Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

THÔNG TIN KINH TẾ CÓ NHIỆM VỤ VÀ VAI TRÒ GÌ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP (HAY TRONG CÁC TỔ CHỨC KINH DOANH). THÔNG TIN KINH TẾ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP THƯỜNG ĐƯỢC DÙNG TỪ NHỮNG NGUỒN NÀO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.22 KB, 56 trang )

ĐỀ TÀI 6:
THÔNG TIN KINH TẾ CÓ NHIỆM VỤ VÀ VAI TRÒ GÌ
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP (HAY TRONG
CÁC TỔ CHỨC KINH DOANH). THÔNG TIN KINH TẾ TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP THƯỜNG ĐƯỢC DÙNG TỪ NHỮNG NGUỒN
NÀO
1. Khái niệm về kinh tế thông tin
Khi kiến thức, nói rộng hơn là sự hiểu biết trở thành nguyên liệu đầu
vào và nguồn gốc của giá trị trong nền kinh tế, người ta gọi đó là nền kinh tế
thông tin. Và thông tin, lúc này, trở thành tín hiệu điều khiển các quyết định
kinh tế. Vậy chúng ta cùng tìm hểu thông tin là gì?
1.1. Thông tin là gì?
Khái niệm “ Thông tin” mới bắt đầu trở thành đối tượng của nghiên
cứu khoa học và kỹ thuật từ giữa thế kỷ 20 này, và từ chỗ là đối tượng của
khoa học, nó đã nhanh chóng được nhận thức như là nội dung cơ bản của hoạt
động điều khiển và quản lý, rồi là nội dung chủ yếu của một nền kinh tế mới
và một nền văn minh mới của loài người. Người ta đã nói đến thông tin như là
một trật tự, là quyền lực, là nguồn tài nguyên chủ chốt của một nên kinh tế và
là yếu tố cơ bản của một nền kinh tế mới, một xã hội mới – xã hội thông tin.
Thông tin là quyền lực khi ta nhận thức được rằng cái quyền điều
khiển, quản lý, lãnh đạo thực chất phải được thể hiện ở năng lực thực hiện các
quy trình xử lý thông tin để mang lại thông tin trật tự cho đối tượng.
Thông tin trở thành một nguồn tài nguyên quốc gia quan trọng khi nền
kinh tế phát triển đến giai đoạn mà nội dung “ Thông tin “ bao trùm khắp các
hoạt động sản xuất và kinh doanh, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong bản
thân các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, khi mà khu vực “Thông tin” đóng
góp một tỉ trọng lớn(40% hoặc cao hơn) phần giá trị gia tăng trong thu nhập
1
quốc dân của một nền kinh tế phát triển, hay nói một cách khác khi nền kinh
tế chuyển sang giai đoạn “ nền kinh tế của thông tin và trí tuệ”.
Và, trong một tương lai, khi thông tin trở thành của mọi người và đến


được với mọi người, khi mọi nhu cầu ngày càng phong phú về thông tin của
mọi thành viên xã hội trong mọi mối quan hệ gia lưu về kinh tế, văn hóa, xã
hội, đời sống, vv.đều được đáp ứng một cách nhanh chóng. Thuận lợi, thì xã
hội sẽ trở thành xã hội thông tin, với chất lượng sống cao hơn của con người
trong một giai đoạn văn minh mới.
Sự tiến hóa trong vai trò của thông tin kể trên gắn liền với những bước
tiến vũ bão của ngành kỹ thuật máy tính và Công nghệ thông tin trong mấy
thập niên vừa qua, từ việc ra đời những máy tính điện tử thuộc các thế hệ đầu
tiên vào những năm 50, 60 với chức năng chủ yếu là tính toán khoa học kĩ
thuật; đến các máy tính có khả năng lưu trữ và xử lý thông tin lớn của nhưng
năm 60, 70 có khả năng ứng dụng trong kinh tế, quản lí; sự ra đời của các
máy tính vào những năm 80 với số lượng hàng chục hàng trăm triệu thâm
nhập vào mọi nơi của thế giới; sự kết hợp và liên kết rộng rãi giữa các máy
tính và các mạng truyền thông phủ khắp thế giới trong thập niên gần đây; và
trong một tương lai gần, là hệ thống mạng lưới các đường thông tin cao tốc
(xa lộ thông tin) với khả năng truyền thông đa phương tiện (multimedia ) phủ
khắp nơi và nối đến từng nhà đang được hoạch định và thực hiện trong nhiều
nước trên thế giới.
Nền kinh tế thông tin đã là một thực tế trong nhiều nước khắp năm
châu và xã hội thông tin cũng đang được hình thành và sẽ trở thành thực tiễn
ở nhiều nước phát triển khi loài người bước sang thế kỷ 21.
1.2. Nền kinh tế thông tin là gì?
Nền kinh tế “ hậu công nghiệp” hiện được nhiều học giả của trường
phái khoa học xã hội gọi là “nền kinh tế tri thức”, còn các học giả của các
trường phái khoa học tự nhiên, công nghệ thông tin gọi là “nền kinh thế thông
tin – kinh tế số”. Các khái niệm “kinh tế tri thức”, “kinh tế thông tin” hay
“kinh tế số” hiện được dùng với nghĩa gần tương đương, chúng đều nhấn
2
mạnh và khẳng định vai trò động lực phát triển kinh tế toàn cầu của thông tin,
tri thức, công nghệ thông tin (CNTT) và truyền thông.

