Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tiểu luận: “Thông qua bộ máy cai trị của Pháp ở Nam Kỳ trước năm 1945 để thấy được Nam Kỳ là sứ trực trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.85 KB, 24 trang )

Chuyên đề: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Trước khi thực dân Pháp xâm lược, bộ máy chính trị triều Nguyễn đã
mang nặng tính chất quan liêu, độc đốn và sâu mọt. Đó là một nhà nước
Quân chủ chuyên chế tuyệt đối, tập trung cao độ, với một chế độ chính trị
lạc hậu, phản động. Mọi quyền hành đều tập trung trong tay nhà vua. Vua
được coi là “con trời”, “thay trời” trị dân; quyền hành nhà vua được coi là
“thần khí thiêng liêng, vơ hạn. Nhà vua trong thực tế là đại địa chủ lớn nhất
trong nước, có tồn quyền phung phí tài sản quốc gia trên xương máu của
nhân dân. Còn quan lại trong triều và ở các địa phương hầu hết là bọn hủ
bại; chính trị thì bảo thủ, cầu an; kinh tế thì tham lam và cuồng bạo. Từ vua
đến quan đều rất tự cao, tự đại, xem trật tự phong kiến là bất di bất dịch, đến
khi súng giặc nổ ầm bên tai mới bàng hoàng tỉnh giấc. Có thể nói triều đình
phong kiến lúc này đã thối nát. Nhưng sau khi thực dân pháp xâm lược nước
ta đã bị chia cắt làm ba kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ với ba chế độ cai trị
khác nhau. Bắc Kỳ và Trung Kỳ là hai sứ bảo hộ vẫn cịn giữ lại chính
quyền phong kiến về hình thức; Nam Kỳ là đất thuộc địa hồn tồn do Pháp
nắm. Để tìm hiểu quá trình thiết lập bộ máy cai trị của chúng ở cả ba Kỳ là
một vấn đề rất dài, hơn nữa thời gian không cho phép. Khi tìm hiểu bộ máy
cai trị của Pháp ở Nam Kỳ làm cho ta hiểu rõ hơn chế độ trực trị ở Nam Kỳ.
Hơn nữa làm rõ bộ máy cai trị của thực dân Pháp ở Nam Kỳ còn cho chúng
ta thấy được sự khác biệt giữa tổ chức cai trị của Pháp với hai sứ còn lại.
Với những lí do như trên em đã quyết định chọn đề tài “Thông qua bộ máy
cai trị của Pháp ở Nam Kỳ trước năm 1945 để thấy được Nam Kỳ là sứ trực
trị” làm vấn đề nghiên cứu bài tiểu luận cho mình.

1



Chuyên đề: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

Tuy nhiên, do trình độ và kiến thức của bản thân cịn nhiều hạn chế cho nên
trong q trình làm bài tiểu luận này em cịn nhiều thiếu sót, em mong được
sự ủng hộ đóng góp, bổ sung ý kiến của thầy giáo, cùng toàn thể các bạn để
bài của em được hoàn thiện hơn. Để hoàn thành bài tiểu luận này,em xin
chân thành cảm ơn thầy giáo giảng dạy em chuyên đề này đã giúp chúng em
từng bước tìm hiểu và nghiên cứu có những phương pháp và cách thức
hướng dẫn cho chúng em đi sâu và hiểu rõ chun đề hơn để có thể phục vụ
tốt cho cơng việc học tập, cũng như nghiên cứu, tìm hiểu lịch sử và đặc biệt
trong công việc giảng dạy sau này.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
 Đối tượng nghiên cứu: Bộ máy cai trị của Pháp ở Nam Kỳ trước năm
1945 để thấy được Nam Kỳ là sứ trực trị.
 Phạm vi nghiên cứu: Chỉ nghiên cứu bộ máy cai trị của Pháp ở Nam
Kỳ trước năm 1945. Bao gồm:
• Bộ máy cai trị của thực dân Pháp ở Nam Kỳ trước ngày thiết
lập chế độ tồn quyền Đơng Dương (17- 10 - 1887).
• Bộ máy cai trị của thực dân Pháp ở Nam Kỳ từ sau ngày thiết
lập chế độ tồn quyền Đơng Dương (17- 10- 1887).
3. Phương pháp nghiên cứu:
Để làm bài tiểu luận này em đã sử dụng hai phương pháp chủ yếu là
phương pháp lịch sử và phương pháp lơgic. Ngồi ra cịn sử dụng kết hợp
các phương pháp khác như: so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp khi trình
bày để làm rõ các vấn đề cơ bản của đề tài.

2


Chuyên đề: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam


NỘI DUNG
1. Bối cảnh lịch sử:
Nhiều người viết sử nước ngoài cho rằng, sở dĩ nước Pháp nổ súng đánh
Việt Nam giữa thế kỷ XIX là vì vấn đề Cơng giáo. Thực ra đó chỉ là cái cớ
trực tiếp. Chính Gốtxơlanh, một võ sĩ quan Pháp trong một cuốn sách về lịch
sử Việt Nam đã nói thẳng:“Đồng bào Pháp do ít hiểu lịch sử cho rằng,
nước Pháp phải can thiệp vào An Nam chỉ là để bảo vệ các nhà truyền giáo,
để trả thù những hành động đối nghịch, ngược đãi với đạo Giatơ. Sự thật thì
các nhà truyền giáo chỉ là lí do của những hành động của chúng ta chống
lại An Nam mà thôi… Nước An Nam đã cho chúng ta cơ hội ấy và chúng ta
đã nắm ngay cơ hội ấy và giờ đây việc đánh chiếm đã hồn thành…”.
Người Pháp khơng phải là người Phương tây có mặt ở Việt Nam. Việc
truyền giáo và bn bán từ giữa thế kỷ XVII với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài
và chúa Nguyến ở Đàng Trong chủ yếu là vai trị của các giáo đồn và
thương nhân Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan. Vai trò của nước Pháp
mới hé mở với những hoạt động không biết mệt mỏi của cha Đắc Lộ ( A.de
Rhodes ) từ năm 1624. Trong 21 năm ở Việt Nam, bên cạnh việc truyền giáo
và là một “ cha đẻ” của chữ Quốc ngữ, vị linh mục dòng tên này đã lập ra
Hội truyền giáo nước ngoài của Pari ( gọi tắt là M.E.P ) năm 1658 và góp
phần quan trọng lập ra Cơng ty Đông Ấn của Pháp năm 1664. Hai cơ quan,
một thương mại, một truyền giáo này thực sự hướng sự chú ý của thực dân
Pháp vào Đông Dương, đồng thời cũng gạt dần ảnh hưởng của các thế lực
phương Tây khỏi nước ta.
Liên minh Nguyễn Ánh – Bá Đa Lộc từ năm 1777 đã thúc đẩy thêm q
trình đó. Hiệp ước Vescxay ngày 28-11-1787 ký giữa Bá Đa Lộc, người đại
diện cho Nguyễn Ánh và Môngmôranh (Montmorin) đại diện cho vua Pháp

