Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

tiểu luận Mối quan hệ Việt Nam – UNESCO từ năm 1976 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.72 KB, 127 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Toàn cầu hóa và hội nhập đang là xu thế tất yếu trong quan hệ quốc
tế hiện nay. Bất cứ quốc gia dù lớn hay nhỏ nào cũng không thể tồn tại và
phát triển nếu tách biệt với thế giới, mà ngược lại bản thân mỗi quốc gia
chính là một thành viên không thể tách rời của cộng đồng quốc tế. Chính vì
vậy nhu cầu hợp tác giữa các quốc gia dân tộc ngày càng được chú trọng và
mở rộng. Trên thế giới dần chấm dứt tình trạng đối đầu, chuyển sang cục
diện vừa đấu tranh, vừa hợp tác cùng tồn tại hòa bình. Xu thế này tác động
tới Việt Nam. Từ sau năm 1975, đặc biệt từ năm 1986, Việt Nam đã từng
bước điều chỉnh chính sách đối ngoại sao cho phù hợp với xu thế ấy.
Việt Nam mở rộng các mối quan hệ song phương, đa phương với
nhiều nước trên thế gới và các tổ chức quốc tế khác. Các lĩnh vực hợp tác
cũng được mở rộng từ kinh tế, chính trị cho đến khoa học kĩ thuật, văn hóa,
giáo dục, nghệ thuật…Một trong những lĩnh vực được quan tâm nhiều
trong giai đoạn ngày nay đó là hội nhập về văn hóa. Hội nhập về văn hóa
làm cơ sở cho sự hội nhập về kinh tế chính trị và “Văn hóa …không thể
đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế chính trị” (Dẫn theo Phạm Xuân Nam -
Sự đa dạng văn hóa và đối thoại giữa các nền văn minh tr516).Vấn đề đặt
ra là làm sao để một dân tộc vẫn có thể giữ được bản sắc văn hóa của mình
trong quá trình hội nhập? đang là một câu hỏi đặt ra cho không chỉ Việt
Nam mà với nhiều nước khác trên thế giới.
Ra đời vào năm 1946 với mục đích “góp phần duy trì hòa bình và an
ninh quốc tế bằng cách thắt chặt sự hợp tác giữa các quốc gia về giáo dục,
khoa học và văn hóa…”. UNESCO – tổ chức văn hóa, khoa học, giáo dục
của Liên Hợp Quốc chính là “nhịp cầu giao lưu quốc tế”, góp phần làm
1
cho thế giới hiểu nhau, tôn trọng nhau hơn, nhân ái hơn. Hoạt động của tổ
chức này liên quan tới nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia yêu chuộng hòa bình, tôn trọng bình đẳng
và đấu tranh không mệt mỏi chống ngoại xâm, áp bức bóc lột. chính vì vậy


mà ngay sau khi thống nhất nước nhà năm 1975. Chính phủ nước cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã gia nhập UNESCO từ năm 1976. Từ đó cho
đến nay mối quan hệ đó ngày càng có những bước tiến vững đáng ghi nhận
và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Thông qua UNESCO Việt Nam đã
khai thác được tri thức chất xám, kinh nghiệm, tài chính trong các lĩnh vực
khoa học, văn hóa, giáo dục…Mặt khác thông qua tổ chức này, Việt Nam
ngày càng có nhiều cơ hội thuận lợi để hội nhập sâu rộng với thế giới.
Mặc dù mối quan hệ của Việt Nam với tổ chức này của Liên Hợp
Quốc có một vị trí quan trọng trong chính sách ngoại giao của Đảng và nhà
nước ta, nhưng cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào đề cập
một cách toàn diện, hệ thống về vấn đề đặt ra. Với mong muốn được hiểu
thêm về mối quan hệ trên nhiều lĩnh vực giữa Việt Nam và UNESCO, hiệu
quả của mối quan hệ đó, thấy được những mặt tích cực và hạn chế để góp
phần thúc đẩy mối quan hệ UNESCO – Việt Nam phát triển hơn nữa,
người viết chọn đề tài “Mối quan hệ Việt Nam – UNESCO từ năm 1976
đến nay” làm đề tài cho luận văn cho luận văn của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Từ trước đến nay đã có nhiều sách, công trình khoa học viết về quan
hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các quốc gia trên thế giới như Trung
Quốc, Mĩ, Nga, Nhật Bản… Tuy nhiên lại có rất ít các công trình viết về
mối quan hệ Việt nam với các tổ chức mang tính quốc tế như UNESCO, có
chăng cũng chỉ là những công trình viết về Liên Hợp Quốc mà trong đó
viết về UNESCO chỉ là những phần nhỏ.
2
Mối quan hệ giữa UNESCO và nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã được hình thành tương đối sớm. Ngay từ khi Việt Nam giành
được độc lập và thông nhất nước nhà năm 1975, Việt Nam đã gửi đơn xin
gia nhập tổ chức này, đến tháng 10/1976 nước ta chính thức trở thành viên
của tổ chức giáo dục khoa học và văn hóa của Liên Hợp Quốc . Trong suốt
thời gian đó đã có rất nhiều công trình báo cáo tổng kết từng giai đoạn, và

nhiều lĩnh vực của Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam, của các bộ ngành
có liên quan. Các bài viết của các nhà lãnh đạo, các nhà ngoại giao về vấn
đề này. Đã có một số sách đề cập đến vấn đề mối quan hệ Việt Nam –
UNESCO như:
“UNESCO là gì?” của Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam, được
xuất bản từ khá sớm, sách chủ yếu giới thiệu về tổ chức UNESCO (như cơ
cấu, tổ chức, quá trình phát triển, các mối quan hệ của UNESCO…). Sách
cũng tóm tắt mối quan hệ mối quan hệ Việt Nam – UNESCO cho đến năm
1978. Nhưng nội dung này mới ở mức độ khái quát tiến trình lịch sử và
mới chỉ dừng lại năm 1978.
“Hệ thống Liên Hợp Quốc” của Võ Anh Tuấn, Sách chủ yếu giới
thiệu về tổ chức Liên Hợp Quốc, trong đó có một phần đề cập đến tổ chức
UNESCO và mối quan hệ của tổ chức này với Việt Nam, tuy nhiên phần
này chỉ mang tính chất mở rộng chứ không phải nội dung chính của sách.
“Vai trò của UNESCO trong thế kỷ XXI” của Kichiro Matsuura.
Đây là một cuốn sách bao gồm các bài phát biểu của tổng giám đốc
UNESCO Kichiro Matsuura về các vấn đề mà UNESCO quan tâm hiện nay
như quá trình toàn cầu hóa, giáo dục, khoa học, văn hóa, truyền thông…
Những bài viết này liên quan nhiều đến những nội dung hoạt động của
UNESCO trong giai đoạn hiện nay chứ không đề cập tới mối quan hệ giữa
UNESCO với riêng một quốc gia nào.
3
Đáng chú ý nhất là cuốn “Việt Nam và UNESCO”của Ủy ban
UNESCO Việt Nam kỷ niệm 30 năm thành lập Ủy ban quốc gia UNESCO
Việt Nam (tài liệu lưu hành nội bộ). Sách cũng đã khái quát về tổ chức
UNESCO, tổng kết quá trình phát triển của Ủy ban quốc gia UNESCO, mối
quan hệ với tổ chức UNESCO và những thành tựu đạt được. Tuy nhiên sách
này chủ yếu đánh giá sự trưởng thành của Ủy ban UNESCO Việt Nam,
những thành tựu đạt được. Tuy nhiên, những thành tựu đó mới chỉ ở mức độ
khái quát chứ chưa đi đánh giá được những ảnh hưởng của nó.