Một nền kinh tế thông tin có đủ những đặc tính:
- Hội tụ và tích hợp truyền thông và công nghệ xử lý dữ liệu vào công
nghệ thông tin.
- Ảnh hưởng mạnh mẽ của các ứng dụng công nghệ trong hoạt động
kinh tế ví dụ như phần đông người làm việc chuyên môn có nhu cầu cao (khối
lượng và chất lượng) về sử dụng thông tin, đa số sản phẩm cung cấp cho xã
hội thuộc nhóm chứa đựng nhiều thông tin.
- Ứng dụng mạng lưới công nghệ thông tin rộng khắc các tổ chức kinh
tế, và quá trình mang lại kết quả là một hệ thống kiểm soát có độ linh hoạt cao
và tính cưỡng bức thấp, đồng thời, có năng lực thúc đẩy tiến trình hội nhập,
toàn cầu hóa.
Tuy vậy, mọi hệ thống kinh tế vận hành trên nền tảng công nghệ thông
tin đều phải cùng tồn tại với khu vực sản xuất có qui mô lớn, trong đó, kiến
thức không phải là nguyên liệu đầu vào cơ bản. Đây chính là điểm vẫn tiếp
tục gây tranh cãi về những những khác biệt cơ bản giữa các nền kinh tế hiện
đại và truyền thống.
Trong giai đoạn chuyển đổi, các quyết định kinh tế tiếp tục chịu nhiều
tác động của các kế hoạch, mục tiêu đã định trước nhưng vai trò của yếu tố
thông tin đang ngày một tăng lên đáng kể.
2. Đặc điểm của nền kinh tế thông tin
Cho tới nay, nhiều nhà chiến lược kinh tế hàng đầu trên thế giới đều
thống nhất KTTT có 10 đặc điểm chính sau đây:
- Ý tưởng đổi mới và phát triển công nghệ mới trở thành chìa khóa cho
việc tạo ra việc làm mới và nâng cao chất lượng cuộc sống. Nền KTTT có tốc
độ tăng trưởng cao, cơ cấu dịch chuyển nhanh.
- Tìm các công nghệ mới trở thành loại hình hoạt động quan trọng nhất.
Doanh nghiệp nào cũng có thể tìm ra công nghệ mới; không còn sự phân biệt
3
giữa phòng thí nghiệm với công xưởng, đồng thời xuất hiện nhiều doanh
nghiệp chuyên về sản xuất công nghệ.

- Công nghệ thông tin được tiến hành rộng rãi trong mọi lĩnh vực, mạng
thông tin phủ khắp nước và trên thế giới, liên kết các tổ chức, gia đình và các
quốc gia. Thông tin trở thành nguồn tài nguyên quan trọng. Mọi lĩnh vực hoạt
động của con người đều có sự tác động của thông tin.
- Dân chủ hóa được thúc đẩy vì mọi người đều dễ dàng truy cập thông
tin mà mình cần. Mọi người dân đều có thể biết được các chủ trương, chính
sách một cách chính xác, kịp thời. Các cơ quan chức năng không thể hoạt
động trái luật. Mối liên kết giữa chính quyền và người dân bền vững.
- Về giáo dục và đào tạo (đầu tư cho con người): được đầu tư cao hơn
hẳn so với các dự án đầu tư về cơ sở vật chất (nhà máy, công xưởng, khai thác
nguyên nhiên liệu ). Mọi người học tập thường xuyên bằng các loại hình đào
tạo đa dạng: học ở trường, học từ xa, học trên mạng thông tin.
- Tri thức trở thành vốn quý nhất và là nguồn lực hàng đầu để tăng
trưởng. Vốn tri thức không giống như các loại vốn vật chất khác (máy móc,
tiền, vàng ) dễ hư hao hoặc mất đi khi sử dụng, tri thức và thông tin dễ chuyển
giao và chia sẻ.
- Chu kỳ đổi mới của xã hội ngày càng ngắn, càng nhanh, năng lực
sáng tạo của con người mở ra vô tận. Công nghệ đổi mới rất nhanh, có khi chỉ
tính từng ngày, từng tháng. Vì vậy, các doanh nghiệp muốn tồn tại phải luôn
đi tìm công nghệ mới và phải luôn đổi mới công nghệ và sản phẩm.
- Các doanh nghiệp vừa phải cạnh tranh, vừa phải hợp tác để phát triển
ở cả trong nước và quốc tế. Triết lý "cả hai cùng có lợi" thấm rộng trong mọi
hoạt động của con người.
- Các sản phẩm và thị trường ngày càng có tính toàn cầu. Nhiều nước
cùng tham gia vào sản xuất một sản phẩm. Một sản phẩm được tiêu thụ ở
nhiều thị trường nhiều nước.
4
- Dù xu hướng thông tin, tri thức mang tính toàn cầu hóa nhưng bản sắc
văn hóa dân tộc phải được chú ý giữ gìn để tránh bị hòa tan, để tạo thêm sức
mạnh nội sinh.

Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế tri thức với những
thách thức to lớn trước mắt. Chúng ta cần thấy được thời cơ và từng bước tiến
vào nền kinh tế tri thức, san bằng khoảng cách phát triển với thế giới, đưa đất
nước tiến nhanh, mạnh trong những thập kỷ tới.
3. Đặc trưng của nền kinh tế thông tin
Nền kinh tế thông tin có những đặc trưng sau đây:
- Hỗ trợ chức năng xử lý dữ liệu trong các hoạt động nghiệp vụ từ giao
dịch đến phân tích, lưu trữ và ra quyết định.
- Sử dụng cơ sở dữ liệu thống nhất, có nhiều chức năng xử lý dữ liệu.
- Cung cấp thông tin cho các nhà quản lý, tạo điều kện để họ thâm nhập
vào cơ sở dữ liệu.
- Đủ mềm dẻo để có thể thích ứng được với những thay đổi ở mức độ
nhất định về quy trình xử lý và nhu cầu thông tin.
- Đảm bảo toàn vẹn dữ liệu và an toàn cho hệ thống, hạn chế việc thâm
nhập của những người không có thẩm quyền.
4. Nhiệm vụ và vai trò của thông tin kinh tế trong doanh nghiệp
4.1. Sự thay đổi
Đầu tiên, chúng ta cùng so sánh xem sự khác nhau giữa thời đại thông
tin so với các thời đại khác.
Thời đại
nông nghiệp
Thời đại
công nghiệp
Thời đại
thông tin
Khoảng thời gian Trước 1800 Từ 1800 đến 1957 Từ 1957 tới nay
Nhân công chính Nông dân
Công dân trong
nhà máy
Nhân công tri thức

Quan hệ lao động Con người Con người Con người
5
và đất đai và máy móc và con người
Công cụ chủ yếu Công cụ cầm tay Máy móc Công nghệ thông tin
Như vậy, thời đạị mà chúng ta đang sống là thời đại thông tiin, xã hội
của chúng ta thực sự là xã hội công nghệ thông tin.

