnh hưởng nhỏ bởi sự phát tán của ozone tầng đối lưu lên trên tầng bình
lưu.
Khoảng 20 năm trước, người ta ghi nhận lớp ozone ở tầng bình lưu bị mỏng đi ở
Nam cực. Nguyên nhân là do thải các hóa học gây phá hủy tầng ozone bằng phản
ứng xúc tác vào trong khí quyển, sự khuyếch tán dần dần vào trong tầng bình lưu,
trong số này đặc biệt là chất chlorofluorocacbons (CFC
s
). Một phân tử CFC có thể
phá hủy khoảng 10000 phân tử ozone. Thải CFC vào khí quyển do các hoạt động

công nghiệp, sự dò rỉ, sử dụng tủ lạnh, máy điều hòa cũ, sử dụng các bình sol khí
có các hợp chất gây nổ. Thời gian bán hủy CFC rất dài, nên các CFC đã được đào
thải vào môi trường vẫn tồn tại và phá hủy ozone ở những mức cao tương đối cho
tới tận thế kỷ 22.
Những ảnh hưởng lên sức khỏe con người của sự suy thoái ozone: ở trong tế bào,
sự hấp thụ tia cực tím UV dẫn đến sự phá hủy liên kết hóa trị trong các đại phân tử
quan trọng và thậm chí có thể dẫn tới ung thư, tăng lão hóa và đục thủy tinh thể.
Những ảnh hưởng của UV lên cơ thể con người tăng lên do suy thoái ozone bao
15
gồm những nguy cơ cao hơn trong việc mắc ung thư da không có sắc tố melanin,
đặc biệt ung thư biểu mô tế bào vẩy da và viêm giác mạc tơ hóa học, tình trạng
tiền ác tính, u hắc tố ác tính, đục thể thủy tinh và thoái hóa võng mạc, có thể suy
giảm miễn dịch. Các ảnh hưởng đến thẩm mỹ là lão hóa da, tăng xuất hiện mộng
thịt
2.2. Thay đổi khí hậu và hiệu ứng nhà kính
Sự thay đổi khí hậu toàn cầu sẽ xảy ra khi có những thay đổi về cân bằng nhiệt
xảy ra và tồn tại trong hành tinh. Nhiệt độ tăng có thể dẫn tới sự ấm nóng toàn cầu
và các điều kiện khí hậu xáo trộn, và sự giảm nhiệt có thể dẫn đến tình trạng lạnh,
mùa đông kéo dài hơn và tăng lượng nước giữ lại ở các tảng băng ở địa cực. Các
hoạt động của con người, chủ yếu là những sự thay đổi trong công nghiệp và nông
nghiệp gây ra sự tăng lên của hàm lượng nhiệt được giữ lại ở hành tinh. Điều này
dẫn đến sự ấm nóng trung bình trên bề mặt trái đất nhưng có sự biến động địa
phương lớn và làm cho sự dự đoán những thay đổi ở khu vực địa phương đó trở
nên khó khăn. Những thay đổi khí hậu trên phạm vi lớn được dự đoán trước có
thể dẫn đến nhiều vấn đề sức khỏe liên quan tới tình trạng căng thẳng nhiệt và các
thảm họa thời tiết, thay đổi vector truyền bệnh cho người và động vật, các mô hình
truyền nhiễm mới, sản lượng mùa màng không đảm bảo, thiếu lương thực trên
phạm vi địa phương, ngập lụt….
Hiệu ứng nhà kính: thuật ngữ hiệu ứng nhà kính được sử dụng để mô tả việc khí
quyển của trái đất hoạt động giống như tấm kính trong nhà trồng rau (hình 3). Khí

