Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Những thành tựu về giao thông vận tải ở nước ta trong thời kỳ đổi mới 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (899.35 KB, 39 trang )

BT giữa kỳ chuyên đề “đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay”
GVHD: ThS Nguyễn Mạnh Hồng
Đề tài: Những thành tựu về giao thông vận tải ở nước ta trong thời kỳ
đổi mới 1986 đến nay ?
ĐỀ CƯƠNG
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
1. Khái quát về bối cảnh lịch sử và đường lối đối mới của Đảng ta
1.1. Bối cảnh lịch sử
1.2. Nội dung đường lối đối mới
2. Vai trò, đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển, phân bố
của giao thông vận tải
2.1. Vai trò
2.2. Đặc điểm
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển và phân bố ngành giao
thông vận tải.
3. Thành tựu về giao thông vận tải thời kỳ đối mới
3.1. Khái quát về giao thông vận tải trước đổi mới
3.2. Thành tựu về giao thông vận tải thời kỳ đối mới
3.2.1. Về mạng lưới giao thông
3.2.1.1. Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1995
3.2.1.2. Giai đoạn từ năm 1996 trở lại đây
3.2.2 Về tình hình và cơ cấu vận tải
4. Định hướng phát triển của ngành giao thông vận tải
C. KẾT LUẬN
SVTH: Trần Thị Huyền My – Lớp 07SLS
1
BT giữa kỳ chuyên đề “đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay”
GVHD: ThS Nguyễn Mạnh Hồng
A. MỞ ĐẦU
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vào những


thập niên 80 của thể kỉ XX, thế giới nói chung và dân tộc ta nói riêng đã
diễn ra những thay đổi lớn. Chỉ trong vòng 10 năm từ 1975 đến 1985 cách
mạng Việt Nam đã trải qua một thập niên đầy thử thách. Vì những con
người đó, chế độ đó trên thực tế đã không đáp ứng được xu thế chung của
lịch sử.
Đến đại hội VI (1986) Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối
đổi mới đất nước. Thực chất đây là một cuộc cách mạng vì không chỉ thay
đổi trong cách nghĩ mà thay đổi cả cách làm, cách hưởng thụ. Sự nghiệp đổi
mới của nhân dân ta từ 1986 đến 2010 là 25 năm, chúng ta vừa làm vừa tìm
tòi thể nghiệm, vừa điều chỉnh cho phù hợp.
Dưới sự chỉ đạo của Đảng, sự hưởng ứng tích cực của nhân dân, công
cuộc đổi mới của nước ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn trên
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, một trong những lĩnh vực quan trọng đó
là giao thông vận tải.
Giao thông vận tải, như K.Mác khẳng định, là ngành sản xuất vật chất
quan trọng đứng hàng thứ tư sau công nghiệp khai thác, công nghiệp chế
biến và sản xuất nông nghiệp. Bản thân nó không làm ra sản phẩm, hay làm
tăng khối lượng, hoặc làm thay đổi tính chất của sản phẩm, mà chỉ chuyển
dịch vị trí của sản phẩm từ nơi này đến nơi khác, làm tăng giá trị của sản
phẩm làm ra.
Kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký quyết định thành lập Bộ Giao
thông công chính đến nay (28.8.1945), ngành GTVT Việt Nam đã trải qua
gần 60 mươi năm tồn tại và phát triển, gắn liền với sự nghiệp cách mạng của
SVTH: Trần Thị Huyền My – Lớp 07SLS
2
BT giữa kỳ chuyên đề “đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay”
GVHD: ThS Nguyễn Mạnh Hồng
đất nước với nhiều thời kỳ sôi nổi, hào hùng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói: “Giao thông là mạch máu của tổ chức. Giao thông tốt thì mọi
việc dễ dàng. Giao thông xấu thì các việc đình trệ”. Câu nói giản dị của Bác

