Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận tại NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Bách Khoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.7 KB, 96 trang )

LỜI CAM
Đ
O
AN
Tác giả xin cam đoan luận văn “Một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận
tại NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Bách Khoa” là công trình nghiên cứu
độc lập của tác giả. Các kết quả và thông tin trong luận văn là do tác giả tự tìm hiểu,
phân tích và rút ra kết luận dựa vào những luận cứ khoa học.
Tác
giả
Đỗ Thị Mùi
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, tác giả đã nhận được rất nhiều ý kiến
đóng góp, sự giúp đỡ, hướng dẫn của các thầy cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp và sự
động viên của gia đình trong suốt khóa cao học và suốt thời gian nghiên cứu đề tài.
Tác giả xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Khoa Sau Đại học, đặc biệt là
các thầy cô giáo ở Viện Ngân hàng – Tài chính của trường Đại học Kinh tế Quốc
dân. Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới PGS.TS. Trần Thanh Hà ,
người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu và
hoàn thiện luận văn.
Do thời gian ngắn và trình độ kiến thức còn hạn chế, nên trong quá trình
làm luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được
sự quan tâm, góp ý chân tình của các thầy cô và bạn đọc quan tâm đến đề tài.
Tác giả xin chân thành cảm ơn!

Tác
giả
Đỗ Thị Mùi
MỤC LỤC
S gia t ng nhanh chóng trong danh m c s n ph m d ch vự ă ụ ả ẩ ị ụ 25
S gia t ng c nh tranhự ă ạ 25


S gia t ng chi phí v nự ă ố 26
S gia t ng các ngu n v n nh y c m v i lãi su tự ă ồ ố ạ ả ớ ấ 26
Cách m ng trong công ngh ngân h ngạ ệ à 27
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
NHNo&PTNT: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
TCTD: Tổ chức tín dụng
PGD: Phòng giao dịch
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU, BIỂU
Ngân hàng là một trong những ngành chịu ảnh hưởng rất lớn từ các chính sách
kinh tế của nhà nước. Bất kỳ sự thay đổi nào của chính sách kinh tế cũng tác
động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại. Khi ngân
hàng trung ương thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng hoặc giảm đồng nghĩa với
tài sản sinh lời của các ngân hàng thương mại sẽ giảm hoặc tăng theo. Sự nhạy
cảm của ngân hàng với các chính sách kinh tế còn biểu hiện rất rõ qua việc
thay đổi lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước. Lãi suất cơ bản tăng, giảm
thì ngay lập tức nguồn tiền gửi của khách hàng sẽ biến động theo xu hướng lãi
suất, điều này gây khó khăn rất nhiều cho việc duy trì, ổn định nguồn vốn và
dễ dẫn đến nguy cơ mất thanh khoản của ngân hàng thương mại 23
S gia t ng nhanh chóng trong danh m c s n ph m d ch vự ă ụ ả ẩ ị ụ 25
S gia t ng c nh tranhự ă ạ 25
S gia t ng chi phí v nự ă ố 26
S gia t ng các ngu n v n nh y c m v i lãi su tự ă ồ ố ạ ả ớ ấ 26
Cách m ng trong công ngh ngân h ngạ ệ à 27
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 2011, nền kinh tế nước ta đang suy thoái rất mạnh, hàng ngàn các
doanh nghiệp lâm vào tình trạng thua lỗ, thậm chí phá sản. Nhưng trong báo cáo tài
chính của các Ngân hàng thương mại Việt Nam năm 2011, lợi nhuận vẫn được duy

trì ở mức hàng ngàn tỷ đồng. Liệu lợi nhuận của các Ngân hàng thương mại có thực
sự “khủng” như thế không, và đằng sau nó ẩn chứa gì? Đây là vấn đề thu hút rất
nhiều sự quan tâm của báo chí và dư luận thời gian qua.
Là chi nhánh của một trong những Ngân hàng thương mại nhà nước hàng
đầu Việt Nam, Ngân hàng No&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Bách Khoa được nâng
cấp thành Chi nhánh cấp I từ năm 2008. So với toàn hàng, Chi nhánh
NHNo&PTNT Bách Khoa còn rất non trẻ, tuy nhiên với sự cố gắng, nỗ lực không
ngừng Chi nhánh đã đạt được những thành tựu kinh doanh rất đáng khích lệ. Năm
2011, đồng hành cùng với những khó khăn chung của nền kinh tế, Chi nhánh cũng
trải qua không ít sóng gió. Lợi nhuận đang trở thành vấn đề mấu chốt cho sự tồn tại
và phát triển của Chi nhánh.
Trong bối cảnh nền kinh tế đang trì trệ, bất động sản trầm lắng, cạnh tranh
giữa các ngân hàng gia tăng gay gắt…việc duy trì và nâng cao mức lợi nhuận của
Chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa quả là bài toán khó. Làm thế nào để Chi
nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa tiếp tục ổn định và phát triển vững mạnh là vấn đề
tôi luôn tâm niệm. Bởi vậy tôi đã lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng
cao lợi nhuận tại NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Bách Khoa” làm nội
dung nghiên cứu trong luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về lợi nhuận của Ngân hàng
Thương mại.
- Phân tích, đánh giá thực trạng lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng tới lợi
nhuận của NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Bách Khoa. Từ đó tìm ra giải pháp
để nâng cao lợi nhuận tại Chi nhánh.
5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu lý luận chung về lợi nhuận của
Ngân hàng Thương mại và lợi nhuận của NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh
Bách Khoa.
- Phạm vi nghiên cứu: Lợi nhuận của NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh

Bách Khoa giai đoạn từ năm 2008 – 2011.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử và sử dụng các phương pháp chủ yếu sau: Phương pháp so sánh,
phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp…
5. Ý nghĩa khoa học thực tiễn của đề tài
Trên cơ sở phân tích tình hình lợi nhuận thực tế tại chi nhánh NHNo&PTNT
Bách Khoa, đề tài chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng tốt, xấu đến lợi nhuận ngân hàng và
từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận tại Chi nhánh NHNo&PTNT
Bách Khoa nói riêng và cho toàn hàng nói chung.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn bao gồm 3 phần:
Chương 1: Lý luận chung về Ngân hàng Thương mại và lợi nhuận của ngân
hàng Thương mại
Chương 2: Thực trạng lợi nhuận của NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh
Bách Khoa
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao lợi nhuận tại NHNo&PTNT Việt
Nam – Chi nhánh Bách Khoa

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ
6
LỢI NHUẬN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Tổng quan về hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại
1.1.1.Khái niệm và đặc trưng của Ngân hàng Thương mại
Hệ thống ngân hàng được coi như là huyết mạch của nền kinh tế. Theo quan
sát của giới sử học thì ngân hàng đầu tiên xuất hiện cách đây 2000 năm. Đến nay,
hệ thống ngân hàng đã phát triển và bao phủ toàn thế giới và là một trong những tổ
chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế toàn cầu. Vậy Ngân hàng là gì và đặc
trưng của nó ra sao?
Theo Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội khố X nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam thông qua vào ngày 12 tháng 12 năm 1997 thì: “Ngân hàng
Thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan”. Luật này cũng định nghĩa: Tổ chức
tín dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và
các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân
hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng
các dịch vụ thanh toán.
Theo Pháp lệnh ngân hàng ngày 23 tháng 5 năm 1990 của Hội đồng Nhà
nước Việt Nam xác định: Ngân hàng Thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà
hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền ký gửi từ khách hàng với trách
nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và
làm phương tiện thanh toán.
Hiện nay, trên thế giới tồn tại rất nhiều quan niệm về Ngân hàng thương
mại, chẳng hạn như:
Ở Mỹ: Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh chuyên cung cấp các
dịch vụ tài chính và hoạt động trong nghành dịch vụ tài chính
Ở Pháp: Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở thường xuyên
nhận tiền của công chúng dưới hình thức kí thác hay hình thức khác các số tiền mà
họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
7
Theo Peter S.Rose, tác giả cuốn Quản trị Ngân hàng Thương mại: Ngân hàng
thương mại là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính
đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều
chức năng tài chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Mỗi quốc gia có một cách định nghĩa riêng về Ngân hàng thương mại nhưng
tựu chung lại Ngân hàng thương mại là một trong những định chế tài chính mà đặc
trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền
gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, Ngân hàng Thương mại
còn cung cấp nhiều dịch vụ khác thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của
xã hội.

1.1.2.Chức năng và vai trò của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại có vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế, đặc
biệt trong nền kinh tế thị trường khi mà nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngân hàng
ngày càng lớn. Các chức năng cơ bản của Ngân hàng thương mại gồm:
1.1.2.1. Chức năng trung gian tín dụng
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của
ngân hàng thương mại. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng
thương mại đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn.
Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa
đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất
nhận gửi và lãi suất cho vay, và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia:
người gửi tiền và người cho vay.
Chức năng trung gian này trở nên phong phú hơn với việc phát hành thêm cổ
phiếu, trái phiếu…Ngân hàng thương mại có thể làm trung gian giữa công ty và các
nhà đầu tư; chuyển giao mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán; đảm nhận việc
mua trái phiếu công ty…
1.1.2.2.Chức năng trung gian thanh toán.
Với chức năng này, Ngân hàng thương mại đóng vai trị là thủ quỹ cho các
doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như:
8
trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc
nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản tiền
khác theo lệnh của họ. Các ngân hàng thương mại cung cấp cho khách hàng nhiều
phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ
thanh toán, thẻ tín dụng…Tuỳ theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình
phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ
tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần
hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh
toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, đảm
bào an toàn thanh toán. Chức năng này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng

hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển
kinh tế.
1.1.2.3.Chức năng tạo tiền
Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của ngân hàng
thương mại. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như một yêu cầu chính cho sự tồn
tại và của mình, các ngân hàng thương mại với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc
thù của mình đã vô hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. Chức
năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của ngân hàng thương
mại là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung
gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay
ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ trong khi số
dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận
của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ…Với
chức năng này, hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng tổng phương tiện thanh
toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội.
1.1.3.Một số hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
1.1.3.1. Hoạt động huy động vốn
Đóng vai trị là một trung gian tín dụng quan trọng trong nền kinh tế, để cho
người thiếu vốn vay thì ngồi phần vốn tự có của mình ngân hàng thương mại phải
9
huy động một lượng lớn nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức, các cá nhân Huy động
vốn là hoạt động then chốt trong việc hình thành tổng nguồn vốn của ngân hàng. Nó
chính là hoạt động đầu vào cơ bản quyết định hạn mức dư nợ (đầu ra) của ngân hàng.
Ngân hàng thương mại thường sử dụng các hình thức huy động vốn như sau:
- Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình
thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động
vốn của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước
- Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của các
tổ chức Tín dụng nước ngoài

- Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước
- Sử dụng các hình thức huy động vốn khác của Ngân hàng Nhà nước
1.1.3.2. Hoạt động tín dụng
Đây là hoạt động đầu ra trọng yếu và cũng là hoạt động mang lại nguồn doanh
thu lớn nhất của các ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại được cấp tín
dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và
giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định
của Ngân hàng Nhà nước như bao thanh toán tài trợ xuất nhập khẩu, cho vay thấu
chi, và cho vay theo hạn mức tín dụng, hạn mức tín dụng dự phòng…Trong các hoạt
động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
• Hoạt động cho vay
Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại được phân loại căn cứ vào mục
đích, tính chất khoản vay:
- Căn cứ vào thời gian cho vay:
+ Cho vay ngắn hạn: là khoản cho vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng nhằm
đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống
+ Cho vay trung hạn: là khoản cho vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng
đến 60 tháng
+ Cho vay dài hạn: là khoản cho vay có thời hạn cho vay trên 60 tháng để
10
thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh và dịch vụ đời sống
- Căn cứ vào tính chất đảm bảo của khoản vay:
+ Cho vay có đảm bảo bằng tài sản: là loại cho vay mà khách hàng phải có tài
sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba làm bảo đảm
+ Cho vay tín chấp: là loại cho vay khơng có tài sản đảm bảo, khách hàng
được cho vay dựa vào sự tín nhiệm của ngân hàng
• Bảo lãnh
Ngân hàng thương mại được bảo lãnh cho vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh
thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác
bằng uy tín và khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Mức bảo

