Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN Đổi mới phương pháp dạy học môn Toán lớp 1, 2, 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.75 KB, 23 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
”ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN TOÁN LỚP 1, 2, 3”
A. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG.
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Hiện nay trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà Nước luôn quan tâm
hàng đầu là đổi mới giáo dục. Đảng ta đã nhận định giáo dục là nền tảng của xã hội. Một
đất nước muốn phát triển về lâu dài thì việc đầu tư vào giáo dục là việc nên làm. Viêïc đó
được thể hiện qua những việc như tăng ngân sách ngành giáo dục, đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng trường lớp, nâng cao công tác đào tạo đội ngũ giáo viên đủ năng lực và trình độ,
cụ thể là việc thay SGK trong 5 năm nay của các lớp 1- 2- 3 - 4- 5 đối với bậc TH và lớp
6- 7- 8- 9 đối với bậc THCS. Việc thay SGK chính là việc đổi mới giáo dục hiện nay qua
đó chúng ta cần phải đổi mới cả 4 thành tố: Mục tiêu, nội dung, phương pháp, đánh giá.
Nhưng đổi mới phương pháp là quan trọng hơn cả và cần đầu tư nghiên cứu kĩ càng hơn.
Bởi phương pháp là cách làm cho học sinh tiếp cận kiến thức một cách khoa học nhất,
đúng đắn nhất.
Hiện nay khi mà trình độ khoa học trên thế giới phát một cách tột bậc, thời đại của
“Công nghệ thông tin” thì những phương pháp cổ điển liệu có còn phù hợp hay không?
Khi mà trên thế giới hiện nay học sinh một số nước ngồi học tại nhà qua mạng, qua
Internet. Còn đất nước chúng ta vẫn còn cảnh “Thầy đọc trò ghi”. Nội dung, kiến thức,
phương pháp quá cũ không đáp ứng với kiến thức của con trẻ ngày nay. Trẻ em ngày nay
qua hệ thống thông tin đại chúng, chúng đã tiếp thu một lượng kiến thức khổng lồ, nhưng
trong khi đó lên lớp chúng lại ì ạch tìm hiểu những kiến thức quá cũ. Do đó việc đổi mới
giáo dục là việc làm cần thiết hiện nay.
Trong các môn học ở bậc tiểu học hiện nay môn toán được xem là môn học công
cụ, kích thích tư duy, khả năng sáng tạo. Nhưng lại là môn học khô khan nhất. Người
Việt Nam vốn có năng lực học toán, ham thích học toán, điều đó được thể hiện qua kết
quả các cuộc thi Toán quốc tế. Nhưng đó cũng chỉ dành riêng cho các em học chuyên,
đầu tư để đi thi. Nhiệm vụ của chúng ta là làm sao cho môn toán là môn ham thích nhất
của mọi trẻ em, con người Việt Nam. Làm sao để học sinh chúng ta tiếp cận với nền toán
học, phương pháp học tiên tiến của các nước trong khu vực và trên thế giới. Muốn làm


việc đó tất nhiên chúng ta phải đổi mới: Mục tiêu, nội dung, phương pháp, việc đánh giá
trong việc dạy môn toán ở bậc học cơ bản đó là bậc tiểu học.
II/ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
- Nhằm đánh giá lại việc học toán ở các trường tiểu học trong những năm qua có
những điều ưu khuyết như thế nào về mục tiêu, nội dung, phương pháp, đánh giá .
- Tìm ra những nguyên nhân tại sao việc học toán ở các trường tiểu học hiện nay
chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
- Đánh giá lại kết quả của việc cải tiến và đổi mới phương pháp học toán hiệân nay
trong hai năm thực hiện việc thay sách ở lớp 1 và 2. Việc đổi mới phương pháp dạy học
có ảnh hưởng như thế nào trong việc lãnh hội và phát huy kiến thức về môn toán của học
sinh.
- Đưa ra một số giải pháp trong việc đổi mới dạy học môn toán đặc biệt là phương
pháp dạy học toán hiện nay và mai sau. Nhằm nâng cao chất lượng học tập của học sinh
hơn nữa.
III/ NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI:
+ Có nên chăng chúng ta tiếp tục học môn toán học toán như từ xưa đến nay là đã
đúng, đủ đối với yêu cầu xã hội. Không cần đổi mới về nội dung và phương pháp. Mặc
dầu hiện nay trình độ khoa học kĩ thuật đã phát triển một cách vượt bậc. Ở các nước trong
khu vực trong công tác giáo dục đã có rất nhiều tiến bộ về đổi mới phương pháp học phù
hợp với khoa học công nghệ hiện nay. Trong khi đó trình độ giáo dục của chúng ta thấp
hơn nhiều so với các nước xung quanh. Không đáp ứng đúng với việc phát triển đất nước
mà Đảng và nhà nước đang đề ra.
+ Có nên chăng để việc học toán của học sinh vẫn theo cách học thuộc lòng, ghi
nhớ một cách máy móc, tiếp nhận kiến thức một cách thụ động qua lăng kính giáo viên,
học thuộc lòng lý thuyết là chủ yếu. không cần phát triển tư duy, óc sáng tạo cho học
sinh. Cách dạy học làm cho học sinh ngày càng thụ động, ỷ lại, thiếu năng động tìm tòi
+ Nguyên nhân:
Do nền kinh tế chúng còn lạc hậu, là một nước nghèo chưa đầu tư đúng đắn cho
ngành giáo dục. Kinh tế gia đình chưa phát triển nên phụ huynh cũng chưa tạo điều kiện
tốt để con em mình học tốt nhất.