Như vậy vấn đề quan hệ Việt Nam - UNESCO từ năm 1976 - 2008 vẫn
chưa được nghiên cứu nhiều.
3. Nội dung nghiên cứu
Trọng tâm đi sâu tìm hiểu quan hệ Việt nam – UNESCO từ năm
1976 đến nay, trên các góc độ biểu hiện, kết quả đạt được. Tuy nhiên để
làm rõ những vấn đề đó luận văn còn giới thiệu về tổ chức UNESCO, bối
cảnh lịch sử đất nước trước khi Việt Nam Gia nhập tổ chức này.
- Giai đoạn từ năm 1976 – 1986.
- Giai đoạn từ năm 1986 đến nay.
Nêu đặc điểm, thành tựu, và ý nghĩa của mối quan hệ đó.
4. Giới hạn của đề tài.
Quan hệ Việt Nam – UNESCO có từ rất sớm (1951) dưới sự bảo trợ
của Pháp sau đó là Mĩ đến năm 1975. Tuy nhiên giới hạn của đề tài này chỉ
tập trung nghiên cứu mối quan hệ Việt Nam – UNESCO từ năm 1976, khi
Việt nam với tư cách là một quốc gia thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ cho
đến ngày nay, qua hai giai đoạn phát triển của quá trình đó (trước và sau
khi Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới đất nước).
5. Phương pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu đề tài Việt nam – UNESCO từ năm 1976 đến nay, chúng
tôi dựa vào phương pháp luận sử học Mác xít kết hợp với phương pháp lịch
4
sử, phương pháp logic là những phương pháp chủ yếu được sử dụng trong
quá trình thực hiện đề tài.
Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp khác như thu thập tư liệu,
chọn lọc, phân tích so sánh đối chiếu để giải quyết những vấn đề đặt ra
trong luận văn.
6. Đóng góp của luận văn.
Đề tài cho chúng ta thấy được mối quan hệ trên nhiều lĩnh vực của tổ
chức này đối với Việt nam. Những kết quả đạt được, những mặt còn tồn tại,
đồng thời đề tài cho chúng ta thấy vai trò của UNESCO đối với quá trình

hội nhập của Việt Nam.
7. Tài liệu nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này chúng tôi đã sử dụng những tư liệu sau:
- Các văn kiện của Đảng và Nhà nước.
- Các bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng nhà nước ta.
- Các sách tham khảo về quan hệ quốc tế, văn hóa đối ngoại.
- Báo, tạp chí chuyên ngành như: tạp chí nghiên cứu lịch sử, tạp chí
Chân trời UNESCO, Người đưa tin UNESCO và các loại báo tạp chí khác…
- Các đề tài nghiên cứu các cấp luận án tiến sĩ, thạc sĩ
- Nguồn từ internet, các trang web của Bộ ngoại giao, ủy ban
UNESCO Việt Nam.
- Các tài liệu nước ngoài.
8. Bố cục của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung đề tài chia làm 3 chương:
Chương I: Quan hệ UNESCO - Việt Nam giai đoạn 1976 -1986.
Chương II: Quan hệ UNESCO – Việt Nam giai đoạn 1986 đến nay.
Chương III: Kết quả của quá trình hợp tác.
5
Chương 1
QUAN HỆ UNESCO – VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1976 – 1986
1.1. Khái quát về tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá (UNESCO)
của Liên Hợp Quốc
1.1.1 Sự ra đời của tổ chức UNESCO.
Chiến tranh đã mang đến cho nhân loại sự chết chóc, đổ nát, hoang
tàn. Từ đó, nỗi sợ hãi chiến tranh len lỏi trong đầu óc của con người. Sau
mỗi cuộc chiến tranh đó những người đứng đầu các nhà nước, đặc biệt là
cường quốc lớn, các nước thắng trận ngồi lại cùng thiết lập cơ chế để bảo
vệ hoà bình, tránh một cuộc chiến tương tự. Chính vì vậy, các tổ chức
(nhằm thiết lập trật tự hoà bình) được ra đời sau mỗi cuộc chiến tranh thế
giới: như Hội Quốc Liên ra đời sau chiến tranh thế giới thứ nhất (1918),

Liên Hợp Quốc sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945).
Khi chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn cuối, tại tháng 2-
1945, tại hội nghị ở Ianta, Mĩ- Liên Xô- Anh đã nhất trí về việc thành lập
tổ chức Liên Hợp Quốc. Đến ngày 25-4-1945 đã diễn ra hội nghị các quốc
gia liên hiệp về các tổ chức quốc tế họp tại Xanphranxico được gọi là hội
nghị Xanphranxico soạn thảo hiến chương Liên Hợp Quốc. Ngày 25-6-
1945 Hiến chương Liên Hợp Quốc được thông qua. Một ngày sau đó 26-6-
1945, 51 quốc gia đã công nhận bản Hiến chương Liên Hợp Quốc, đây
chính là mốc đánh dấu sự ra đời của tổ chức này.
Liên Hợp Quốc ra đời thể hiện mong mỏi của không chỉ các cường
quốc thắng trận mà nó còn thể hiện nguyện vọng của nhân dân toàn thế giới
nhằm mục đích “Duy trì hoà bình và an ninh quốc tế”, và “Phát triển mối
quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc…thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc
giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hoá, nhân đạo” (trích
hiến chương Liên Hợp Quốc tr). Để thực hiện những mục đích này Liên
6
Hợp Quốc thành lập nhiều tổ chức chuyên môn như: FAO (Tổ chức Lương
thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc, thành lập ngày 16 – 10 - 1945), IMF
(Quỹ tiền tệ Quốc tế ra đời ngày 27 -12 - 1945), UNESCO (Giáo dục,
Khoa học và Văn hoá Liên Hợp Quốc ra 16 -11-1946), WHO ( Tổ chức y
tế Thế giới ra đời 10-7-1948)…phụ trách các lĩnh vực cụ thể gắn liền với
Liên Hợp Quốc.
Một trong những tổ chức chuyên môn lớn nhất của Liên Hợp Quốc,
đó là tổ chức “Giáo dục, Khoa học và Văn hoá” (tiếng Anh United Nations
Educational, Scientific and Cultural Organization – viết tắt là UNESCO).
UNESCO ra đời có nguồn gốc ý tưởng từ “Viện hợp tác trí tuệ quốc tế” của
Hội Quốc Liên, thành lập vào năm 1924 tại Pari. “Viện hợp tác trí tuệ quốc
tế” làm nhiệm vụ tăng cường, thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân
tộc và sự hợp tác quốc tế về trí tuệ. Tuy nhiên tổ chức này chỉ dựa vào lực
lượng tư nhân nên những hoạt động còn nhiều hạn chế.