lãnh đối với một khách hàng và tổng mức bảo lãnh của một ngân hàng thương mại
không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của ngân hàng thương mại.
• Chiết khấu
Ngân hàng thương mại được chiết khấu thương phiếu và các giâý tờ có giá
ngắn hạn khác đối với tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các thương phiếu và
các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác.
• Cho thuê tài chính
Ngân hàng thương mại được hoạt động cho thuê tài chính nhưng phải thành
lập công ty cho thuê tài chính riêng.Việc thành lập, tổ chức và hoạt động của công
ty cho thuê tài chính thực hiện theo Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt
động của công ty cho thuê tài chính.
• Bao thanh toán.
Các ngân hàng thương mại thực hiện bao thanh toán như một hình thức cấp
tín dụng cho khách hàng doanh nghiệp như: bao thanh toán truy đòi (recourse
factoring), bao thanh toán miễn truy đòi (non - recourse factoring), bao thanh toán
chiết khấu, bao thanh toán khi đáo hạn trong phạm vi buôn bán nội địa lẫn quốc tế.
• Tài trợ nhập khẩu
Hiện nay có khá nhiều NHTM cung cấp tài trợ xuất nhập khẩu bao trọn gói
để hỗ trợ doanh nghiệp. Nghiệp vụ tài trợ nhập khẩu nhằm hỗ trợ về tài chính cùng
11
các phương tiện và giấy tờ liên quan để doanh nghiệp nhập khẩu có thể thực hiện
nghĩa vụ của mình trong hợp đồng mua bán hàng hóa, bao gồm:
- Mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu.
- Cho vay ứng trước một phần để thanh toán cho người bán hay ứng trước
tiền thuế nhập khẩu.
- Bảo lãnh và tái bảo lãnh việc thanh toán hối phiếu khi đến hạn.
- Chấp nhận hối phiếu
- Cho thuê kho bãi để chứa và bảo quản an toàn hàng hóa nhập khẩu với giá
cho thuê phải chăng (nhờ lợi thế về quy mô về số lượng khách hàng của ngân hàng)
tại các địa điểm hay các địa phương khác nhau.

- Giúp khai báo thuế (Ví dụ: lập tờ khai và áp mã vạch thuế nhanh chóng
chính xác, nhận lại tiền hoàn thuế nếu nộp dư do cơ quan thuế tạm tính thuế phải
nộp…).
- Cho vay để thanh toán tiền hàng nhập khẩu cho nhà xuất khẩu nếu đến hạn
mà nhập khẩu chưa có tiền.
- Hỗ trợ về mặt chuyên môn, kỹ thuật từ giúp soạn thảo hợp đồng thương
mại, mua bảo hiểm cho suốt quá trình vận chuyển và chuyển giao hàng hóa, theo
dõi và kiểm tra hóa đơn chứng từ hàng hóa cả về số lượng, qui cách và chất lượng.
- Các hỗ trợ khác do sự bất cập về tập quán, luật pháp…
• Tài trợ xuất khẩu
Các hình thức tài trợ xuất khẩu của Ngân hàng thương mại còn phong phú
hơn do các doanh nghiệp xuất khẩu thường nhận được sự tài trợ từ các NHTM về
các giao dịch kinh doanh cả trước và sau các thương vụ xuất khẩu, bao gồm:
- Cho vay thu mua hàng xuất khẩu, mua nguyên vật liệu để sản xuất, cho vay
đầu tư nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm dịch vụ, cho vay bảo trì đối với dự
án chiến lược về máy móc thiết bị, nhà xưởng ở nước ngoài.
- Cho vay nộp thuế xuất khẩu.
- Giúp khai báo thuế (ví dụ lập tờ khai và áp mã vạch thuế chính xác, nhanh
chóng, nhận lại tiền hoàn thuế nếu nộp dư do cơ quan thuế tạm tính thuế phải nộp,
12
khấu trừ lại thuế GTGT,…)
- Hỗ trợ về mặt chuyên môn, kỹ thuật từ giúp soạn thảo hợp đồng thương
mại, mua bảo hiểm cho suốt quá trình vận chuyển và chuyển giao hàng hoá, theo
dõi và kiểm tra hoá đơn chứng từ hàng hoá cả về số lượng, qui cách và chất lượng.
- Các hỗ trợ khác do sự bất cập về tập quán, luật pháp…
- Cho thuê kho bãi để chứa và đựng giữ hàng hoá xuất khẩu với giá phải
chăng (do lợi thế về qui mô và số lượng).
- Cho vay hỗ trợ về dịch vụ vận chuyển chuyển giao hàng hoá.
- Chiết khấu hối phiếu cho nhà xuất khẩu được nhận tiền sớm.
- Chiết khấu chứng từ thanh toán theo hình thức tín dụng chứng từ.