3



Chuyên đề: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

Lu-i XVI, tuy không thực hiện được nhưng đã cột chặt Gia Long vào anh
hưởng của nước Pháp và Hội truyền giáo nước ngồi của Pari.
Gia Long lên ngơi, vì những ân tình của nước Pháp nên đã sử dụng tới 40 cố
vấn, chủ yếu là các giáo sĩ thuộc Hội truyền giáo nước ngoài của Pari.
Năm 1822, bị Anh gạt khỏi Ấn Độ, thực dân Pháp càng tỏ ra quan tâm hơn
đến Việt Nam. Tiêu biểu là ý kiến của Thượng thư Gidô năm 1843 cho rằng:
“Nước Pháp phải có hai cái đảm bảo ở Viễn Đơng là vùng biển Trung Hoa
và Việt Nam.
Napôlêông III lên ngôi, là người sùng đạo và kiên quyết đi theo chính sách
thuộc địa của Lu-i Philip, đặc biệt khi nổ ra chiến tranh giữa Anh với nhà
Thanh thì quyết tâm đánh chiếm Việt Nam càng tăng thêm. Tuy nhiên kế
hoạch này ra đời khi có những tác động qua những ý kiến đệ trình của các sĩ
quan đã có mặt trong hạm đội Pháp ở biển Trung Hoa như Xêxin, Phurisông,
Giôrét, và các nhân vật ngoại giao như Đờ Cuốcxy, Buốcbulơng,…
Tích cực hơn cả lại chính là giáo sĩ Húc (Huc), các giám mục Rơto (Retord),
Pêlơranh (Pellerin).Tháng 2-1857 giáo sĩ Húc đã gửi thư lên Hồng đế
Napơlêơng III về vấn đề Nam Kỳ, có đoạn: “Những người Anh đang dịm
ngó Đà Nẵng, họ sẽ di trước chúng ta nếu họ biết đề án đánh chiếm của
ta…” [5, tr.208].
Chính vì ý kiến này đã thúc giục Napôlêông III cho thành lập Ủy ban nghiên
cứu vấn đề Nam Kỳ.
Có thể nói, q trình chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân
Pháp là lâu dài với mục đích nhất quán của việc bành trướng, xâm chiếm thị
trường, hồn tồn khơng phải vì mục đích tơn giáo hoặc “sứ mệnh khai hóa
văn minh” nào cả.

4



Chuyên đề: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

Ngày 1/9/1858, thực dân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà của Đà
Nẵng, mở đầu cho thời kì xâm lược và thống trị của thực dân Pháp ở Việt
Nam.
Sau khi thất bại trong việc tấn công vào Đà Nẵng, thực dân Pháp đã
chuyển hướng tấn công vào Gia Định. Trước thái độ nhu nhược mù quáng
của tập đoàn vua quan nhà Nguyễn và sự sai lầm nghiêm trọng trong chiến
lược đánh địch, Gia Định thất thủ, kéo theo cả 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ
cũng thất thủ theo, thực dân Pháp đã từng bước thiết lập chủ quyền của
chúng ở 3 tỉnh miền Đơng Nam Kì. Sau đó chúng đánh chiếm nốt 3 tỉnh
miền Tây Nam Kì và chuẩn bị tấn công ra miền Bắc nước ta lần thứ nhất
buộc nhà Nguyễn phải kí hiệp ước ngày 15/ 3/ 1874 mà một trong những
nội dung cơ bản là xác lập chủ quyền của Pháp trên toàn bộ lãnh thổ lục tỉnh,
tiếp sau đó chúng mở đợt tấn cơng Bắc Kì lần thứ 2(1882- 1882), buộc triều
đình nhà Nguyễn phải kí bản Hiệp ước ngày 25/ 8/ 1883.
Ngày 25-8-1883 triều đình Huế đã ký với Pháp bản hiệp ước
Hácmăng. Với bản hiệp ước này phong kiến nhà Nguyễn đã đi sâu hơn một
bước trên con đường đầu hàng Pháp. Về căn bản, từ nay Việt Nam đã mất
quyền tự chủ trên phạm vi tồn quốc, triều đình Huế đã chính thức thừa nhận
sự bảo hộ của nước Pháp, mọi công việc chính trị, kinh tế, ngoại giao của
việt Nam đều do Pháp nắm. Tại Huế sẽ đặt chức Khâm sứ để thay mặt Chính
phủ Pháp, viên này có quyền gặp nhà vua bất kỳ lúc nào nếu xét ra cần thiết
( khoản II ); tại Hà Nội, Hải Phòng và một số nơi khác có đặt chức cơng sứ,
có qn đội bảo vệ và có quyền kiểm sốt việc tuần phịng, quản lý việc thuế
vụ, giám sát mọi sự thu chi, phụ trách việc thuế quan (các khoản
12,13,17,18,19). Khu vực do triều đình cai trị như cũ chỉ cịn lại từ Khánh
Hịa ra tới Đèo Ngang, tỉnh Bình Thuận sát nhập vào Nam Kỳ, ba tỉnh

Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh sát nhập vào Bắc Kỳ. Nhưng ngay trong khu
5


Chuyên đề: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

vực này, các việc thương chính, cơng chính cũng đều do Pháp nắm (các
khoản 2, 6). Quân Pháp đóng ngay tại Thuận An và Huế (khoản 3). Mọi việc
giao thiệp của Việt Nam với nước ngoài – kể cả Trung Quốc - cũng do Pháp
nắm (khoản 1). Về quân sự, ngoài việc phải nhận huấn luyện viên và sĩ quan
chỉ huy Pháp (khoản 23), triều đình phải triệt hồi số quân lính đã đưa ra Bắc
Kỳ trước đây (khoản 4). Pháp đóng những đồn binh dọc theo sơng Hồng và
những nơi xét thấy cần thiết (khoản 21), Pháp toàn quyền xử trí đội quân Cờ
đen (khoản 22). [4, Tr.55 - 56].
Ký hiệp ước Hắc măng, triều đình Huế đã phản bội lại nhân dân cả nước.
Ngày 6- 6-1884, chính phủ Pháp cử Patơnốt cùng triều đình Huế ký
bản điều ước mới. Nội dung điều ước gồm 19 khoản căn bản dựa trên điều
ước Hácmăng, nhưng được sửa chưa lại một số điều nhằm mục đích xoa dịu
sự phản ứng có thể có của triều đình nhà Thanh, và để tranh thủ mua chuộc,
lung lạc thêm một bước nữa giai cấp phong kiến Việt Nam đầu hàng.
Khoản 1: nước Việt Nam thừa nhận sự bảo hộ của nước pháp là nước
sẽ thay mặt Việt Nam trong mọi việc giao thiệp với ngoại quốc và bảo hộ
người Việt Nam ở ngoài nước.
Khoản 3: tại các tỉnh nằm trong giới hạn từ giáp Nam Kỳ đến giáp
Ninh Bình, các quan lại triều đình sẽ tiếp tục cai trị nhân dân như cũ, trừ
các việc thương chính,cơng chính cùng các việc cần có chủ chương nhất
trí,cần có kỹ sư pháp hay người châu Âu giúp.[4,tr.58].
Trong bản Hiệp ước nàycó viết: “Nước An Nam thừa nhận và chấp nhận nền
bảo hộ của nước Pháp, nước Pháp sẽ thay mặt nước An Nam trong mọi quan
hệ đối ngoại”.

Điều ước Patơnốt ngày 6-6-1884 đặt cơ sở lâu dài và chủ yếu cho quyền đô
hộ của Pháp ở Việt Nam về hình thức,tuy thực dân Pháp có giao lại cho triều
đình Huế ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ở phía bắc, tỉnh Bình Thuận
6


Chuyên đề: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

ở phía Nam và cho triều đình Huế quyền có đội quân riêng, nhưng trong
thực tế cả ba miền Trung - Nam - Bắc đã hoàn toàn lọt vào tay chúng.
Điều ước Patơnốt đã cắt Việt Nam ra làm ba miền với ba chế độ chính trị
khác nhau. Đó là điểm chính trong tồn bộ chính sách chia để trị của chủ
nghĩa thực dân.
Với hai bản hiệp ước Hắc măng (1883), và hiệp ước Patơnốt (1884) được ký
kết dưới áp lực quân sự của tư bản Pháp đã đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn
của nhà nước phong kiến độc lập Việt Nam và sự đầu hàng của triều Nguyễn
trước chủ nghĩa tư bản Pháp.
2. Bộ máy cai trị của thực dân Pháp ở Nam Kỳ trước ngày thiết lập chế
độ tồn quyền Đơng Dương (17- 10- 1887).
Vấn đề thiết lập chế độ thống trị ở Nam Kỳ là mối quan tâm lớn của
thực dân Pháp từ năm 1859 đến năm 1873. Bên cạnh việc hoàn thành cuộc
xâm chiếm xứ Nam Kỳ, thực dân Pháp đã tranh cãi nhau về mơ hình cho xứ
thuộc địa, chủ yếu là tranh cãi về sự lựa chọn và áp dụng giữa hai chính sách
thực dân phổ biến là thuộc địa đồng hóa (assimilation) hay thuộc địa “hợp
tác” (association).
Từ năm 1861- 1879, khi việc đánh chiếm Nam Kỳ hồn tồn là cơng
việc của Bộ Hải quân, cơ cấu hành chính gọi là chế độ sối phủ, từ 1879 về
sau là Chính phủ dân sự, bắt đầu là Đờ Vile. Điều chính yếu là thực dân
Pháp đã có dã tâm tách ngay vấn đề Nam Kỳ khỏi Việt Nam, trao cho nó bộ
mặt trực trị của “một hạt của nước Pháp”. Từ thân phận người dân, đến

chính sách luật pháp, thuế khóa…đều khác biệt so với Bắc và Trung Kỳ.
a. Cấp trung ương:
Trên cùng có Thống Đốc.
Dưới Thống Đốc có ba chức danh cao cấp là:
Tổng biện lý chịu trách nhiệm về mặt pháp chế.
7