Trong những năm chiến tranh thế giới thứ hai còn đang tiếp diễn
(1942 và 1943) Bộ trưởng giáo dục Anh, Pháp cùng với Bộ trưởng giáo dục
của các nước Đồng minh đã họp nhiều lần ở Luân Đôn để bàn về việc giữ
gìn hoà bình thiết lập một trật tự thế giới mới tăng cường sự hiểu biết, sự
hợp tác giữa các nước…Đến năm 1944, Bộ trưởng giáo dục một số nước
Đồng minh lại họp ở Luân Đôn để bàn về việc đưa những hoạt động nói
trên vào một tổ chức có tính chất Chính phủ, nhằm khắc phục những hạn
chế của “Viện hợp tác trí tuệ quốc tế” trong giai đoạn trước.
Ngày 1-8-1945, sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, dự thảo
về tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá của Liên Hợp Quốc được chuyển
cho nhiều Chính phủ, để chuẩn bị cho Hội nghị Bộ trưởng giáo dục các nước
Đồng minh họp tại Luân Đôn vào tháng 11-1945. Hội nghị này bao gồm đại
biểu của 44 nước tham gia. Căn cứ theo đề nghị của Pháp và Anh, là hai
nước được coi là chịu thiệt hại nặng nề trong cuộc chiến tranh vừa qua, các
7
đại biểu đã đi đến nhất trí về việc thành lập một tổ chức quốc tế tiêu biểu,
xứng đáng với một nền văn hoá vì hoà bình. Các quốc gia mong mỏi tổ chức
này hướng tới việc thiết lập “một tình đoàn kết về trí tuệ và lương tri của
toàn nhân loại” và hành động nhằm loại bỏ nguy cơ chiến tranh.
Kết thúc hội nghị, các nước đã quyết định thành lập Tổ chức Giáo
dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hợp Quốc. Ngày 16-11-1945 Công
ước thành lập đã được 37/44 quốc gia thông qua. Một năm sau Công ước
bắt đầu có hiệu lực ngày 4/11/1946, sau khi được 20 trong số 37 quốc gia
tham gia phê chuẩn. Như vậy ngày 16-11-1945 đánh dấu sự ra đời của tổ
chức UNESCO. Hai mươi quốc gia đầu tiên phê chuẩn Công ước
UNESCO được coi là các thành viên ban đầu (Sáng lập viên) của
UNESCO, đó là: Ai Cập, Vương Quốc Anh, Ấn Độ, Australia, Brazil,
Canada, Đan Mạch, Cộng hoà Dominican, Tiệp Khắc, Pháp, Hoa Kỳ, Hy
Lạp, Lebanon, Mexico, Na Uy, Nam Phi, New Zealand, Saudi Arabia, Thổ
Nhĩ Kỳ và Trung Quốc. Đại hội đồng đầu tiên của UNESCO được tổ chức

tại Paris, Pháp từ ngày 19-11 đến 10-12-1946 với sự tham gia của đại diện
30 chính phủ thành viên có quyền bầu cử.
1.1.2 Mục đích, chức năng, nhiệm vụ của UNESCO
Lời mở đầu Công ước UNESCO viết rằng “Chiến tranh nảy sinh
trong tinh thần của con người vậy thì phải nuôi dưỡng ý thức bảo vệ hòa
bình ngay trong tinh thần của con người” và “Một nền hòa bình chỉ xây
dựng trên các hiệp định kinh tế và chính trị của các chính phủ thì không thể
lôi cuốn sự tham gia nhất trí, lâu dài và chân thành của các dân tộc và vì thế
hòa bình cần phải được xây dựng trên cơ sở đoàn kết trí tuệ và tinh thần của
nhân loại” [UNESCO là gì? Tr 31,32]. Vì thế mục đích của UNESCO là:
“Góp phần duy trì hòa bình và an ninh quốc tế bằng cách thắt chặt sự
hợp tác giữa các quốc gia về giáo dục, khoa học và văn hóa để đảm bảo sự
tôn trọng của tất cả các nước về công lý, pháp luật, quyền con người và tự
8
do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn
ngữ , tôn giáo mà Hiến chương Liên Hợp Quốc đã công nhận đối với tất cả
các dân tộc”.
Vì những mục đích ấy công ước thành lập UNESCO quy định nhiệm
vụ của UNESCO như sau:
“a, Khuyến khích sự hiểu biết và thông cảm lẫn nhau giữa các dân
tộc thông qua những phương tiện thông tin rộng rãi; khuyến nghị những
hiệp định quốc tế cần thiết để khuyến khích tự do giao lưu tư tưởng bằng
ngôn từ và hình ảnh.
b, Thúc đẩy mạnh mẽ việc giáo dục quần chúng và truyền bá văn hóa:
- Bằng cách hợp tác với các nước hội viên trong việc phát triển các
hoạt động giáo dục theo yêu cầu của từng nước;
- Bằng sự hợp tác giữa các quốc gia nhằm thực hiện từng bước lý
tưởng bình đẳng vì giáo dục cho mọi người, không phân biệt chủng tộc,
nam nữ, hoặc bất cứ một sự phân biệt nào khác về kinh tế hay xã hội;
- Bằng cách đề xuất những phương pháp giáo dục thích hợp nhất để

luyện tập thiếu nhi toàn thế giới về trách nhiệm của con người tự do;
c, Duy trì, tăng cường và truyền bá kiến thức:
- Bằng cách bảo tồn và bảo vệ di sản thế giới về sách báo tác phẩm
nghệ thuật và các di tích lịch sử hay khoa học, và bằng cách khuyến nghị
với các nước hữu quan về các công ước quốc tế cần thiết;
- Bằng cách khuyến khích hợp tác giữa các quốc gia về tất cả các
nghành hoạt động trí óc, kể cả việc trao đổi quốc tế những người có kinh
nghiệm trong lĩnh vực giáo dục, khoa học và văn hóa, và việc trao đổi sách
báo xuất bản, tác phẩm nghệ thuật, dụng cụ thí nghiệm và các tư liệu có ích;
- Bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả các dân tộc thưởng
thức xuất bản phẩm của mỗi nước thông qua những phương pháp hợp tác
quốc tế thích hợp” [UNESCO là gì tr7,8].
9
Trong giai đoạn hiện nay bên cạnh các lĩnh vực truyền thống theo
công ước thành lập, UNESCO mở rộng thêm một số lĩnh vực hoạt động
quan trọng đó là thông tin – truyền thông. Có thể nói “Ngày nay UNESCO
hoạt động như một trung tâm thí điểm các ý tưởng và định chuẩn nhằm
thúc đấy việc ký kết các thỏa thuận quốc tế về các vấn đề đạo đức đang nổi
lên. UNESCO cũng hoạt động như một trung tâm sàng lọc thông tin phục
vụ cho việc truyền bá và chia sẻ thông tin, kiến thức giúp các nước thành
viên trong quá trình xây dựng năng lực thể chế và cá nhân trên các lĩnh vực
khác nhau. Tóm lại UNESCO thúc đẩy hợp tác quốc tế giữa các nước thành
viên trên lĩnh vực giáo dục, khoa học, văn hóa và truyền thông” [Nửa thế
kỷ tồn tại và phát triển của UNESCO – Quan hệ Việt Nam UNESCO- 1995
tr3]
Thông qua mục đích và hoạt động thực tiễn trong mấy chục năm qua
UNESCO có các chức năng cơ bản sau:
i. UNESCO là một cở sở thí nghiệm các ý tưởng (laboratory of
ideas), với “nhiệm vụ trí tuệ của nó là đoán định những vấn đề đang nổi lên
quan trọng nhất là các lĩnh vực hoạt động của mình và đề ra những chiến