- Giúp quản lý nợ, quản lý sổ cái bán hàng, thu nợ các khoản phải thu, bảo đảm
rủi ro không thanh toán của bên mua hàng, xếp hạng hạn mức tín dụng và thu hộ.
- Cho vay trên cơ sở bộ chứng từ thanh toán theo phương thức nhờ thu (ứng
trước tiền hàng xuất khẩu).
- Thuận nhận ngân hàng (Ngân hàng chấp nhận thanh toán bằng cách ký
chấp nhận hối phiếu do doanh nghiệp ký phát).
• Cho vay thấu chi
Nhiều ngân hàng thương mại, đặc biệt là các chi nhánh ngân hàng thương
mại nước ngoài đang mở rộng nghiệp vụ thấu chi đến các khách hàng có tài khoản
mở tại ngân hàng của họ. Khi sử dụng dịch vụ này, mỗi khách hàng được cấp một
hạn mức thấu chi khi khách hàng tạm thời thiếu hụt trong thanh toán. Khách hàng
không cần phải thế chấp hay tín chấp.
• Cho vay theo hạn mức tín dụng
Khách hàng nộp một bộ hồ sơ vay vốn duy nhất cho một hay nhiều món vay
vào đầu quý, Ngân hàng thương mại cấp một hạn mức tín dụng là mức dư nợ vay
tối đa được duy trì trong thời gian nhất định mà khách hàng và ngân hàng đã thoả
thuận trong hợp đồng tín dụng.
• Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng.
Ngân hàng thương mại cho khách hàng vay vốn trong hạn mức tín dụng nhất
13
định ngoài hạn mức tín dụng đã được đăng ký ban đầu giữa ngân hàng và khách
hàng, áp dụng hạn mức tín dụng dự phòng khi khách hàng không có đủ vốn vì mức
vốn đầu tư cho dự án tăng thêm, nhu cầu tiêu dùng, mua sắm tăng thêm…
1.1.3.3. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Để thực hiện được các dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông qua
ngân hàng, ngân hàng thương mại được mở tài khoản cho khách hàng trong và
ngoài nước. Để thực hiện thanh toán giữa các ngân hàng với nhau thông qua ngân
hàng nhà nước, ngân hàng thương mại phải mở tài khoản tại ngân hàng nhà nước
nơi ngân hàng đặt trụ sở và duy trì tại đó số dư tiền gửi dự trữ bắt buộc theo qui
định. Ngoài ra chi nhánh của ngân hàng thương mại được mở tài khoản tại Ngân

hàng Nhà nước tỉnh, Thành phố nơi đặt trụ sở của Chi nhánh. Hoạt động dịch vụ
thanh toán và ngân quỹ của ngân hàng thương mại bao gồm các hoạt động sau:
- Cung cấp các phương tiện thanh toán.
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng
- Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của NH nhà nước.
- Thực hiện thanh toán quốc tế khi được ngân hàng nhà nước cho phép.
- Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
- Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên
ngân hàng trong nước.
- Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được NH nhà nước cho phép.
1.1.3.4. Các hoạt động khác
Ngoài các hoạt động truyền thống bao gồm huy động tiền gửi, cấp tín dụng và
cung cấp dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, ngân hàng thương mại còn có thể thực
hiện một số hoạt động khác, bao gồm:
• Góp vốn và mua cổ phần
Ngân hàng thương mại được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua
cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác trong nước theo qui
định của pháp luật. Ngoài ra Ngân hàng thương mại còn được góp vốn, mua cổ
14
phần và liên doanh với ngân hàng nước ngoài để thành lập ngân hàng liên doanh.
• Tham gia thị trường tiền tệ
Ngân hàng thương mại được tham gia thị trường tiền tệ theo qui định của
ngân hàng nhà nước thông qua các hình thức mua bán các công cụ của thị trường
tiền tệ.
• Kinh doanh ngoại hối
Ngân hàng thương mại được phép trực tiếp kinh doanh ngoại hối hoặc thành
lập công ty trực thuộc để kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước
và thị trường quốc tế.
• Uỷ thác và nhận uỷ thác

Ngân hàng thương mại được uỷ thác và nhận uỷ thác làm đại lý trong các
lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đàu tư
của tổ chức, cá nhân trong và ngồi nước theo hợp đồng uỷ thác, đại lý.
• Cung ứng dịch vụ bảo hiểm
Ngân hàng thương mại được cung ứng dịch vụ bảo hiểm, được thành lập công
ty trực thuộc hoặc liên doanh để kinh doanh bảo hiểm theo qui định của pháp luật.
• Tư vấn tài chính
Ngân hàng thương mại được cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ
cho khách hàng dưới hình thức tư vấn trực tiếp hoặc thành lập công ty tư vấn trực
thuộc ngân hàng.
• Bảo quản vật quí giá
NH thương mại được thực hiện các dịch vụ bảo quản vật quí, giấy tờ có giá, cho
thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác có liên quan theo qui định của pháp luật.
1.2 . Lý luận về lợi nhuận của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm về lợi nhuận Ngân hàng thương mại
Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trong cơ chế thị trường, điều đầu tiên
mà họ quan tâm đến là lợi nhuận. Đây là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh
hiệu quả của quá trình kinh doanh, là yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp chỉ tồn tại và phát triển khi nó tạo ra lợi nhuận, nếu doanh nghiệp hoạt động
15
không có hiệu quả, thu không đủ bù đắp chi phí đã bỏ ra thì doanh nghiệp sẽ bị đào
thải, đi đến phá sản. Đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trường có sự cạnh tranh
diễn ra ngày càng gay gắt và khốc liệt vì vậy lợi nhuận là yếu tố cực kỳ quan trọng
và quyết định đến sự tồn tại của doanh nghiệp.
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, hoạt động tài chính, hoạt động khác đưa lại, là chỉ tiêu chất lượng để đánh
giá hiệu quả kinh tế các hoạt động của doanh nghiệp.
Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí
mà doanh nghiệp bỏ ra đạt được doanh thu đó từ các hoạt động của doanh nghiệp
đưa lại. Lợi nhuận được xác định như sau:

Lợi nhuận = Tổng Doanh thu – Tổng Chi phí
Lợi nhuận Ngân hàng theo C. Mác được hình thành như sau: Ngân hàng có
hai nghiệp vụ chủ yếu: nhận gửi và cho vay. Trong nghiệp vụ nhận gửi, ngân hàng
trả lợi tức cho người nhận tiền; còn trong nghiệp vụ cho vay, ngân hàng phải thu lợi
tức của người đi vay. Về nguyên tắc, lợi tức cho vay phải cao hơn lợi tức nhận gửi.
Chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi sau khi trừ đi những chi
phí về nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng cộng với các thu nhập khác về kinh doanh
tư bản tiền tệ hình thành nên lợi nhuận ngân hàng.
Nói cách khác lợi nhuận của Ngân hàng thương mại là khoản chênh lệch giữa
Tổng thu từ hoạt động kinh doanh và Tổng chi từ hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
1.2.2. Kết cấu lợi nhuận
1.2.2.1. Theo hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng rất đa dạng và phong phú, do vậy lợi
nhuận ngân hàng thu được cũng đa dạng theo các hoạt động kinh doanh của ngân
hàng. Lợi nhuận ngân hàng thường được kết cấu như sau:
• Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng là số chênh lệch giữa thu nhập từ hoạt động
tín dụng và chi phí từ hoạt động tín dụng. Đây là bộ phận chiếm tỷ trọng lớn và chủ
yếu trong tổng lợi nhuận của ngân hàng.
16
Thu nhập từ hoạt động tín dụng bao gồm các khoản thu lãi, thu phí cho vay và
các khoản thu liên quan khác.
Trong đó: Thu lãi cho vay = số dư các khoản cho vay * lãi suất cho vay bình quân.
Chi phí cho hoạt động tín dụng bao gồm: Trả lãi tiền gửi, trả lãi tiền vay và các
chi phí liên quan khác. Cụ thể:
Chi trả lãi tiền gửi = Số dư tiền gửi * lãi suất huy động bình quân
Chi trả lãi tiền vay = Các khoản vay * lãi suất đi vay bình quân
• Lợi nhuận từ hoạt động thanh toán, chuyển tiền
Hiện nay, ở hầu hết các NHTM, đặc biệt là các ngân hàng có quy mô vừa và
nhỏ thì bộ phận lợi nhuận này thường chiếm tỷ trọng không cao trong tổng lợi

nhuận. Lợi nhuận này cũng chính là phần chênh lệch giữa số phí thu được (= doanh
số * phí suất) từ việc cung cấp các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền với những chi
phí bỏ ra để thu được những khoản phí trên.
• Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh ngoại hối
Bên cạnh việc cung cấp tín dụng và thanh toán cho các doanh nghiệp thì ngân
hàng còn có một bộ phận rất quan trọng góp phần đa dạng hoá nguồn thu tạo ra lợi
nhuận và sự phát triển của ngân hàng đó là bộ phận kinh doanh ngoại hối. Lợi
nhuận từ hoạt động kinh doanh ngoại hối là phần chênh lệch giữa thu nhập từ hoạt
động kinh doanh ngoại hối với chi phí bỏ ra cho hoạt động này. Được tính vào cuối
tháng theo công thức: Lợi nhuận = doanh số số bán – doanh số mua ngoại tệ.
Hoạt động kinh doanh ngoại hối của NHTM bao gồm: kinh doanh ngoại tệ,
kinh doanh vàng và các công cụ tài chính phái sinh tiền tệ.
• Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh khác
Ngoài những hoạt động kinh doanh đã nêu, NHTM còn thu lợi từ nhiều hoạt
động khác như: hoạt động kinh doanh chứng khoán, đầu tư, mua bán nợ, góp vốn,
… và các thu nhập bất thường khác.
1.2.2.2. Theo các bộ phận hợp thành lợi nhuận
Xét theo các yếu tố các bộ phận hợp thành lợi nhuận thì ta có:
Lợi nhuận = Thu nhập ròng từ lãi + Thu nhập ròng ngoài lãi – Chi phí dự
17
phòng rủi ro tín dụng - Thuế TNDN
Lợi nhuận trước thuế = Thu nhập ròng từ lãi + Thu nhập ròng ngoài lãi –
Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng
Thu nhập ròng từ lãi: Là chênh lệch giữa thu từ lãi với chi phí lãi. Đây
thường là một nhân tố quyết định và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận của
ngân hàng.
Trong đó:
- Thu từ lãi: bao gồm thu lãi từ các khoản cho vay, thu lãi từ đầu tư chứng khoán,
thu lãi từ tiền gửi hưởng lãi tại ngân hàng khác và các khoản thu nhập từ lãi khác.
Thu lãi = Dư nợ cho vay * lãi suất cho vay bình quân + chứng khoán đầu tư *

tỷ lệ sinh lời trung bình của các khoản chứng khoán đầu tư + tiền gửi tại ngân
hàng khác * lãi suất gửi bình quân + thu lãi khác
- Chi phí lãi: bao gồm trả lãi cho người gửi tiền, trả lãi cho những khoản vay và
chi phí trả lãi khác
Chi phí lãi = Dư có tiền gửi * lãi suất huy động bình quân + các khoản vay *
lãi suất vay bình quân + chi trả lãi khác
• Thu nhập ròng ngoài lãi = Thu ngoài lãi – Chi ngoài lãi
Trong đó:
- Thu ngoài lãi: bao gồm các khoản thu phí, thu do chênh lệch tỉ giá và các
khoản thu khác. Khoản thu phí là nguồn thu quan trọng trong tương lai của các ngân
hàng. Nó bao gồm thu phí từ hoạt động cung cấp các dịch vụ như: thanh toán,
chuyển tiền, bảo lãnh,…và được tính như sau:
Thu phí = doanh số * phí suất
- Chi ngoài lãi: bao gồm các khoản chi lương và các chi phí nhân sự, chi về tài
sản, công cụ, chi cho hoạt động quản lý và các khoản chi phí khác. Trong đó chi
lương thường chiếm tỉ trọng lớn và có xu hướng tăng nhanh qua các năm.
• Chi dự phòng rủi ro tín dụng: Đây là một khoản chi phí không bằng tiền
mặt, được trích định kỳ để dự phòng cho những khoản vay có vấn đề.
Chi phí DPRRTD phải trích trong kỳ = DPRR cụ thể phải trích trong kỳ +
18
DPRR chung phải trích trong kỳ - Số dư quỹ DPRR đã trích kỳ trước
Tóm lại, qua phân tích kết cấu lợi nhuận giúp NHTM xác định được yếu tố, bộ
phận nào chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng lợi nhuận của Ngân hàng, từ đó xây
dựng các biện pháp nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Tại các NHTM hiện nay, lợi nhuận
đạt được chủ yếu vẫn từ hoạt động truyền thống là cho vay. Tỷ lệ lợi nhuận từ hoạt
động này chiếm khoảng 75% đến 90% trong tổng lợi nhuận của ngân hàng và trở
thành nguồn thu chính của Ngân hàng.
1.2.3. Các tỷ số đo lường lợi nhuận của Ngân hàng Thương mại
Nhóm tỷ số đầu tiên cần xem xét khi đánh giá hoạt động ngân hàng thương
mại là nhóm các tỷ số đo lường khả năng sinh lợi hay nhóm tỷ số lợi nhuận. Nhóm