cacbonic, hơi nước và các khí khác trong khí quyển hoạt động giống như những
tấm kính trong nhà kính. Tấm kính ở các cửa sổ trong suốt đối với tia bức xạ hồng
ngoại mặt trời, do vậy tia bức xạ đi qua làm ấm nóng bên trong nhà kính. Tuy
nhiên kính cũng làm cách ly nhà kính, giữ lại nhiệt lượng được tạo ra khi tia bức
xạ hồng ngoại được hấp thu vào. Tương tự tia bức xạ hồng ngoại từ mặt trời đi qua
khí quyển của trái đất, giữ lại nhiệt. Hiệu ứng nhà kính thường đóng góp vào sự ổn
định của nhiệt độ trên Thế giới và duy trì sinh quyển trong phạm vi nhiệt độ có lợi
16
cho sự sống. Trái đất hấp thụ một lượng nhiệt nhất định và làm mất đi một lượng
nhiệt giống như vậy trong quá trình bức xạ nhiệt, tuy nhiên khí cacbonic và hơi
nước trong khí quyển làm cho nhiệt độ trung bình cao hơn mức thông thường.
Hình 3: Hiệu ứng nhà kính biểu diễn dưới dạng biểu đồ, theo McMicheal và cộng
sự 1996 [11]
Theo ước tính, việc tích tụ các khí nhà kính đã dẫn đến sự tăng nhiệt độ toàn cầu
từ ½ đến 1
0
C từ năm 1930 đến năm 1990. So với giai đoạn trước đây, những thay
đổi về nhiệt độ trung bình xảy ra ngày càng nhanh chóng hơn trong vòng 10 năm
trở lại đây. Những khuynh hướng ấm nóng đã trở nên rõ ràng kể từ năm 1980 và
năm 1998 là những năm nóng nhất. Một số chuyên gia dự đoán trong vòng 50 năm
tới, nhiệt độ toàn cầu sẽ tăng lên từ 3-4
0
C.
Sự ấm lên toàn cầu: Sự ấm lên toàn cầu dường như tăng quá mức trong các
khuynh hướng hiện nay về thời tiết và làm cho những điều kiện thời tiết khắc
nghiệt xuất hiện thường xuyên hơn.
Những ảnh hưởng của sự ấm lên toàn cầu: Những thay đổi về khí hậu ở phạm vi
lớn đã được dự báo trước dường như dẫn đến những kết cục nghiêm trọng: các vấn
đề sức khỏe có liên quan tới sự nóng bức, các thảm họa thời tiết thiên nhiên,
những thay đổi về sự phân bố các vector truyền bệnh và kết cục dẫn tới các mô

hình bệnh tật truyền nhiễm, sản lượng mùa màng giảm sút và ngập lụt [11].
17
Mỗi năm số ngày vô cùng nóng nực ở những thành phố lớn trên thế giới có thể
tăng lên và các bước sóng nhiệt có thể kéo dài hơn. Ảnh hưởng của sự kiện này
lên tỷ lệ tử vong là ở dạng lan truyền, ảnh hưởng tới tất cả các nguyên nhân tử
vong chứ không chỉ là các nguyên nhân về bệnh tim mạch.
Hiện tượng ấm lên toàn cầu có thể phá vỡ các dòng chảy đại dương và tạo ra
những luồng không khí bất thường, có thể ở dạng gió mậu dịch hoặc gió xoáy.
Cùng với việc tạo ra các đợt khô hạn kéo dài, sự ấm lên toàn cầu còn có thể làm
tăng tần suất mưa lớn bất thường, đặc biệt ở các vùng nhiệt đới. Kết quả làm tăng
tần suất xuất hiện những đợt xáo trộn khí hậu nghiêm trọng như bão lớn, gió xoáy
lốc, bão, ngập lụt và bão tuyết.
Sự ấm lên toàn cầu có thể làm cho mực nước biển tăng lên khoảng 1 mét trong
vòng 50-100 năm tới. Thủy triều lớn có thể đe dọa các thành phố nằm ở các vùng
đất thấp và các vùng ven biển .
Thông qua các tác động của khí hậu lên nhiệt độ và địa hóa của đại dương, các
mối quan hệ chức năng trong các lưới thức ăn đại dương có thể bị thay đổi. Hiện
ngày càng có nhiều bằng chứng về sự xuất hiện của hiện tượng phủ dưỡng nước
đại dương, sự thay đổi sinh khối thực vật nổi cũng như sự chiếm ưu thế của một số
loài. Bệnh liệt. tiêu chảy, bệnh thần kinh và chứng hay quên do ngộ độc nhuyễn
thể có vỏ cũng như một số loài hải sản khác tất cả có liên quan tới các độc tính
sinh học trong tảo, dường như có sự tăng lên các vụ dịch toàn cầu ở những vùng
ven biển có sự nở hoa của tảo (Anderson, 1992; Smayda và Shimizu, 1993)[11].
Những ảnh hưởng này cùng với thay đổi môi trường do nhiều áp lực khác, có
những ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe và dinh dưỡng của con người.
Sự phân bố thực vật cũng thay đổi mạnh trong một giai đoạn ngắn , tương ứng với
tỷ lệ thay đổi trong quá khứ của trái đất, nếu như sự ấm nóng toàn cầu xảy ra ở
một phạm vi lớn. Một hậu quả có thể nhìn thấy được của sự tái phân bố của các
loại thực vật là sự mở rộng về phạm vi địa lí của các loại côn trùng gây bệnh cho
con người bao gồm cả sự phân bố lại của muỗi anophen và colicine. Các bệnh do