không chỉ nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của GTVT trong sự nghịêp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn là lời nhắc nhở nhiệm vụ đối với những
người làm công tác giao thông vận tải trong quá khứ, hiện tại và tương lai
sau này. Có thể nói lịch sử hình thành, phát triển và trưởng thành của mình,
lớp lớp thế hệ cán bộ, công nhân, lao động ngành GTVT Việt Nam đã luôn
theo lời chỉ dạy của Bác Hồ, luôn nỗ lực phấn đấu, góp phần quan trọng vào
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, ngành
giao thông vận tải đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn.
SVTH: Trần Thị Huyền My – Lớp 07SLS
3
BT giữa kỳ chuyên đề “đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay”
GVHD: ThS Nguyễn Mạnh Hồng
B. NỘI DUNG
1. Khái quát về bối cảnh lịch sử và đường lối đối mới của Đảng ta
1.1. Bối cảnh lịch sử
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ còn phổ biến, tiến lên
CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, đó là con đường mới mẻ, đầy
khó khăn, thử thách đối với Việt Nam.
Trong hơn một thập niên, trải qua hai nhiệm kỳ đại hội IV và V (1976
- 1986), Đảng và nhân dân ta vừa triển khai vừa tìm tòi, thử nghiệm con
đường đi lên CNXH. Trong quá trình đó, cách mạng XHCN ở nước ta đã đạt
được những thành tựu và tiến bộ đáng kể trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Song, cách mạng cũng gặp không ít khó khăn và yếu kém. Khó khăn
của ta trong quá trình đi lên CNXH ngày càng lớn, đưa đất nước lâm vào
tình trạng khủng hoảng(vào cuối những năm 70, đầu những năm 80, gay gắt
nhất là từ giữa những năm 80), trước mắt là kinh tế - xã hội, khi lạm phát lên
tới mức phi mã. Một trong những nguyên nhân cơ bản của những khó khăn,
yếu kém của ta là do ta mắc phải sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ
trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.

Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm đó là bệnh chủ
quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, là khuynh
hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế, xã hội…Đó là những biểu hiện của
tư tưởng tả khuynh và hữu khuynh.
Những sai lầm đó gây nên hoặc làm trầm trọng thêm tình trạng khủng
hoảng kinh tế - xã hội và không phát huy đầy đủ tính chủ động, sang tạo của
quần chúng, không tạo ra được động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển
năng động của nền kinh tế - xã hội. Những sai lầm đó cùng với sự trì trệ
SVTH: Trần Thị Huyền My – Lớp 07SLS
4
BT giữa kỳ chuyên đề “đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay”
GVHD: ThS Nguyễn Mạnh Hồng
trong công tác tổ chức cán bộ đã kìm hãm lực lượng sản xuất và triệt tiêu
động lực phát triển.
Để khắc phục sai lầm, khuyết điểm, đưa đất nước vượt qua khủng
hoảng và đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng XHCN tiến lên, đòi hỏi Đảng và
Nhà nước ta phải đổi mới.
Đứng trước những thay đổi to lớn, toàn diện của tình hình thế giới,
cũng như thay đổi trong quan hệ của các nước do tác động mạnh mẽ của
cuộc cách mạng KHKT, nhất là trước cuộc khủng hoảng toàn diện của Liên
Xô và các nước XHCN khác do chậm thích nghi với cuộc CMKHKT, do áp
dụng mô hình CNXH có nhiều khuyết tật chậm được khắc phục, cũng đòi
hỏi Đảng và Nhà nước ta phải đổi mới.
Như vậy, đổi mới là vấn đề sống còn của CNXH ở nước ta, đồng thời
là vấn đề phù hợp với xu thế chung của thời đại. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI (12/1986) của Đảng cộng sản Việt Nam là mốc quan trọng đánh
dấu bước chuyển đất nước sang thời kỳ đổi mới.
1.2. Nội dung đường lối đối mới
Đổi mới toàn diện, đồng bộ trên mọi lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị đến
tư tưởng, văn hóa…

Ngay từ khi bắt đầu công cuộc ‘Đổi mới’, phát triển nền kinh tế đất
nước theo kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng CSVN đã chủ trương
phải ưu tiên đầu tư phát triển GTVT để GTVT đi trước một bước tạo tiền đề
và thúc đẩy kinh tế phát triển. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
(1986) xác định: “GTVT là khâu quan trọng nhất của kết cấu hạ tầng’’ và
“GTVT phải đi trước một bước để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh
tế quốc dân’’.
SVTH: Trần Thị Huyền My – Lớp 07SLS
5
BT giữa kỳ chuyên đề “đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay”
GVHD: ThS Nguyễn Mạnh Hồng
Tiếp sau đó, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991),
Đại hội VIII (1996) đã xác định những mục tiêu lớn của Ngành GTVT. Đó
là: “Khắc phục tình trạng xuống cấp của hệ thống giao thông hiện có; khôi
phục, nâng cấp và mở rộng thêm một số tuyến giao thông trọng yếu, kết hợp
giao thông với thuỷ lợi, tận dụng giao thông đường thuỷ; mở thêm đường
đến các vùng sâu, vùng xa ; cải thiện giao thông ở các thành phố lớn. Cải
tạo, nâng cấp một số cảng sông, cảng biển, sân bay; xây dựng dần cảng
biển nước sâu’’.
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001), Nghị quyết Đại hội
một lần nữa ghi rõ: “Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh và có bước đi trước. Hệ thống giao thông bảo đảm
lưu thông an toàn, thông suốt quanh năm và hiện đại hoá một bước. Mạng
lưới giao thông nông thôn được mở rộng và nâng cấp”; “Phát triển mạnh
và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ: thương mại, hàng không, hàng
hải ”.
Thực hiện chủ trương và những mục tiêu mà Đảng đề ra, toàn Ngành
GTVT đã có nhiều cố gắng, huy động và phát huy nhiều nguồn lực phục vụ
công cuộc phát triển Ngành.
2. Vai trò, đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển, phân