này bao gồm các tỷ số sau:
1.2.3.1. Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE)
Công thức tính tỷ số này như sau:
ROE
=
Lợi nhuận sau thuế
Tổng cộng vốn chủ sở hữu
Trong công thức trên, số liệu lợi nhuận sau thuế được thu nhập từ báo cáo
kết quả kinh doanh, trong khi số liệu tổng cộng vốn chủ sở hữu được thu nhập từ
bảng cân đối kế toán. Tổng cộng vốn chủ sở hữu bao gồm tổng cộng các khoản vốn
cổ phần thường, cổ phần ưu đãi, lợi nhuận giữ lại và các quỹ dự trữ của ngân hàng.
Có một vài ý kiến khác biệt như sau:
- Một số nhà phân tích không kể vốn cổ phần ưu đãi khi xác định tổng cộng
vốn chủ sở hữu của ngân hàng.
- Một số nhà phân tích sử dụng bình quân vốn chủ sở hữu ở mẫu số của công
thức bằng cách lấy tổng cộng vốn chủ sở hữu đầu ký cộng tổng vốn chủ sở hữu cuối
kỳ rồi chia đôi.
Tuy nhiên, sự khác biệt này nhằm mục tiêu giảm bớt tác động của những sai
lệch chứ không làm thay đổi bản chất và ý nghĩa của tỷ số ROE.
Tỷ số ROE được xem là xuất phát điểm cho việc đánh giá tình hình tài chính
của một NHTM vì những lý do sau đây:
- Nếu ROE tương đối thấp so với những ngân hàng khác sẽ làm giảm đi khả
năng thu hút vốn mới cần thiết cho sự mở rộng và duy trì vị thế cạnh tranh của ngân
19
hàng trên thị trường.
- ROE thấp có thể hạn chế tăng trưởng của ngân hàng vì khi ấy ngân hàng
không có cơ hội tích lũy để tăng vốn chủ sở hữu, trong khi hầu hết các quy định
pháp lý đều ràng buộc việc gia tăng tài sản của ngân hàng gắn chặt với việc tăng
vốn chủ sở hữu.
- ROE có thể phân chia ra thành nhiều bộ phận có thể giúp dễ dàng xác định

xu hướng hoạt động của ngân hàng.
1.2.3.2. Lợi nhuận trên tài sản (ROA)
Tỷ số lợi nhuận trên tài sản (ROA) đo lường khả năng ban quản lý sử dụng
các nguồn lực nói chung và nguồn lực tài chính của ngân hàng để tạo ra lợi nhuận.
ROA thường được sử dụng để đánh giá hiệu quả quản lý của ngân hàng. Công thức
tính tỷ số ROA như sau:
ROA =
Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản
Trong công thức này, số liệu lợi nhuận hoạt động được lấy từ báo cáo kết quả
kinh doanh, cụ thể là mục lợi nhuận hay thu nhập sau thuế, trong khi số liệu tổng tài
sản lấy từ bảng cân đối kế toán. Tổng tài sản có thể lấy số liệu bình quân bằng tổng
tài sản đầu kỳ cộng tổng tài sản cuối kỳ chia đôi, hoặc số liệu tổng tài sản ở cuối kỳ,
tùy theo mục đích phân tích và cách giải thích ý nghĩa của ROA
Bên cạnh đó cũng có đơn vị sử dụng tỷ lệ lợi nhuận trước thuế trên tổng tài
sản để đo lường lợi nhuận, công thức tính ROA trước thuế như sau:
ROA
trước
=
Lợi nhuận trước thuế
Tổng tài sản
20
1.2.3.3. Thu nhập lãi ròng
Thu nhập lãi ròng là chênh lệch giữa toàn bộ doanh thu lãi và chi phí trả lãi.
Chỉ tiêu này được báo cáo trên báo cáo kết quả kinh doanh, nó bằng tổng doanh thu
lãi trừ đi tổng chi phí trả lãi
Tỷ lệ lãi ròng là tỷ lệ phần trăm giữa thu nhập lãi ròng và giá trị tài sản có
sinh lãi. Công thức tính tỷ lệ lãi ròng như sau:
Tỷ lệ
lãi ròng

=
Thu nhập lãi ròng
Bình quân tài sản có sinh lãi
Trong công thức tính tỷ lệ lãi ròng, do số liệu ở tử số lấy từ báo cáo kết quả
kinh doanh là số liệu thời kỳ, trong khi số liệu ở mẫu số lấy từ bảng cân đối kế toán
là số liệu thời điểm nên nhiều nhà phân tích đề nghị lấy bình quân.
1.2.3.4. Chênh lệch lãi suất
Là chỉ tiêu hiện đại hơn được sử dụng trong những năm gần đây để đo lường
chênh lệch giữa khả năng thu lãi và khả năng chi trả lãi.Công thức tính chênh lệch
lãi suất như sau:
Chênh
lệch lãi suất
=
Doanh thu lãi
-
Chi phí trả lãi
BQ tài sản có sinh lãi BQ NV huy động phải trả lãi
Chênh lệch lãi suất đo lường hiệu quả đối với hoạt động trung gian của ngân
hàng trong quá trình huy động vốn và cho vay, đồng thời nó cũng đo lường độ cạnh
tranh trong thị trường của ngân hàng. Sự cạnh tranh gay gắt có xu hướng thu hẹp
mức chênh lệch lãi suất. Nếu các nhân tố khác không đổi, chênh lệch lãi suất của
ngân hàng sẽ giảm khi sự cạnh tranh tăng lên, buộc các nhà quản trị ngân hàng phải
cố tìm ra những biện pháp (như thu phí từ các dịch vụ mới) bù đắp mức chênh lệch
lãi suất bị mất.
1.2.3.5. Tỷ lệ thu nhập ròng ngoài lãi
Tỷ lệ thu nhập ròng
ngoài lãi
=
Thu ngoài lãi – Chi phí ngoài lãi
Tổng tài sản sinh lời