Đội ngũ giáo viên còn quá yếu về chuyên môn, không đủ trình độ giảng dạy, cải
tiến phương pháp giáo dục, không theo kịp sự phát triển xã hội. nắm bắt được các
phương pháp dạy học tiên tiến.
Nhà nước ta trước đây chưa đầu tư đúng mức cho giáo dục, việc đổi mới giáo dục
còn quá chậm chạp không theo kịp thời đại, thực hiện xong việc đổi mới thì lại chậm hơn
các nước khác vài chucï năm.
+ Hướng giải quyết:
Tìm ra những nguyên nhân còn yếu kém trong trong các phương pháp dạy học hiện
nay, từ đó tìm ra những phương pháp hay nhất cho việc học môn toán đạt kết quả tốt.
Tìm hiểu phương pháp dạy học tích cực trong trong dạy học toán hiện nay. Đặc biệt
là phương pháp đặt và giải quyết vấn đề và phương pháp hợp tác chia nhóm nhỏ.
Học hỏi các cách thức giáo dục các nước xung quanh, đem những cái ưu, phù hợp
vào công cuộc cải cách giáo dục.
B. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI.
I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN:
+ Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh tiểu học:
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học tâm sinh lý các em chưa ổn định, đang hình thành và
phát triển. Ở các em học sinh Tiểu học đang còn hiếu động thích tìm tòi học hỏi những
vấn đề mới, đặc biệt là rất đễ cuốn hút bởi các dụng cụ trực quan. Nên trong sự học tập,
làm việc hàng ngày các em chưa thích ứng được với những bài giảng khô khan mang tính
lý thuyết cho nên những phương pháp cũ chưa thể đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh
nên đổi mới về phương pháp là cấp thiết.
Ở mẫu giáo hoạt động chủ yếu của các em là:” Học mà chơi, chơi mà học”. Nhưng
sang bậc tiểu học các em lại sống trong môi trường giáo dục thật sự, nội qui trường lớp,
các kỳ thi cử, các kỳ thi có tính nghiêm túc làm cho tâm lý các em chưa thích nghi được.
Các em thường mất bình tĩnh, tự tin vào chính bản thân mình làm quên đi những kỹ năng,
kỹ xảo đã tiếp thu ảnh hưởng đến chất lượng học tập. Cho nên muốn học sinh học toán
tốt chúng ta cầøn phải có một phương pháp phù hợp với các em.
+ Những vấn đề lý luận khác:
Nhiệm vụ giáo dục của chúng ta hiện nay là giáo dục giáo dục cho học sinh phát

triển toàn diện về: “ Đức, Trí, The,Å Mỹ”, hình thành các kỹ năng, kỹ xảo nhằm giúp các
em hòa đồng với cuộc sống sau này. Và đặc biệt là làm sao để các em sau này biết tìm tòi
khám phá cuộc sống của chính mình. Cho nên đối với những phương pháp cũ thầy đọc,
trò ghi, trò học thuộc lòng công thức mà không hiểu rõ bản chất của nó, cứ như vậy tạo
cho học sinh tính ù lìø trong học tập, trong cả cuộc sống sau này của các em.
Trong sự đổi mới của đất nước công nghiệp hoá hiện đại hoá, và những thách thức
hội nhập quốc tế
II/ THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU:
1/ Những điếm đổi mới về nội dung và phương pháp của SGK toán 1- 2- 3.
Việc đổi mới ở SGK toán 1- 2- 3 bao gồm nhiều yếu tố như hình thức, nội dung,
phương pháp, đánh giá, trang thiết bị nhưng chủ yéu vẫn là nội dung và phương pháp dạy
học.
2.1) Về nội dung đổi mới:
(Nội dung Cụ thể xin xem ở SGK toán lớp 1,2,3)
Chương trình tiểu học mới ở SGK toán 1- 2- 3 vẫn lấy số học làm trọng tâm nhưng
đổi mới về cấu trúc nội dung số và cách thể hiện nội dung số học.
Những đổi mới về số học học là cơ sở lựa chọn các nội dung của các mạch kiến
thức về đại lượng, yếu tố hình học, giải toán có lời văn, nhằm tạo ra sự hộ trợ lẫn nhau
giữa số học với cách mạch kiến thức khác, tạo ra sự thống nhất về quan điểm khoa học và
sư phạm trong môn toán.
Đổi mới này góp phần vào việc tăng cường thực hành, luyện tập các kĩ năng toán
học, đặc biệt là các kĩ năng tính và giải quyết vấn đề, giúp học sinh học đến đâu nắm,
hiểu chắc đến đó.
Dạy học vừa sức với số đông học sinh nhưng học được nhiều hơn, nhanh hơn và
vững chắc hơn.
Phát triển được năng lục tự học nhờ cách biên soạn SGK toán 1- 2- 3 kiểu mới, nhờ
cách dạy của giáo viên.
Giữa nội dung SGK toán 1- 2- 3 mới và cũ ta thấy có nhiều sự thay đổi như: Nội
dung phong phú hơn, có cấu trúc hợp lý hơn, được sắp xếp đan xen với các mạch kiến
thức khác, phù hợp với với sự phát triển theo từng giai đoạn học tập của học sinh.