Thời đại thông tin dược
phân biệt với những thời đại khác bởi 5 đặc điểm quan trọng:
- Thời đại thông tin xuất hiện do sự xuất hiện của các hoạt động xã hội
dựa trên nền tảng thông tin.
- Kinh doanh trong thời đại thông tin phụ thuộc vào công nghệ
thông
tin
được sử dụng để thực hiện công việc kinh doanh.
- Trong thời đại thông tin năng xuất lao động tăng lên nhanh chóng.
- Hiệu quả sử dụng công nghệ thông tin xác định sự thành công trong
thời đại thời đại thông tin.
- Trong thời đại thông tin, công nghệ thông tin có mặt trong hầu hết các
sản phẩm và dịch vụ.
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, các doanh nghiệp đang có xu
hướng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin. Mới trước đây 10 năm, các
doanh nghiệp Việt Nam hầu như còn hết sức xa lạ với cái gọi là sử dụng hệ
thống thông tin cho mục đích quản lý. Chỉ có một số các ông chủ doanh
nghiệp giàu có sử dụng hệ
thống máy
tính như một vật trưng bày để khuyếch
trương thanh thế doanh nghiệp. Nhưng giờ đây, đó không còn là điều mới mẻ
nữa mà phần nào đã trở thành công cụ không thể thiếu trong công tác quản lý
ở mọi cơ quan khác nhau, từ các cơ quan

hành chính
sự nghiệp tới các cơ
quan trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất,
kinh doanh
tạo ra của cải vật
chất cho toàn xã hội. Các doanh nghiệp đã cảm nhận được những lợi ích của
việc sử dụng máy tính trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, và để lưu trữ
khai thác, xử lý những thông tin sẵn có trong doanh nghiệp.
Trong khoảng vài năm trở lại đây, không chỉ có các hệ thống máy tính
cục bộ lên ngôi mà ở Việt Nam đã xuất hiện hệ thống mạng thông tin quốc tế
- Internet. Việc sử dụng Internet đã giúp cho các doanh nghiệp tăng khả năng
6
kinh doanh lên rất nhiều và đó là một trong những nguyên nhân chính thúc
đẩy một nước còn lạc hậu về trang thiết bị và kỹ thuật như nước ta đầu tư vào
phát triển hệ thống truyền tin qua mạng Internet.
Những lý do mà mạng Internet có thể giúp cho doanh nghiệp tăng khả
năng kinh doanh là:
- Internet có khả năng trao đổi thông tin nhanh chóng từ nơi này tới nơi
khác, giúp cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty đa quốc gia có khả
năng thiết lập hệ thống liên lạc và trao đổi những kế hoạch hành động một
cách nhanh chóng và đúng lúc.
- Internet là mạng lưới tiếp thị lớn nhất mà ngày nay các doanh nghiệp
có thể sử dụng để tiếp cận các khách hàng trực tiếp và gián tiếp của mình ở
mọi nơi trên thế giới.
Internet đã tạo ra một bầu không khí hoàn toàn mới trong thế giới kinh
doanh, với những lợi thế và thách thức mới. Tại Việt Nam, môi trường kinh
doanh cũng ngày càng mang tính cạnh tranh cao, những doanh nghiệp nào
sớm cải tiến trong khâu quản lý nhờ việc áp dụng CNTT thì coi như đã nắm
được trong tay công cụ cạnh tranh hữu hiệu.
7

Một thống kê gần đây của ICD cho thấy, tính đến quý 1/2012, các
doanh nghiệp Việt Nam đang đứng top 3 trong khu vực về tăng trưởng máy
tính xách tay (31,8%), chỉ sau Indonesia và Singapore. Điều đó cho thấy đây là
một môi trường tốt để áp dụng CNTT trong việc quản lý doanh nghiệp nhằm
tăng hiệu quả hoạt động. Trong khi không ít doanh nghiệp chỉ dùng máy tính
để thực hiện các thao tác văn phòng đơn giản thì một số đáng kể đã nhanh
chóng áp dụng các phần mềm quản lý kinh doanh giúp doanh nghiệp rút ngắn
thời gian và tiết kiệm nhân lực. Các doanh nghiệp này nhanh nhạy trong việc
thiết lập website để làm công cụ quảng bá và bán hàng, điều hành thông qua
mạng nội bộ, thực hiện các giao dịch điện tử, chia sẻ dữ liệu online…
Các ưu điểm dễ nhận thấy của CNTT đó là giúp phát triển sản phẩm
nhờ các công nghệ mang tính tự động hóa giúp cải tiến các dịch vụ và sản
phẩm; nhờ CNTT có thể phát triển được các thị trường mới, các hình thức bán
hàng mới hiệu quả với chi phí thấp… Nhiều doanh ngiệp sau một thời gian
“số hóa” đã thừa nhận: nhờ áp dụng CNTT trong quản lý, các nguồn lực công
8
ty được sử dụng rất hiệu quả. Có những doanh nghiệp điều hành được một
cửa hàng trực tuyến rất trơn tru, việc xuất hóa đơn, báo cáo thuế, thanh toán
đơn hàng được thực hiện online, nên nhân lực của công ty “siêu nhỏ” - chỉ
dừng ở con số 7 - nhưng phát huy sức mạnh gấp đôi so với cách điều hành
thông thường.
Công ty TNHH Thời trang Cái Ô, với nhãn hiệu thời trang Umbrella
cũng là một trong những doanh nghiệp sớm ứng dụng CNTT trong công tác
quản lý. Ra đời cách đây 4 năm, là một doanh nghiệp trên 50 nhân lực,
Umbrella đã nhanh chóng “số hóa” các hoạt động của mình như các phần
mềm bán hàng, chương trình báo cáo thuế online và xuất hóa đơn trực tuyến.
Công ty cũng xây dựng website www.umbrella-fashion.com để quảng bá
thương hiệu.
Chị Đoàn Quỳnh Nhi, Giám đốc sáng tạo của công ty cho biết: “Nhờ
ứng dụng CNTT mà công ty tiết kiệm được rất nhiều thời gian và nguồn lực.