virut được truyền qua các loài chân đốt có thể tăng lên, bao gồm các loại sốt xuất
18
huyết do virut gây ra, chẳng hạn như sốt vàng, dengue xuất huyết và viêm não
virut…. Vùng dịch thường giới hạn ở khu vực nhiệt đới dường như đang có xu
hướng mở rộng sang các khu vực ôn đới. Cũng có khả năng là các bệnh này sẽ
phát triển lên những khu vực cao hơn (WHO, 1990; Chivian et all, 1993;
McMichael et all, 1996) [11].
Nguyên nhân: các lý do của sự thay đổi khí hậu rất phức tạp, nhưng tất cả đều liên
quan tới việc thải ngày càng tăng các chất gây hiệu ứng nhà kính vào khí quyển
trái đất, chẳng hạn như CO
2
, hơi nước. Khi hàm lượng các khí này được thải vào
khí quyển tăng lên sẽ làm tăng hiệu ứng nhà kính. Nhưng lý do cơ bản của sự tăng
lên này là do sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động công nghiệp và nông
nghiệp và sử dụng các nhiên liệu hóa thạch ngày càng tăng. Nồng độ các chất khí
gây hiệu ứng nhà kính tăng lên nhanh chóng trong tầng đối lưu. Hàm lượng khí
CO
2
tăng 0,4%/năm, metan tăng 1%/năm, CFC cho tới nay vẫn tăng 5%/năm và
các loại khí oxit nito tăng 0,3%/năm, nồng độ khí ozone và một số khí khác vẫn
tăng. Nguyên nhân chủ yếu là do sự phát triển công nghiệp và giao thông đặc biệt
sử dụng các động cơ đốt trong và các nhà máy nhiệt điện sử dụng than làm nguyên
liệu. Khí metan được thải ra từ các hoạt động nông nghiệp, chôn lấp rác và các
nguồn thực vật phân hủy.
Trong các khí gây hiệu ứng nhà kính, CO
2
là loại khí quan trọng nhất, chiếm tới ½
hiệu ứng. Loại khí này vô cùng khó kiểm soát, vì nó được thải ra ở bất kì dạng đốt
cháy nào và được thải ra trong quá trình đốt cháy nhiên liệu hóa thạch. Ngược lại,
CFC