Nội dung thể hiện mức độ yêu cầu kiến thức, kĩ năng cơ bản theo đúng trình độ
chuẩn.
Cách trình bày chú ý đến tính trực quan qua hình ảnh học, tăng cương các bài luyện
tập thực hành rèn kĩ năng.
VD: Môn hình học lớp 2:
SGK cũ
- Bài 1: Hình tứ giác, hình chữ nhật.
- Bài 2: Đường gấp khúc. SGK mới
- Bài 1: Hình chữ nhật, hình tứ giác.
- Bài 2: Đường thẳng, 3 điểm.
- Bài 3: Đường gấp khúc, độ dài đường gấp khúc.
- Bài 4: Chu vi hình tam giác chu vi hình tứ giác.
2.2) Đổi mới về phương pháp theo đổi mới nội dung SGK toán:
Đổi mới về SGK cũng yêu cầu về đổi mới về phương pháp để để việc dạc học môn
toán trở nên đồng bộ, đạt hiệu quả cao nhất.
- Phương pháp dạy học bài mới.
- Phương pháp dạy học các nội dung thực hành, luyện tập.
- Vấn đề soạn giảng bài của giáo viên.
a/ Phương pháp dạy học bài mới:
Giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động học tập để giúp học sinh:
- Tự phát hiện và giải quyết nhiệm vụ bài học.
Giáo viên chỉ là người đưa ra những gợi ý để cho học sinh tự nhận thấy vấn đề và
giải quyết vấn đề đó đạt đến giải quyết nhiệm vụ bài học đưa ra.
VD: Khi dạy bài “ 9 cộng với một số” (9+5)
Gv cho học sinh lấy que tính ra một bên 9 que và một bên 5 que.Hướng dẫn HS
làm sao để có một bó là 10 que và đi đến phép cộng một cách dề dàng.( Bớt 1 que tính
bên nhóm năm đưa qua nhóm 9 que để thành 10 que chẵn, thì nhóm còn lại còn 5- 1=4
que. Và 10+4=14 que).
- Tự chiếm lĩnh kiến thức mới và cần thiết.
Sau khi giải quyết nhiệm vụ bài học hình thành kiến thức mới học sinh phải biết

