Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính do kiểm toán độc lập thực hiện tại Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.2 KB, 47 trang )

Đề án môn học Khoa: Kế toán
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN 1:LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG YẾU, RỦI RO KIỂM TOÁN VÀ
VIỆC ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU, RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM
TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH 3
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 45
SV: Phan Thị Thảo MSV: CQ492516
Đề án môn học Khoa: Kế toán
LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt Nam ra đời năm 1991 và ngày càng thể
hiện vai trò và vị thế của mình trong nền kinh tế. Nếu năm 1991 chỉ có 2 công ty
kiểm toán độc lập với 15 nhân viên thì hiện nay đã có tới gần 200 công ty kiểm toán
với hơn 6 nghìn nhân viên, cung cấp hơn 20 loại hình dịch vụ nghề nghiệp cho
khách hàng. Kiểm toán độc lập đã trở thành hoạt động không thể thiếu trong nền
kinh tế thị trường với vai trò mang lại độ tin cậy cho các thông tin tài chính thông
qua các báo cáo tài chính được kiểm toán, qua đó tạo cơ sở cho các bên tiến hành
giao dịch kinh tế.
Ngày nay, Báo cáo tài chính đã được kiểm toán là đối tượng quan tâm của
nhiều cấp quản lý và những người sử dụng thông tin khác. Trong kiểm toán báo cáo
tài chính, đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán là một trong những yếu tố quan
trọng để có được một kế hoạch kiểm toán khoa học và hiệu quả, từ đó thiết kế các
phương pháp kiểm toán phù hợp, tiết kiệm chi phí nâng cao chất lượng của cuộc
kiểm toán.
Thực tế hiện nay các công ty kiểm toán hàng đầu trên thế giới đã xây dựng
được quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán chuẩn cũng như các hướng
dẫn cụ thể đánh giá trọng yếu và rủi ro giúp kiểm toán viên thực hiện kiểm toán một
cách có hiệu quả, tránh được những rủi ro không mong muốn và giảm được những
chi phí kiểm toán mà vẫn đảm bảo được chất lượng của cuộc kiểm toán. Trong khi
đó, hiện nay ở Việt Nam việc đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán chưa thực sự
được các công ty kiểm toán và kiểm toán viên quan tâm một cách đúng mức.


Nhận thức được tầm quan trọng của quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm
toán em đã chọn đề tài: “ Đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán
báo cáo tài chính do kiểm toán độc lập thực hiện tại Việt Nam hiện nay” làm Đề án
của mình
Kết cấu Đề án của em gồm ba phần:
Phần I: Lý luận chung về trọng yếu, rủi ro kiểm toán và việc đánh giá trọng
yếu, rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính
SV: Phan Thị Thảo MSV: CQ492516
1
Đề án môn học Khoa: Kế toán
Phần II: Thực trạng đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán
báo cáo tài chính do kiểm toán độc lập thực hiện tại Việt Nam hiện nay
Phần III: Một số đánh giá và kiến nghị về việc đánh giá trọng yếu và rủi ro
kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính do kiểm toán độc lập thực hiện tại
Việt Nam hiện nay
Để hoàn thành được đề án này em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của cô giáo
Th.s. Nguyễn Thị Mỹ. Tuy nhiên, do sự hiểu biết và thời gian còn hạn chế nên bài
viết của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong sự đóng góp của các
thầy cô và các bạn để em hoàn thiện tốt bài viết của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!

SV: Phan Thị Thảo MSV: CQ492516
2
Đề án môn học Khoa: Kế toán
PHẦN 1:LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG YẾU, RỦI RO KIỂM TOÁN
VÀ VIỆC ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU, RỦI RO KIỂM TOÁN
TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1. Lý luận chung về trọng yếu và rủi ro kiểm toán
1.1.1. Lý luận về trọng yếu
Theo từ điển Tiếng Việt “ trọng yếu chỉ sự vật, hiện tượng then chốt, thiết yếu.

Sự vật, hiện tượng hay địa danh đi kèm với trọng yếu đều mang ý nghĩa quan
trọng”. Trong mỗi lĩnh vực khác nhau trọng yếu mang những nét khác nhau.
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế ( IAG ) 25: “ Trọng yếu là khái niệm về
tầm cỡ, bản chât của sai phạm ( kể cả bỏ sót ) thông tin tài chính hoặc là đơn lẻ,
hoặc là theo từng nhóm, mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để
xét đoán thì sẽ không chính xác hoặc là sẽ rút ra những kết luận sai lầm”
Theo CMKT quốc tế ISA 320: “ Thông tin là trọng yếu nếu việc bỏ sót hoặc sai
sót của thông tin đó có thể ảnh hưởng tới quyết định của người sử dụng báo cáo tài
chính. Tính trọng yếu phụ thuộc vào mức độ quan trọng của các khoản mục hay sai
sót được đánh giá theo bối cảnh cụ thể tạo ra việc bỏ sót hoặc sai sót đó. Vì thế tính
trọng yếu là một ngưỡng hoặc một điểm định tính cơ bản mà thông tin hữu ích cần
phải có”
Theo CMKT Việt Nam VSA 320 về tính trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán: “
Thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hoặc thiếu tính
chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng báo
cáo tài chính”
Như vậy “ trọng yếu” là thuật ngữ dùng để chỉ tầm quan trọng của thông tin, tài
liệu kế toán mà trong bối cảnh cụ thể, nếu thiếu nó hoặc thiếu tính chính xác của
thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến người sử dụng thông tin và ra quyết định quản lý. Sai
lệch được coi là trọng yếu nếu chúng làm thay đổi nhận định của người sử dụng.
Điều đó đồng nghĩa với việc có thể lược bỏ những vấn đề không cơ bản, không bản
chất mà không ảnh hưởng tới việc nhận thức đầy đủ và đúng đắn đối tượng kiểm
toán. Ngược lại, nếu bỏ qua những điểm cốt yếu trong khi hướng chú ý nhiều vào
SV: Phan Thị Thảo MSV:
CQ492516
Đề án môn học Khoa: Kế toán
những điểm không có vị trí xứng đáng và không thuộc bản chất của đối tượng thì sẽ
có những nhận thức sai về đối tượng do đó có những quyết định sai trong quản lý.
Để giải quyết các yêu cầu trên , trong khái niệm “trọng yếu” đã bao hàm hai
mặt: Quy mô hay tầm cỡ ( mặt lượng ) và vị trí hay tính hệ trọng ( mặt chất ) của