s
lai không tăng lên. Việc ngừng sản xuất và phân phối CFC
s
trong các sản
phẩm mới trên toàn thế giới đã được thỏa hiệp khi người ta phát hiện ra CFC là
nguyên nhân chính ra sự suy thoái ozon ở tầng bình lưu.
19
3. Những ảnh hưởng sức khỏe phổ biến do ô nhiễm không khí xung quanh
Bảng 2: Các bệnh thường gặp khi phơi nhiễm với ô nhiễm không khí [11]
Bệnh/Tình trạng sức
khỏe
Ảnh hưởng không đặc trưng Các yếu tố liên quan
Viêm phế quản cấp SO
2
, bò hóng, các chất ô
nhiễm từ sản phẩm dầu mỏ
kích thích trực tiếp đường
hô hấp
Khói thuốc lá có thể làm
tăng ảnh hưởng
Nhiễm khuẩn hô hấp
cấp
Nguy cơ tăng ở trẻ em Nghèo, suy dinh dưỡng,
phơi nhiễm với tác nhân
gây bệnh
Hen Nặng hơn khi kích thích
phổi
Cơ địa dị ứng
Viêm phế quản mạn Ho, khạc đờm liên quan đến
chất ô nhiễm

Hút thuốc, bệnh nghề
nghiệp
Chết Bụi siêu nhỏ làm tăng tỷ lệ
tử vong do các bệnh tim
mạch và phổi
Có tiền sử bệnh tim mạch,
phổi
Đau nhức mắt ảnh hưởng đặc thù của chất
oxit hóa quang hóa, có thể là
aldehyt hay peroxyacety
nitrates, bụi mịnd
Tính nhạy cảm
Đau đầu Lượng CO đủ để tạo ra một
lượng HbCO cao hơn 10%
trong máu
Hút thuốc lá làm tăng
HbCO
Ngộ độc chì Làm yếu cơ thể người bệnh ở gần nguồn ô nhiễm
Những bệnh nhân hen và bệnh nhân tắc phổi mãn tính thường bị nặng hơn trong
điều kiện ô nhiễm không khí. Những nghiên cứu gần đây cho thấy mối liên quan
20
chặt chẽ giữa tần số và tính nghiêm trọng của các cơn hen với nồng độ sulfat và
chất oxy hóa trong không khí.
Những ảnh hưởng trực tiếp của ô nhiễm không khí lên tim mạch chủ yếu là liên
quan với CO, CO làm giảm lượng oxty máu và bị nghi ngờ là nguyên nhân gây
trầm trọng hơn chứng xơ vữa động mạch.
Mối liên quan giữa ung thư với các thành phần hữu cơ gây ô nhiễm không khí đã
thu hút được nhiều sự quan tâm. Một số bằng chứng đáng tin cậy cho thấy chất ô
nhiễm không khí trong nhà (radon) và tại nơi làm việc (amiang) có liên quan tới
ung thư phổi. Khói thuốc lá có khả năng ung thư cao hơn asen, radon hay amiang

trong không khí. Nguy cơ ung thư tăng nhiều lần nếu phối hợp hút thuốc lá và các
độc chất này.
Tích tụ chì trong cơ thể gây ảnh hưởng tiêu cực lên hệ thần kinh trung ương và có
thể làm giảm khả năng hấp thụ của trẻ em.
Ô nhiễm không khí liên quan với tỷ lệ tử vong cao và thường xảy ra ở những
người bị rối loạn đường hô hấp và tim mạch. Kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy
mối tương quan giữa nồng độ các hạt ô nhiễm không khí trong môi trường đô thị
và tỷ lệ tử vong từ nhiều nguyên nhân khác nhau bao gồm cả bệnh liên quan tới
phổi. Theo Pruss Ustun Anette và cộng sự, trong tổng số 4,9 triệu trường hợp tử
vong (8,3% tổng số chết) và 86 triệu DALYs (5,7% tổng số) đã qui thuộc do phơi
nhiễm với môi trường và quản lý các chất hóa học năm 2004. Đóng góp lớn nhất
gồm khói trong nhà phát sinh do đốt nhiên liệu, ô nhiễm không khí bên ngoài nhà
và hút thuốc lá bị động với 2,0; 1,2 và 0,6 triệu trường hợp chết mỗi năm [6].
4. Những ảnh hưởng sức khỏe của một số chất gây ô nhiễm KK đặc trưng
21
Bảng 3: Một số chất gây ô nhiễm không khí chính ở đô thị, nguồn phát thải và
những ảnh hưởng của chúng tới sức khỏe.[11]
Chất gây ô
nhiễm
Nguồn Những ảnh hưởng sức khỏe
Axit acetic Đốt cháy nhiên liệu, nguyên liệu
trong xây dựng
Kích thích màng nhày
Aldehyt Đốt cháy nhiên liệu hóa thạch; khói
thuốc lá
Kích thích ngứa mắt, đường hô
hấp trên
CO Đốt cháy nhiên liệu hóa thạch; khói
thuốc; các hoạt động giao thông
Đau đầu, buồn nôn, hoa mắt, khó