Đơn cử như chương trình báo cáo thuế: tôi thấy nhiều doanh nghiệp mất thời
gian cho việc đi báo cáo thuế và thường phải làm đi làm lại vì những sai sót
rất nhỏ; còn công ty chúng tôi nhờ báo cáo thuế qua mạng nên thấy rất nhẹ
nhàng, nhanh gọn. Nhờ vậy kế toán có nhiều thời gian để làm những công
việc khác cho công ty.”
Cũng theo chị Nhi, việc ứng dụng CNTT đem lại những lợi ích to lớn
nhưng thật vô hình, chúng ta khó đo đếm được cụ thể. Chẳng hạn, ứng dụng
CNTT trong quản lý còn giúp tạo ra phong cách chuyên nghiệp hơn, khẳng
định tốt hơn về mặt thương hiệu trong mắt khách hàng. Sau 4 năm thâm nhập
thị trường, đến nay Umbrella phát triển được 4 cửa hàng, có mặt ở những
trung tâm mua sắm lớn tại TP.HCM như Vincom, Saigon Centre, Crescent
Mall. Umbrella đã xây dựng được hình ảnh chuyên nghiệp của một nhãn hiệu
thời trang cao cấp hội tụ yếu tố quyến rũ và quý phái chinh phục những phụ
nữ thanh lịch. CNTT không chỉ góp phần cho sự mở rộng quy mô mà còn hỗ
9
trợ đắc lực thương hiệu này trong việc tạo ra tính chuyên nghiệp và góp phần
quảng bá hình ảnh của thương hiệu tới người tiêu dùng.
Trước những thành công của các doanh nghiệp trong việc ứng dụng
CNTT vào quản lý, đầu tháng 6 vừa qua, VCCI và Intel kết hợp tổ chức
chương trình “Quản lý hiệu quả, doanh nghiệp đột phá” nhằm đưa ra những
phần mềm và giải pháp tổng thể, hỗ trợ việc tạo nên những bước đột phá cho
việc quản lý và vận hành doanh nghiệp. Các gói phần mềm giải pháp phong
phú cho các doanh nghiệp bao gồm: phần mềm ký số và giao dịch điện tử, lập
sổ sách kế toán theo Luật kế toán, phần mềm dùng để tự in hóa đơn, cổng
thanh toán và nộp thuế cho doanh nghiệp, hỗ trợ sao lưu dự phòng, chia sẻ dữ
liệu.
Như vậy, tới đây, các doanh ngiệp sẽ có thêm những lựa chọn về giải
pháp CNTT phù hợp với mục đích và mô hình kinh doanh để tăng tính cạnh
tranh và phát triển bền vững trong môi trường toàn cầu hóa hiện nay.
10

4.2. Kinh doanh và hoạt động kinh doanh
4.2.1 Mục tiêu
Hỗ trợ ra quyết định đối với những hoạt động phân phối và hoạch
định các nguồn lực kinh doanh và sản xuất
Hệ thống thông tin kinh doanh sản xuất bao gồm:
- HTTT kinh doanh: theo dõi dòng thông tin thị trường, thông tin
công nghệ và đơn đặt hàng của khách hàng. Nhận thông tin sản phẩm từ
HTTT SX. Æ phân tích và đánh giá để đưa ra các kế hoạch SX phục vụ cho
nhu cầu sản xuất kinh doanh của công ty.
- HTTT sản xuất: nhận kế hoạch sản xuất từ HTTT kinh doanh quản lý
thông tin nguyên vật liệu của các nhà cung cấp, theo dõi quá trình sản xuất.
cập nhật thông tin và tính tổng chi phí của quá trình sản xuất cùng với thông tin
sản phẩm để chuyển qua HTTT kinh doanh làm cơ sở cho hệ thống thông tin
kinh doanh xác định giá, chiến lược trong quá trình phát triển của công ty.
Các hệ thống thông tin kinh doanh và sản xuất theo cấp quản lý
Mức quản lý Các hệ thống thông tin kinh doanh và sản xuất
Tác nghiệp
- Hệ thống thông tin mua hàng
- Hệ thống thông tin nhận hàng
- Hệ thống thông tin kiểm tra chất lượng
- Hệ thống thông tin giao hàng
- Hệ thống thông tin kế toán chi phí giá thành
Chiến thuật
- Hệ thống thông tin quản trị hàng dự trữ và kiểm tra
- Hệ thống thông tin hoạch định nhu cầu nguyên vật liệu
- Hệ thống thông tin Just-in-time
- Hệ thống thông tin hoạch định hàng dự trữ
- Hệ thống thông tin phát triển và thiết kế sản phẩm
Chiến lươc
- Lập kế hoạch và định vị doanh nghiệp

- Lên kế hoạch và đánh giá công nghệ
- Xác định lịch trình sản xuất
- Thiết kế bố trí sản xuất trong doanh nghiệp
4.2.2 Hệ thống thông tin kinh doanh và sản xuất ở cấp tác nghiệp
11
Các hệ thống thông tin kinh doanh và sản xuất ở cấp tác nghiệp gồm
có:
- HTTT mua hàng: duy trì dữ liệu về mọi giai đoạn trong quá trình
cung cấp nguyên vật liệu và hàng hóa mua vào phục vụ sản xuất.
- HTTT nhận hàng: ghi nhận số lượng và chất lượng hàng giao nhằm
cung cấp thông tin cho bộ phận công nợ phải trả, kho và sản xuất.
- HTTT kiểm tra chất lượng: cung cấp thông tin tình trạng sản phẩm
từ nguyên vật liệu đến sản phẩm dở dang cho tới thành phẩm cho những bộ
phận mua hàng, hệ thống phát triển và thiết kế sản phẩm , các nhà quản lý.
- HTTT giao hàng: hỗ trợ và kiểm soát quá trình dự trữ và giao hàng.
- HTTT kế toán chi phí giá thành: kiểm soát nhân lực, nguyên vật liệu và
máy móc thiết bị dùng cho sản xuất; cung cấp thông tin bố trí sản xuất trong
doanh nghiệp để nhà quản lý kiểm soát chi phí sản xuất và phân bổ nguồn lực
sản xuất.
4.2.3 Hệ thống thông tin kinh doanh và sản xuất ở cấp chiến thuật
Hệ thống thông tin kinh doanh và sản xuất ở cấp chiến thuật nhằm
hỗ trợ nhà quản lý điều khiển và kiểm soát những quá trình kinh doanh và
sản xuất, phân chia các nguồn lực hiện có để đạt được mục tiêu kinh doanh
và sản xuất do mức chiến lược đề ra
Hệ thống thông tin kinh doanh và sản xuất ở cấp chiến thuật bao gồm :
- Hệ thống thông tin quản trị và kiểm soát hàng dự trữ
+ Hệ thống xác định mức tồn kho an toàn / mức đặt hàng lại.
12
Đầu vào:
- Nhu cầu hàng năm