bố của giao thông vận tải
2.1. Vai trò
Giao thông vận tải là một ngành dịch vụ, bản thân nó không làm ra
sản phẩm, hay làm tăng khối lượng, hoặc làm thay đổi tính chất của sản
phẩm mà chỉ chuyển dịch vị trí của sản phẩm từ nơi này đến nơi khác, làm
tăng giá trị của sản phẩm làm ra.
SVTH: Trần Thị Huyền My – Lớp 07SLS
6
BT giữa kỳ chuyên đề “đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay”
GVHD: ThS Nguyễn Mạnh Hồng
Giao thông vận tải tham gia vào việc cung ứng vật tư kỹ thuật, nguyên
liệu, năng lượng cho các cơ sở sản xuất và đưa sản phẩm đến thị trường tiêu
thụ, giúp cho các quá trình sản xuất xã hội diễn ra liên tục và bình thường.
Giao thông vận tải phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân, giúp cho các hoạt
động sinh hoạt được thuận tiện
Các mối liên hệ kinh tế, xã hội giữa các địa phương được thực hiện
nhờ mạng lưới giao thông vận tải. Vì thế, những nơi nằm gần các tuyến vận
tải lớn hoặc các đầu mối giao thông vận tải cũng là những nơi tập trung các
ngành sản xuất, dịch vụ và dân cư. Nhờ hoàn thiện kỹ thuật, mở rộng cự li
vận tải, tăng tốc độ vận chuyển mà các vùng xa xôi về mặt địa lí cũng trở
nên gần. Những tiến bộ của ngành vận tải đã có tác động to lớn làm thay đổi
sự phân bố sản xuất và phân bố dân cư trên thế giới.
Ngành giao thông vận tải phát triển góp phần thúc đẩy hoạt động kinh
tế, văn hoá ở những vùng núi xa xôi, củng cố tính thống nhất của nền kinh
tế, tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước và tạo nên mối giao lưu
kinh tế giữa các nước trên thế giới.
Giao thông vận tải là một chỉ tiêu để đánh giá trình độ phát
triển kinh tế - xã hội của một quốc gia.
2.2. Đặc điểm
Sản phẩm của ngành giao thông vận tải chính là sự chuyên chở người

và hàng hoá. Chất lượng của sản phẩm dịch vụ này được đo bằng tốc độ
chuyên chở, sự tiện nghi, an toàn cho hành khách và hàng hoá…
Để đánh giá khối lượng dịch vụ của hoạt động vận tải, người ta
thường dùng các tiêu chí: khối lượng vận chuyển (tức số hành khách và số
tấn hàng hoá được vận chuyển), khối lượng luân chuyển (tính bằng
người.km và tấn.km) và cự li vận chuyển trung bình (tính bằng km).
SVTH: Trần Thị Huyền My – Lớp 07SLS
7
BT giữa kỳ chuyên đề “đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay”
GVHD: ThS Nguyễn Mạnh Hồng
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển và phân bố ngành giao thông
vận tải.
* Nhân tố tự nhiên
Điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng rất khác nhau tới sự phân bố và hoạt
động của các loại hình giao thông vận tải.
Điều kiện tự nhiên quy định sự có mặt và vai trò của một số loại hình
vận tải. Ví dụ, ở miền núi sông ngòi ngắn và dốc thì khó nói đến sự phát
triển ngành giao thông vận tải đường sông; ở những nước nằm trên các đảo
như nước Anh. Nhật Bản… ngành vận tải đường biển có vị trí quan trọng. Ở
những vùng gần cực, hầu như quanh năm tuyết phủ, bên cạnh các phương
tiện vận tải thô sơ như chiếc xe quệt thì máy bay là phương tiện vận tải hiện
đại duy nhất.
Điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng lớn đến công tác thiết kế và khai
thác các công trình giao thông vận tải. Không những thế, để khắc phục điều
kiện tự nhiên không thuận lợi, chi phí xây dựng cũng lớn hơn nhiều. Ví dụ,
địa hình núi non hiểm trở đòi hỏi phải làm các công trình chống lở đất gây
tắc nghẽn giao thông trong mùa mưa lũ, hoặc phải làm các đường hầm
xuyên núi, các cầu vượt khe sâu… Hiện nay, trên thế giới đã có hàng chục
đường hầm cho xe lửa và cho ô tô xuyên qua các dãy núi, các eo biển, dài từ
vài km đến vài chục km.