đối tượng
Về quy mô: Được xét trong quan hệ với mức độ ảnh hưởng của các khoản mục
đến kết luận kiểm toán từ đó ảnh hưởng tới việc ra quyết định của người sử dụng
thông tin đã được kiểm toán. Quy mô bao gồm hai loại là quy mô tuyệt đối và quy
mô tương đối.
Quy mô tuyệt đối là việc kiểm toán viên sử dụng con số tuyệt đối để đánh giá
tính trọng yếu. Nhưng KTV ít khi sử dụng con số tuyệt đối như một tiêu chuẩn để
đánh giá tính trọng yếu, vì với một con số cụ thể có thể trọng yếu đối với công ty
này nhưng lại quá nhỏ đối với công ty khác.
Quy mô tương đối là mối quan hệ tương quan giữa đối tượng cần đánh giá với
một số gốc. Tùy từng tình huống cụ thể mà số gốc được lựa chọn sao cho phù hợp.
Với BCKQKD, số gốc thường được chọn là khoản mục lợi nhuận sau thuế, bình
quân thu nhập trong những năm gần đây; với BCĐKT số gốc có thể là tài sản cố
định, tài sản lưu động…
Về mặt tính chất: Khái niệm trọng yếu gắn với tính hệ trọng của vấn đề cần
xem xét. Xem xét mặt định tính chỉ cần thiết khi nó ảnh hưởng đến bản chất của
khoản mục hay vấn đề đang được đánh giá. Liên quan tới vấn đề này, tất cả các
khoản mục được xem là trọng yếu bao gồm:
Các khoản mục có gian lận hoặc chứa đựng khả năng gian lận như:
• Các hoạt động đấu thầu và giao thầu, giao dịch không hợp pháp
• Các hoạt động thanh lý tài sản
• Các hoạt động về tiền mặt
• Các hoạt động mua bán và thanh toán
• Các hoạt động bất thường
• Các hoạt động phân chia quyền lợi…
Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót hệ trọng:
SV: Phan Thị Thảo MSV:
CQ492516
Đề án môn học Khoa: Kế toán
• Các khoản mục, nghiệp vụ có phát hiện sai sót ở quy mô lớn hoặc có chênh

lệch lớn với các kỳ trước
• Các khoản mục, nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán và pháp lý nói chung
• Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót lặp lại nhiền lần
• Các khoản mục, nghiệp vụ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến kỳ sau
• Các khoản mục, nghiệp vụ gây hậu quả liêm quan đến nhiều khoản mục
khác.
1.1.2. Lý luận chung về rủi ro kiểm toán
1.1.2.1. Khái niệm về rủi ro kiểm toán
Trong cuộc sống hàng ngày, có rất nhiều sự kiện xảy ra mà chúng ta không thể
dự đoán hết được và nếu có dự đoán được khả năng xảy ra của chúng thì cũng
không thể biết chắc chắn hậu quả sẽ ra sao. Chẳng hạn, khi bạn đầu tư một khoản
tiền để mua chứng khoán, nhưng không chắc chắn là sẽ thu được một khoản lãi hay
bị lỗ trong tương lai. Chúng ta chỉ có thể dự báo một số khả năng có thể xảy ra dựa
trên những phân tích nào đó, nhưng những khả năng đó không thể nào đoán đúng
100% được. Những vấn đề trên thường gắn với khái niệm - được gọi là rủi ro.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về rủi ro:
Theo từ điển Tiếng Việt: “ Rủi ro là tính từ để chỉ sự không may xảy ra”.
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam: “ Rủi ro là hậu quả gây thiệt hại ít
nhiều có thể dự kiến được của một hành vi mà việc thực hiện không chỉ phụ thuộc
vào ý chí của bên đương sự. Người thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm về thiệt
hại gây nên cho người khác. Người nào chấp nhận sự rủi ro trong việc thực hiện
hành vi có thể gây thiệt hại cho mình thì người đó mất quyền khởi tố đòi bồi thường
thiệt hại”
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế (IAG) số 25: “Rủi ro kiểm toán là rủi
ro mà KTV có thể mắc phải khi đưa ra ý kiến nhận xét không xác đáng về các thông
tin tài chính và đó là sai sót nghiêm trọng”. Ví dụ: KTV có thể đưa ra ý kiến chấp
nhận toàn phần về một BCTC mà không biết rằng báo cáo này có chứa những sai
phạm nghiêm trọng.
SV: Phan Thị Thảo MSV:
CQ492516

Đề án môn học Khoa: Kế toán
Theo CMKT Việt Nam số 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ”: “Rủi ro
kiểm toán là rủi ro do KTV và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích
hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu”.
Như vậy rủi ro kiểm toán xuất phát từ những sai lệch tiềm ẩn trong BCTC đã vượt
qua HTKSNB của đơn vị và không bị các thử nghiệm cơ bản của KTV phát hiện.
Rủi ro kiểm toán luôn luôn tồn tại, ngay cả khi cuộc kiểm toán được lập kế hoạch
một cách chu đáo và thực hiện một cách thận trọng. Trong thực tế, rủi ro kiểm toán
thường xảy ra do giới hạn về quản lý, về kiểm toán mà trực tiếp là chi phí kiểm
toán. Trong mối quan hệ này rủi ro kiểm toán và chi phí kiểm toán có mối quan hệ
tỷ lệ nghịch với nhau thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ1.1. Quan hệ giữa rủi ro kiểm toán với chi phí kiểm toán
(bằng chứng kiểm toán)
1.1.2.2. Các loại rủi ro
Do đối tượng kiểm toán là những thông tin được kiểm toán qua nhiều giai đoạn
bằng các bộ máy kiểm toán khác nhau nên rủi ro kiểm toán cũng được xác định
tương ứng với đối tượng kiểm toán từng loại. Cụ thể rủi ro kiểm toán được chia làm
ba loại: Rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện
Rủi ro tiềm tàng: Là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng
khoản mục trong báo cáo tài chính chứa đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ
hoặc tính gộp, mặc dù có hay không có HTKSNB
Mức độ rủi ro tiềm tàng phụ thuộc vào đặc điểm tình hình kinh doanh, loại hình
kinh doanh, năng lực nhân viên của khách thể kiếm toán. KTV không tạo ra và cũng
SV: Phan Thị Thảo MSV:
CQ492516
Mức rủi ro
kiểm toán
Rủi ro mong muốn
Chi phí kiểm toán
0

Rủi ro đạt tới
Đề án môn học Khoa: Kế toán
không kiểm soát được rủi ro tiềm tàng mà chỉ có thể đánh giá chúng. Để đánh giá
rủi ro tiềm tàng KTV có thể dựa vào nhiều nguồn thông tin khác nhau: Thông qua
báo chí, phương tiện thông tin đại chúng, thông qua kết quả của cuộc kiểm toán
trước, thông qua thông tin thu thập được của KTV tiền nhiệm…và từ đó có thể đưa
ra đánh giá của mình về rủi ro tiềm tàng
Rủi ro kiểm soát: Là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng
khoản mục trong BCTC khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ
thống kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa hết hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp
thời. Rủi ro kiểm toán tồn tại do những hạn chế cố hữu của HTKSNB. Khi kiểm
toán, KTV chỉ có thể đánh giá được HTKSNB của đơn vị được kiểm toán. Thông
qua việc tìm hiểu và đánh giá HTKSNB, KTV tiến hành ước tính rủi ro kiểm soát.
Rủi ro phát hiện: Là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng
khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà trong quá
trình kiểm toán, KTV và công ty kiểm toán không phát hiện được.
Như vậy ngược với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, KTV và công ty kiểm
toán phải có trách nhiệm trong việc thực hiện các thủ tục thu thập các bằng chứng
kiểm toán nhằm quản lý và kiểm soát với rủi ro phát hiện, nó có liên quan trực tiếp
đến trách nhiệm của KTV và công ty kiểm toán. Mức độ rủi ro phát hiện có liên
quan trực tiếp đến thử nghiệm cơ bản của KTV. KTV phải dựa vào đánh giá mức độ
rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát để xác định nội dung, lịch trình và phạm vi thử
nghiệm cơ bản để giảm rủi ro phát hiện và giảm rủi ro kiểm toán xuống thấp đến
mức có thể chấp nhận được.
1.1.2.3. Mô hình rủi ro kiểm toán
Quan hệ giữa các loại rủi ro trên có thể được phản ánh qua mô hình rủi ro sau:
Mô hình (2.1.1): AR
Trong đó: AR là rủi ro kiểm toán ( Audit risk )
IR là rủi ro tiềm tàng ( Inherent risk )
CR là rủi ro kiểm soát ( Control risk )