lược và chính sách phù hợp để giải quyết những vấn đề đó” (Vai trò của
Unesco trong TK XXI tr 35).
ii. UNESCO là một tổ chức soạn thảo quy chuẩn (standard – setter),
xây dựng những văn kiện quy chuẩn thu thập được sức cố kết và hỗ trợ
quốc tế, và nhất là những văn kiện sẽ được hội nhập vào pháp luật và quy
tắc quốc gia.
iii. UNESCO là một trung tâm giao dịch (clearing house),
“UNESCO đóng một vai trò quan trọng trong việc tập hợp, chuyển giao,
truyền bá, chia sẻ các thông tin, tri thức và những kinh nghiệm thực tiễn tốt
nhất” (Vai trò của Unesco tr37)
10
iiii.UNESCO là một tổ chức tạo dựng năng lực (capacity – builder),
tạo dựng năng lực cho con người và cho các thiết chế trong các lĩnh vực
giáo dục, khoa học, văn hóa, truyền thông.
iiiii. UNESCO là nhân tố xúc tác cho hợp tác quốc tế (catalyst for
international cooperation) không những giữa các nước thành viên mà cả
giữa những tổ chức phi chính phủ.
1.1.3 Cơ cấu tổ chức.
- Đại hội đồng.
Đại hội đồng là cơ quan quyền lực cao nhất, gồm đại biểu các nước
thành viên. Hội đồng quyết định đường lối chính sách, kết nạp thành viên
mới, bầu hội đồng chấp hành và tổng giám đốc, thông qua chương trình và
biểu quyết ngân sách.
Kỳ họp thứ nhất của Đại hội đồng diễn ra ở Pari (11/1946), họp mỗi
năm một lần. Đến năm 1952, cứ sau hai năm Đại hội đồng lại họp một lần.
Ngôn ngữ làm việc tại Đai hội đồng gồm tiếng Ả Rập, Trung Quốc, Anh,
Pháp, Nga, Tây Ban Nha.
- Hội đồng chấp hành.
Hội đồng chấp hành là cơ quan thay mặt Đại hội đồng trong thời
gian giữa hai kỳ họp Đại hội đồng có nhiệm vụ: giám sát thực hiện chương

trình và quản lý ngân sách; duy trì quan hệ tham khảo ý kiến với Liên Hợp
Quốc, tòa án quốc tế và các tổ chức quốc tế khác thuộc Liên Hợp Quốc; lập
chương trình nghị sự và chuẩn bị cho Đại hội đồng, nghiên cứu và dự thảo
chương trình và ngân sách do tổng giám đốc đệ trình và đưa dự thảo này ra
Đại hội đồng với những ý kiến cần thiết; đề nghị kết nạp thành viên mới,
giới thiệu người ứng cử vào chức vụ tổng giám đốc.
Hội đồng chấp hành gồm 58 ủy viên với nhiệm kỳ 4 năm. Để đảm
bảo tính liên tục của Hội đồng chấp hành sau 2 năm Đại hội đồng bầu lại
một nửa số ủy viên Hội đồng chấp hành. Việc bầu ủy viên Hội đồng chấp
11
hành có tính đến sự đa dạng văn hóa cung như khu vực địa lý mà ứng viên
đó đại diện. Các ủy viên Hội đồng chấp hành có vai trò quan trọng trong
việc vạch chiến lược và xây dựng chương trình hành động của UNESCO.
Hội đồng chấp hành họp 2 năm một lần.
- Ban thư ký.
Ban thư ký là cơ quan thường trực, bảo đảm hoạt động thường xuyên
của UNESCO, thi hành quyết định của Đại hội đồng và Hội đồng chấp
hành nhất là việc thực hiện các chương trình đã được Đại hội đồng thông
qua.
Về nguyên tắc, Ban thư ký được tuyển chọn trên cơ sở địa lý rộng rãi
gồm những người có năng lực và hiệu suất công tác cao. Các nước thành
viên có quyền đề cử người để được tuyển lựa làm viên chức trong ban thư
ký theo số lượng nhất định quy định theo theo tỉ lệ đóng góp niên liễm của
mỗi nước. Ban thư ký do tổng giám đốc lãnh đạo, tổ chức, tuyển dụng. Cho
đến tháng 1/2007, Ban thư ký gồm 2100 thành viên từ 170 nước.
Tổng giám đốc là viên chức cao nhất của UNESCO do Đại hội đồng
bầu ra với nhiệm kỳ 6 năm (có thể tái cử). Tổng giám đốc có nhiệm vụ đảm
bảo hoạt động thường xuyên của UNESCO, dự thảo chương trình và ngân
sách, thực hiện chương trình và quản lý ngân sách, chịu trách nhiệm về mọi
sáng kiến và quyết định trong phạm vi quyền hạn của mình. Từ khi thành

lập đến nay, UNESCO đã có 9 tổng giám đốc và hiện nay ông Koichiro
Matsuura người Nhật đảm nhiện chức vụ này, thông qua hai nhiệm kỳ I,
1999- 2005 và nhiệm kỳ II, từ 2005 đến nay.
- Văn phòng khu vực.
Theo chính sách phi tập trung hóa nên ngoài trụ sở chính của
UNESCO ở Pari, UNESCO còn có 58 văn phòng khu vực với hơn 700
nhân viên ở nhiều quốc gia khu vực trên thế gới.
12
Văn phòng khu vực có nhiệm vụ triển khai các nội dung chương
trình của UNESCO theo đặc thù tình hình của khu vực và các quốc gia mà
nó phụ trách. Ở Châu Á, có văn phòng khu vực tại Băng cốc Thái Lan (Phụ
trách giáo dục, văn hóa); tại Jakarta – Inđônêxia (phụ trách về khoa học);
Văn phòng tại New Đêli (phụ trách về truyền thông) và một số các văn
phòng quốc gia khác.
1.1.4 Các mối quan hệ của UNESCO.
- UNESCO với Liên Hợp Quốc và các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp
Quốc.
Theo thỏa ước được Đại hội đồng UNESCO lần thứ nhất thông qua
ngày 6/12/1946 và được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc chấp thuận ngày
14/12/1946, UNESCO là cố vấn kỹ thuật của Liên Hợp Quốc về các lĩnh
vực thuộc thẩm quyền của UNESCO: giáo dục, khoa học, văn hóa, thông
tin. Đồng thời UNESCO cũng là cơ quan thực hiện các nghị quyết của Liên
Hợp Quốc về những lĩnh vực đó.
Khác với các cơ quan trực thuộc của Liên Hợp Quốc khác như
UNDP (Chương trình hỗ trợ Phát triển của Liên Hợp Quốc), UNCTAD
(Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển), UNICEF (Quỹ
Nhi đồng Liên Hợp Quốc) …có quyền quan hệ trực tiếp với Đại hội đồng
Liên Hợp Quốc, UNESCO cũng như các cơ quan chuyên môn khác quan
hệ với Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua Hội đồng Kinh tế và Xã hội
(ECOSOC) và hàng năm gửi báo cáo lên hội đồng này. UNESCO và Liên