Khí hậu và thời tiết có ảnh hưởng sâu sắc tới hoạt động của các
phương tiện vận tải. Ví dụ, ở nước ta về mùa mưa lũ, hoạt động của ngành
vận tải đường ô tô và đường sắt gặp nhiều trở ngại; còn ở nhiều khúc sông,
tàu thuyền chỉ có thể qua lại trong mùa nước lớn. Ở xứ lạnh, về mùa đông
nước sông đóng băng, tàu thuyền không qua lại được, còn các sân bay nhiều
SVTH: Trần Thị Huyền My – Lớp 07SLS
8
BT giữa kỳ chuyên đề “đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay”
GVHD: ThS Nguyễn Mạnh Hồng
khi phải ngừng hoạt động do sương mù dày đặc hay do tuyết rơi quá dày.
* Nhân tố kinh tế - xã hội
Sự phát triển và phân bố các ngành kinh tế quốc dân có ý nghĩa quyết
định đối với sự phát triển và phân bố, cũng như sự hoạt động của ngành giao
thông vận tải.
Trước hết, các ngành kinh tế khác đều là các khách hàng của ngành
giao thông vận tải.
Tình hình phân bố các cơ sở công nghiệp, trình độ phát triển kinh tế
của các vùng, quan hệ kinh tế giữa nơi sản xuất và nơi tiêu thụ quy định mật
độ mạng lưới giao thông vận tải, các loại hình vận tải, hướng và cường độ
của các luồng vận chuyển. Ở các vùng kinh tế phát triển lâu đời, mạng lưới
đường dày đặc hơn nhiều so với ở vùng mới khai thác. Các vùng tập trung
công nghiệp (nhất là công nghiệp nặng) đều phát triển vận tải đường sắt và
vận tải bằng ô tô hạng nặng. Mỗi loại hàng hoá cần vận chuyển lại có yêu
cầu riêng về phương tiện vận tải. Ví dụ: có loại hàng cần cước phí vận
chuyển thấp, nhưng không cần nhanh (vật liệu xây dựng, quặng, than…), lại
có loại hàng hoá đòi hỏi vận chuyển nhanh, an toàn (hoá chất, vật liệu dễ
cháy nổ…). Sự phân bố các cơ sở kinh tế có nhu cầu vận chuyển các loại
hàng này sẽ quy định việc tổ chức vận tải của từng loại phương tiện.
Sự phát triển của ngành công nghiệp cơ khí vận tải, công nghiệp xây
dựng cho phép duy trì và tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành giao