SV: Phan Thị Thảo MSV:
CQ492516
Đề án môn học Khoa: Kế toán
DR là rủi ro phát hiện ( Detection risk )
Mô hình này được KTV sử dụng để đánh giá tính hợp lí của kế hoạch kiểm toán.
KTV có thể sử dụng mô hình này để điều chỉnh rủi ro phát hiện ( DR) dựa trên các
loại rủi ro khác đã được đánh giá nhằm đạt được rủi ro kiểm toán ở mức thấp mà
KTV kỳ vọng.
Mô hình (2.1.1) ít được sử dụng vì rủi ro kiểm toán thường được KTV xác định
trước và khó thay đổi trong một cuộc kiểm toán. Do vậy, KTV mong muốn xác định
rủi ro phát hiện để lập kế hoạch kiểm toán hơn là điều chỉnh rủi ro phát hiện theo rủi
ro kiểm toán. Mặt khác, rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát luôn có tính chất cố hữu
, KTV chỉ có thể đánh giá chứ không thể tác động điều chỉnh, trong khi đó KTV có
thể điều chỉnh rủi ro phát hiện như mong muốn. Do đó để phục vụ tốt hơn cho việc
lập kế hoạch kiểm toán và xét trong mối quan hệ với bằng chứng kiểm toán , mô
hình rủi ro thường được các KTV sử dụng có dạng sau:
Mô hình (2.1.2) DR
Với mô hình (2.1.2), rủi ro phát hiện (DR) là mối quan tâm trước tiên của KTV.
Thông qua việc tính toán DR, kiểm toán viên sẽ xác định thủ tục kiểm toán và số
lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập để rủi ro phát hiện không vượt quá mức
mong muốn.
Với một mức rủi ro kiểm toán mong muốn cho trước, từ mô hình (2.1.2) có thể
rút ra kết luận : rủi ro phát hiện có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với rủi ro tiềm tàng, rủi
ro kiểm soát và số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập, tỉ lệ thuận với rủi ro
kiểm toán. Nếu rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá cao thì rủi ro phát
hiện được tính toán sẽ thấp, số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập nhiều.
Ngược lại, khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá thấp thì rủi ro phát
hiện là cao, khi đó với số lượng bằng chứng kiểm toán nhỏ hơn KTV có thể đưa ra
được kết luận hợp lý.
SV: Phan Thị Thảo MSV:

CQ492516
Đề án môn học Khoa: Kế toán
1.1.3. Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo
tài chính
Theo CMKT quốc tế (IAS) số 320 về tính trọng yếu trong kiểm toán, mức độ
trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ ngược chiều nhau nghĩa là nếu mức
trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng thấp và ngược lại. KTV phải quan tâm
tới mối quan hệ này khi xác định bản chất, thời gian và phạm vi của các thủ tục
kiểm toán cần thiết.
1.2. Đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính
1.2.1. Đánh giá trọng yếu
Trong giai đoạn lập kế hoạch, KTV xác định mức độ trọng yếu để ước tính mức
độ sai sót của BCTC có thể chấp nhận được, xác định phạm vi cuộc kiểm toán và
đánh giá ảnh hưởng của các sai sót lên BCTC để từ đó xác định bản chất, thời gian
và phạm vi các thử nghiệm kiểm toán. Như vậy, KTV cần đánh giá mức trọng yếu
cho toàn bộ BCTC và phân bổ mức đánh giá đó cho từng khoản mục trên BCTC.
Các bước đánh giá trọng yếu có thể được khái quát qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.2. Các bước đánh giá trọng yếu
Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu
Phân bổ mức ước lượng ban đầu cho các khoản mục
Ước tính tổng sai sót cho từng khoản mục
Ước tính sai số kết hợp của toàn bộ BCTC
So sánh sai số tổng hợp ước tính với ước lượng ban đầu về tính trọng yếu
SV: Phan Thị Thảo MSV:
CQ492516
Lập kế hoạch
phạm vi của
các thử nghiệm
kiểm toán
Đánh giá

các kết quả
Đề án môn học Khoa: Kế toán
1.2.1.1. Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu
Mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là lượng tối đa mà KTV tin rằng ở đó
các BCTC có thể bị sai nhưng vẫn chưa ảnh hưởng đến các quyết định của người sử
dụng, hay nói cách khác đó chính là sai sót có thể chấp nhận được đối với toàn bộ
BCTC.
Việc ước lượng ban đầu về tính trọng yếu giúp cho KTV lập kế hoạch thu thập
bằng chứng kiểm toán thích hợp, nếu KTV ước lượng mức trọng yếu càng thấp thì
thì số lượng bằng chứng kiểm toán thu thập phải càng nhiều và ngược lại. Để hỗ trợ
cho KTV trong việc đánh giá tính trọng yếu, các công ty kiểm toán thường đưa ra
hướng dẫn về việc lựa chon các chỉ tiêu làm số gốc và tỷ lệ tính trong các trường
hợp cụ thể:
Bảng 1.1. Bảng quy định về mức trọng yếu
Vị trí của khoản
mục
Không trọng yếu Có thể trọng yếu Chắc chắn trọng
yếu
Báo cáo kết quả
kinh doanh
Dưới 5% lãi trước
thuế
Từ 5% - 10% lãi
trước thuế
Trên 10% lãi trước
thuế
Bảng cân đối kế
toán
Dưới 10% giá trị
tài sản