về loại hàng dự trữ
- Số ngày sản xuất
trong năm
- Thời gian vận
chuyển 1 đơn đặt hàng
Phương pháp
Reorder Level
Đầu ra:
Mức đặt
hàng lại /
mức tồn kho
an toàn
+ HT xác định điểm đặt hàng kinh tế (EOQ)
HTTT hoạch định nhu cầu nguyên vật liệu
- HTTT Just-in-time: loại trừ lãng phí trong việc dùng máy móc,
không gian, thời gian làm việc và vật tư.
- HTTT hoạch định năng lực sản xuất: xác định năng lực hiện có là đủ
hay quá ít / quá nhiều
- HTTT điều độ SX: phân chia việc dùng các thiết bị sản xuất đặc thù
cho việc sản xuất các thành phẩm phù hợp với lịch trình sản xuất
- HTTT phát triển và thiết kế sản phẩm : phát triển sản phẩm đáp
ứng nhu cầu kế hoạch với chi phí ít nhật về nguồn lực
13
Đầu vào:
• Nhu cầu hàng năm về
loại hàng dự trữ
• Chi phí đặt hàng
trên 1 đơn hàng
• Chi phí tồn trữ trung
bình trên 1 đơn vị dự

trữ trong năm
Đầu ra:
• Lượng đặt hàng tối ưu
• Số lượng đơn đặt
hàng yêu cầu
• Khoảng cách giữa
2 lần đặt hàng
• Tổng chi phí dự
trữ
Phương pháp
Economic
Order
Quantity
Đơn đặt
hàng
Dự báo bán
hàng
Hóa đơn
NVL
Hàng dự trữ
Lịch
trình
sản
xuất
tổng
hợp
Đầu ra
• Liệt kê nhu cầu và
thời gian cụ thể
cho mỗI loại

nguyên vật liệu
• Lệnh phát đơn
hàng, lệnh sản
xuất , gia công
• Những thay đổi
của đơn hàng so
với kế hoạch
• Báo cáo bất
thường
• Khoảng cách
giữa 2 lần đặt
hàng
• Tổng chi phí dự
trữ
Phương pháp
Material
Requirement
Planning
4.2.4 Hệ thống thông tin kinh doanh và sản xuất ở cấp chiến lược
- Lập kế hoạch và định vị doanh nghiệp
- Lên kế hoạch và đánh giá công nghệ
- Xác định lịch trình sản xuất
- Thiết kế bố trí sản xuất trong doanh nghiệp
4.2.5 Phần mềm máy tính dành cho kinh doanh sản xuất
Phần mềm ứng dụng chung dùng cho chức năng kinh doanh sản xuất
bao gồm:
- Thống kê
+ Cơ sở dữ liệu
+ Bảng tính điên tử
+ Quản lý dự án

- Phần mềm chuyên biệt dùng cho chức năng kinh doanh sản xuất bao gồm:
+Kiểm tra chất lượng
+ Sản xuất và thiết kế có trợ giúp của máy tính CAD/CAM
+ Lựa chọn nguyên vật liệu (Material Selection Software)
+ Hoạch định nhu cầu nguyên vật liệu ( Material Requirement Planning)
4.3. Cơ cấu lao động
Là hình thức tồn tại của tổ chức, biểu thị việc sắp xếp theo trật tự nào
đó các bộ phận của tổ chức cùng các mối quan hệ giữa chúng.
4.3.1. Cơ cấu bộ máy doanh nghiệp (cơ cấu doanh nghiệp)
Cơ cấu bộ máy doanh nghiệp là tổng hợp các bộ phận (đơn vị và cá
nhân) khác nhau, có mối liên hệ và quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, để thực
hiện nhiệm vụ kinh doanh của doanh nghiệp.
4.3.2. Cơ cấu tổ chức quản trị doanh nghiệp
Cơ cấu tổ chức quản trị doanh nghiệp là tổng hợp các bộ phận (đơn vị
và cá nhân) khác nhau, có mối liên hệ và quan hệ phụ thuộc lẫn nhau,
được chuyên môn hóa và có những trách nhiệm, quyền hạn nhất định, được
bố trí theo những cấp, những khâu khác nhau nhằm bảo đảm thực hiện các
chức năng quản trị và phục vụ mục đích chung đã xác định của doanh
14
nghiệp.
Cơ cấu tổ chức quản trị doanh nghiệp là hình thức phân công lao
động trong lĩnh vực quản trị, có tác động đến quá trình hoạt động của hệ
thống quản trị. Cơ cấu tổ chức quản trị, một mặt phản ánh cơ cấu sản xuất,
nó có tác động tích cực trở lại việc phát triển sản xuất.
4.4.3. Những yêu cầu đối với cơ cấu tổ chức quản trị
Việc xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản trị phải bảo đảm
những yêu cầu sau:
- Tính tối ưu: Giữa các khâu và các cấp quản trị (khâu quản trị phản
ánh cách phân chia chức năng quản trị theo chiều ngang, cịn cấp quản trị
thể hiện sự phân chia chức năng quản trị theo chiều dọc) đều thiết lập

những mối liên hệ hợp lý với số lượng cấp quản trị ít nhất trong doanh
nghiệp cho nên cơ cấu tổ chức quản trị mang tính năng động cao, luôn luôn
đi sát và phục vụ sản xuất.
- Tính linh hoạt: Cơ cấu tổ chức quản trị có khả năng thích ứng linh
hoạt với bất kỳ tình huống nào xảy ra trong doanh nghiệp cũng như ngoài môi
trường.
- Tính tin cậy lớn: Cơ cấu tổ chức quản trị phải bảo đảm tính chính xác của
tất cả các thông tin được sử dụng trong doanh nghiệp nhờ đó bảo đảm sự phối hợp
với các hoạt động và nhiệm vụ của tất cả các bộ phận của doanh nghiệp.
- Tính kinh tế: Cơ cấu bộ máy quản trị phải sử dụng chi phí quản trị
đạt hiệu quả cao nhất. Tiêu chuẩn xem xét yêu cầu này là mối tương quan
giữa chi phí dự định bỏ ra và kết quả sẽ thu về.
4.3.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức quản trị
Khi hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản trị, chẳng những phải xuất phát từ
các yêu cầu đã xét ở trên, mà điều quan trọng và khó khăn nhất là phải quán
triệt những yêu cầu đó vào những điều kiện, hoàn cảnh, tình huống cụ thể nhất
định. Nói cách khác, là cần tính đến những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và gián
tiếp tới việc hình thành, phát triển và hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản trị.
Có thể quy thành hai loại nhóm nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức
15
quản trị của doanh nghiệp:
* Nhóm các nhân tố thuộc đối tượng quản trị:
- Tình trạng và trình độ phát triển của cơng nghệ sản xuất của doanh nghiệp.
- Tính chất và đặc điểm sản xuất: chủng loại sản phẩm, quy mô sản
xuất, loại hình sản xuất.
Tất cả những nhân tố trên đều ảnh hưởng đến thành phần và nội dung
những chức năng quản lý và thông qua chúng mà ảnh hưởng trực tiếp đến cơ
cấu tổ chức quản trị.
* Nhóm những nhân tố thuộc lĩnh vực quản trị:
- Quan hệ sở hữu tồn tại trong doanh nghiệp.