thông vận tải.
Phân bố dân cư, đặc biệt là sự phân bố của các thành phố lớn và các
chùm đô thị có ảnh hưởng sâu sắc tới ngành vận tải hành khách, nhất là vận
tải bằng ô tô.
SVTH: Trần Thị Huyền My – Lớp 07SLS
9
BT giữa kỳ chuyên đề “đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay”
GVHD: ThS Nguyễn Mạnh Hồng
Trong các thành phố lớn và các chùm đô thị, đã hình thành một loại
hình vận tải đặc biệt là giao thông vận tải thành phố.
3. Thành tựu về giao thông vận tải thời kỳ đối mới
3.1. Khái quát về giao thông vận tải trước đổi mới
Ngày 28/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành lập Bộ
Giao thông công chính. Trải qua 65 năm xây dựng và phát triển, các thế hệ
CBCNVC-LĐ ngành GTVT đã phấn đấu không mệt mỏi để thực hiện lời
dạy của Bác: “Giao thông là mạch máu của tổ chức. Giao thông tốt thì mọi
việc dễ dàng. Giao thông xấu thì các việc đình trệ”.
*Giai đoạn 1945 – 1954: Giao thông vận tải phục vụ kháng chiến chống
thực dân Pháp.
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 28/8/1945, Hồ
Chủ tịch đã ký sắc lệnh thành lập Bộ Giao thông Công chính thuộc Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Thời kỳ này, Bộ Giao thông Công chính đã vượt qua nhiều khó khăn,
hoàn thành 6 nhiệm vụ cơ bản: Vận tải quân, lương phục vụ cho kháng chiến
Nam Bộ và các chiến trường khi cuộc kháng chiến toàn quốc nổ ra
(12/1946); Phá hoại cầu đường ngăn chặn quân địch tiến quân đánh chiếm
các vùng tự do, các căn cứ kháng chiến; Thiết lập các đường dây giao liên,
giữ giao thông liên lạc thông suốt các miền Bắc-Trung- Nam phục vụ sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ; Sửa chữa, mở đường
các vùng tự do, vùng kháng chiến và đi sâu vào các vùng hậu cứ của địch để

phục vụ các chiến dịch đánh địch trên khắp các chiến trường, đồng thời gia
tăng phục vụ sản xuất; Vận tải hàng hoá, hành khách, vận chuyển lương
thực, quân đội tham gia các chiến dịch tấn công giai đoạn 1945-1954 trong
SVTH: Trần Thị Huyền My – Lớp 07SLS
10
BT giữa kỳ chuyên đề “đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay”
GVHD: ThS Nguyễn Mạnh Hồng
đó có chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ; Làm nhiệm vụ quốc tế chi viện cho
Lào, Campuchia
*Giai đoạn 1954 – 1964: Giao thông vận tải xây dựng CNXH ở miền
Bắc và chi viện cho miền Nam.
Chính phủ đã quyết định đổi tên Bộ Giao thông Công chính thành Bộ
Giao thông và Bưu điện. Cơ cấu, bộ máy tổ chức của Bộ cũng được nâng lên
ngang tầm với chức năng, nhiệm vụ được Chính phủ giao. Nhiệm vụ lớn
nhất của ngành GTVT thời kỳ này là khôi phục lại hệ thống giao thông đã bị
hư hỏng trong kháng chiến chống Pháp để phục vụ phát triển kinh tế miền
Bắc và chi viện cho chiến trường miền Nam.
Trong 10 năm (1954-1964) nhiều cây cầu mới, con đường mới huyết
mạch cũng đã được mở mang xây dựng vừa bằng sức dân, vừa có sự đầu tư
của Nhà nước. Ngành GTVT đã thi công các sân bay như: Nội Bài (trước
đây gọi là Đa Phúc), Hòa Lạc (Hà Tây), Vinh (Nghệ An) và sân bay Kép
(Bắc Giang). Trong lĩnh vực vận tải, các ngành đường bộ, đường sông,
đường sắt đều có những bước phát triển vượt bậc.
*Giai đoạn 1964 – 1975: Giao thông vận tải chống chiến tranh phá hoại
miền Bắc của đế quốc Mỹ và chi viện cho giải phóng miền Nam.
Đây là thời kỳ ghi đậm thành tích vẻ vang và đánh dấu bước trưởng
thành vượt bậc của ngành GTVT. Hai nhiệm vụ chính của thời kỳ này là
GTVT phục vụ sự nghiệp củng cố và phát triển kinh tế miền Bắc và chi viện
cho cuộc kháng chiến chống Mỹ ở chiến trường miền Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu, ngành GTVT đã lập