Chuyên đề: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

Giám đốc nha nội chính chịu trách nhiệm về những cơng việc có liên quan
đến xứ thuộc địa.
Chánh chủ trì chịu trách nhiệm về những cơng việc có liên quan đến vấn đề
tài chính và chính quốc.
Bốn viên chức thực dân cao cấp này họp lại thành Hội đồng Tư mật đặt dưới
sự chủ trì của Thống Đốc. Dựa trên nguyên tắc đó, một số tổ chức cấp cao
lần lượt ra đời.
- Nha Nội chính: Được thành lập theo nghị định ngày 9-11-1864 của Thống
Đốc Nam Kỳ Đờ La Grăngđie. Đây là một tổ chức chuyên nghiên cứu, theo
dõi và giải quyết tất cả các cơng việc có liên quan đến xứ thuộc địa. Nha nội
chính gồm có ba ban:
+Ban Tổng Thư Ký: chịu trách nhiệm liên hệ với các viên “Thanh tra công
việc bản xứ” và phụ trách công tác mật vụ, cảnh sát, giáo dục, tôn giáo.
+Ban Hành chính: phụ trách việc lập ngân hàng, cơng chính, tài chính, và
nhân sự.
+Ban Canh nơng- Thương mại- Kỹ nghệ: phụ trách các cơng việc có liên
quan đến các ngành chun mơn đó, đồng thời kiêm ln cả việc xét xử
người “bản xứ”.
Đứng đầu Nha Nội chính là một viên Giám Đốc. Pôlanh Vian (Paulin Vial)
một trong những viên “Thanh tra công việc bản xứ” đầu tiên dưới thời Bôna

(1862) được cử làm Giám Đốc đầu tiên của Nha Nội chính và chính thức
nhậm chức ngày 1-12-1864.
Ngày 29-10-1887, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh bãi bỏ chức Giám đốc của
Nha Nội chính và chuyển giao quyền hành của Giám đốc sang tay Thống
Đốc Nam Kỳ.
- Hội đồng Tư mật: Được thành lập theo sắc lệnh ngày 21-1-1869. Thành
phần của Hội đồng Tư Mật gồm có: Chủ tịch Hội đồng là Thống Đốc Nam
8


Chuyên đề: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

Kỳ; các uỷ viên: Tổng Biện lý, Giám đốc Nha Nội chính, quan Chánh Chủ
trì. Chức năng của Hội đồng là bàn bạc và quyết định mọi vấn đề có liên
quan đến quan đến lĩnh vực chuyên môn của các viên chức cao cấp này như
về: pháp chế, nội trị, tài chính, và các vấn đề liên quan đến chính quốc…
Nhân viên các cấp dưới quyền của ba uỷ viên này không được trực tiếp liên
hệ thẳng với Thống Đốc, mà phải thông qua viên chánh quan theo ngành dọc
của mình.
Nhưng sau khi bãi bỏ chức Chánh Chủ trì (nghị định ngày 3-10-1882) rồi
thiết lập chế độ Tồn quyền Đơng Dương (sắc lệnh ngày 17-10- 1887), và
bãi bỏ chức Giám đốc Nha Nội chính (sắc lệnh ngày 29-10-1887) thì Hội
đồng Tư Mật Nam Kỳ được cải tổ lại như sau:
Chủ tịch Hội đồng vẫn là Thống đốc Nam Kỳ; các uỷ viên Hội đồng gồm:
Tổng chỉ huy các lực lượng quân đội viễn chinh Pháp đóng tại Nam Kỳ; các
uỷ viên Hội đồng gồm: Tổng chỉ huy các lực lượng quân đội viễn chinh
Pháp đóng tại Nam Kỳ; Tổng Biện lý: hai cố vấn người Pháp và hai cố vấn
người Việt, do Thống đốc giới thiệu và Tồn quyền Đơng Dương bổ nhiệm.
Chức năng của Hội đồng Tư Mật do đó cũng được quy định lại. Góp ý kiến
về việc lập các ngân sách và các khoản chi phí hành chính; góp ý kiến về

vấn đề thuế khố; quy định các khu vực hành chính…tức là thơng qua những
ý kiến đóng góp của Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ và Hội đồng Hàng tỉnh
Nam Kỳ .
Ngồi ra nó cũng là nơi để thông qua khi cần thiết, những bản dự thảo nghị
định của Thống đốc Nam Kỳ. Khi mới thành lập, chủ tịch đầu tiên của Hội
đồng Tư Mật Nam Kỳ là Thống đốc Ôhiê (Ohier) từ 5-4-1868 đến 10-121869.

9


Chuyên đề: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

b. Cấp địa phương
 Cấp Khu:
Ngày 5-1- 1876 Thống đốc Nam Kỳ Đuyperê ra nghị định phân chia toàn bộ
địa bàn Nam Kỳ thành bốn Khu vực hành chính lớn là: Sài Gòn, Mỹ Tho,
Vĩnh Long, Bát Xác.
Mỗi khu vực hành chính lớn đó lại được chia nhỏ thành nhiều Tiểu khu hành
chính.
+ Khu vực Sài Gịn gồm 5 Tiểu khu là: Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hoà,
Bà Rịa, và Gia Định (ngoại vi Sài Gòn).
+ Khu vực Mỹ Tho gồm 4 Tiểu khu là: Mỹ Tho, Gị Cơng, Tân An, Chợ
Lớn.
+ Khu vực Vĩnh Long gồm 4 Tiểu khu là: Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh, Sa
Đéc.
+ Khu vực Bát Xác gồm 6 tiểu khu là: Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên,
Rạch Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng.Ngày 18-12-1882 Thống đốc Nam Kỳ Lơ
Miarơ Đờ Vile ra nghị định tách 2 tổng của Sóc Trăng và 3 tổng của Rạch
Giá để thành lập thêm một tiểu khu nữa là Bạc Liêu và cho trực thuộc khu
vực Bát Xác.