- Mức độ chuyên môn hóa và tập trung hóa các hoạt động quản trị.
- Trình độ cơ giới hóa và tự động hóa các hoạt động quản trị, trình độ
kiến thức tay nghề của cán bộ quản lý, hiệu suất lao động của họ.
- Quan hệ phụ thuộc giữa số lượng người bị lãnh đạo, khả năng kiểm
tra của người lãnh đạo đối với hoạt động của những người cấp dưới.
- Chính sách đãi ngộ của doanh nghiệp đối với đội ngũ cán bộ quản trị
v.v
4.3.5. Các nguyên tắc tổ chức quản trị
* Nguyên tắc cơ cấu tổ chức quản trị phải gắn với phương hướng,
mục đích của doanh nghiệp:
Phương hướng và mục đích của doanh nghiệp sẽ chi phối cơ cấu
doanh nghiệp. Nếu một doanh nghiệp mà mục tiêu, phương hướng của nó có
quy mô lớn thì cơ cấu của doanh nghiệp cũng phải có quy mô tương ứng;
còn nếu quy mô cỡ vừa phải với đội ngũ, trình độ, nhân cách các con người
tương ứng. Một doanh nghiệp có mục đích hoạt động dịch vụ thì rõ ràng cơ
cấu quản trị của nó cũng phải có những đặc thù khác một doanh nghiệp có
mục đích hoạt động sản xuất v.v
* Nguyên tắc chuyên môn hóa và cân đối:
Nguyên tắc này đòi hỏi cơ cấu tổ chức quản trị phải được phân công
phân nhiệm các phân hệ chuyên ngành, với những con người được đào
16
luyện tương ứng và có đủ quyền hạn.
Nói một cách khác, cơ cấu tổ chức phải dựa trên việc phân chia nhiệm vụ
rõ ràng. Giữa nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền lực, lợi ích phải cân xứng và cụ thể.
Chỉ có phân giao nhiệm vụ trong doanh nghiệp một cách rõ ràng cụ
thể với sự cân xứng giữa nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền lực, lợi ích của
từng phân hệ như trong sơ đồ 4.3, để phân biệt rõ ai làm tốt, ai làm chưa tốt
nhiệm vụ được giao thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển.
Cấu trúc phân giao nhiệm vụ trong doanh nghiệp
* Nguyên tắc linh hoạt và thích nghi với môi trường:

Nguyên tắc này đòi hỏi việc hình thành cơ cấu tổ chức phải đảm bảo
cho mỗi phân hệ một mức độ tự do sáng tạo tương xứng để mọi thủ lĩnh các
cấp phân hệ bên dưới phát triển được tài năng, chuẩn bị cho việc thay thế vị
trí của lãnh đạo cấp trên khi cần thiết. Điều này nói một cách "văn nghệ" là
các cấp trong cơ cấu tổ chức phải được "cho phép thất bại ở một mức độ
nào đó". Có tác giả quản lý Âu, Mỹ đã viết: "Nếu giám đốc một chương
trình hay một cơ quan không có cơ hội để làm sai, thì giám đốc đó còn thiếu
quyền để thực hiện nhiệm vụ một cách đúng đắn".
* Nguyên tắc hiệu lực và hiệu quả:
Nguyên tắc này đòi hỏi cơ cấu tổ chức quản trị phải thu được kết quả
hoạt động cao nhất so với chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra, đồng thời bảo
đảm hiệu lực hoạt động của các phân hệ và tác động điều khiển của các
giám đốc. Để bảo đảm cho nguyên tắc này được thực hiện, cần tuân thủ các
17
yêu cầu sau:
- Cơ cấu tổ chức quản trị là cơ cấu hợp lý nhằm đảm bảo chi phí cho
các hoạt động là nhỏ nhất, mà kết quả chung thu lại của doanh nghiệp là lớn
nhất trong khả năng có thể (tức là đảm bảo tính hiệu quả của doanh nghiệp).
- Cơ cấu tổ chức phải tạo được môi trường văn hóa xung quanh
nhiệm vụ của các phân hệ (phương văn hóa); làm cho mỗi phân hệ hiểu rõ vị
trí, giá trị của các hoạt động mà mình tham dự là nhằm tạo lợi thế, thuận lợi
cho các phân hệ có liên quan trực tiếp với mình. Các thủ lĩnh cấp phân hệ
phải có lương tâm, trách nhiệm, ý thức hợp tác để làm tốt nhiệm vụ của
mình, tránh gây khó khăn và trở ngại cho các phân hệ và cho cả doanh
nghiệp, từ đó các hành vi xử sự hợp lý, tích cực giữa các phân hệ trong doanh
nghiệp (tức là đảm bảo tính hiệu quả của cơ cấu tổ chức quản trị).
- Cơ cấu tổ chức phải đảm bảo cho thủ lĩnh các phân hệ có quy mô
(của phân hệ) được giao quản trị là hợp lý, tương ứng với khả năng kiểm
soátt, điều hành của họ. Rõ ràng trình độ, khả năng của một thủ lĩnh chỉ có
thể lãnh đạo, điều hành 10 người mà cấp trên lại giao cho họ phải quản lý