chiếm lĩnh kiến thức đó và vận dụng vào việc giải toán.
VD: HS sau khi biết cách 9+5 là bớt 1 que tính bên nhóm năm đưa qua nhóm 9
que để thành 10 que chẵn, thì nhóm còn lại còn 5- 1=4 que. Và 10+4=14que. Từ đó HS
có thể biết cách cộng 9 với 7 cũng tương tự bớt 1 que tính bên nhóm bảy que đưa sang
nhóm 9 que để thành 10 que, sau đó lấy 10+(7- 1) =16 que.Tiếp tục như thế hình thành
được bảng cộng 9.
Gv cũng có thể cho học sinh thuộc kiến thức ngay trên lớp bắng cách bôi đi từng
phần công thức rồi cho các em nhắc lại. Hoặc qua luyện tập nhiều lần các bài tập để ghi
nhớ công thức ngay lớp. Đây cũng là một bước chiếm lĩnh kiến thức mới “học để hành,
hành để học” là một phương pháp ghi nhớ kiến thức một cách hiệu quả và lâu dài.
VD: Bài “9+ với một số” Thì qua thực hành học sinh có thể rút ra được 9 cộng với
một số A có một chữ số thì sẽ bằng 10 cộng với một số nhỏ hơn A một đơn vị. như
9+5=10 +4
- Tự thiết lập mối quan hệ kiến thức mới và kiến thức đã học.
Khi HS đã học một kiến thức mới, nhưng kiến thức mới này dựa trên những kiến
cũ để hình thành nên thì qua bài học HS sẽ nắm bắt được mối quan hệ giữa kiến thức cũ
và kiến thức mới.
VD: Khi học bài “9 cộng với một số” thì học sinh dựa trên kiến thức cũ là “ Mười
cộng với 1 số” Thì từ đó học sinh có mối quan hệ giữa hai phép cộng này. Hoặc bài “ 8
Cộng với một số” cũng có cách làm tương tự.
Gv hướng dãn học sinh biết đặt kiến thức mới trong kiến thức đã học, từ bài học
mới ôn lại kiến thức cũ. Từ kiến thức cũ hình thành bài học mới đó là cách học mới hiện
nay. Qua đó học sinh hiểu được thấu đáo hơn mố iliên hệ, ràng buộc giữa cá bài học cũng
như các vấn đề trong xã hội sau này.
b/ Phương pháp dạy học các nội dung thực hành, luyện tập:
Giáo viên cần:
- Giúp học sinh đều tham gia vào hoạt động thực hành, luyện tập theo khả năng của
mình.
Trong phần thực hành GV cần nắm vững trình độ, khả năng tiếp thu bài của học
sinh để đưa ra bài tập thực hành cho đúng đối tượng. làm sao cho tất cả các em đều tham

gia vào thực hành luyện tập theo đúng khả năg của mình.
- Xác định rõ kiến thức kĩ năng cần thực hành.
GV cần nắm vững được nội dng của bài thực hành, Đúng với yêu cầu của SGK,
trình độ của lớp mình, trọng tâm của bài.
- Tạo ra sự hộ trợ giúp đỡ nhau giữa các đối tượng học sinh.
Cần chia nhóm nhỏ để các em có thể giúp đỡ nhau trong luyện tập. Các em phải
biết hoạt động nhóm, phân công công việc trong nhóm làm sao cuối cùng tất cả đều nắm
đuợc nội dung cơ bản.
- Chuẩn bị mô hình, đồ dùng dạy học, phiếu bài học, luyện tập.
GV cần chuẩn bị mô hình, dụng cụ học tập cho tốt, yêu cầu học sinh phải biết mang
đầy đủ đồ dùng học tập. đặc biết là ở khâu dặn dò học sinh.
VD: Bài “11 trừ đi một số “ Thì giáo viên và học sinh đều phải chuẩn bị que tính.
GV chuẩn bj phiếu học tập cho học sinh có như vậy thì học sinh lên lớp mới nắm bài một
cách chủ động.
- Khuyến khích học sinh tự đánh giá kết quả thực hành, luyện tập.
Khi học sunh làm bài xong Gv nên để cho học sinh tự nhận xét kết quả bài của
mình dựa trên bài sửa của giáo viên, làm như vậy để các em có thể nắm chắc lại bài của
mình thêm một lần nữa và tập làm quen với cách tự đánh giá bài làm của mình
- Nêu ra các tình huống có vấn đề, hướng giải quyết vấn đề.
Gv phải biết hướng dẫn học sinh học và giải bài dựa trên các câu hỏi nêu tình
huống giúp học sinh suy nghĩ tìm ra hướng giải quyết vấn đề.
VD: Khi dạy bài “ 9 cộng với một số” trong phần luyên tập “9+3” Nếu học sinh
chưa tìm ra cách giải GV có thể nêu ra: “ Lầm sao có thể đưa chín thành số tròn chục để
cộng cho dễ. Học sinh sẽ biết "9+1”=10.
- Giúp học sinh nhận ra kiến thức cơ bản của bài học trong sự đa dạng và phong
phú của các bài luyện tập, thực hành.
Trong giảng bài mới Gv cần giúp cho học sinh nắm vững kiến thức cơ bản nhất
không quá nâng cao trình độ bài học lên, không đi giảng bài theo cách trải rộng không
gút được nội dung chính.
VD: Khi dạy bài “ 9 cộng với một số” Thì HS cần phải hiểu: Muốn cộng 9 với một