nên nhiều kỳ tích huy hoàng, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Mỹ. Ngành GTVT đã đi đầu trong cuộc kháng chiến với
tất cả những con đường có thể mở được, từ đường mòn Hồ Chí Minh trên bộ
SVTH: Trần Thị Huyền My – Lớp 07SLS
11
BT giữa kỳ chuyên đề “đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay”
GVHD: ThS Nguyễn Mạnh Hồng
đến đường mòn Hồ Chí Minh trên biển. Những “con đường mòn” này đã
phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng quân đội, TNXP, CBCNV ngành
GTVT, nhân dân các địa phương đã đóng vai trò quan trọng trong việc vận
chuyển lương thực, thực phẩm, vũ khí cho chiến trường miền Nam.
*Giai đoạn 1975 – 1985: Giao thông vận tải trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN.
Sự tàn phá của chiến tranh trong một giai đoạn dài đã ảnh hưởng
nghiêm trọng đến hệ thống giao thông cả hai miền Nam - Bắc. Năm 1975
không còn một tuyến đường bộ nào ở miền Bắc đạt cấp kỹ thuật đồng bộ.
Phương tiện vận tải thiếu thốn và lạc hậu. Trước tình hình đó, Đại hội lần
thứ 4 của Đảng (tháng 12-1976) đã đề ra yêu cầu phải “tích cực mở mang
GTVT và thông tin liên lạc.
Thực hiện chủ trương đó, ngành GTVT đã chấn chỉnh tổ chức lại và
hình thành một bộ máy mới với các chức năng đầy đủ hơn, đáp ứng thực tế.
Hàng loạt Sở GTCC ra đời trên toàn quốc và hàng trăm các doanh nghiệp
quốc doanh đường sắt, đường bộ, hàng không, vận tải biển đã ra đời và giữ
vững mô hình hoạt động đến năm 1986. Trong giai đoạn này có sự kiện
quan trọng là đã khôi phục và đưa vào hoạt động tuyến đường sắt Bắc -
Nam.
3.2. Thành tựu về giao thông vận tải thời kỳ đối mới
3.2.1. Về mạng lưới giao thông
3.2.1.1. Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1995
Trong giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1995, do đất nước vẫn đang bị

bao vây cấm vận, ngân sách Nhà nước hết sức khó khăn nên Ngành GTVT
tập trung chủ yếu nguồn lực cho công tác duy tu bảo dưỡng để đảm bảo an
toàn giao thông và triển khai xây dựng một số công trình thực sự cấp bách.
SVTH: Trần Thị Huyền My – Lớp 07SLS
12
BT giữa kỳ chuyên đề “đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay”
GVHD: ThS Nguyễn Mạnh Hồng
Trong giai đoạn này Bộ GTVT đổi tên thành Bộ GTVT và Bưu điện sau khi
Tổng cục Bưu điện và Cục Hàng không dân dụng sáp nhập và Bộ GTVT.
Một số nhiệm vụ chính của Bộ GTVT và Bưu điện trong giai đoạn này là:
- Về vận tải: Tập trung chỉ đạo các ngành vận tải kiên quyết thực hiện mục
tiêu vận tải đối với các mặt hàng quan trọng trong nền kinh tế như than,
phân bón, hàng xuất nhập khẩu; đồng thời phục vụ các nhu cầu đời sống xã
hội như: lương thực, hàng tiêu dùng thiết yếu, hàng lên miền núi
- Trong sản xuất công nghiệp tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm, áp
dụng tiến bộ kỹ thuật để nghiên cứu, thiết kế và sản xuất những mặt hàng
mới như trạm trộn nhựa, lu bánh lốp, lu diezen và tập trung vào hai khâu lớn
là sửa chữa tàu biển, phương tiện thiết bị công trình lắp ráp ô tô, sửa chữa
đầu máy và đóng toa xe
- Về xây dựng cơ bản: kiên quyết dành vốn và các điều kiện khác cho những
công trình trọng điểm và các công trình có khả năng hoàn thành để đưa vào
khai thác. Công tác duy tu, quản lý đường bộ, chất lượng công trình được
coi trọng.
- Về thông tin liên lạc: Hoàn thành một số tuyến vi ba từ Hà Nội đi các tỉnh
và nhất là công tác thông tin phục vụ hoạt động của lãnh đạo Đảng, Nhà
nước, các kỳ họp Quốc hội.
Thực hiện những nhiệm vụ đó, trong 10 năm đầu quá trình đổi mới,
ngành giao thông vận tải đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên nhiều
lĩnh vực:
a. Về đường bộ:

Chúng ta đã mở rộng, nâng cấp, xây dựng mới nhiều tuyến đường.
Năm 1990 nâng cấp 29 quốc lộ với chiều dài 6000 km. Năm 1993, nâng cấp
39 tuyến (13.216 km). Năm 1995 nâng cấp 47 tuyến (13.216 km). Đã hoàn
SVTH: Trần Thị Huyền My – Lớp 07SLS
13
BT giữa kỳ chuyên đề “đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay”
GVHD: ThS Nguyễn Mạnh Hồng
thành một số tuyến đường có tầm vóc lớn, góp phần phát triển kinh tế xã hội
như các quốc lộ QL1, QL5, QL80, QL24…
Km0 - Quốc lộ 5 cửa ngõ giao thông phía Đông của Thủ đô hà Nội
Đường cao tốc Thăng Long - Nội Bài con đường đầu tiên do các kỹ sư
Việt Nam thiết kế và thi công, được thông xe ngày 10/03/1994
SVTH: Trần Thị Huyền My – Lớp 07SLS
14
BT giữa kỳ chuyên đề “đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay”
GVHD: ThS Nguyễn Mạnh Hồng
Cùng với đường ô tô thì hệ thống các cầu cũng được cải tạo và xây
dựng mới. Năm 1985, cả nước có 32.482 cầu với tổng chiều dài 556.588m
(không tính 475 cầu dành riêng cho tàu hỏa), trong đó có 4.114 cầu có trọng
tải trên 10 tấn. Lớn nhất và hiện đại nhất là cầu Thăng Long qua sông Hồng,
nối Hà Nội với sân bay quốc tế Nội Bài; phần chính của cầu dài 1.680m,
cộng thêm cầu dẫn ở hai đầu là 5.503m; cầu có 2 tầng, tầng trên cho xe ô tô,
tầng dưới cho tàu hỏa, xe thô sơ, có 14 trụ chính, cầu cao hơn mặt nước
10m; thông xe 07/11/1987. Thanh Trì, cầu Vĩnh Tuy; Cầu Cỏ May trên
QL51; Cầu sông Gianh, Quán Hầu trên QL1A; Cầu Bến Thuỷ, Thái Bình,
Yên Bái, Đò Quan, Việt Trì, Tràng Tiền, Phong Châu
Khánh thành cầu Phong Châu (Vĩnh Phú) ngày 28/7/1995
Nhiều đô thị mới cũng đã mọc lên dọc theo các tuyến đường. Giao
thông miền núi, giao thông nông thôn trong giai đoạn này cũng bắt đầu khởi
sắc. Nhờ sự đầu tư của Nhà nước kết hợp với ngân sách địa phương và sức

SVTH: Trần Thị Huyền My – Lớp 07SLS
15
BT giữa kỳ chuyên đề “đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay”
GVHD: ThS Nguyễn Mạnh Hồng
dân, hàng ngàn con đường liên huyện, liên xã đã được mở ở nhiều nơi từ
Bắc – Trung – Nam, tạo ra mạng lưới giao thông trải rộng trên khắp đất
nước.
Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Bùi Danh Lưu
đến dự lễ thông xe cầu Việt Trì ngày 25/5/1995
b. Đường sắt
Toàn bộ hệ thống đường sắt ở nước ta đều có từ trước Cách mạng
tháng 8/1945. Tổng chiều dài 2.632 km, mật độ 0,8 km/100km2, thuộc loại
cao so với khu vực Đông Nam Á.
Trong giai đoạn này, ngành đường sắt đã khôi phục, cải tạo, nâng cấp,
kết hợp với xây dựng mới thêm một số đoạn đường sắt trên cả nước. Tuyến
đường săt Hà Nội – TP Hồ Chí Minh dài 1730 km, xây dựng 1895 – 1936 đã
được phục hồi lại, khổ 1m, đường đơn. Tuyến này chạy xuyên suốt chiều dài
đất nước, đảm nhận 2/3 khối lượng hàng hóa và hành khách vận chuyển của
ngành đường sắt. Ngày 19/05/1993 kỉ niệm 103 năm ngày sinh của Chủ tịch
SVTH: Trần Thị Huyền My – Lớp 07SLS
16
BT giữa kỳ chuyên đề “đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay”
GVHD: ThS Nguyễn Mạnh Hồng
Hồ Chí Minh, chuyến tàu 38 giờ đã chuyến bánh từ TP Hồ Chí Minh – Hà
Nội.
Những kỳ tích đặc biệt về tần suất và thời gian chạy tàu cũng được lập
nên trong giai đoạn này nhờ việc đầu tư nâng cấp, đóng mới phương tiện và
cải thiện trình độ quản lý.
c. Hàng không
Ngày 15/01/1956, ngành hàng không dân dụng Việt Nam được hình