thở, mệt mỏi, trẻ sinh thiếu cân,
cản trở tầm nhìn, ảnh hưởng tâm
thần, viêm họng, bất tỉnh, tử
vong
Formandehyt Đốt cháy nhiên liệu, nguyên liệu dùng
trong xây dựng, công nghiệp làm gỗ,
khói thuốc
Kích thích mắt, đường hô hấp, dị
ứng, có thể ung thư
Chì và kim
loại nặng
Lò nấu kim loại, xăng pha chì ảnh hưởng tới sinh lí, thần kinh,
tổn thương hệ thần kinh trung
ương, hạn chế tiếp thu
Vi sinh vật Từ con người, động vật, đồ gỗ gia
dụng
Các bệnh truyền nhiễm, dị ứng
NO Đốt cháy nhiên liệu hóa thạch, khói
thuốc, giao thông
Kích thích mắt, đường hô hấp
trên, phế quản, làm bệnh hen
nặng thêm,
Ozone Giao thông, giải phóng hydrocacbon,
đốt nhiên liệu hóa thạch
Kích thích mắt, đường hô hấp
trên, dị ứng, làm nặng thêm các
bệnh hô hấp, tim mạch
Các hạt ô
nhiễm KK
Đốt cháy nhiên liệu hóa thạch,

nguyên liệu xây dựng, làm gỗ, khói
thuốc, công nghiệp, giao thông
Kích thích mắt, đường hô hấp
trên, dị ứng, làm nặng thêm các
bệnh hô hấp, tim mạch
Phenol Đốt cháy nhiên liệu hóa thạch, hóa
chất gia dụng
Kích thích màng nhày
Hydrocacbon
thơm đa
vòng
Đốt cháy nhiên liệu hóa thạch Gồm nhiều chất gây ung thư
Radon Dưới các lớp đất đá Gây ung thư
SO
x
Đốt cháy nhiên liệu hóa thạch, phát
thải từ các hoạt động công nghiệp
Kích thích màng nhày
Axit sulfuric Đốt cháy nhiên liệu hóa thạch, phát
thải từ các hoạt động công nghiệp
Kích thích màng nhày
hydrocacbon
hữu cơ
Đốt cháy nhiên liệu hóa thạch, giao
thông, nguyên vật liệu xây dựng, sản
xuất đồ gỗ, hóa chất gia dụng
Đau đầu, hoa mắt, kích thích
đường hô hấp trên, buồn nôn,
một số chất gây ung thư
5. Ô nhiễm không khí công nhiệp

22
Có 3 loại ô nhiễm công nghiệp chính được phân biệt bởi tính chất hóa học, phân
bố và các nguồn phát sinh (bảng 4)
Bảng 4: tính chất hóa học và nguồn phát sinh các dạng ÔNKK [11]
Dạng ô nhiễm Thành phần Nguồn
Tính khử SO
x
và các hạt ÔNKK Đốt cháy cố định như nhà
máy chạy bằng năng lượng từ
nhiên liệu hóa thạch, lò công
nghiệp, lò sưởi
Quang hóa Hydrocacbon và oxit nito giải
phóng từ các động cơ đốt trong,
các khí này tham gia vào phản
ứng quang hóa phức tạp dưới sự
tác động của ánh sáng mặt trời
làm cho khí quyển chứa ozone,
NO
2
, aldehyt và nitarat hữu cơ
chứa một nồng độ đáng kể
Các nguồn phát thải động
như ô tô, nhà máy chạy bằng
năng lượng từ nhiên liệu hóa
thạch, nhà máy hóa dầu và
tinh chế dầu.
Nguồn điểm
gây ô nhiễm
Cụ thể đối với từng nguồn ô
nhiễm. ví dụ ở gần lò luyện kim