Từ 10% - 15% giá
trị tài sản
Trên 15% giá trị tài
sản
1.2.1.2. Phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các khoản mục
Sau khi KTV đã có được ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho toàn bộ
BCTC, KTV tiến hành phân bổ mức ước lượng này cho từng khoản mục trên
BCTC. Đó chính là sai số có thể chấp nhận được đối với từng khoản mục. Việc
phân bổ này giúp KTV xác định được số lượng bằng chứng kiểm toán thích hợp
phải thu thập đối với từng khoản mục ở mức chi phí thấp nhất có thể mà vẫn đảm
bảo tổng hợp các sai sót trên BCTC không vượt quá mức ước lượng ban đầu về tính
trọng yếu.
Việc phân bổ mức ước lượng ban đầu được thực hiện theo cả hai chiều hướng
mà các sai phạm có thể diễn ra: đó là tình trạng khai khống và khai thiếu
Cơ sở để tiến hành phân bổ:
• Bản chất của các khoản mục
SV: Phan Thị Thảo MSV:
CQ492516
Đề án môn học Khoa: Kế toán
• Đánh giá về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát
• Kinh nghiệm của kiểm toán viên
• Chi phí kiểm toán đối với từng khoản mục
Việc phân bổ mức ước lượng này mang tính chủ quan đòi hỏi phải có sự xét
đoán nghề nghiệp vì vậy các công ty kiểm toán thường phân công các KTV có trình
độ chuyên môn cao và có nhiều kinh nghiệm.
1.2.1.3. Ước tính tổng số sai sót trên từng khoản mục
Với các sai phạm có bằng chứng chắc chắn và được đánh giá là trọng yếu, KTV
sẽ đề nghị khách hàng điều chỉnh. Nếu khách hàng điều chỉnh thì KTV sẽ đưa ra ý
kiến chấp nhận toàn phần khi đưa ra báo cáo kiểm toán
Với các sai phạm còn lại, KTV tiến hành tổng hợp lại để tiến hành ước tính

tổng số sai sót đối với từng khoản mục đó. KTV cũng xem xét các sai phạm có tính
trọng yếu nhỏ nhưng lũy kế lại cũng có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới kết quả
kiểm toán cuối cùng.
Như vậy việc ước tính tổng số sai sót trên từng khoản mục nhằm mục đích so
sánh với các sai sót có thể bỏ qua để quyết định khả năng chấp nhận thông tin trên
khoản mục đó hoặc phải tiếp tục tiến hành thêm các thủ tục kiểm toán thích hợp.
1.2.1.4. Ước tính sai số kết hợp của toàn bộ báo cáo tài chính
Thông qua việc xác định các sai sót tổng hợp của từng khoản mục, KTV tiến
hành xác định tổng số sai sót kết hợp của toàn bộ BCTC và sau đó so sánh với ước
lượng ban đầu của KTV
1.2.1.5. So sánh sai số kết hợp của toàn bộ báo cáo tài chính với ước lượng ban đầu
về tính trọng yếu
Thông qua các bước công việc trên, cuối cùng KTV đi đánh giá tổng hợp sai số
kết hợp của toàn bộ BCTC với ước lượng ban đầu về tính trọng yếu. Việc so sánh
này cho phép đánh giá toàn bộ các sai sót có vượt quá giới hạn về mức trọng yếu
chung cho toàn bộ BCTC hay không, để từ đó xem xét việc mở rộng nội dung và
quy mô của các thử nghiệm kiểm toán và đưa ra ý kiến kiểm toán phù hợp.
1.2.2. Đánh giá rủi ro kiểm toán
SV: Phan Thị Thảo MSV:
CQ492516
Đề án môn học Khoa: Kế toán
Trên cơ sở mức trọng yếu được xác định cho toàn bộ BCTC và phân bổ cho
từng khoản mục, KTV cần tiến hành đánh giá khả năng xảy ra sai sót trọng yếu ở
mức độ toàn bộ BCTC cũng như đối với từng khoản mục để thực hiện cho việc thiết
kế các thủ tục kiểm toán và xây dựng chương trình cho từng khoản mục. Việc đánh
giá rủi ro kiểm toán được tiến hành trên từng loại rủi ro kiểm toán cụ thể như sau:
1.2.2.1. Xác định rủi ro kiểm toán mong muốn
Rủi ro kiểm toán mong muốn được xác định trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm
toán. Mức rủi ro này được xác định phụ thuộc vào hai yếu tố:
• Mức độ mà theo đó người sử dụng bên ngoài tin tưởng vào BCTC. Nếu

người sử dụng bên ngoài đặt nhiều niềm tin vào BCTC lớn thì mức độ tác hại trên
phạm vi toàn xã hội sẽ càng lớn nếu một sai sót mang tính nghiêm trọng trên BCTC
không được phát hiện. Vì vậy, KTV cần xác định một mức rủi ro kiểm toán thấp, từ
đó tăng số lượng bằng chứng kiểm toán thu thập và tăng độ chính xác trong các kết
luận đưa ra của mình
Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ người sử dụng bên ngoại tin tưởng vào
BCTC bao gồm:
 Quy mô của công ty khách hàng
 Sự phân phối quyền sở hữu
 Bản chất và quy mô của công nợ
• Khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn về tài chính sau khi báo cáo kiêm toán
được công bố. Nếu khả năng này càng cao thì KTV phải thiết lập một mức rủi ro
kiểm toán mong muốn thấp hơn, từ đó tăng số lượng bằng chứng kiếm toán cần thu
thập. KTV có thể căn cứ vào yếu tố sau để có thể dự đoán được khả năng thất bại về
mặt tài chính của công ty khách hàng: Khả năng hoán chuyển thành tiền mặt, các
khoản lãi lỗ trong năm trước, các giải pháp nhằm gia tăng quá trình tài trợ, bản chất
hoạt động của công ty khách hàng.
SV: Phan Thị Thảo MSV:
CQ492516
Đề án môn học Khoa: Kế toán
1.2.2.2. Đánh giá rủi ro tiềm tàng
Việc đánh giá rủi ro tiềm tàng được KTV đánh giá dựa trên hai phương diện:
Phương diện BCTC, phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ
• Phương diện BCTC
 Sự liêm khiết, kinh nghiệm và hiểu biết của Ban Giám đốc cũng như sự thay
đổi thành phần Ban quản lý xảy ra trong niên độ kế toán;
 Trình độ và kinh nghiệm chuyên môn của kế toán trưởng, của các nhân viên
kế toán chủ yếu, của kiểm toán viên nội bộ và sự thay đổi (nếu có) của họ.
 Những áp lực bất thường đối với Ban Giám đốc, đối với kế toán trưởng, nhất
là những hoàn cảnh thúc đẩy Ban Giám đốc, kế toán trưởng phải trình bày

báo cáo tài chính không trung thực;
 Đặc điểm hoạt động của đơn vị, như: Quy trình công nghệ, cơ cấu vốn, các
đơn vị phụ thuộc, phạm vi địa lý, hoạt động theo mùa vụ;
 Các nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực hoạt động của đơn vị, như: các biến
động về kinh tế, về cạnh tranh, sự thay đổi về thị trường mua, thị trường bán
và sự thay đổi của hệ thống kế toán đối với lĩnh vực hoạt động của đơn vị.
• Trên phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ:
 Báo cáo tài chính có thể chứa đựng những sai sót, như: Báo cáo tài chính có
những điều chỉnh liên quan đến niên độ trước; báo cáo tài chính có nhiều
ước tính kế toán, hoặc trong năm tài chính có sự thay đổi chính sách kế toán;
 Việc xác định số dư và số phát sinh của các tài khoản và nghiệp vụ kinh tế,
như: Số dư các tài khoản dự phòng, nghiệp vụ kinh tế đối với chi phí phát
sinh sau ghi nhận ban đầu TSCĐ tính vào chi phí hay tính tăng nguyên giá
TSCĐ,
 Mức độ dễ bị mất mát, biển thủ tài sản, như: phát sinh nhiều nghiệp vụ thu,
chi tiền mặt, tạm ứng tiền với số lượng lớn, thời gian thanh toán dài, ;
 Mức độ phức tạp của các nghiệp vụ hay sự kiện quan trọng đòi hỏi phải có ý
kiến của chuyên gia, như: xảy ra kiện tụng hoặc trộm cắp, ;
 Việc ghi chép các nghiệp vụ bất thường và phức tạp, đặc biệt là gần thời
điểm kết thúc niên độ;
 Các nghiệp vụ kinh tế, tài chính bất thường khác.
Để có sự hiểu biết về rủi ro tiềm tàng, KTV thường áp dụng các thủ tục như
 Phỏng vấn nhà quản lý và nhân viên để thu thập hiểu biết về khách hàng
kiểm toán về bản chất kinh doanh, áp lực với ban giám đốc…
 Quan sát thực tế
SV: Phan Thị Thảo MSV:
CQ492516
Đề án môn học Khoa: Kế toán
 Phân tích sơ bộ BCTC
1.2.2.3. Đánh giá rủi ro kiểm soát