Hợp Quốc thường xuyên tham khảo ý kiến và tham dự những hội nghị của
nhau nhưng không có quyền biểu quyết.
UNESCO có quan hệ ngang với các tổ chức chuyên môn khác như
FAO (Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc), ICAO (Tổ
chức Hàng không Dân dụng Quốc tế), ILO (Tổ chức lao động Quốc tế),
WHO (Tổ chức y tế Thế giới), IMF (Quỹ tiền tệ Quốc tế) cũng như với
13
các cơ quan trực thuộc của Liên Hợp quốc, chủ yếu là về các vấn đề chính
sách và những “chương trình hành động phối hợp”. Các “Chương trình
ngoài ngân sách” của UNESCO chủ yếu do các tổ chức khác của Liên Hợp
Quốc tài trợ (UNDP, UNICEF, UNCTAD, FAO ) nhưng việc thiết kế và
thực hiện do các đơn vị nghiệp vụ của UNESCO đảm nhiệm.
- UNESCO với các nước thành viên.
Tất cả các nước thành viên của Liên Hợp Quốc đều có thể là thành
viên của UNESCO. Các nước ngoài Liên Hợp Quốc có thể gia nhập
UNESCO nếu được 2/3 Đại hội đồng UNESCO chấp nhận. Ngoài thành
viên chính thức, UNESCO còn có một số thành viên liên kết. Nước thành
viên nào bị khai trừ khỏi Liên Hợp Quốc mặc nhiên sẽ không còn là thành
viên của UNESCO. Bất cứ nước thành viên hoặc thành viên liên kết nào
cũng có thể xin ra khỏi UNESCO theo những thủ tục và điều kiện nhất
định. Trong lịch sử UNESCO đã từng có các nước xin ra khỏi UNESCO
như Mỹ (năm 1984), Anh và Singapore (năm 1985). Sau một thời gian rút
khỏi UNESCO, Mỹ và Anh đã quay trở lại Tổ chức này (Anh năm 1997
và Mỹ năm 2003). Với việc gia nhập UNESCO của Cộng hoà Montenegro
tháng 3/2007, hiện nay UNESCO gồm 192 nước thành viên và 6 thành
viên liên kết.
Công ước thành lập UNESCO quy định tại mỗi nước thành viên có
một Ủy ban quốc gia gồm đại diện của chính phủ, các bộ/ngành liên quan
và các nhân vật có khả năng hoạt động về giáo dục, khoa học, văn hóa
thông tin. Đối với UNESCO, Ủy ban quốc gia có chức năng tư vấn, liên

lạc, thông tin và thực hiện. Nhiệm vụ của UBQG do chính phủ mỗi nước
quy định.Các nước thành viên cử phái đoàn thường trực của mình bên cạnh
tổ chức đảm bảo quyền liên hệ trực tiếp với UNESCO.
- Các mạng lưới chuyên môn của UNESCO.
14
UNESCO hoạt động dựa trên sự hợp nhất giữa giữa những người
hoạt động đa dạng trong một cộng đồng phù hợp với cộng đồng quốc tế.
Các mạng lưới của UNESCO và các đối tác là hạt nhân của cộng đồng này.
Tất cả ăn ý với nhau sẽ hiện thực hoá được các ý tưởng của UNESCO và
các giá trị chân chính của thế giới này, ở mức độ địa phương, quốc gia và
quốc tế. UNESCO hợp tác với mạng lưới đối tác để triển khai các hoạt
động của mình. Hiện nay UNESCO có: Khoảng 100 ủy ban tư vấn, các ủy
ban quốc tế và các hội đồng liên chính phủ được thành lập để thực hiện
những nhiệm vụ cụ thể của UNESCO; Có khoảng 4000 các Hiệp hội,
Trung tâm, các Câu lạc bộ UNESCO ở 100 nước truyền bá ý tưởng
UNESCO và thực hiện các hoạt động UNESCO cơ sở; Có 7900 các
Trường liên kết ở 176 nước giúp thế hệ trẻ hình thành thái độ khoan dung
và hiểu biết quốc tế; Hơn 355 tổ chức phi chính phủ (NGO) duy trì quan hệ
trực tiếp với UNESCO; Một nhóm gồm hơn 40 nhân vật nổi tiếng – Đại sứ
thiện chí UNESCO – dùng tài năng và địa vị của mình để giúp mọi người
thế giới chú ý đến công việc và nhiệm vụ mà UNESCO thực hiện; Hơn 580
Giáo sư đại học và 65 các trường kết nghĩa bao gồm mạng lưới
UNITWIN/UNESCO khuyến khích việc nghiên cứu, đào tạo và phát triển
giáo dục đại học;179 nước thành viên có phái đoàn thường trực bên cạnh
UNESCO; Các nghị sĩ có vai trò quan trọng đối với UNESCO trong quan
hệ với các tổ chức khu vực và quốc tế nhằm thúc đẩy hòa bình và phát triển
thông qua giáo dục và dân chủ.
So với các tổ chức khác trong hệ thống Liên Hợp Quốc UNESCO có
những điểm khác biệt: Do tính chất và phạm vi hoạt động đa dạng trên
nhiều lĩnh vực chuyên môn nên UNESCO đã tạo được một mạng lưới hợp

tác rộng rãi với hàng trăm đầu mối quốc gia và quốc tế, bao gồm các tổ
chức liên chính phủ, các tổ chức phi chính phủ; Là tổ chức liên chính phủ
duy nhất hoạt động trên cơ sở hệ thống các Uỷ ban Quốc gia tại các nước
15
thành viên; Là tổ chức chuyên môn duy nhất trong hệ thống Liên Hợp
Quốc có mạng lưới quốc gia và quốc tế gồm các tổ chức của quần chúng
hoạt động theo tiêu chí của UNESCO mà được mang tên của UNESCO để
hoạt động, đó là các Câu lạc bộ UNESCO, các Trung tâm UNESCO và các
Hội UNESCO, tập hợp thành Hiệp hội UNESCO ở các quốc gia, Hiệp hội
UNESCO khu vực ở các khu vực địa lý và Hiệp hội UNESCO thế giới.
1.5 Nguồn tài chính.
Tài chính UNESCO được xây dựng từ hai nguồn ngân sách:
- Nguồn ngân sách thường xuyên: thu từ đóng góp tài chính bắt buộc
của các nước thành viên. Mức đóng góp của các nước căn cứ tiềm năng
kinh tế của mỗi quốc gia. Năm 2000 số lượng các quốc gia thành viên
nghèo nhất chỉ phải đóng góp 0,001% ngân sách thường xuyên của
UNESCO (có khoảng 40 nước). Mức đóng góp cao hơn một chút (có
khoảng vài chục quốc gia) đóng góp 2%. Với mức đóng góp 25% trong
tổng ngân sách thường xuyên Nhật Bản trở thành nhà bảo trợ tài chính chủ
yếu của UNESCO. Ngân sách Thường xuyên hai năm 2002-2003 của
UNESCO là 544 triệu USD, cho giai đoạn 2004-2005 là 610 triệu USD, và
những con số này vẫn rất khiêm tốn nếu so sánh với ngân sách thường
xuyên của các tổ chức quốc tế khác như UNICEF hoặc UNHCR (cả hai tổ
chức này có nguồn ngân sách riêng lớn gấp bốn lần của UNESCO). Nguồn
ngân sách thường xuyên được sử dụng để duy trì bộ máy hoạt động của
Ban Thư ký UNESCO, phần còn lại dành cho các chương trình hoạt động
đã được Đại hội đồng thông qua, gọi là các Chương trình Ngân sách.
- Nguồn ngoài ngân sách: Ngoài ra nhiều chương trình hoạt động của
UNESCO được triển khai nhờ các nguồn đóng góp ngoài ngân sách (đóng
góp không bắt buộc, không thường xuyên, đột xuất) từ các quốc gia hoặc