Ngành công nghiệp cụ thể,
các sự cố tai nạn trong vận
chuyển, trong công nghiệp
Ô nhiễm không khí dạng khử: do SO
2
và các hạt ô nhiễm gây ra, những chất có
tính chất khử tồn tại trong khí quyển.
ÔNKK quang hóa là một khái niệm tương đối mới trong lịch sử phát triển của con
người. Hiện tượng này do phản ứng hóa học phức tạp xảy ra trong khí quyển dưới
sự tác động của ánh sáng mặt trời.
ÔNKK tại nguồn phát thải điểm và chỉ tác động đến những vùng gần nguồn thải
như nhà máy, các chất ô nhiễm không tham gia vào các phản ứng xảy ra trong khí
quyển.
6. Ô nhiễm không khí và cộng đồng
Mức độ và các nguồn gây ô nhiễm xung quanh:
Phát triển công nghiệp dẫn tới phát thải một lượng lớn các khí và hạt vật chất làm
ô nhiễm không khí, các hoạt động gây ô nhiễm không khí có thể từ các hoạt động
23
sản xuất nông nghiệp hay đốt cháy nhiên liệu hóa thạch để tạo ra năng lượng và
vận tải.
Phơi nhiễm với các chất ô nhiễm là một phần của cuộc sống đô thị trên toàn thế
giới. Trong suốt hơn 20 năm qua đã có sự thay đổi về dạng ô nhiễm không khí tác
động lên những nước phát triển. Ở những nước phát triển, các chất ô nhiễm truyền
thống từ nhiều nguồn cố định (như SO
2
và các hạt vật chất lơ lửng) đã được kiểm
soát hiệu quả. Đồng thời xu hướng dùng điện và ga trong đun nấu và sưởi ấm thay
vì dùng than đã làm giảm thải SO
2
và bụi lơ lửng đồng thời cải thiện chất lượng

không khí. Tuy nhiên, tăng cường phát triển kinh tế đã làm gia tăng phát thải công
nghiệp đặc biệt là gia tăng các phương tiện giao thông. Điều này dẫn đến viêc gia
tăng các chất ô nhiễm từ nguồn giao thông: NO
x
, CO, hydrocacbon, ozone, và các
chất oxi hóa quang hóa và chì ở một số vùng sử dụng xăng pha chì. Trong khí đó
tại các nước đang phát triển, với tốc độ đô thị hóa nhanh chóng gây ra hậu quả
tương tự như những vấn đề mà trước đây các nước phát triển đã từng phải đối
mặt. Đồng thời phát triển kinh tế nhanh chóng có nghĩa là phát triển từ các hoạt
động công nghiệp, giao thông cũng đang ngày càng gia tăng gây ra các vấn đề về
chất lượng không khí. Trên thế giới hiện có hơn một tỉ người đang phải sống ở
những đô thị với điều kiện chất lượng môi trường không khí ở mức không thể
chấp nhận được. Một số trường hợp tồi tệ nhất là ở các thành phố lớn ví dụ như
Mehico và Saul Paul (Brazil).
Ô nhiễm không khí trong nhà:
Tại nhiều cộng đồng, ô nhiễm không khí trong nhà hiện đang gây ra những nguy
cơ sức khỏe nhiều hơn so với ô nhiễm môi trường xung quanh. Những người dễ bị
tổn thương nhất là những người phụ thuộc vào lò sưởi lộ hoặc lò sưởi mà nhà
không đủ độ thông thoáng, điều này dấn đến tình trạng số trẻ em trên toàn cầu chết
vì bệnh liên quan tới đường hô hấp. Nhiên liệu hóa thạch được sử dụng rộng rãi
trong nhà và cho các ngành công nghiệp kém phát triển, buộc mọi người phải tiếp
xúc với những khí độc hại như CO, NO
x
, bụi lơ lửng, hợp chất hữu cơ dễ bay hơi
24
VOC
s
. Thiếu thông thoáng, thiếu lò đốt thích hợp và ống khói thường đi kèm với
những nguy cơ do nhiên liệu này. Hơn nữa vật liệu xây dựng và đồ đặc thường là
những nguồn gây ô nhiễm trong gia đình, (như formaldehyde, amiang). Khói