Tỷ lệ thu nhập ròng ngoài lãi đo lường mức chênh lệch giữa nguồn thu ngoài
lãi, chủ yếu là nguồn thu phí từ các dịch vụ với các chi phí ngoài lãi mà ngân hàng
chịu (như tiền lương, chi phí sửa chữa, bảo hành,…). Đối với hầu hết các ngân
hàng, chênh lệch ngoài lãi thường âm vì chi phí ngoài lãi nhìn chung vượt quá thu
21
từ phí mặc dù tỷ lệ thu từ phí trong tổng các nguồn thu của ngân hàng đã tăng rất
nhanh trong những năm gần đây.
1.2.4. Vai trò của lợi nhuận ngân hàng thương mại
1.2.4.1. Vai trò của lợi nhuận đối với ngân hàng thương mại
Lợi nhuận là mục tiêu hướng tới của tất cả các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh. Nó là yếu tố quyết định sự sống còn của các doanh nghiệp, đặc biệt trong
nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay. Ngân hàng thương mại
cũng không nằm ngoài qui luật đó.
- Lợi nhuận tác động đến tất cả mọi hoạt động của ngân hàng thương mại.
Nó ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính của ngân hàng, là điều kiện quan
trọng đảm bảo cho khả năng thanh toán của ngân hàng. Nếu ngân hàng thương mại
làm ăn có hiệu quả, có lợi nhuận cao thì khả năng thanh toán tốt, đảm bảo sự vững
mạnh trên thị trường tài chính.
- Lợi nhuận là cơ sở để mở rộng qui mô ngân hàng thương mại. Hoạt động
kinh doanh có lãi sẽ tạo cho ngân hàng một khoản lợi nhuận sau thuế chưa phân
phối, là cơ sở để gia tăng vốn điều lệ, bổ sung vào nguồn vốn tái đầu tư, áp dụng
những tiến bộ công nghệ thông tin thông qua việc đổi mới trang thiết bị…duy trì và
nâng cao vị thế của Ngân hàng thương mại. Lợi nhuận cao giúp ngân hàng gia tăng
năng lực cạnh tranh trên thị trường tài chính, tạo niềm tin cho khách hàng và thu hút
được nhiều khách hàng tốt, đồng thời là cơ sở để ngân hàng nâng cao thương hiệu.
- Chỉ tiêu lợi nhuận cũng là căn cứ để đánh giá năng lực, về nhân sự, năng
lực về tài chính, năng lực quản lý và điều hành doanh của ngân hàng thương mại.
- Lợi nhuận cao có điều kiện nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người lao
động, tạo hưng phấn kích thích trí sáng tạo, phát huy cao nhất khả năng của nhân
viên trong ngân hàng thương mại, là cơ sở cho những bước phát triển tiếp theo.

Ngân hàng có mức thù lao thoả đáng, ổn định và chế độ đãi ngộ tốt luôn thu hút
được nhiều nhân viên tài năng.
1.2.4.2. Vai trò của lợi nhuận ngân hàng thương mại đối với xã hội.
Kết quả kinh doanh của ngân hàng thương mại phản ánh hiệu quả hoạt động
22
của nền kinh tế. Khi nền kinh tế của đất nước phát triển sẽ tạo ra môi trường lý
tưởng cho ngân hàng thương mại có điều kiện phát triển hơn nữa.
Thông qua lợi nhuận ngân hàng thương mại, Nhà nước tiến hành thu thuế thu
nhập doanh nghiệp tăng tích luỹ cho xã hội, là công cụ điều chỉnh nền kinh tế vĩ
mô. Thuế thu nhập doanh nghiệp đánh vào phần lợi nhuận mà ngân hang thương
mại thu trong kỳ, nên khi lợi nhuận của ngân hàng càng cao thì số thuế mà Nhà
nước nhận được càng nhiều. Đó chính là nguồn tài chính để Nhà nước tiến hành tái
sản xuất mở rộng, phát triển kinh tế xã hội, củng cố an ninh quốc phòng, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của Ngân hàng thương mại.
1.2.5.1. Các nhân tố bên ngoài ngân hàng
• Chính sách kinh tế và môi trường pháp lý
Ngân hàng là một trong những ngành chịu ảnh hưởng rất lớn từ các chính
sách kinh tế của nhà nước. Bất kỳ sự thay đổi nào của chính sách kinh tế cũng tác
động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại. Khi ngân hàng
trung ương thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng hoặc giảm đồng nghĩa với tài sản sinh
lời của các ngân hàng thương mại sẽ giảm hoặc tăng theo. Sự nhạy cảm của ngân
hàng với các chính sách kinh tế còn biểu hiện rất rõ qua việc thay đổi lãi suất cơ bản
của ngân hàng nhà nước. Lãi suất cơ bản tăng, giảm thì ngay lập tức nguồn tiền gửi
của khách hàng sẽ biến động theo xu hướng lãi suất, điều này gây khó khăn rất
nhiều cho việc duy trì, ổn định nguồn vốn và dễ dẫn đến nguy cơ mất thanh khoản
của ngân hàng thương mại.
Bên cạnh đó là các qui định về trích lập dự phòng rủi ro tín dụng còn rất
nhiều bất cập. Thước đo lợi nhuận, ngay cả khi có bộ tiêu chuẩn kế toán tốt, vẫn
không thể lượng hóa hết được hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Đặc biệt, nó