các tổ chức, cá nhân khác hoặc do UNESCO tiến hành vận động để giúp
các quốc gia thực hiện các dự án ngoài ngân sách. Nguồn ngân sách này
16
gọi là Ngân sách Không thường xuyên. Các chương trình hoạt động bằng
nguồn ngân sách này gọi là các Chương trình Ngoài ngân sách. Đây là một
nguồn tài chính đáng kể hàng năm bổ sung vào ngân sách của UNESCO để
triển khai các chương trình và dự án ở các quốc gia thành viên dưới các
hình thức viện trợ kỹ thuật, thiết bị, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Tuy
nhiên UNESCO không có toàn quyền quyết định việc sử dụng nguồn đó.
Ngân sách Không thường xuyên của UNESCO trong khoá ngân sách 2002-
2003 đạt được là 400 triệu USD.
Ngoài ra còn có quỹ đặc biệt: Do vận động sự đóng góp tự nguyện
của quốc tế. Đây là nguồn ngân sách được sử dụng trong việc viện trợ khẩn
cấp, do thiên tai, chiến tranh gây ra đối với các công trình văn hóa hoặc
trường học…
1.1.6 Quá trình phát triển.
Trong khoảng thời gian 10 đầu sau khi thành lập (từ năm 1945 đến
năm 1958). Đây là giai đoạn UNESCO hoàn toàn bị các nước đế quốc mà
chủ yếu là Mĩ khống chế. Trong giai đoạn này UNESCO biến thành một
công cụ để thực hiện chính sách đế quốc về văn hóa, tuyền truyền chống
chủ nghĩa cộng sản và gây chiến tranh lạnh. Trong thời gian này các chức
vụ chủ chốt của UNESCO đều nằm trong tay các nước Phương Tây, địa
bàn hoạt động ở các nước tư bản. Tuy nhiên trong giai đoạn này UNESCO
đã đưa ra những chính sách có tiến bộ như: năm 1948, UNESCO khuyến
nghị với các nước thực hiện chế độ giáo dục bắt buộc và miễn phí trên
phạm vi toàn cầu đối với trình độ tiểu học; năm 1952, một Hội nghị liên
chính phủ đã được UNESCO triệu tập để thông qua Công ước Quốc tế về
Quyền tác giả. Công ước này góp phần tăng cường khả năng bảo vệ quyền
tác giả đối với một số quốc gia trước đây chưa có điều kiện tham gia công
ước Berne về Bảo vệ các tác phẩm văn học và Nghệ thuật (được ký từ năm

17
1886). Một sự kiện quan trọng trong lịch sử UNESCO giai đoạn này đó là
vào năm 1958 khu nhà trụ sở của UNESCO tại Pari đã được khánh thành.
Từ năm 1960, hàng loạt các nước Châu Phi giành được độc lập và ra
nhập UNESCO chỉ tính riêng trong hai năm 1960 -1962 đã có tới 24 quốc
gia Châu Phi được kết nạp thành thành viên UNESCO. Việc các nước mới
giải phóng tham gia UNESCO đã góp phần làm giảm dần từng bước địa vị
thống trị của các nước tư bản trong tổ chức UNESCO. Trong giai đoạn này
UNESCO thực hiện nhiều chương trình thiết thực tiêu biểu việc UNESCO
đã phát động chiến dịch Nubia ở Ai Cập nhằm dịch chuyển Đền thờ vĩ đại
ở Abu Simbel đến vị trí an toàn để bảo tồn sau khi Ai Cập xây dựng đập
nước Aswan năm 1960, chiến dịch này thực hiện thành công trong vòng 20
năm. Bên cạnh đó trong giai đoạn này lần đầu tiên Hội nghị liên chính phủ
đã được tổ chức năm 1968, hướng tới việc giải quyết mối quan hệ giữa
môi trường và phát triển, mà hiện nay thường gọi là “phát triển bền vững”.
Hội nghị này là cơ sở đưa tới sự ra đời chương trình toàn cầu của UNESCO
mang tên “Con người và Sinh quyển”.
Từ năm 1972, có thêm nhiều nước mới giành được độc lập, các nước
dân chủ tham gia UNESCO. Đại Hội đồng lần thứ 18, năm 1974 có đại
biểu của 135 nước hội viên tham gia. Trong giai đoạn này UNESCO thông
qua nhiều nghị quyết tích cực như: Ủng hộ phong trào giải phóng Palextin,
lên án tập đoàn Pi- nô - chê ở Chi Lê vi phạm nhân quyền…Năm 1972,
UNESCO thông qua một công ước quan trọng liên quan đến việc bảo vệ
các Di sản văn hóa và Di sản thiên nhiên thế giới. Sau đó, Ủy ban di sản thế
giới được thành lập vào năm 1976 và những Di sản đầu tiên được đưa vào
danh sách di sản thế giới năm 1988. Năm 1980, Hai tập sách đầu tiên Lịch
sử Đại cương về Châu Phi của UNESCO được phát hành, tiếp sau đó các
tập sách tương tự về các khu vực khác như Lịch sử vùng Trung Á và
Caribê cũng được ra đời. Mặc dù giai đoạn này UNSCO cũng đã có nhiều
18

chính sách tiến bộ. Tuy nhiên, dưới ảnh hưởng của các nước lớn, UNESCO
đưa ra bản tuyên bố về Chủng tộc và thành kiến về chủng tộc, đi ngược với
xu thế tiến bộ và có những ảnh hưởng không tốt đến uy tín của tổ chức.
Năm 1984, do sự bất đồng quan điểm mà Hoa Kỳ đã rút khỏi
UNESCO, sau đó một năm các nước Anh và Singapo cũng rút khỏi tổ
chức. Đây là 3 nước có đóng góp tài chính lớn mang tính sống còn đối với
hoạt động của UNESCO. Việc rút lui của Mĩ, Anh đã gây nhiều sóng gió
về chính trị và tài chính cho UNESCO trong một thời gian dài. Tuy nhiên
UNESCO vượt qua những khó khăn này và tiếp tục đưa ra những ý tưởng
những chương trình hoạt động thiết thực. Năm 1990, UNESCO tổ chức Hội
nghị về “Giáo dục cho tất cả mọi người tại Jomtiem, Thái Lan. Hội nghị
cũng đã phát động phong trào quốc tế về tạo điều kiện phổ cập học tập cơ
bản cho trẻ em, thanh niên và người lớn. Năm 1992, UNESCO thành lập
“bộ nhớ” cho các chương trình quốc tế trên lĩnh vực bảo quản các thư viện
gồm những sản phẩm văn hóa không thể thay thế được và bảo quản các bộ
sưu tầm đang được lưu giữ.
Năm 1999 là mốc đánh dấu quá trình cải cách cử Tổng giám đốc
Kochiro Matsuura. Ông đã tiến hành cải cách tổng thể cơ cấu và thực hiện
chính sách phi tập trung hóa bộ máy công chức và hoạt động nghiệp vụ của
UNESCO. Năm 2001, Đại Hội đồng UNESCO thông qua Bản tuyên bố
Quốc tế về tính đa dạng văn hóa. Đến năm 2004 Hoa Kỳ quay lại
UNESCO.
Hơn nửa thế kỷ tồn tại và phát triển, UNESCO trải qua những giai
đoạn thăng trầm, có lúc UNESCO rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm
trọng cả về tổ chức và tài chính. Tuy nhiên, vượt ra tất cả những khó khăn
ấy UNESCO vẫn tiếp tục phát triển và ngày càng lớn mạnh, từ 37 quốc gia
ban đầu đến ngày nay tổ chức này đã quy tụ tới 191 quốc gia thành viên, sự
tham gia đông đảo này làm cho uy tín của UNESCO không ngừng nâng
19
cao, nhiều chương trình, ý tưởng tiến bộ về văn hóa, khoa học, giáo dục,