số thì cần phải cộng một vào chín cho thành 10 rồi cộng tiếp với số nhỏ hơn số kia một
đơn vị.
- Giúp học sinh mô tả thành lời các hoạt động và kết quả thu được.
Cái thiếu sót hiện nay của học sinh chúng ta là không biết mô tả thành lời các kiến
thức đã học, nhiều bài toán đố học sinh không thể trình bày một lời giải cho đúng. Như
vậy để giúp học sinh nắm vững và hiểu rõ bài hơn chúng ta cần cho học sinh trình bày
phần luyện tập của mình bằng lời nói.
- Tập cho học sinh thói quen không tự mãn với bài làm của mình, với các cách giải
bài có sẵn.
Chúng ta nên tập cho học sinh không nên tự mãn với những gì mình đã học đã biết,
phải luôn tự giác tìm hiểu thêm cách giải khác hơn, phải biết xem xét một bài toán ở
nhiều khía cạnh. Khi một học sinh giỏi trong lớp giải bài trước các bạn GV nên cho em
này tìm cách giải thứ hai. Mở rộng vấn đề ra để những em giỏi tự tìm hiểu.
VD: Khi dạy bài “ 9 cộng với một số”thì làm bài tập 9+6 Đối với những em giỏi
GV có thể các em trình bày nhiều cách giải như: 9+6=9+(1+5)=(9+1)+5=10+5 và
9+6=(5+4)+6=5+(4+6)=5+10=15
- Giúp học sinh tự lực khi làm bài kiểm tra.
Khi học sinh làm bài kiểm tra GV chú ý đừng để học sinh cóp py hoặc quay tài liệu
cần khuyến khích các em làm theo khả năng của mình, tránh các hình thức coi trọng con
điểm.
- Tổ chức học sinh được hoạt động thực sự bằng tay trên các đồ vật, mô hình để
học sinh tự phát hiện kiến thức, kĩ năng.
- Chúng ta cần cho học sinh dựa vào đồ dùng học tập để tìm ra kiến thức kĩ năng.
VD: Khi dạy bài “ 9 cộng với một số” GV cho HS sử dụng que tính để tự tìm kiến
thức, HS biết một bên tay có 9 que tính và bên kia có 4 que HS tự gộp lại và đếm thành
13 que, hay bớt một từ que tính ở 4 que qua bên 9 que để được 10 que từ đó rút ra được
10+3=13 và biết kĩ năng tính khi sử dụng que tính.
- Tổ chức cho học sinh vận dụng kiến thức, kĩ năng thu được thực hành ở nhiều
hình thức khác nhau.
GV cần giúp học sinh thu được kiến thức bài học rồi thì HS phải biết sử dụng kiến

thức đó cho nhiều bài khác như khi biết cách làm phép toán 9+4 thì sẽ biết tính 9+5, 9+6
hay bằng nhiều hình thức khác nhau như 9 + 4 = 9 + (1 + 3) = (9 + 1) + 3 và
9+4=(3+6)+4=3+(6+4)
c/ Vấn đề soạn bài của giáo viên:
Soạn bài thực chất là lập kế hoạch để tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động học
tập tích cực nhằm đạt các mục tiêu dạy học của một bài học, bài luyện tập cụ thể của toán
1- 2- 3.
Còn tất cả những đổi mới về trang thiết bị, chuẩn đánh giá, hình thức đều là để hộ
trợ phương pháp dạy học mới.
c.a) Các loại tiết dạy trong môn toán TH:
Tiết hình thành kiến thức mới, tiết luyện tập, tiết ôn tập, tiết thực hành, tiết kiểm
tra, tiết ngoại khoá.
c.b) Soạn bài lên lớp và vấn đề đổi mới phương pháp dạy học toán hiện nay:
Chúng ta cần thực hiện ba khâu sau:
Khâu soạn bài: Xác định mục đích yêu cầu tiết dạy trên cơ sở: Mục đích tiết dạy,
điều kiện dạy học, trình độ học sinh. Xác định các hoạt động phải phù hợp lo gích với nội
dung kiến thức. Cần lựa chọn các hoạt động thu hút hấp dẫn học sinh.
Khâu lên lớp: Tổ chức hoạt động cho học sinh với các yêu cầu: Mỗi hoạt động
được thực hiện đúng, hệ thống các hoạt động được thực hiện đúng các tiến trình, sử dụng
đồ dùng hợp lý. Theo dõi đánh giá để kịp thời điều chỉnh các hoạt động của lớp, nhóm,
tửng học sinh.
Khâu chỉ đạo học sinh học ở nhà: Chọn việc giao về nhà cho học sinh phải phù hợp
vpới trình độ mỡi học sinh.
c.c)Việc cần làm thường xuyên để thực hiện tốt cá khâu soạn bài lên lớp.
- Nghiên cứu nắm vững chương trình:
Đó là quan điểm xây dựng chương trình, hệ thống kiến thức toàn bậc học. Là mối
liên hệ giữa các mạch kiến thức, ở từng lớp, giữa các lớp. những vấn đề khó cần quan
tâm.
- Nghiên cứu nắm vững nội dung SGK:
Trước hết là nắm vững nội dung kiến thức sách giáo khoa ở từng lớp. Giải được các