Rủi ro kiểm soát được KTV đánh giá đối với từng khoản mục trên BCTC
thường thông qua việc tìm hiểu HTKSNB của khách hàng đối với khoản mục này.
Rủi ro kiểm soát sẽ luôn xuất hiện và khó tránh khỏi đối với bất kỳ HTKSNB nào.
HTKSNB có mối quan hệ rất chặt chẽ với rủi ro kiểm soát : Mức độ hiệu quả của
việc thiết kế và vận hành HTKSNB quyết định mức rủi ro kiểm soát. Nếu HTKSNB
được thiết kế và vận hành hiệu quả, ngăn ngừa được những sai sót trọng yếu có thể
xảy ra thì rủi ro kiểm soát có thể ở mức thấp.
Sơ đồ 1.3. Khái quát quá trình tìm hiểu, đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ,
đánh giá rủi ro kiểm soát
1.2.2.4. Xác định rủi ro phát hiện
Theo mô hình (2.1.2) rủi ro phát hiện được tính sau khi đã dự kiến mức rủi ro
kiểm toán mong muốn và đánh giá rủi ro tiềm tàng cũng như rủi ro kiểm soát. Như
vậy, KTV không thể đánh giá trực tiếp rủi ro phát hiện mà phải xác định thông qua
rủi ro kiểm toán mong muốn, rủi ro tiềm tàng, và rủi ro kiểm soát. Mối quan hệ này
được thể hiện qua bảng : Ma trận rủi ro phát hiện
SV: Phan Thị Thảo MSV:
CQ492516
Đánh giá ban đầu về thử nghiệm kiểm soát và thiết
kế các thử nghiệm cơ bản dự kiến
Tìm hiểu về hệ thống kiểm soát nội bộ
Có thể hạ thấp mức rủi ro kiểm
soát trong thực tế không?
Bước 1
Bước 2
Bước 3
Thiết kế và thực hiện thử nghiệm kiểm soát
Bước 4
Trên cơ sở kết quả của thử nghiệm kiểm soát, đánh
giá lại rủi ro kiểm soát
Mức rủi ro kiểm soát

được đánh giá có như
dự kiến ban đầu không
Thay đổi
những thử
nghiệm cơ
bản đã dự
kiến
Thực hiện các thử nghiệm cơ bản
khôngg
không
Đề án môn học Khoa: Kế toán
Bảng 1.2. Ma trận rủi ro phát hiện
Rủi ro phát hiện được KTV
tính toán
IR được KTV đánh giá
Cao Trung bình Thấp
CR được KTV
đánh giá
Cao Thấp nhất Thấp Trung bình
Trung bình Thấp Trung bình Cao
Thấp Trung bình Cao Cao nhất
Ví dụ: Giả thiết rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được KTV đánh giá là 0,9 và
0,7; KTV có thể chấp nhận mức rủi ro mong muốn (AR) ở mức 0,04 khi đó rủi ro
phát hiện (DR) được tính theo mô hình (2.1.2) như sau:
DR 0,063
DR = 0,063 có nghĩa là để đạt mức rủi ro kiểm toán mong muốn là 0,04 thì KTV
phải xây dựng thủ tục kiểm toán thích hợp và thu thập số lượng bằng chứng kiểm
toán hợp lí để mức rủi ro phát hiện không vượt quá 0,063.
PHẦN 2: THỰC TRẠNG ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM
TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH DO KIỂM

TOÁN ĐỘC LẬP THỰC HIỆN TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng kiểm toán
Đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng kiểm toán được các công ty kiểm toán Việt
Nam thực hiện trong giai đoạn tiền kiểm toán trước khi ký kết hợp đồng kiểm toán
với khách hàng.
SV: Phan Thị Thảo MSV:
CQ492516
Đề án môn học Khoa: Kế toán
KTV Việt Nam tiến hành thu thập các thông tin cơ sở về khách hàng về các
mặt: loại hình doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh, cơ cấu tổ chức bộ máy quản
lý, tính liêm chính của BGĐ công ty khách hàng,…thông qua các nguồn như báo
chí, kinh nghiệm và sự hiểu biết của KTV, xem xét hồ sơ của các cuộc kiểm toán
trước, liên hệ với KTV tiền nhiệm…
Tại Công ty kiểm toán ACA Group
Hàng năm, công ty gửi thư mời đến khách hàng thường xuyên và khách hàng
tiềm năng dựa trên những nhu cầu kiểm toán của họ. Công ty tiến hành đánh giá
chấp nhận hợp đồng kiểm toán dựa trên kinh nghiệm của bản thân KTV, và thường
được BGĐ hoặc KTV có trình độ và kinh nghiệm tiến hành. Trong bước này KTV
thu thập một số thông tin cơ sở về khách hàng gồm: loại hình doanh nghiệp, lĩnh
vực hoạt động, hình thức sở hữu, tổ chức bộ máy quản lý, tình hình hoạt động hiện
tại của công ty, những vướng mắc của công ty với cơ quan pháp luật trong những
năm gần đây…KTV căn cứ vào sự hiểu biết của mình đồng thời tiến hành thu thập
thông qua phương tiện thông tin đại chúng, trao đổi với KTV tiền nhiệm, giám đốc
và kế toán trưởng của công ty khách hàng. Công ty cũng xem xét tới khả năng cung
cấp dịch vụ có chất lượng của bản thân công ty dựa trên số lượng KTV, thời gian
thực hiện, khả năng hiểu biết về lĩnh vực kinh doanh của khách hàng và chi phí
kiểm toán.
Dựa trên các thông tin đã thu thập được, công ty đưa ra mức đánh giá về rủi ro
chấp nhận hợp đồng kiểm toán: Cao, Trung bình, Thấp. Sau khi đánh giá rủi ro chấp
nhận hợp đồng kiểm toán, giám đốc công ty kiểm toán tiến hành dự kiến nhân sự