thông tin truyền thông đã đạt được sự nhất trí của cao tại diễn đàn đa
phương này. Không chỉ đưa ra các ý tưởng, UNESCO còn là nơi có khả
năng đạt được những giải pháp phối hợp hành động có hiệu lực mang tính
quốc tế. Nhờ những nội dung và phương pháp hành động mà UNESCO đề
ra không những đáp ứng được đòi hỏi của các quốc gia thành viên mà còn
mang tính giải pháp quốc tế. Đó chính là cơ sở UNESCO tồn tại và tiếp tục
phát triển trong tương lai.
1.1.7 Vai trò của UNESCO trong giai đoạn hiện nay.
Từ sau chiến tranh lạnh kết thúc nhất là từ đầu thế kỷ XXI, mỗi cá
nhân, mỗi cộng đồng, quốc gia đã và đang chịu tác động rất sâu sắc của quá
trình toàn cầu hóa. Với một tốc độ thay đổi đáng kinh ngạc – toàn cầu hóa,
cộng thêm thành những tựu trong cuộc cách mạng công nghệ và truyền
thông, làm cho thế giới dường như nhỏ bé hơn. Thời gian và không gian
không còn là rào cản như xưa nữa. Tuy nhiên quá trình này chỉ mang lại lợi
ích cho một nhóm người tương đối nhỏ bé. Còn mặt trái của nó ngày càng
rõ nét như nó làm rộng khoảng cách chênh lệch giữa các quốc gia và trong
nội bộ từng quốc gia. Chính vì thế UNESCO đã triển khai một hành động
bền vững và đồng bộ nhằm nhân đạo hóa quá trình toàn cầu hóa. Tại Đại
hội UNESCO ở Pari năm 2001, tổ chức này đã đặt nhiệm vụ “Nhân đạo
hóa quá trình toàn cầu hóa” lên hàng đầu của chương trình nghị sự những
năm tới. Tại đây đã nhất trí rằng chủ đề thống nhất của “Chiến lược trung
hạn 2002 -2007” của UNESCO sẽ là: Góp phần vào hòa bình và phát triển
con người trong kỷ nguyên toàn cầu hóa thông qua giáo dục, khoa học, văn
hóa, truyền thông.
Tuy nhiên, vai trò của UNESCO chỉ thể hiện ở việc “cung cấp và tư
vấn những thử nghiệm và kinh nghiệm thành công cũng như thất bại để các
nước thành viên tự trao đổi, phân tích đúng sai nhằm áp dụng vào thực tế
20
nước mình”, ngoài ra “UNESCO cũng đảm nhiệm việc cung cấp, giới thiệu
chuyên gia giỏi trong nhiều lĩnh vực chuyên môn để giúp các nước thành

viên thực hiện các chương trình, dự án hợp tác về kinh tế, khoa học và văn
hóa”,[nửa thế kỷ tồn tại và phát triển – quan hệ Việt Nam UNESCO tr5]
Chứ UNESCO hoàn toàn không áp đặt các mô hình của mình để buộc các
nước thành viên phải chấp nhận một cách máy móc.
Trong giáo dục, UNESCO đã thực hiện nhiều sáng kiến và các
chương trình chiến lược dài hạn nhằm thúc đẩy sự nghiệp xóa mù chữ, phổ
cập giáo dục tiểu học đối với các nước đang phát triển ở Châu Phi, Châu Á
và các nước Mĩ La Tinh. Những năm 80, 90 của thế kỷ trước UNESCO
thực hiện các chương trình giáo dục cho mọi người. Hiện nay, ưu tiên của
UNESCO trong giáo dục đó là xúc tiến giáo dục cơ sở với chất lượng tốt
cho hết thảy mọi người đúng như chủ trương giáo dục tại “Diễn đàn giáo
dục thế giới” họp tại Daka Sênêgan tháng 4/ 2000. Thực tế chứng minh
rằng “Toàn cầu hóa không vận hành để phục vụ cho 113 triệu trẻ em không
được truy cập bậc sơ học, 880 triệu người lớn đang mù chữ và rất nhiều
triệu phụ nữ và trẻ em gái vì nạn phân biệt giới mà không tranh thủ được cơ
hội giáo dục và cơ may trong cuộc sống”. [Vai trò của UNesco tr20]
Diễn đàn giáo dục tại Dakar, đã đạt được sự nhất trí cao của cộng
đồng quốc tế về các mục tiêu và mục đích đặc thù của nền giáo dục, vì thế
mà nguồn viện trợ sẽ được trực tiếp chuyển tới các nước Châu Phi Nam
Sahara và Nam Á, các nước chậm phát triển nhất ở các khu vực khác, cũng
như các quốc gia đang lâm vào khủng hoảng hoặc vừa mới thoát khỏi
khủng hoảng.
Trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, vai trò của UNESCO thể hiện
trong việc bảo vệ nguồn tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên nước và hệ sinh
thái. Trên thực tế hiện nay, nước là loại tài nguyên đang bị suy giảm một
cách nghiêm trọng, do tình trạng chặt phá rừng và nhiều nguyên nhân khác.
21
Trong khi đó nhu cầu nước của thế giới lại tăng. Để bảo vệ tài nguyên nước
và hệ sinh thái, UNESCO đã và đang thực hiện nhiều chương trình như:
Chương trình thủy văn quốc tế, Chương trình Hải dương học liên chính

phủ, Chương trình quốc tế Liên hệ địa chất, Chương trình “con người và
sinh quyển”… Ngoài ra UNESCO còn thành lập “Viện giáo dục về nước
UNESCO – IHE” (Institute for water education) tại Hà Lan; UNESCO bảo
trợ cho việc thành lập Trung tâm khu vực về quản lý nguồn nước đô thị tại
Têhêran; Trung tâm khu vực về đào tạo và nghiên cứu nguồn nước tại các
vùng khô hạn và nửa khô hạn tại Ai Cập cũng do UNESCO bảo trợ.
Trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, UNESCO đặc biệt chú
trọng vào đạo đức trong khoa học và công nghệ, đảm bảo cho khoa học
được sử dụng cho hòa bình và cuộc sống con người. UNESCO là tổ chức đi
tiên phong trong việc hậu thuẫn cho bản “Tuyên ngôn toàn thế giới về bản
đồ gien người và quyền con người” được Đại hội Đông Liên Hợp Quốc phê
chuẩn thành văn kiện chính thức năm 1998. Bên cạnh đó UNESCO đã
nghiên cứu một cách tổng quát những vấn đề cơ bản của thế giới, từ đó đề
ra những dự báo về xu hướng phát triển xã hội trong các thập kỷ tới đây
như: Vấn đề phụ nữ, thanh niên, tình trạng phân biệt đối xử về giới; sự phát
triển chênh lệch giữa các vùng nông thôn và thành thị.
Vai trò của UNESCO trong lĩnh vực văn hóa và di sản văn hóa.
UNESCO chủ trương bảo vệ đa dạng văn hóa, xúc tiến đa phương văn hóa
và đối thoại liên văn hóa. Tại đại hội UNESCO năm 2001 đã ra “Tuyên
ngôn toàn thế giới về đa dạng văn hóa”. Sau đó “công ước bảo vệ và phát
huy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa” cũng được Đại họi đồng thông
qua vào năm 2005.
UNESCO đặc biệt quan tâm đến việc bảo tồn và phát huy các giá trị
di sản văn hóa (vật thể và phi vật thể), các di sản thiên nhiên thế giới. Cho
đến nay “UNESCO đã công nhận 830 khu di sản thế giới (trong đó có 644
22
di sản văn hóa, 162 di sản thiên nhiên và 24 di sản hỗn hợp văn hóa – thiên
nhiên của 184 quốc gia) và 90 kiệt tác di sản phi vật thể và truyền khẩu của
nhân loại” [trích thông tin cơ bản về Unesco và quan hệ với Việt Nam _
trang web www.mofa.gov.vn]. Việc công nhận công nhận các di sản thế