100 người là điều bất cập.
Cùng với sự phát triển của các hệ thống, đã hình thành những kiểu cơ
cấu tổ chức quản lý khác nhau. Mỗi kiểu chứa đựng những đặc điểm, ưu
điểm, nhược điểm và được trong những điều kiện cụ thể nhất định.
4.3.5.1. Cơ cấu tổ chức trực tuyến (đường thẳng)
Đây là cơ cấu tổ chức đơn giản nhất, trong đó có một cấp trên và một
số cấp dưới. Toàn bộ vấn đề được giải quyết theo một kênh liên hệ đường
thẳng. Cấp lãnh đạo trực tiếp điều hành và chịu toàn bộ trách nhiệm về sự
hoạt động của tổ chức.
18
Cấu trúc phân giao nhiệm vụ trong tổ chức
Cơ cấu tổ chức trực tuyến khá phổ biến ở cuối thế kỷ XIX và chủ yếu
được áp dụng ở những doanh nghiệp nhỏ, sản phẩm khơng phức tạp, tính
chất sản phẩm liên tục, hoặc các tổ chức bộ môn của trường đại học v.v
Ngày nay, kiểu cơ cấu này vẫn conn được áp dụng, đặc biệt đối với các tổ
chức có quy mô nhỏ: tổ, nhóm, băng tổ chức nhỏ v.v
Đặc điểm cơ bản của cơ cấu tổ chức quản trị trực tuyến là người lãnh
đạo tổ chức thực hiện tất cả các chức năng quản trị, các mối liên hệ giữa các
thành viên trong tổ chức được thực hiện theo đường thẳng, người thừa hành
mệnh lệnh chỉ làm theo mệnh lệnh của một cấp trên trực tiếp. Với những
đặc điểm đó, cơ cấu này tạo thuận lợi cho việc thực hiện chế độ một thủ
trưởng, người lãnh đạo phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả công
việc của người dưới quyền.
Tuy nhiên, kiểu cơ cấu tổ chức này cũng có những nhược điểm. Nó
đòi hỏi người lãnh đạo cần phải có kiến thức toàn diện, tổng hợp hạn chế
việc sử dụng các chuyên gia có trình độ cao về từng mặt quản trị; khi cần
phối hợp, hợp tác công việc giữa hai đơn vị, hoặc cá nhân ngang quyền
thuộc các tuyến khác nhau thì việc báo cáo, thông tin phải đi đường vòng theo
kênh liên hệ đã quy định.
19

4.3.5.2. Cơ cấu chức năng
Cơ cấu chức năng
Cơ cấu chức năng lần đầu tiên được áp dụng với chế độ đốc công, sau đó
phạm vi ứng dụng của nó được mở rộng ra phù hợp với khối lượng công tác
quản trị ngày càng lớn. Những nhiệm vụ quản trị được phân chia cho các đơn
vị riêng biệt theo các chức năng quản trị và hình thành nên những người lãnh
đạo được chuyên môn hóa chỉ đảm nhận thực hiện một chức năng nhất định.
Mối liên hệ giữa các nhân viên trong tổ chức rất phức tạp. Những người thừa
hành nhiệm vụ ở cấp dưới nhận mệnh lệnh chẳng những từ người lãnh đạo của
doanh nghiệp mà cả từ những người lãnh đạo các chức năng khác nhau.
Ưu điểm của kiểu cơ cấu này là thu hút được các chuyên gia vào công
tác lãnh đạo, giải quyết các vấn đề chuyên môn một cách thành thạo hơn,
đồng thời giảm bớt gánh nặng về quản trị cho người lãnh đạo doanh nghiệp
Nhược điểm chủ yếu của cơ cấu chức năng là người lãnh đạo doanh
nghiệp (lãnh đạo chung) phải phối hợp hoạt động của những người lãnh đạo
chức năng, nhưng do khối lượng công tác quản trị lớn, người lãnh đạo doanh
nghiệp khó có thể phối hợp được tất cả các mệnh lệnh của họ, dẫn đến tình
trạng người thừa hành trong một lúc có thể phải nhận nhiều mệnh lệnh, thậm
chí các mệnh lệnh lại trái ngược nhau.
20
4.3.5.3. Cơ cấu trực tuyến - chức năng
Cơ cấu trực tuyến - chức năng
Để khắc phục các nhược điểm của các cơ cấu trực tuyến và chức
năng, hiện nay kiểu cơ cấu liên hợp (trực tuyến - chức năng được áp dụng
rộng rãi và phổ biến cho mọi doanh nghiệp).
Theo cơ cấu này người lãnh đạo doanh nghiệp được sự giúp sức của
người lãnh đạo chức năng để chuẩn bị các quyết định, hướng dẫn và kiểm tra
việc thực hiện quyết định. Người lãnh đạo doanh nghiệp vẫn chịu trách nhiệm
về mọi mặt công việc và toàn quyền quyết định trong phạm vi doanh nghiệp.
Việc truyền mệnh lệnh vẫn theo tuyến đã quy định, các người lãnh đạo ưu điểm

kiểu cơ cấu trực tuyến và chức năng, nhưng lại xuất hiện những nhược điểm
mới. Người lãnh đạo doanh nghiệp phải giải quyết thường xuyên mối quan hệ
giữa bộ phận trực tuyến với bộ phận chức năng. Ngoài ra mỗi khi các người
lãnh đạo các bộ phận chức năng có nhiều ý kiến khác nhau, đến nỗi người lãnh
đạo doanh nghiệp phải họp hành nhiều, tranh luận căng thẳng không ra được
những quyết định có hiệu quả mong muốn. Vì thế, người lãnh đạo sử dụng các
bộ phận tham mưu giúp việc của một nhóm chuyên gia hoặc chỉ là một cán bộ
trợ lý nào đó. Nó giống như cơ cấu tham mưu trong quân đội. Nhờ đó, người
lãnh đạo lợi dụng được tài năng chuyên môn của một số chuyên gia, có thể tiếp
cận thường xuyên với họ, không cần hình thành một cơ cấu tổ chức phức tạp
của các bộ môn thực hiện các chức năng quản lý.
21
4.3.5.4. Cơ cấu chính thức và không chính thức
Cơ cấu tổ chức doanh nghiệp còn được chia thành cơ cấu chính thức
và cơ cấu không chính thức. Hai hình thức này đều có thể tìm thấy ở các tổ
chức khác nhau. Vì vậy, việc phân loại các cơ cấu này là cần thiết.
* Cơ cấu chính thức: Cơ cấu chính thức gắn liền với cơ cấu vai trò
nhiệm vụ hướng đích trong một doanh nghiệp được tổ chức một cách chính
thức. Khi nói rằng một tổ chức là "chính thức", hoàn toàn chẳng có điều gì là
cứng nhắc hay quá hạn chế trong cách diễn đạt này. Nếu có một người quản
lý có ý định tổ chức thật tốt, cơ cấu phải tạo ra một môi trường ở đó việc
thực hiện của từng cá nhân, cả trong hiện tại và tương lai, phải có đóng góp
có hiệu quả nhất vào các mục tiêu của tập thể. Chứ không phải họ chỉ giành
phần nhỏ trí óc và sức lực cho doanh nghiệp, còn phần lớn để làm thêm cho
một doanh nghiệp khác.
* Cơ cấu không chính thức: Là toàn bộ những cuộc tiếp xúc cá
nhân, sự tác động qua lại cá nhân cũng như sự tác động theo nhóm cán bộ,
công nhân ngồi phạm vi cơ cấu đã được phê chuẩn của doanh nghiệp. Cơ cấu
không chính thức có vai trò to lớn trong thực tiễn quản trị. Nó không định
hình và hay thay đổi, luôn luôn tồn tại song song với cơ cấu chính thức, có