cho cuộc kiểm toán, đảm bảo KTV tham gia vào cuộc kiểm toán phải có đầy đủ
năng lực,tính độc lập với khách hàng để tiến hành một cuộc kiểm toán có chất
lượng.
Tại công ty kiểm toán Deloitte Việt Nam
Deloitte Việt Nam quy định có thể đánh giá rủi ro của cuộc kiểm toán ở một
trong các mức sau:
SV: Phan Thị Thảo MSV:
CQ492516
Đề án môn học Khoa: Kế toán
• Nếu rủi ro chấp nhận hợp đồng kiểm toán là bình thường thì Giám đốc nghề
nghiệp phụ trách và trưởng nhóm kiểm toán đại diện cho Deloitte Việt Nam sẽ xem
xét chấp nhận hợp đồng kiểm toán với khách hàng và thảo luận, thiết lập các điều
khoản trong hợp đồng.
• Nếu rủi ro chấp nhận hợp đồng kiểm toán cao thì Giám đốc phải xem xét để
đưa ra kết luận cuối cùng. Nếu có nghi ngờ về khả năng chấp nhận hay tiếp tục với
khách hàng thì công ty cần thu thập ý kiến của các chuyên gia tư vấn.
• Nếu rủi ro chấp nhận hợp đồng là rất cao thì công ty không chấp nhận hợp
đồng kiểm toán vì khi đó chất lượng của cuộc kiểm toán không đảm bảo theo đúng
tiêu chuẩn của Deloitte Touche Tohmatsu.
Để thu thập được các nguồn thông tin đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng kiểm
toán, KTV dựa vào các cách thức sau:
• Kinh nghiệm và sự hiểu biết của kiểm toán viên về công ty khách hàng và
lĩnh vực kinh doanh của khách hàng nếu trong các năm kiểm toán trước KTV đã
thực hiện kiểm toán cho khách hàng.
• Trao đổi với KTV tiền nhiệm đối với khách hàng truyền thống của Deloitte
Việt Nam song năm nay có thể thay đổi nhóm kiểm toán thực hiện hợp đồng kiểm
toán đó.
• Xem xét hồ sơ kiểm toán các năm trước.
• Thu thập các văn bản pháp lý có liên quan.
• Trao đổi với BGĐ, kế toán trưởng công ty khách hàng.

Sau khi quyết định chấp nhận một hợp đồng kiểm toán, các KTV sẽ phải trả lời
một bảng câu hỏi về tính độc lập của KTV. Mục đích của việc trả lời bảng câu hỏi
này để xác định được các mối quan hệ có thể có của KTV với Công ty khách hàng
chuẩn bị được kiểm toán. Qua đó, Deloitte Việt Nam đảm bảo được tính độc lập của
KTV và có thể lựa chọn được một đội ngũ KTV thích hợp cho cuộc kiểm toán. Khi
kiểm toán viên lần lượt đã trả lời Bảng câu hỏi trên, một Bản cam kết độc lập sẽ
được lập cho nhóm kiểm toán thực hiện hợp đồng.
SV: Phan Thị Thảo MSV:
CQ492516
Đề án môn học Khoa: Kế toán
Cuối cùng, khi đã thống nhất chấp nhận hợp đồng kiểm toán, Phó giám đốc phụ
trách hợp đồng sẽ ký vào Hợp đồng kiểm toán hoặc Bản phê duyệt tiếp tục thực
hiện hợp đồng kiểm toán.
Tuy nhiên thực tế tại Việt Nam, công việc đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng
kiểm toán chưa được các công ty đặt lên hàng đầu. Một số công ty có tiến hành
đánh giá thì việc thu thập tài liệu thông qua trao đổi với KTV tiền nhiệm chưa thực
sự được coi trọng do bản chất cạnh tranh của nền kinh tế, các công ty kiểm toán
Việt Nam thường rất ngại và ít khi cung cấp thông tin cho KTV kế nhiệm. Hơn nữa
việc đánh giá xem có chấp nhận hợp đồng kiểm toán hay không là một công việc
hết sức phức tạp, mang nặng tính xét đoán của KTV vì thế trong hầu hết các công ty
kiểm toán độc lập ở Việt Nam việc đánh giá này thường do thành viên BGĐ hoặc
KTV cấp cao trực tiếp đánh giá.
2.2. Đánh giá trọng yếu
2.2.1. Xây dựng mức trọng yếu ban đầu
Cũng như các công ty kiểm toán độc lập trên thế giới, các công ty KTĐL ở
Việt Nam cũng tiến hành chọn một số gốc để làm chuẩn đánh giá
Tuy nhiên việc lựa chọn khoản mục làm số gốc và mức trọng yếu của khoản
mục lại có sự khác nhau giữa các công ty KTĐL tại Việt Nam
Tại Công ty kiểm toán ACA Group
Việc ước lượng được KTV của công ty thực hiện vào giai đoạn lập kế hoạch

kiểm toán. Mức trọng yếu là cơ sở để thiết kế các thủ tục kiểm toán nhằm phát hiện
tất cả các sai phạm trọng yếu trên phương diện BCTC của công ty khách hàng. Việc
xác định này ảnh hưởng đến cuộc kiểm toán và chi phí cho cuộc kiểm toán. Công ty
thường căn cứ vào tổng LNTT, doanh thu, tổng tài sản và VCSH để xác định mức
trọng yếu. KTV xác định MPP: mức trọng yếu về số lượng trên toàn bộ BCTC
SMT: mức trọng yếu trên từng khoản mục
ADPT: mức trọng yếu đối với các bút toán
MPP được xác định dựa trên các yếu tố có thể gây rủi ro trọng yếu đối với KTV.
Các yếu tố này được sắp xếp theo thứ tự rủi ro kiểm toán giảm dần như sau:
SV: Phan Thị Thảo MSV:
CQ492516
Đề án môn học Khoa: Kế toán
Bảng 2.1. Cơ sở đánh giá mức trọng yếu
Yếu tố Ước lượng tối thiểu Ước lượng tối đa
LNTT 5% 10%
Doanh thu 0,5% 1%
VCSH 1 % 5%
Tổng tài sản 0,25% 0,5%
Sau khi xác định được cơ sở để xác định mức trọng yếu, trưởng nhóm kiểm
toán tiến hành tính toán mức trọng yếu dựa trên cơ sở đó. Căn cứ vào mức độ trọng
yếu được thiết lập, thành viên BGĐ quy định thời gian cũng như thủ tục kiểm toán
cần thiết phải tiến hành. Thông thường công ty thường chọn LNST làm cơ sở để
phân bổ mức trọng yếu. Nếu vì một lý do nào đó mà công ty thay đổi cơ sở này thì
công ty thường chọn yếu tố tiếp theo để làm số gốc và việc thay đổi này phải được
giải thích trên giấy tờ làm việc.
Tại công ty kiểm toán Deloitte Việt Nam
Sau khi thực hiện tìm hiểu thông tin về công ty khách hàng, KTV tiến hành ước
lượng ban đầu về mức trọng yếu, công ty gọi mức trọng yếu này là PM. Việc đầu
tiên mà KTV tiến hành đó là lựa chọn số gốc, số gốc mà KTV công ty ưu tiên chọn
đó là các chỉ tiêu mà người đọc quan tâm nhiều nhất.