bài tập trong sách GK và bài tập. Nhận biết được sự thể hiện, mối liên hệ giữa các
chương trình trong SGK
- Vận dụng linh hoạt ság hướng dẫn giáo viên.
- Đọc tài liệu về bồi duỡng giáo viên toán Th và các tài liệu khác có liên quan.
- Cập nhật những chương trình cần thiết nâng cao chất lượng dạy học toán.
c.d) Việc làm cụ thể khi soạn bài.
Soạn bài là công việc chuẩn bị cho lên lớp, không phải là đơn thuần chép lại SGK,
nó phải được thể hiện một cáh sinh động mối liên hệ giữa mục tiêu, nội dung và phương
pháp và phương pháp dạy học toán ở tiểu học, cùng với nghệ thuật trình bày, diến đạt của
mỗi giáo viên. Trình tự thực hiện các công việc khi soạn bài cho một tiết dạy học thường
diễn ra như sau:
- Xác định mục tiêu tiết dạy.
- Dự kiến hoạt động dạy học thích hợp
- Xác định công việc giao cho học sinh làm sau tiết học.
- Viết bài soạn
2/ Tổ chức dạy học toán nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.
2.1/ Chú ý chung về tổ chức hoạt động dạy học toán:
Trong những năm gần đây, chúng ta đã có cuộc cách mạng trong viêc đổi mới giáo
dục đặc biệt là việc thay sách với việc đổi mới phương pháp dạy học tích cực các khối
lớp 1- 2- 3. Trong đó chú trọng hai phương pháp là:
- Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề.
- Phương pháp hợp pháp chia nhóm nhỏ.
a) Vấn đề đổi mới mục đích, nội dung và phương pháp dạy học toán:
Mỗi quá trình dạy học gồm được xác định bởi 3 thành tố cơ bản của nó là: Mục
đích dạy học, nội dung dạy học và phương pháp dạy học. Nội dung dạy học được xác
định bởi mục đích dạy học, còn bị chi phối bởi nội dung dạy học và chịu ảnh huởng bởi
điều kiện dạy học, đối tượng dạy học và nhiều yếu tố khác:
Mục đích dạy học



Nội dung dạy học


Đối tượng dạy học Phương pháp dạy học Điều kiện dạy học

do đó khi thay đổi nội dung của SGK toán thì chúng ta cũng cần đổi mới phương
pháp dạy học toán.
b) Tổ chức các hoạt động dạy học và vấn đề đổi mới phương pháp dạy học toán ở
TH:
Để tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, môn toán TH cần có phương pháp
dạy học phù hợp. Phù hợp với nội dung kiến thức, phù hợp với đặc điểm tâm lý và sinh lý
của học sinh TH Việt Nam.
VD: Đặc điểm sinh lý của trẻ từ 6 – 11 tuổi là đi từ tư duy cụ thể đến hình thành và
pháp triển tư duy trừu tượng. Cho nên cách dạy học phải khơi gợi tính tò mò, tránh đơn
điệu về hình thức hoạt động, phải gợi mở được vấn đề.
Đổi mới phương pháp dạy học toán hiện nay là tránh hình thức Thầy giảng- Trò ghi
sang Thầy tổ chức - Trò hoạt động. Cần tiến hành dưới dạng tổ chức các hoạt động dạy
học toán.
c) Vận dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học vào tổ chức các hoạt động dạy
học toán ở TH:
Thường từ trước đến nay chúng ta hay dùng các phương pháp: Giảng dạy, vấn đáp,
Trực quan. Đây là các rất tiện lợi nhưng cũng rất đặc trưng cho hình thức Thầy Giảng -
Trò Ghi. Nhưng để qua hình thức Thầy tổ chức- Trò hoạt động ngoài những phương pháp
này giáo viên cần biết vận dụng dụng nhiều phương pháp và kĩ thuật khác nữa.
VD: Người giáo viên cần biết cách theo dõi từng học sinh trong quá trình giải bài
tập để kịp thời giúp đỡ học sinh yếu, giao thêm việc cho học sinh giỏi, phải biết cách
nhanh chóng chia nhóm để tổ chức thi đố, học nhóm vv
2.2/ Phương pháp hợp tác chia nhóm nhỏ:
Là hình thức tổ chức học sinh hoạt động theo phuơng pháp dạy học mới, việc chia
nhóm nhỏ giúp cho học sinh có thể trao đổi ý kiến, bình luận ý kiến của bạn, của giáo