Theo tinh thần của sắc lệnh ngày 10-2-1873 của Tổng Thống Pháp thì mỗi
Khu vực hành chính lớn đó phải do 3 viên chức cùng phối hợp điều hành.
Viên chức hạng nhất phụ trách tư pháp và trực thuộc viên Tổng Biện lý.
Viên chức hạng nhì phụ trách hành chính và trực thuộc Giám đốc nha nội
chính.
Viên chức hạng ba phụ trách thuế khố và trực thuộc viên Chánh Chủ
trì.Viên chức hạng ba phải là những học viên đã tốt nghiệp Trường Tập sự
do thực dân Pháp mở tại Sài Gòn từ năm 1873 và giao cho Trương Vĩnh Ký
điều hành sau đổi thành Trường Thông Ngôn. Luyrô (Luro) – một trong số
10


Chuyên đề: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

“Thanh tra công việc bản xứ” đầu tiên ở Nam Kỳ dưới thời Bôna. Đến khi
bãi bỏ chức Chánh Chủ trì (từ 3-10-1882) và chức Giám đốc Nội chính (từ
ngày 29-10-1887) thì các viên chức hạng nhì và hạng ba đều trực thuộc
Thống đốc Nam Kỳ.
Thực dân Pháp cho rằng đây là một khuynh hướng “tiến bộ”, khuynh hướng
muốn chính quy hố tổ chức tư pháp theo như “chính quốc”, tức là phân chia
ranh giới giữa hai chức năng hành chính và tư pháp, khơng tập trung hai
chức năng đó vào tay một người.
Thực ra, như chúng ta đã biết, nền hành chính của Việt Nam lúc bấy giờ đã
có khuynh hướng này và đã được thể hiện thông qua các chức danh: Tổng
đốc (hoặc Tuần Phủ) phụ trách chung; Ấn sát phụ trách tư pháp; Bố chánh
phụ trách thuế khố- trên một đơn vị hành chính cấp tỉnh loại lớn.
 Cấp tiểu khu:
Mỗi Tiểu khu (từ 1-1-1900 đổi gọi là Tỉnh) có thể được chia thành một số
đơn vị gọi là “Trung tâm hành chính” .
Đứng đầu mỗi Tiểu khu là một viên quan cai trị người Pháp.Đứng đầu mỗi

Trung tâm hành chính là một viên chức người Việt. Trung tâm hành chính
loại lớn do chức Đốc Phủ sứ nắm, loại vừa do một chức Tri phủ nắm, loại
nhỏ do một chức Tri huyện nắm.
Nam Kỳ lúc đó khơng chia thành cấp phủ và cấp huyện. Do đó chức Tri phủ,
Tri huyện ở đây chỉ là chức vị tương đương với Tri phủ, Tri huyện thời
phong kiến; còn chức Đốc phủ sứ tương đương với chức Tuần phủ thời
trước. Nhưng cũng có những Trung tâm hành chính do một viên chức người
Pháp nắm giữ. Nhưng dù là người Pháp hay người Việt, tất cả các viên chức
đứng đầu các Trung tâm hành chính đó đều trực thuộc viên quan cai trị
người Pháp đứng đầu cấp Tiểu khu.

11


Chuyên đề: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

 Cấp Tổng:
Đứng đầu mỗi Tổng là Chánh tổng, Phó tổng người Việt. Ở Nam Kỳ,
Chánh, Phó tổng thực sự được xếp trong ngạch nhân viên hành chính, có
hưởng lương và có xếp hạng. Chánh tổng gồm ba hạng. Phó tổng gồm hai
hạng. Phải ở hạng thấp một thời gian (từ 2 năm trở lên) mới được xét chuyển
lên hạng sát trên.Trong thời kỳ này Chánh, Phó tổng do các viên thanh tra
chỉ định.
 Ở cấp xã:
Thời kỳ này thực dân Pháp chưa trực tiếp can thiệp vào tổ chức hành
chính cấp xã. Mỗi Tổng được chia thành nhiều Xã. Xã trưởng và Phó lý là
những người thay mặt xã dân làm trung gian giao tiếp giữa cấp xã với tổ
chức hành chính cấp trên.
Với cơ cấu tổ chức chính quyền như trên ta có thể khái quát tóm lược trong
sơ đồ như sau:


12


Chuyên đề: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

SƠ ĐỒ BỘ MÁY CAI TRỊ CỦA THỰC DÂN PHÁP Ở NAM KỲ
TRƯỚC NĂM 1887.
BỘ HẢI QUÂN VÀ THUỘC ĐỊA PHÁP

THỐNG ĐỐC NAM KỲ

TỔNG BIỆN LÝ

GIÁM ĐỐC NHA NỘI
CHÍNH

KHU (4 KHU)

TIỂU KHU

TIỂU KHU HÀNH
CHÍNH

TỔNG



13


CHÁNH CHỦ TRÌ


Chuyên đề: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

3. Bộ máy cai trị của thực dân Pháp ở Nam Kỳ từ sau ngày thiết lập chế
độ toàn quyền Đông Dương (17- 10- 1887).
Theo sắc lệnh ngày 17 - 10 - 1887, thực dân Pháp thành lập Liên Bang Đơng
Dương, năm đó mới bao gồm có Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và
Campuchia, trực thuộc Bộ Hải Quân và Thuộc địa. Ngày 19 - 4 - 1899, Tổng
thống Pháp ra sắc lệnh sát nhập thêm Lào vào Liên bang Đông Dương. Việt
Nam bị chia cắt làm ba kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ với ba chế độ cai trị
khác nhau. Bắc Kỳ và Trung Kỳ là hai sứ bảo hộ vẫn cịn giữ lại chính
quyền phong kiến về hình thức; Nam Kỳ là đất thuộc địa hồn tồn do Pháp
nắm cùng với Lào và Campuchia cũng là đất bảo hộ của Pháp, hợp thành
Liên bang Đông Dương. Với thủ đoạn này, chúng nhằm xóa bỏ tên Việt
Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới.
Đứng đầu Liên bang Đông Dương có Tồn quyền, là người thay mặt chính
phủ Pháp cai trị Đơng Dương về mọi mặt. Dưới Tồn quyền là Thống đốc
Nam Kỳ, Thống sứ Bắc Kỳ và Khâm sứ Trung Kỳ, Lào, Campuchia.
Cơ quan quyền lực tối cao là Hội đồng tối cao Đông Dương, Chủ tịch Hội
đồng là Toàn quyền, các Ủy viên Hội đồng hầu hết là người Pháp, chỉ có hai
người Việt đại biểu cho dân “bản xứ”. Các Ủy viên là giám đốc các công sở,
các viên quan cai trị đứng đầu 5 xứ, chủ sự các Phịng Thương mại và Canh
nơng…
Hội đồng họp thường kì mỗi năm họp một lần để bàn bạc và thông qua ngân
sách Đông Dương, ngân sách hàng xứ, cùng các cơng việc do Tồn quyền đề
xuất có liên quan đến việc thống trị và khai thác Đông Dương.
Đến năm 1911, đổi thành Hội đồng Chính phủ Đơng Dương gồm 23 ủy viên,
có 4 người “bản xứ” do Tồn quyền lựa chọn và chỉ định hàng năm.