Khách hàng được công ty chia làm các nhóm sau:
• Khách hàng là công ty niêm yết: Với loại khách hàng này công ty sẽ chọn số
gốc là LNST. Nếu công ty khách hàng mà thua lỗ trong năm kiểm toán thì sẽ chọn
số gốc là giá trị bình quân của LNST trong một số năm liên tục trước đó. Sau khi
lựa chọn số gốc, KTV sẽ xác định mức trọng yếu bằng 5-10% số gốc
• Khách hàng là công ty không niêm yết: Cũng như một số công ty kiểm toán
khác công ty có thể lựa chọn số gốc qua các chỉ tiêu như TSNH, VCSH, LNST,
doanh thu. Mức trọng yếu được công ty đánh giá như sau: 2% tổng TSNH, 10%
LNST, 0,5-3% doanh thu.
• Đối với các Công ty phụ thuộc: Hướng dẫn này chỉ sử dụng đối với một
Công ty phụ thuộc 100% vào Công ty mẹ. Khi đó hợp đồng kiểm toán là do Công ty
mẹ ký kết và KTV cần đánh giá được những ảnh hưởng tiềm tàng của việc thay đổi
BCTC theo những quy định của nhà nước, trong trường hợp này có thể KTV sẽ phải
SV: Phan Thị Thảo MSV:
CQ492516
Đề án môn học Khoa: Kế toán
sử dụng một mức trọng yếu cao hơn. Trong trường hợp này KTV có thể áp dụng
mức trọng yếu bằng 2% doanh thu. Những đánh giá định lượng về mức trọng yếu
đòi hỏi những phán đoán nghề nghiệp và được sử dụng trong những trường hợp đặc
biệt. Việc tăng mức trọng yếu có thể được quyết định sau khi đã xem xét kỹ các
chính sách của Công ty kiểm toán. Mức trọng yếu tăng lên không vượt quá mức
trọng yếu của Công ty mẹ.
• Đối với những trường hợp kiểm toán có mức độ rủi ro lớn, KTV cần kết hợp
thêm những hướng dẫn khác phù hợp với từng điều kiện để hỗ trợ cho những hướng
dẫn ở trên nhằm đưa ra một mức trọng yếu hợp lý.
Việc xác định mức trọng yếu của công ty có sự hỗ trợ của phần mềm kiểm
toán AS/2, công ty chỉ cần nhập số gốc phần mềm sẽ tự xác định mức trọng yếu
tương ứng.
Một số công ty KTĐL khác ở Việt Nam khác thì đưa ra một chuẩn cụ thể về
việc này. Mức ước lượng này sẽ ro KTV xét đoán và tự điều chỉnh trong quá trình

kiểm toán tùy thuộc vào mỗi công ty khách hàng.
Qua thực tế tìm hiểu, các công ty KTĐL Việt Nam chưa chú trọng nhiều đến
việc đánh giá trọng yếu, trong nhiều trường hợp còn mang tính hình thức, vì vậy mà
công việc này chưa được sử dụng nhiều trong việc thiết kế nội dung và phạm vi của
các thử nghiệm kiểm toán.
2.2.2. Phân bổ mức trọng yếu ước lượng ban đầu
Thông thường sau khi xác định mức trọng yếu ban đầu các công ty kiểm toán
Việt Nam sẽ tiến hành phân bổ mức trọng yếu này cho các khoản mục. Các công ty
Việt Nam có nhiều cách phân bổ khác nhau và dựa vào kinh nghiệm của KTV. Các
công ty kiểm toán Việt Nam thường căn cứ vào rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và
chi phí kiểm toán cho từng khoản mục để tiến hành phân bổ. Một số công ty kiểm
toán đã xây dựng cho mình một công thức cố định cho việc phân bổ áp dụng cho
các khoản mục
SV: Phan Thị Thảo MSV:
CQ492516
Đề án môn học Khoa: Kế toán
Tại công ty kiểm toán ACA Group
Việc phân bổ này cũng đồng nghĩa với việc KTV đi xác định SMT. Xác định
SMT là cơ sở để thiết lập các thủ tục kiểm toán thích hợp liên quan đến mục tiêu
kiểm toán, ước tính quy mô mẫu khi sử dụng phương pháp chọn mẫu, đánh giá ảnh
hưởng của các sai phạm đến mục tiêu kiểm toán. SMT được xác định như sau:
SMT = 75% MPP
SMT là con số tuyệt đối là ngưỡng để đánh giá mức độ sai phạm của các khoản
mục. Sai phạm của từng khoản mục là sai phạm của các bút toán liên quan đến
khoản mục đó. Đối với các bút toán này, KTV cũng xác định một ngưỡng trọng yếu
là ADPT xác định đồng nhất cho tất cả các bút toán theo công thức:
ADPT = 5 % MPP
Tất cả các sai phạm xảy ra đối với các bút toán có giá trị vượt quá ADPT được
đánh giá là sai phạm trọng yếu cần thực hiện các bút toán điều chỉnh. Tuy nhiên với
những khoản mục có sai phạm nhỏ hơn ADPT vẫn có thể là trọng yếu nếu KTV

nhận định chúng có thể nhận định ra những sai lầm đối với BCTC. Toàn bộ những
nhận định này đều được KTV phản ánh trên giấy tờ làm việc của mình.
Tại công ty kiểm toán Deloitte
Sau khi xác định mức trọng yếu ban đầu PM công ty, KTV tiến hành phân bổ
mức trọng yếu nhưng do đặc tính nghề nghiệp KTV giảm còn 80-90% mức trọng
yếu ban đầu gọi là mức trọng yếu chi tiết (MP). Trong quá trình kiểm toán nếu KTV
phát thêm các yếu tố ảnh hưởng thì có thể điều chỉnh lại mức trọng yếu này. KTV
không thực hiện phân bổ mức trọng yếu cho các khoản mục mà đối với các khoản
mục này KTV sử dụng giá trị trọng yếu chi tiết MP. MP được sử dụng để xác định
sai số có thể chấp nhận được đối với các giá trị chênh lệch ước tính khi kiểm tra,
phân tích sử dụng mỗi tài khoản chi tiết, đồng thời MP cũng được dùng để xác định
số mẫu cần lựa chọn để kiểm tra chi tiết. Việc giảm từ PM xuống MP nhằm mục
đích mở rộng quy mô mẫu, tăng độ tin cậy cho thông tin cần kiểm toán.
Cũng có những công ty kiểm toán tiến hành phân bổ theo tỷ trọng số dư của
khoản mục có kết hợp điều chỉnh theo xét đoán của KTV như: công ty kiểm toán
SV: Phan Thị Thảo MSV:
CQ492516
Đề án môn học Khoa: Kế toán
ATC, AFC…Một số công ty kiểm toán như: CPA Việt Nam, IFC, VAAC…không
thực hiện phân bổ mức trọng yếu, họ thường tính giá trị trọng yếu chi tiết bằng 80 -
90% giá trị trọng yếu ban đầu
2.2.3. Ước tính tổng số sai sót trên từng khoản mục và trên toàn bộ báo cáo tài
chính so sánh với ước lượng ban đầu
Sau khi đã hoàn tất việc thực hiện các thử nghiệm kiểm toán đã thiết kế, KTV
bắt đầu xác định mức sai sót tổng thể trên từng khoản mục. Thông thường các công
ty kiểm toán Việt Nam chia các sai phạm ra làm hai loại:
Các sai phạm có bằng chứng chắc chắn, KTV sẽ yêu cầu khách hàng điều chỉnh
các sai phạm đó. Nếu khách hàng không tiến hành điều chỉnh các sai phạm đó, KTV
lấy đó làm căn cứ để xác định tổng mức sai phạm cuối ký để từ đó đưa ra ý kiến
kiểm toán cuối cùng.