viên, của SGK, tự rút kinh nghiệm trong quá trình trao đổi nó.
a) Quan điểm về tổ chức các hoạt động dạy học theo nhóm:
- Ưu điểm:
+ Thích hợp với phương pháp giảng giải hoặc làm mẫu: Giáo viên giảng, cả lớp
cùng nghe, cùng quan sát cùng suy nghĩ.
+ Dễ tổ chức: Giáo viên dễ giao việc cho tất cả các học sinh, dễ kiểm soát tất cả các
hoạt động của học sinh.
+ Góp phần tinh thần tự chủ của học sinh: một số hoạt động có thể giao cho học
sinh tự làm, giáo viên không cần can thiệp trực tiếp vào.
+ Tạo cơ hội cho học sinh hoà nhập với cộng đồng: học sinh học tập lắng nghe ý
kiến của người khác, tập thể hiện quan điểm của cính mình.
+ Tạo cơ hội cho học sinh nâng cao năng lực hợp tác: Học sinh tập xác định trách
nhiệm cá nhân đối với công việc chung của nhóm, nhận xét đánh gái ý kiến của bạn, điều
chỉnh suy nghĩ của mình.
+ Tạo điều kiện cho học sinh phát huy hết khả năng của mình theo hướng phân hoá
trong dạy học.
- Khuyết điểm:
Nếu tổ chức dạy học không tốt thì đãn đến chất lượng hiệu quả dạy học thấp.
VD: Nếu để lớp quá đông thì giáo viên không thể kiểm soát hết các hoạt động học
tập của học sinh được. Nếu lạm dụng chia nhóm vào những lúc không cần thiết thì tốn
thời gian vô ích. Nếu chia nhóm nhưng các em chỉ biết phần việc trong nhóm mình được
giao, thì cuối tiết học kiến thức sẽ trở thành những mảnh chấp vá rời rạc trong đầu các
em.
b) Quy trình tổ chức hoạt động dạy học theo nhóm:
- Hình thành các nhóm: GV chia nhóm theo điều kiện, nội dung của bài học.
- Cử nhóm trưởng: Nhóm tự bầu hay gv đưa ra dựa vào khả năng của các em
- Giao và nhận: GV giao việc cho Mỗi nhóm và nhóm trưởng, Cần nói rõ về yêu
cầu nội dung công việc và thời gian thực hiện.
- Các nhóm làm việc: Nhóm trưởng điều khiển, các thành viên đều phải hoạt động,
không ỉ lại vào nhóm trưởng và các thành viên khác trong nhóm; cần làm việc su nghĩ

độc lập rước khi trao đổi, giúp đỡ nhau;GV theo dõi giúp đỡ các nhóm trưởng giải quyết
các thắc mắc nếu có.
- Các nhóm trình bày: Các nhóm cử một hay vài thành viên (không cần phải nhóm
trưởng) trình bày kết quả của nhóm mình trước lớp; Cả lớp tìm hiểu công của nhóm khác.
- Tổng hợp và kết luận: GV tổng hợp ý kiến của các nhóm và xác định đúng sai,
động viên, khuyến khích.
c) Một số cách chia nhóm:
- Chia ngẫu nhiên:
Là chia không cần phân biệt giữa các đối tượng học sinh, mọi học sinh cùng hoạt
động, cùng chiếm lĩnh kiến thức, nhiệm vụ được giao khác nhau không nhiều về nội
dung, ít có chênh lệch về độ khó.
- Chia thành các nhóm có cùng trình độ:
Được áp dụng khi có sự phân hoá về mức độ khó cua bài tập, bài học cho tường đối
tượng. Thường được chia thành bốn nhóm: nhóm gồm các học sinh giỏi,nhóm gồm các
học sinh khá,nhóm gồm các học sinh TB,nhóm gồm các học sinh yếu.
- Chia thành các nhóm đủ trình độ:
Cách chia này thường được sử dụng khi nội dung hoạt động dạy học cần có sự hộ
trợ lẫn nhau. Chẳng hạn khi tổ chức thực hành ngoài lớp học, ôn tập hoặc giải các bài
toán khó.
- Chia nhóm theo sở trường:
Cách chia nhóm này thường được sử dụng trong các cuộc họp ngoại khoá. Mỗi
nhóm gồm những học sinh có cùng sở trường hứng thú.
2.3/ Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề:
Là dạy học dựa trên tình huống có vấn đề cần giải quyết. Phương pháp này kế thừa
các phương pháp tích cực truyền thống. Đặc trưng của nó là tạo tình huống có vấn đề cần
giải quyết, quá trình dạy học được chia thành những thao tác, bao gồm nhiều hình thức tổ
chức đa dạng, lôi cuốn người học cùng tham gia, động não, tranh luận dưới sự hướng dẫn
của giáo viên.
2.4/ Sử dụng tài liệu để hộ trợ cho phương pháp dạy học toán TH:
Để dạy học theo hướng tích cực theo xu hướng mới hiện chúng ta cần chú ý đến