giới góp phần tôn vinh các giá trị văn hóa của các quốc gia, giúp cho việc
phục hồi và bảo vệ những di sản đó. UNESCO có đóng góp to lớn trong
việc góp phần nâng cao nhận thức chung của cộng đồng quốc tế trong việc
giữ gìn bảo vệ di sản văn hóa, và thấy được vai trò, vị trí của văn hóa trong
sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trên lĩnh vực thông tin và truyền thông, UNESCO nhấn mạnh hơn
hết vào việc xác tiến tự do lưu thông tư tưởng và đảm bảo cho mọi người
được truy cập thông tin. Theo ước tính trên thế giới có đến 60% dân số cho
đến nay chưa từng một lần gọi điện thoại. Vì thế mà UNESCO xúc tiến
triển khai chương trình “Thông tin cho tất cả mọi người” với mục tiêu mở
rộng sự tham gia của tất cả mọi người trong xã hội tri thức, góp phần thu
hẹp hố ngăn cách giàu nghèo giữa các nước các cộng đồng trên lĩnh vực
thông tin.
Trong giai đoạn hiện nay, khi mà quá trình toàn cầu hóa phát triển
sâu rộng làm nảy sinh nhiều vấn đề mà bản thân mỗi cộng đồng mỗi quốc
gia không thể tự giải quyết được, vai trò của UNESCO – với tư cách là một
tổ chức quốc tế liên chính phủ, ngày càng được thể hiện rõ nét. UNESCO
đã và đang giúp cho thế giới giảm bớt sự chênh lệch giàu nghèo, đảm bảo
cho con người những quyền cơ bản, mọi người đều có cơ hội để đến
trường, UNESCO giúp cho việc giải quyết những vấn đề mang tính toàn
cầu như: các vấn đề ô nhiễm môi trường cạn kiệt nguồn tài nguyên, đại
dịch HIV/AIDS… Quan trọng hơn cả, UNESCO tôn vinh các di sản văn
hóa của các quốc gia không phân biệt lớn nhỏ, góp phần vào việc bảo vệ,
23
tôn tạo các di sản văn hóa của nhân loại, nâng cao nhận thức của người
dân, xúc tiến sự hợp tác liên văn hóa…
Chắc chắn rằng quá trình toàn cầu hóa vẫn chưa được hoàn tất, nó sẽ
đặt ra nhiều vấn đề cho tương lai, để giải quyết những “bài toán” đó rất cần
đến những tổ chức như UNESCO. Vì thế, vai trò của UNESCO ngày càng
trở lên cần thiết cho sự phát triển bền vững của thế giới.

1.1.8 Quá trình cải tổ và những thách thức mà UNESCO phải đối mặt.
- Quá trình cải tổ.
Bước vào những năm 90, tình hình quốc tế thay đổi. “Trật tự hai cực
Ianta” được thiết lập từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã bị sụp đổ hoàn
toàn, trật tự thế giới mới đang dần được hình thành. Trong khi Mĩ đang cố
gắng điều khiển thế giới theo một trật tự của mình, các nước Tây Âu, Nhật
Bản, Trung Quốc … vươn lên mạnh mẽ cạnh tranh khốc liệt với Mĩ. Tình
hình quốc tế có thay đổi buộc Liên Hợp Quốc tiến hành cải tổ bộ máy,
phương thức làm việc, các chương trình hành động tăng cường hiệu quả
của tổ chức. Là nột tổ chức chuyên môn lớn của Liên Hợp Quốc,UNESCO
tiến hành quá trình cải tổ. Năm 1999, ông Koichiro Matsuura người Nhật
giữu chức Tổng giám đốc UNESCO và đã tiến hành công cuộc cải tổ. Cho
đến nay cuộc cải tổ, đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. UNESCO
ngày càng tỏ rõ tính thích ứng của mình trong việc giải quyết các vấn đề
toàn cầu như thúc đẩy hòa bình thông qua đối thoại giữa các nền văn hóa
và văn minh, ngăn ngừa thiên tai thông qua giáo dục và chia xẻ kiến thức
khoa học, và là tổ chức điều phối hiệu quả của các chương trình lớn của hệ
thống Liên Hợp Quốc ở cấp quốc gia và quốc tế. Các nước lớn như Mỹ,
Pháp, EU, Nhật, Trung quốc đang cố gắng gây ảnh hưởng đối với các
hoạt động của UNESCO và trong một số vấn đề cụ thể đã xuất hiện những
mâu thuẫn giữa một số nước, như giữa Mỹ và EU trong việc thông qua Dự
thảo “Công ước về bảo vệ và thúc đẩy sự đa dạng các biểu đạt văn hóa”
24
Hai nội dung thành công nhất của quá trình cải tổ là sắp xếp lại tổ
chức trong Ban thư ký và triển khai thực hiện phi tập trung hóa.
+ Chính sách cán bộ và điều hành công việc.
Kể từ khi tiến hành cải tổ cho đến nay, UNESCO đã đạt được những
thành tựu đáng kể trong chính sách cán bộ. Với tổng số 11 chính sách mới
về vấn đề cán bộ, UNESCO đã trở thành tổ chức đi đầu trong hệ thống
Liên Hợp Quốc về cải tổ bộ máy. UNESCO đã đưa ra được các chính sách

tuyển dụng cán bộ dựa trên chất lượng; hệ thống báo cáo quá trình giải
quyết công việc dựa vào kết quả; chính sách nâng cao trình độ chuyên môn,
điều động cán bộ và đào tạo lại một cách hợp lý; chính sách phân bổ các vị
trí làm việc đáp ứng các mục tiêu chiến lược của UNESCO trong thập kỷ
tới, nhằm đảm bảo UNESCO thực sự trở thành một tổ chức của thế kỷ 21.
Tuy nhiên, còn một số vấn đề tồn tại, đó là việc nâng cao nhận thức, thông
tin và đào tạo cùng với chính sách luân chuyển tích cực cần phải thúc đẩy,
tạo điều kiện cho một “văn hóa cộng tác” trong làm việc vẫn còn thiếu.
+ Quá trình phi tập trung hóa.
Với việc đưa ra mô hình các văn phòng phụ trách một số nước có
tính liên ngành mà ở đó, các chương trình hoạt động chính được triển khai
ở các nước thành viên, cơ cấu hợp tác này của UNESCO đã được các nước
thành viên chấp nhận, thể hiện tính thích ứng của việc phi tập hóa này. Tuy
nhiên, cần có một số điều chỉnh như tăng thêm nhân lực, trao thêm thẩm
quyền, đưa ra các phương tiện quản lý điều hành mới, và cần tham khảo
thường xuyên với trụ sở chính và với các Ủy ban quốc gia.
Hiện nay UNESCO đang tham gia vào chương trình cải tổ của Liên
Hợp Quốc với mô hình “Một Cơ quan Liên Hợp Quốc” mà Việt Nam được
chọn là một trong 8 quốc gia thực hiện thí điểm chương trình này. Thực
chất của công cuộc cải tổ này là thay đổi cách thức hoạt động của Liên Hợp
Quốc ở Trụ sở chính, ở mỗi khu vực và mỗi nước. Chương trình cải tổ này
25

×