không thể phản ánh hết được tất cả các loại rủi ro mà ngân hàng đang gặp phải. Lợi
nhuận mà ngân hàng công bố hiện nay có phần phản ánh rủi ro tín dụng thông qua
các khoản trích lập dự phòng. Tuy nhiên, ngay chính tiêu chuẩn và điều khoản trích
lập dự phòng rủi ro tín dụng theo quy định hiện hành vẫn còn nhiều khiếm khuyết,
23
không phản ánh được thực chất các nguy cơ rủi ro tín dụng mà ngân hàng đang gặp
phải. Chẳng hạn như các khoản cho vay khi được bảo đảm bằng 100% giá trị tài sản
cũng không đồng nghĩa với việc là sẽ không có rủi ro tín dụng. Tài sản đảm bảo
được định giá vào thời điểm cấp tín dụng và để làm cơ sở quyết định mức cho vay
thay vì là thời điểm trả nợ và để làm cơ sở hoàn trả được nợ vay.
Hơn nữa, với các khoản nợ được bảo đảm 100% giá trị tài sản thì mức trích
lập dự phòng rủi ro gần như bằng không, bất kể mức độ và xác suất xảy ra rủi ro tín
dụng như thế nào. Đặc biệt, trong điều kiện thị trường có nhiều biến động thì việc
giá trị tài sản giảm sâu hoặc kém thanh khoản là hoàn toàn có thể xảy ra. Đối với
các ngân hàng Việt Nam, khi nhóm tài sản đảm bảo hiện nay chủ yếu là bất động
sản thì việc thị trường bất động sản xấu đi vừa không chỉ ảnh hưởng đến khả năng
trả nợ của khách hàng là các nhà đầu tư bất động sản mà còn là các khoản nợ được
thế chấp bởi bất động sản (bất động sản dân cư). Trong những trường hợp như vậy,
việc đánh giá lại giá trị tài sản đảm bảo cũng như việc thực hiện bút toán điều chỉnh
theo giá trị trường (marking-to-market) là rất cần thiết nhưng thực tế đã bị bỏ qua
hoặc không được tiến hành một cách thực chất và đúng bản chất của rủi ro tín dụng.
Bên cạnh đó, rủi ro tín dụng ở các ngân hàng Việt Nam còn do sự gia tăng
của hiện tượng bất cân xứng thông tin trong bối cảnh bất ổn vĩ mô mà biểu hiện là
hành vi lựa chọn ngược (adverse selection). Trái với quan điểm thông thường cho
rằng khi lãi suất cho vay cao sẽ giúp loại bỏ các dự án tồi có suất sinh lợi kém, đồng
thời chọn lọc những dự án tốt với mức sinh lợi cao.
Đáng tiếc, trong điều kiện Việt Nam, khi lãi suất cho vay quá cao thì chính
những con nợ rủi ro mới là đối tượng sẵn sàng tiếp cận vốn vay chứ không phải là
con nợ an toàn. Nghĩa là, do ngân hàng không có thông tin đáng tin cậy về người đi
vay và do đó không thể phân biệt được con nợ tốt với con nợ xấu nên khi lãi suất

quá cao đã đặt ngân hàng vào thế lựa chọn bất lợi chứ không hoàn toàn là người đi
vay mới bị bất lợi. Như vậy, nếu nhìn ở góc độ này thì việc Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) không khống chế trần lãi suất cho vay không chỉ gây bất lợi cho người đi
vay như một số phân tích mà ngay cả bản thân ngân hàng cũng sẽ gặp rủi ro do lựa
24
chọn ngược. Hiện, không có một đánh giá đáng tin cậy nào về tỷ lệ nợ xấu trong
toàn hệ thống ngân hàng nhưng có điều chắc chắn con số đang tăng lên và tăng
nhanh khi khả năng đảo nợ của doanh nghiệp đã đạt đến điểm giới hạn của nó.
Môi trường chính sách liên tục có nhiều thay đổi ở cả hai cấp độ vĩ mô và
ngành (ngân hàng). Nếu như Nghị quyết 11 được ban hành nhằm ổn định kinh tế vĩ
mô là cần thiết thì chính việc thực thi nghị quyết này ở cấp độ ngành lại tạo ra
những xáo trộn không nhỏ trong hoạt động của các ngân hàng. Sự điều hành chính
sách kiểu hành chính lại có thiên hướng bị lạm dụng quá mức, thậm chí NHNN có
những can thiệp sâu vào tổ chức và hoạt động của ngân hàng. Trong điều kiện đó,
các ngân hàng không chắc rằng những quyết định hay giao dịch của mình liệu có
hợp pháp không và có khả năng vi phạm các quy định “sắp tới” của NHNN không.
Khi môi trường chính sách thay đổi và không thể dự đoán thì các chiến lược
và kế hoạch kinh doanh của ngân hàng cũng bị phá vỡ. Do không thể biết được, với
một độ tin cậy nhất định, điều gì sẽ xảy ra nên tính chất bất ổn của môi trường pháp
lý hiện nay thể hiện là sự bất trắc (uncertainty) chứ không còn là rủi ro (risk). Trong
môi trường bất trắc không suy giảm, các ngân hàng không thể chủ động lập được
chiến lược kinh doanh phù hợp, thay vào đó là các sách lược phòng thủ và đối phó.
Khi các ngân hàng phải lo đối phó với các thách thức chính sách ngắn hạn như vậy
thì sẽ không còn đủ nguồn lực để giải quyết những rủi ro và các thách thức có tính
chất dài hạn khác.
• Sự gia tăng nhanh chóng trong danh mục sản phẩm dịch vụ
Ngày nay, các ngân hàng đang mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ tài
chính mà họ cung cấp cho khách hàng. Qúa trình mở rộng danh mục sản phẩm dịch
vụ đã tăng tốc trong những năm gần đây dưới áp lực cạnh tranh gia tăng từ các tổ
chức tài chính khác, từ sự hiểu biết và đòi hỏi cao hơn của khách hàng, và từ sự

thay đổi công nghệ.
• Sự gia tăng cạnh tranh
Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở lên quyết
liệt khi ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ .
25

×