tác động nhất định và đôi khi rất đáng kể đến hoạt động của doanh nghiệp
vì:
- Cá nhân các chủ doanh nghiệp có nhiều mối quan hệ. Họ không chỉ
là người thực hiện nghiêm túc, cần mẫn nghĩa vụ của mình do quy chế tổ
chức, tiêu chuẩn nghiệp vụ, theo chức danh quy định, mà họ còn cảm thấy
những nhu cầu tuy không liên quan đến công vụ nhưng lại liên quan, ảnh
hưởng đến thái độ đối với cá nhân, đối với con người từ phía những người
đồng nghiệp, những người cấp dưới.
- Việc thực hiện tiêu chuẩn nghiệp vụ theo chức danh quy định, việc
hoàn thành thường gặp khó khăn nếu chỉ tuân theo những thủ tục và thể lệ
đã được quy định chính thức. Bởi vì, cơ cấu khơng chính thức không phải
22
lúc nào cũng có thể cho biết những thông tin cần thiết, đặc biệt khi xuất
hiện những điều kiện, những tình huống mới mà chưa thể tính trước được
thể hiện một cách chi tiết trong các thủ tục đã quy định. Trong những trường
hợp như vậy, cần có sự hỗ trợ của các cuộc tiếp xúc cá nhân, làm quen với
cán bộ cơ quan quản lý vĩ mô và cán bộ quản trị của các doanh nghiệp khác.
Thơng qua đó, cơ cấu không chính thức sẽ bổ sung cho cơ cấu chính thức,
góp phần làm cụ thể hóa thêm những mệnh lệnh còn quá chung chung.
- Sự tồn tại khách quan của cơ cấu không chính thức còn là dấu hiệu
chỉ ra chỗ yếu và trình độ chưa hoàn thiện của cơ cấu chính thức.
- Cơ cấu không chính thức là một trong những yếu tố đòi hỏi người
lãnh đạo doanh nghiệp phải có một nghệ thuật quản lý đặc biệt. Người lãnh
đạo còn phải thường xuyên nghiên cứu cơ cấu chính thức, thúc đẩy sự phát
triển những xu hướng hỗ trợ để đạt được những mục đích của doanh nghiệp.
Cơ cấu không chính thức ngày nay là mở rộng sự quan hệ cá nhân giữa
doanh nghiệp với cá nhân của các đơn vị khách thể quản trị (cấp trên, đối thủ
cạnh tranh, khách hàng v.v ) để giúp cho doanh nghiệp nắm được các thơng
tin cần thiết một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất, giúp cho doanh nghiệp
có đối sách kịp thời và hiệu quả nhất.

4.3.5.5. Cơ cấu ma trận
Vào cuối những năm 50, một số công ty, hãng đã sử dụng cơ cấu
quản lý ma trận. Kiểu tổ chức này áp dụng để thiết kế cơ cấu cho toàn bộ hệ
thống, cũng như để thành lập cơ cấu bên trong hệ thống hoặc các bộ phận.
23
Sơ đồ cơ cấu tổ chức quản lý ma trận
Đặc điểm của cơ cấu này là ngồi những người lãnh đạo theo tuyến và
các bộ phận chức năng, còn có những người lãnh đạo đề án hay sản phẩm,
phối hợp hoạt động của các bộ phận thực hiện một dự thảo nào đó.
Trong cơ cấu này mỗi nhân viên (hoặc bộ phận của bộ phận trực
tuyến được gắn với việc thực hiện một đề án hoặc một sản phẩm nhất định.
Đồng thời mỗi một nhân viên của bộ phận chức năng cũng được gắn với một
đề án hoặc sản phẩm nhất định.
Sau khi hoàn thành đề án, những nhân viên trong các bộ phận thực
hiện đề án hay sản phẩm không chịu sự lãnh đạo của người lãnh đạo theo đề
án ấy nữa, mà trở về đơn vị trực tuyến hay chức năng cũ của mình.
24
Cơ cấu ma trận lại có thể phân thành hai dạng sau đây:
* Cơ cấu đề án - ma trận
Đặc điểm cơ cấu này là người lãnh đạo lập ra nhóm đặc biệt chịu sự
lãnh đạo trực tiếp của mình để thực hiện chương trình của đề án được phê
chuẩn. Những người thực hiện bên ngồi tham gia vào công việc theo những
hợp đồng hay nghĩa vụ được phân giao.
Nhóm đề án được bảo đảm về nhân viên, những nguồn tài chính và
vật chất cần thiết. Sau khi thực hiện đề án, nhóm này giải tán. Người lãnh
đạo đề án chịu trách nhiệm hoàn toàn từ khi bắt đầu đến khi kết thúc.
Quản trị theo đề án thường được áp dụng trong những điều kiện có
sự thay đổi nhanh chóng và sâu sắc về kỹ thuật và công nghệ sản xuất.
* Cơ cấu chức năng - ma trận
Trong cơ cấu này bộ phận mới được tạo thành có vai trò kiểm tra và

thúc đẩy các bộ phận sản xuất sản phẩm của mình, chịu trách nhiệm về
chất lượng của sản phẩm hay công trình.
Để sản xuất sản phẩm mới doanh nghiệp thành lập bộ phận sản xuất
mới. Bộ phận sản xuất mới này được cung cấp các nguồn tài chính và vật chất.
Ưu điểm của cơ cấu ma trận: có tính năng động cao; dễ dàng chuyển
các nhân viên từ việc thực hiện một dự án này sang việc thực hiện một dự án
khác; sử dụng nhân viên có hiệu quả hơn.
Nhược điểm kiểu cơ cấu này là nó thường chỉ áp dụng để thực hiện
các mục tiêu ngắn hạn và trung hạn mà thôi.
Cơ cấu ma trận còn được áp dụng rộng rãi ở các viện nghiên cứu và các
trường đại học.
4.3.5.6. Cơ cấu tổ chức chương trình - mục tiêu
Là một hình thức cơ cấu tổ chức được thực hiện trên cơ sở phân chia
rõ ràng theo thời gian và theo nội dung các cơng việc xác định, cần thiết để
đạt những mục tiêu đã được xác định. Tổng thể những công việc như thế
được gọi là: "chương trình", còn bản thân hình thức tổ chức được gọi là
"quản trị theo chương trình - mục tiêu".
25

×