những tài liệu thường gặp sau:
- Tài liệu về chương trình, kế hoạch dạy học môn toán TH.
Để thể hiện chương trình một cách chi tiết, nhất là về mức yêu cầu cụ thể, người ta
xây dựng một loại tài liệu gọi là chuẩn kiến thức. Kế hoạch dạy học môn toán phân chia
nội dung chương trình môn Toán ra các tiết học .
- Sách giáo viên và sách bài soạn toán TH .
- Sách giáo khoa toán tiểu học.
- Vở bài tập toán TH.
- Phiếu học tập toán TH.
Phiếu học tập làm riêng cho một tiết học một phần của tiết, coi như phương tiện tổ
chức hoạt động dạy học. Có nhiều loại như: Phiếu giao việc, phiếu thực hành, phiếu kiểm
tra. Trong đó phiếu kiểm tra rất thường được sử dụng trên lớp học hiện nay.
- Các sách tham khảo khác.
Như sách bài tập toán, sách các trò chơi toán học, sách chuyên đề về toán.
2.5/ Sử dụng đồ dùng dạy học.
a. Chú ý chung về đồ dùng dạy học toán:
Đồ dùng dạy học toán hết sức đa dạng đơn giản như que tính đắt tiền như máy vi
tính vv
Hiện nay theo hướng dạy học tích cực đồ dùng đóng một vai trò rất quan trọng giúp
học sinh hứng thú hơn, dễ phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức hơn. Tư duy của HS TH
thường bắt đầu từ những biểu tượng cụ thể, nên kiến thức toán học chủ yếu hình thành
bằng con đường thực nghiệm. Cho nên khó có thể dạy học toán mà không có đồ dìng dạy
học.
Có thể phân loại đồ dùng dạy học ra làm hai loại: Dồ dùng biểu diễn và đồ dùng
thực hành.
b. Một số chú ý về sử dụng đồ dùng dạy học:
- Đồ dùng dạy học toán phải được sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, đúng cách.
2.6/ Tổ chức hoạt động vui chơi, thi đố trong toán học.
Đây cũng là phương pháp thường được các giáo viên thực hiện theo nhu cầu đổi
mới hiện nay.

Trong các phần giảng bài mới đặc biệt là luyện tập, ôn tập rất cần tổ chức trò chơi
dưới dạng thi đua để tạo không khí sôi động thi đua trong lớp.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
I/ KẾT LUẬN:
Như vậy đổi mới Giáo dục thực chất là đổi mới 4 thành tố: mục tiêu, nội dung,
phương pháp, cách thức, đánh giá. Trong đó đổi mới phương pháp là hết sức quan trọng.
Việc thay đổi SGK toán 1- 2- 3 tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên đổi mới phương
pháp dạy học, đồng thời giúp học sinh khả năng tự học tốt nhất. Với phương pháp dạy
học tích cực sẽ nâng cao tính chủ động sáng tạo của học sinh giúp học sinh tự pháp hiện
và giải quyết vấn đề của bài học từ đó tự chiếm lĩnh kiến thức và biết vận dụng dụng kiến
thức đó vào trong thực hành, luyện tập với sự trợ giúp của giáo viên.
Trong phương pháp đổi mới chúng ta cần quan tâm đến những phương pháp sau:
- Phương pháp hợp tác chia nhóm nhỏ:
- Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề:
Gần như là phương pháp cốt lõi của dạy học hiện nay nhưng để dạy được thì
chúng ta cần phải biết phối hợp với những vấn đề sau:
- Sử dụng tài liệu để hộ trợ cho phương pháp dạy học toán TH:
- Sử dụng đồ dùng dạy học.
- Tổ chức hoạt động vui chơi, thi đua trong học bộ môn toán.
Và chúng ta cần biết phối hợp với những mặt tốt của phương pháp dạy học truyền
thống. Cần biết rõ về nội dung SGK và biết cách soạn bài tốt. Biết đặc điểm tâm lý của
từng học sinh, để hiểu học sinh và có phương pháp dạy học tốt nhất.
Người giáo viên cần phải luôn không ngừng học hỏi, quan sát lớp qua từng buổi
học, nắm bắt được những thiếu sót của mình để vươn lên. Tất cả những phương pháp dạy
học đều được rút tỉa qua giảng dạy do đó giáo viên là người đóng vai trò quyết định trong
việc pháp triển tương lai của đất nước.
II/ KIẾN NGHỊ:
- Trong dạy học cần quan tâm nhiều hơn đến khả năng sáng tạo của học sinh .
- Cần tập cho học sinh tính tự lập trong học tập ở lớp cũng như ở nhà, biết tự học
qua sách, tài liệu, qua các phương tiện thông tin đại chúng.

- Cần trang bị nhiều đồ dùng dạy học, thiết bị học tập để học sinh học tốt theo
phương pháp mới.
- GV cần tổ chức nhiều hình thức học mà chơi, chơi mà học trong trong các giờ
học, cần nhiều có nhiều giờ ngoại khoá.
- Nhà nước cần đầu tư đúng mức hơn vào giáo dục đặïc biệt là các trường vùng sâu
xa, tạo cơ sở vật chất tốt trong các quá trình dạy học.

×