Trường hợp các sai phạm không có bằng chứng rõ ràng, KTV tiếp tục tiến hành
thu thập bằng chứng, xác định tổng mức sai phạm để xem xét tính trọng yếu của
khoản mục và nghiệp vụ có vượt quá được giá trị trọng yếu phân bổ cho khoản mục
đó hay không.
Tại công ty kiểm toán ACA Group
• Nếu tổng sai số tổng hợp nhỏ hơn mức MPP ban đầu mà KTV ước lượng,
KTV thực hiện thêm thủ tục kiểm toán để bảo đảm độ tin cậy của thông tin. Các thủ
tục thực hiện bổ sung phải thuyết phục được rằng bằng chứng thu được là đầy đủ và
thích hợp và được trình bày đầy đủ trên giấy tờ làm việc.
Sau khi đánh giá lại nếu tổng sai số tổng hợp lớn hơn MPP ước lượng ban đầu
thì KTV xem xét lại bằng chứng đã thu thập để xác minh sự đầy đủ và phù hợp của
bằng chứng. Trong trường hợp này KTV xem xét thêm khả năng thực hiện thêm thủ
tục kiểm toán bổ sung
• Nếu tổng hợp mức sai số kết hợp mà nhỏ hơn MPP thì KTV không cần thực
hiện thêm thủ tục kiểm toán.
Tại công ty kiểm toán Deloitte
Các sai phạm của khách hàng được công ty chia làm hai loại:
SV: Phan Thị Thảo MSV:
CQ492516
Đề án môn học Khoa: Kế toán
• Sai phạm có bằng chứng chắc chắn: Nếu sai phạm có quy mô nhỏ hơn
2%MP, không có tính hệ thống và không có tính trọng yếu KTV có thể bỏ qua,
không yêu cầu khách hàng điều chỉnh. Ngược lại, KTV yêu cầu khách hàng điều
chỉnh vì nếu không điều chỉnh có thể ảnh hưởng tới kết quả năm sau hoặc có thể kết
hợp với các sai phạm khác thành các sai phạm trọng yếu
• Sai phạm chứa có bằng chứng chắc chắn: KTV phải tính toán lại giá trị
chênh lệch có thể chấp nhận được. Sai số có thể chấp nhận được chính là chênh lệch
tối đa giữa số thực tế và số ước tính của KTV có thể chấp nhận được mà không cần
phải tìm hiểu thêm nguyên nhân. Nếu chênh lệch thực tế này mà nhỏ hơn giá trị
chênh lệch có thể chấp nhận được, KTV có thể bỏ qua. Nếu lớn hơn thì KTV phải

tìm hiểu nguyên nhân, thực hiện thêm thủ tục bổ sung và yêu cầu khách hàng điều
chỉnh. Sau đó, KTV sẽ tổng hợp các sai phạm không được điều chỉnh đối với từng
khoản mục cả những sai phạm của năm trước không ảnh hưởng trọng yếu mà có
ảnh hưởng đến năm nay cũng được KTV tổng hợp. Tuy nhiên việc tổng hợp này
được thực hiện một cách dễ dàng nhờ có sự trợ giúp của phần mềm kiểm toán AS/2
Với các công ty kiểm toán không tiến hành phân bổ trọng yếu, KTV thường
yêu cầu khách hàng điều chỉnh trừ khi sai phạm đó là nhỏ.
2.3. Đánh giá rủi ro kiểm toán
2.3.1. Đánh giá rủi ro kiểm toán trên phương diện báo cáo tài chính
Các công ty KTĐL Việt Nam tiến hành đánh giá rủi ro kiểm toán nhằm mục
đích thiết kế các trắc nghiệm tương ứng. Tuy nhiên việc đánh giá này thường được
tiến hành một cách hời hợt và thường xác định một cách chung chung ở mức thấp
có thể chấp nhận được để đạt được độ tin cậy kiểm toán ở mức tối đa.
2.3.1.1. Đánh giá rủi ro tiềm tàng
Thông thường các công ty kiểm toán thường đưa ra ba mức cao, thấp, trung
bình để đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện BCTC. Trong giai đoạn này,
KTV đã tìm hiểu tính liêm chính của BGĐ công ty khách hàng, bản chất kinh doanh
của khách hàng, các ước tính kế toán sử dụng, các nghiệp vụ kinh tế không thường
xuyên,… và thường lập bảng câu hỏi để đánh giá. Tuy nhiên do mỗi công ty có
SV: Phan Thị Thảo MSV:
CQ492516
Đề án môn học Khoa: Kế toán
những chính sách khác nhau vì vậy bảng câu hỏi đánh giá rủi ro tiềm tàng có sự
khác nhau giữa các công ty.
Tại công tykiểm toán ACA Group
Để đánh giá rủi ro tiềm tàng công ty tiến hành thu thập thông tin về công ty
khách hàng bao gồm: năng lực, kinh nghiệm, tính liêm chính của BGĐ, những thay
đổi trong HĐQT, áp lực đối với BGĐ, năng lực và kinh nghiệm của nhân viên kế
toán…KTV chia mức độ rủi ro tiềm tàng trên phương diện BCTC ra làm 3 loại:
thấp, trung bình, cao. Để việc đánh giá này được dễ dàng, KTV tiến hành lập bảng

câu hỏi để có được cái nhìn tổng quan. Quá trình đánh giá rủi ro tiềm tàng của KTV
đối với công ty kháh hàng có thể khái quát thông qua bảng sau:
Bảng 2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến đánh giá rủi ro tiềm tàng của khách hàng
Yếu tố Ý kiến đánh giá
1. Hình thức sở hữu công ty
2. Lĩnh vực hoạt động kinh doanh
3. Tính chính trực của Ban Giám đốc
4. Những áp lực bất thường
5. Các nghiệp vụ kinh tế không thường xuyên
6. Các ước tính kế toán
7. Quy mô của khách hàng
8. Kết quả kiểm toán các năm trước
Tại công ty kiểm toán Deloitte
Công ty cũng tiến hành chia rủi ro tiềm tàng ra làm 3 mức nhưng cụ thể là rủi
ro trung bình, rủi ro cao hơn trung bình và rủi ro rất cao.
Khách hàng có rủi ro tiềm tàng ở mức trung bình bao gồm:
• Hoạt động kinh doanh của công ty có thể đứng vững và có triển vọng phát
triển trong dài hạn
• Doanh nghiệp áp dụng các chính sách kế toán ít thay đổi
• Doanh nghiệp có đội ngũ BGĐ, kế toán tinh thông nghề nghiệp, liêm khiết.
Khách hàng có rủi ro tiềm tàng ở mức cao hơn trung bình bao gồm khách hàng có
mức rủi ro cao hơn thông thường nhưng chưa nghiêm trọng
SV: Phan Thị Thảo MSV:
CQ492516

×