thuốc lá cũng gây ô nhiễm không khí. ÔNKK tăng tại các khu đô thị có mật độ
dân số cao và khu công nghiệp.
Sơn có chứa chì là một nguồn gây nhiễm độc chì đặc biệt là trẻ em. Những ống
nước có tuổi thọ cao làm từ chì hay hợp kim chì vẫn được dùng tại một số nơi trên
thế giới.
Nghề thủ công, nghề mà nhà ở được sử dụng làm nơi sản xuất, người dân có nguy
cơ tiếp xúc với chất ô nhiễm.
Tại một số nước phát triển hội chứng nhà ở (SBS: Sick Building Symdrome) hay
bệnh liên quan đến nhà (building related illness) đôi khi khá phổ biến. Thực tế là
người dân dùng 80%-90% thời gian ở trong nhà của họ điều này đã nhấn mạnh
tầm quan trọng của việc đối mặt với hội chứng này.
7. Kiểm soát ô nhiễm không khí và các biện pháp dự phòng giảm thiểu ô
nhiễm
7.1. Quản lý và kiểm soát ô nhiễm môi trường
Quản lý và kiểm soát ô nhiễm phải tại từng nguồn thải đề phòng việc thải ô nhiễm
vào môi trường ngay từ đầu.[3]
Trên cơ sở văn bản, pháp luật:
- Xây dựng các tiêu chuẩn hoặc hướng dẫn tiêu chuẩn không khí xung quanh
và tiêu chuẩn nguồn phát thải
- Luật lệ giới hạn các mức phát thải cho phép và mức phát thải không làm
giảm chất lượng không khí
- Luật bảo vệ môi trường
Thành lập các cơ quan chuyên trách về quản lý môi trường:
- Tiến hành kiểm soát và quản lý các nguồn gây ô nhiễm môi trường,
25
- Quản lý kiểm soát gia tăng phương tiện giao thông.
- Có hệ thống giám sát mức độ ô nhiễm môi trường không khí trong phạm vi
đô thị hay khu công nghiệp, nhà máy và có biện pháp xử lý khi gia tăng ô
nhiễm
Tổ chức thanh tra nhà nước, thanh tra môi trường, thành tra giao thông áp dụng

các hình thức xử phạt cho các đối tượng phạm luật
7.2. Qui hoạch xây dựng đô thị và khu công nghiệp
Yêu cầu qui hoạch:
- Địa điểm xây dựng nhà máy cần đặt ở cuối hướng gió, cuối nguồn nước so
với khu dân cư
- Các nguồn gây ô nhiễm môi trường như các cơ sở sản xuất phát sinh độc hại
cần tập trung xa khu dân cư
- Qui hoạch khoảng trống giữa các khu công nghiệp
- Khoảng trống giữa các khu công nghiệp và khu dân cư (vùng cách ly vệ
sinh)
Bảng 5: khoảng cách nguồn thải đến khu dân cư [2]
Mức độc hại I II III VI V
Chiều rộng vùng cách ly (m) 1000 500 300 100 50
7.3. Sử dụng cây xanh để bảo vệ môi trường không khí
Cây xanh có tác dụng che nắng, hút bớt bức xạ mặt trời, hút bụi và giữ bụi, lọc
sạch không khí, giảm ồn và che chắn ồn.
7.4. Biện pháp công nghệ
Đây là biện pháp cơ bản vì nó cho phép đạt hiệu quả cao nhất để hạ thấp chất độc
hại thải ra ngoài môi trường.
Công nghệ sản xuất kín, công nghệ “không có chất thải”

×