Văn phòng Phủ Tồn quyền gồm có các phịng: Chính trị, Hành chính, Quân
sự, Nhân sự, và Văn thư là cơ quan thường trực của Phủ Toàn quyền kiêm
14


Chuyên đề: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

cả công việc đối ngoại và khen thưởng kỉ luật. Các cơ quan khác có Hội
đồng phịng thủ Đơng Dương thành lập ngày 31- 10 -1902 ; Uỷ ban Tư vấn
về mỏ thành lập ngày 26 - 5 - 1913; Hội đồng Tư vấn Học chính Đơng
Dương thành lập ngày 21 - 12 - 1917; Sở chỉ đạo công việc chính trị và bản
xứ, Sở tình báo An ninh trung ương…
Với việc củng cố chính quyền Liên bang gắn với việc củng cố chính quyền
các xứ. Thủ đoạn “chia để trị” là một trong những nguyên tắc chỉ đạo hành
động của chúng.
Nam Kỳ là đất thuộc địa khơng có quan hệ phụ thuộc vào Nam triều.
Ngày 8 - 2 - 1880, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh thành lập Hội đồng thuộc
địa Nam Kỳ quy định rõ chức năng của nó là cơ quan “tư vấn”, có thể bàn về
thuế má, thu chi,…tuyệt đối không được đề cập đến vấn đề chính trị.
Hội đồng thuộc địa có 16 thành viên (10 Pháp, 4 Việt đã vào “làng Tây”, nói
được tiếng Pháp và một số đại biểu của Phòng Thương mại và Hội đồng Tư
vấn).
a. Cấp Trung ương:
Trước khi thành lập Liên Bang Đông Dương(17-10-1887), Thống Đốc trực
thuộc sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng bộ hải quân và thuộc địa Pháp. Sau
khi thành lập Liên bang Đông Dương, Thống Đốc Nam Kỳ chịu sự chỉ đạo
trực tiếp của Toàn quyền Đơng Dương, bình đẳng với Thống đốc. Đứng đầu
bộ máy thống trị của thực dân Pháp ở Nam Kỳ là một viên Thống đốc sứ
Bắc Kỳ và Khâm sứ Trung Kỳ.
Bởi vậy, cũng như đối với Thống sứ Bắc Kỳ và khâm sứ Trung Kỳ chức

năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Thống đốc Nam Kỳ kể từ sau năm 1887
được quy định thống nhất trong hai văn bản chính là nghị định của Tồn
Quyền Đơng Dương ngày 13-2-1899 và sắc lệnh của Tổng Thống Pháp ngày
20-10-1911. Thống đốc là kẻ thay mặt cho Tồn quyền Đơng Dương để trực
15


Chuyên đề: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

tiếp nắm quyền cai trị Nam Kỳ và chịu trách nhiệm trước Tồn quyền Đơng
Dương về mọi mặt chính trị, kinh tế, tài chính, qn sự, dân sự, văn hóa,
giáo dục,…của địa bàn Nam Kỳ. Thống đốc có quyền lập quy, quyền hành
pháp, và quyền Tư Pháp ở Nam Kỳ. Thông qua mạng lưới các viên quan cai
trị thực dân đầu tỉnh Nam Kỳ, Thống đốc nắm mọi hoạt động từ cấp tỉnh trở
xuống. Đối với bộ máy thống trị tồn Đơng Dương, Thống đốc Nam Kỳ là
ủy viên của Hội đồng tối cao Đơng Dương, tức Hội đồng chính phủ Đơng
Dương.
Thống đốc ở Nam Kỳ cũng có những chức phụ tá cao cấp làm cố vấn như
Hội đồng tư mật, Hội đồng thuộc đia Nam Kỳ, Phòng thương mại Nam Kỳ,
Phịng canh nơng Nam Kỳ, Hội đồng Học chánh Nam Kỳ, Ủy ban khai thác
thuộc địa Nam Kỳ…Đó là những tổ chức phụ tá cho Thống đốc Nam Kỳ và
được thực dân Pháp lần lượt thiết lạp theo quá trình triển khai cơng cuộc
khai thác và nơ dịch thuộc địa của chúng trên tồn lãnh thổ Đơng Dương.
Cơ quan có tính chất chỉ đạo trực tiếp, vừa có tính chất tổng hợp cao cấp về
mọi mặt hoạt động của chính quyền thực dân ở Nam Kỳ là Sối Phủ được
thiết lập năm 1868, sau này chuyển gọi là Tòa Thống Đốc Nam Kỳ. Tòa
Thống đốc được chia làm hai bộ phận:
- Bộ phận cố định phụ trách ba khối công việc lớn:
+ Nhân sự ( cả người Âu lẫn người Việt):bổ dụng, thăng giáng, khen thưởng,
kỷ luật.

+ Công việc chính trị và bản xứ: báo cáo chính trị định kỳ, theo dõi tình hình
chính trị của người bản xứ, phụ trách việc xuất bản sách, báo bằng các thứ
tiếng; phụ trách việc lập hội của người bản xứ, việc quy định thành phần dân
tộc và xin nhập quốc tịch; việc cho phép người ngoại quốc cư trú, hay trục
xuất người ngoại quốc; liên hệ với các cơ quan theo dõi các cơng việc chính

16


Chuyên đề: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

trị và bản xứ thuộc cấp tương đương như của Tòa Khâm sứ Trung Kỳ, Phủ
Thống sứ Bắc Kỳ, và với cấp trên là Chính Phủ Đơng Dương.
+ Cơng việc thuần túy hành chính ự nghiệp như: cơng văn đi - đến, và theo
dõi công việc của ban thư ký Hội đồng Tư mật.
- Bộ phận lưu động phụ trách ba khối công việc lớn:
+ Những hoạt dộng cụ thể của người Pháp, theo dõi công việc của Hội đồng
Thuộc địa, Phịng thương mại, Phịng Canh nơng; các thành phố; việc thành
lập các công ty kinh doanh; việc nghiên cứu và chuẩn bị các bản dự thảo quy
chế và tổ chức chung cho toàn Nam Kỳ…
+ Những hoạt động cụ thể của người Việt; theo dõi các công việc của Hội
đồng hàng tỉnh, theo dõi việc quản trị cấp xã; phụ trách việc tuyển bắt lính;
nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến các loại thuế tực thu, gián thu..
+ Theo dõi các loại ngân sách.
Cơ quan tổng hợp mọi hoạt động của cả hai bộ phận này là Ban thư ký Tòa
thống đốc nam Kỳ được thành lập năm 1887, do một viên Tổng thư ký điều
hành và đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thống đốc Nam Kỳ.
b. Cấp địa phương:
 Cấp tỉnh hoặc thành phố.
Từ sau khi thành lập Liêng Bang Đơng Dương, tồn bộ Nam Kỳ được chia

thành 20 tỉnh bao gồm: Bạc Liêu, Bà Rịa, Bến Tre, Biên Hòa, Cần Thơ,
Châu Đốc, Chợ Lớn, Gia Đinh, Gị Cơng, Hà Tiên, Long Xun, Mỹ Tho,
Rạch Giá, Sa Đéc, Sóc Trăng, Tân An, Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Trà Vinh,
Vĩnh Long.
Có hai thành phố lớn cấp I như Sài Gòn (thành lập ngày 8-1-1877), cấp II
như Chợ Lớn (thành lập ngày 20-10-1897) và một số thành phố cấp III như
Bạc Liêu, Cần Thơ, Rạch Giá (đều thành lập theo nghị định Toàn quyền

17


Chuyên đề: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

Đông Dương ngày 18-12-1928), Long Xuyên (ngày 31-1-1935), Mỹ Tho
(16-12-1938),...
Đứng đầu tỉnh là các viên quan cai trị người Pháp (tỉnh nào lớn hoặc trọng
yếu có cấp phó giúp việc). Giúp việc cho Chánh, Phó Cơng sứ có Sở Tham
biện và Hội đồng hàng tỉnh. Với các cơ quan phụ trách như Sở tham biện
tương đương như Tịa cơng sứ các tỉnh Bắc Kỳ và Trung kỳ và Hội đồng
hàng tỉnh.
Đứng đầu mỗi thành phố cấp I và cấp II có Đốc Lý, Phó đốc lý với các cơ
quan phụ tá như tòa đốc lý và hội đồng thành phố hay ủy ban thành phố.
Còn loại thành phố cấp III sẽ do quan chủ tỉnh người Pháp kiêm nhiệm, cũng
giống như cơ cấu tổ chức của loại thành phố cấp III ở Bắc và Trung Kỳ.
Ngoài ra, ở Nam Kỳ tuy không phân chia thành phủ hoặc huyện như Bắc Kỳ
và Trung Kỳ, nhưng để nắm cấp tỉnh được chặt chẽ, thực dân Pháp đã cho
thiết lập một số trung tâm hành chính hoặc một số cơ sở đại lý, do người
Việt đứng đầu với các chức danh như đốc phủ sứ, tri phủ hay tri huyện.
 Cấp tổng:
Tỉnh chia thành nhiều Tổng do Chánh tổng, Phó tổng cai quản được

xếp vào ngạch nhân viên hành chính, được xếp hạng qua thi tuyển và chọn
lựa bổ dụng.Chánh tổng gồm 3 hạng, Phó tổng gồm hai hạng. Theo nghị
định của Tồn Quyền Đông Dương ngày 14-12-1905 mức lương năm cho
đội ngũ Chánh, Phó tổng như sau: Chánh tổng hạng nhất 300 đồng Đơng
Dươn, hạng nhì 240 đồng, hạng ba 180 đồng; Phó tổng hạng nhất 144 đồng,
hạng nhì 96 đồng. Tổng được chia thành xã.
 Cấp xã:
Việc cai quản cấp xã ở Nam Kỳ bị Pháp chính thức can thiệp vào từ năm
1904 và qua nghị định ngày 27-8-1904 của toàn quyền trong đó quy định rõ:
1. Việc quản trị làng xã do hội đồng kỳ mục thực hiện.
18


Chuyên đề: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

2. Tiêu chuẩn để được tham dự hội đồng này phải là điền chủ.
3. Hội đồng gồm 11 ủy viên, được xếp theo vị trí: hương cả (chủ tịch) hương
chủ (phó chủ tịch, hương trưởng, hương chánh, hương giáo, hương quản…)
4. Danh sách hội đồng pahir ln để tịa đình làng và phải sao nộp văn phòng
quan chủ tỉnh.
5. Kỳ mục nào vi phạm luật lệ làng xã hoặc cưỡng lệnh hội đồng thì sẽ bị
phạt tiền từ 1 đến 20 quan. Quan chủ tịch có quyền đình chỉ, cách chức đối
với bất kỳ kỳ mục nào.
Bản nghị định này còn quy định rõ nhiệm vụ của từng kỳ mục. Ngồi ra cịn
đặt thêm các chức đại hương, lựa chọn từ cá cựu tri phủ, cựu hương có thành
tích xuất sắc đói với làng xã. Xã nào có đại hương thì đại hương sẽ làm chủ
tịch Hội đồng.

19



Chuyên đề: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

SƠ ĐỒ BỘ MÁY CAI TRỊ CỦA THỰC DÂN PHÁP Ở NAM KỲ
SAU NĂM 1887.
BỘ THUỘC ĐỊA

THỐNG ĐỐC NAM KỲ
ĐỐC LÝ

TỈNH – THÀNH PHỐ

PHÓ ĐỐC LÝ
ÁN SÁT…

CHÁNH TỔNG

TỔNG
PHÓ TỔNG



20


Chuyên đề: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

4. Rút ra một số nhận xét:
Như vậy trước năm 1945, ở Nam Kỳ thực dân Pháp đã thiết lập bộ
máy cai trị của mình với hai giai đoạn khác nhau trước khi thành lập Liên

bang Đông Dương và sau khi thành lập Liên bang Đông Dương với cơ cấu
tổ chức khơng giống nhau. Nhưng có nhìn chung là vẫn là do người Pháp
đứng đầu.
Với việc tổ chức bộ máy chính quyền thuộc địa, ngay từ đầu thực dân
Pháp đã phá vỡ cấu trúc bộ máy chính quyền cũ và chế độ quân chủ chuyên
chế nhà Nguyễn và lập ra bộ máy chính quyền mới theo giá trị kiểu phương
Tây.
Nam Kỳ là đất thuộc địa khơng có quan hệ phụ thuộc vào chính quyền
Nam triều. Bộ máy hành chính ở Nam Kỳ chủ yếu do người Pháp cai quản,
đứng đầu cũng là người Pháp.
Tổ chức chính quyền được sắp đặt rõ ràng, không chồng chéo lên
nhau về chức năng cũng như quyền lực, thống nhất từ Trung ương đến địa
phương và cơ bản vẫn là Pháp nắm toàn bộ quyền lực và khống chế chính
quyền Nam triều.
Như vậy, thơng qua bộ máy cai trị của thực dân Pháp như ở trên có
thể kết luận rằng Nam kỳ là xứ trực trị.

21


Chuyên đề: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

KẾT LUẬN
Có thể thấy, Sau hai bản hiệp ước Hắc măng (1883), và hiệp ước Patơnốt
(1884) với sự sụp đổ hoàn toàn của nhà nước phong kiến độc lập Việt Nam
thực dân Pháp đã xây dựng cho mình một bộ máy cai trị ở Nam Kỳ. Nam Kỳ
trở thành vùng đất thuộc địa của Pháp mà khơng có mối quan hệ nào với
chính quyền Nam Triều. Trước năm 1945, Pháp đã thiết lập bộ máy cai trị
của mình chia làm hai giai đoạn đó là trước khi thành lập Liên bang Đông
Dương (trước năm 1887). Đứng đầu là Bộ hải quân và thuộc địa Pháp, tiếp

theo là Thống đốc Nam Kỳ, bên dưới Thống Đốc có ba chức danh cao cấp
là: Tổng biện lý, Giám đốc nha nội chính, Chánh chủ trì; Cấp địa phương
gồm có Cấp khu, cấp Tiểu Khu, Tiểu khu hành chính, cấp Tổng và cấp Xã.
Sau khi thành lập Liên bang Đông Dương (sau năm 1887) bộ máy cai trị
thuộc địa ở Nam Kỳ có sự thay đổi và đơn giản hơn: Trên cùng là Bộ thuộc
địa, Tiếp theo là Thống đốc Nam Kỳ, cấp địa phương gồm có Tỉnh – Thành
phố, cấp Tổng và cấp Xã. Nhìn chung bộ máy này người Pháp lập ra để
nhằm thực hiện ý đồ, mục đích cai trị của mình. Với bộ máy chính quyền
thuộc địa như vậy Nam Kỳ đã trở thành xứ trực trị.

22


Chuyên đề: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hệ thống chính quyền của thực dân Pháp ở Việt Nam thời kỳ trước
Cách mạng tháng 8 năm 1945 (Quá trình thiết lập và cơ cấu tổ chức),
nghiên cứu lịch sử số 4, 1982.
2. Nguyễn Thế Anh – Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, Nhà xuất bản Lửa
Thiêng, Sài Gòn, 1970.
3. Trần Trọng Kim – Việt Nam sử lược, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành
phố Hồ Chí Minh, 2005.
4.

Đinh Xuân Lâm(cb), Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ - Đại
cương lịch sử Việt Nam, Tập II, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội, 2007.

5. Nguyễn Quang Ngọc (cb) – Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản
giáo dục, Hà Nội, 2007.

6. Vũ Thị Phụng – Lịch sử nhà nước và Pháp luật Việt Nam, Nhà xuất bản
giáo dục,Hà Nội, 1883.
7. Dương Kinh Quốc – Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước cách
mạng tháng Tám, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988.
8. GS. TS Nguyễn Khánh Toàn (CB) – Lịch sử Việt Nam, Tập II, Nhà
xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988.

23


Chuyên đề: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………...1
1. Lí do chọn đề tài………………………………………………………....1
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.................................................................2
3. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................2
NỘI DUNG………………………………………………………………....3
1. Bối cảnh lịch sử………………………………………………………......3

24



×