thành, từ năm 1990 đã có sự phát triển cực kỳ nhanh chóng.
Tháng 04/1993 hãng hàng không quốc gia Vietnam Airlines được
thành lập. Từ chỗ chỉ có các máy bay thế hệ cũ của Liên Xô (trước đây) như
TU, AN , đội máy bay của Vietnam Airlines lần đầu tiên đã mạnh dạn thuê
10 chiếc máy bay Airbus A320 và mua các máy bay như ATR72, Fokker70
để đưa vào khai thác. Đây là những loại máy bay rất hiện đại lúc bấy giờ,
làm thay đổi hẳn bộ mặt của hãng hàng không quốc gia Việt Nam. Cùng với
việc đổi mới máy bay, các điểm đến của hàng không Việt Nam trong giai
đoạn này cũng phát triển hết sức ấn tượng, cả trong nước và quốc tế. Thị
trường hàng không Việt Nam trở nên sôi động và có tốc độ phát triển rất
nhanh, có năm lên tới trên 40%.
Các lĩnh vực quan trọng khác của Ngành GTVT như vận tải biển quốc
tế, nội địa cũng được đầu tư hàng ngàn tỷ đồng để mở rộng các cảng; đóng
mới và sửa chữa các tàu vận tải lớn. Hệ thống các doanh nghiệp thuộc Bộ có
vai trò rất quan trọng trong việc sản xuất công nghiệp GTVT với việc hàng
năm tạo ra hàng ngàn tỷ đồng lợi nhuận, không chỉ đóng góp và ngân sách
Nhà nước mà còn góp phần vào tái đầu tư, mở rộng hoạt động của ngành
trong chế tạo, lắp ráp, xây dựng công nghiệp GTVT. Về mặt tổ chức, năm
1992, ngành Bưu điện và ngành Hàng không tách ra khỏi Bộ GTVT. Tuy
SVTH: Trần Thị Huyền My – Lớp 07SLS
17
BT giữa kỳ chuyên đề “đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay”
GVHD: ThS Nguyễn Mạnh Hồng
nhiên, đến năm 2003, Cục Hàng không dân dụng trở lại trực thuộc Bộ
GTVT. Theo Nghị định 34/2003/NĐ-CP ngày 04/4/2003 của Chính phủ thì
hiện nay tổ chức Bộ GTVT gồm có các Vụ, Văn phòng Bộ, Thanh tra Bộ ;
các Cục: Đường bộ, Đường sắt, Đường sông, Hàng hải, Hàng không, Đăng
kiểm, Giám định và Quản lý chất lượng công trình giao thông. Ngoài ra là
một số đơn vị sự nghiệp (Viện, trường, báo, tạp chí, Sở Y tế ) và các doanh
nghiệp.

3.2.1.2. Giai đoạn từ năm 1996 trở lại đây
Trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng giao thông, nhiều công trình giao
thông đã được triển khai. Trong 10 năm (từ 1996 đến 2005), ngành GTVT
đã tiến hành cải tạo nâng cấp và làm mới hơn 16.000 km đường bộ; 1.400
km đường sắt; hơn 130.000 md cầu đường bộ; 11.000 md cầu đường sắt.
Nâng cấp và xây dựng mới 5.400 md bến cảng; nạo vét 4,8 triệu m3 luồng
lạch.
a.Về đường bộ
Ngành GTVT đã hoàn thành cơ bản việc nâng cấp toàn tuyến trục dọc
“xương sống” của đất nước là Quốc lộ 1 từ Lạng Sơn đến Cần Thơ, trong đó
nổi lên 02 công trình qui mô và hiện đại là Hầm đường bộ đèo Hải Vân và
cầu Mỹ Thuận:
*Hầm Hải Vân là hầm đường bộ dài nhất Đông Nam Á, xuyên qua
đèo Hải Vân, nối liền tỉnh Thừa Thiên Huế với thành phố Đà Nẵng ở miền
Trung Việt Nam. Được khánh thành vào ngày 5 tháng 6 năm 2005. Đường
hầm chính: dài 6.280 m, rộng 10 m, độ cao xe cho phép đi qua là 7,5 m;
Đường hầm thoát hiểm: dài 6.280 m, rộng 4,7 m, cao 3,8 m; Đường hầm
thông gió: dài 1.810 m, rộng 8,2 m, cao 5,3 m.
SVTH: Trần Thị Huyền My – Lớp 07SLS
18
BT giữa kỳ chuyên đề “đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay”
GVHD: ThS Nguyễn Mạnh Hồng
Để bảo đảm an toàn giao thông và ứng phó với các tình huống khẩn
cấp, trong hầm được trang bị các hệ thống: đèn chiếu sáng, thông gió, báo
cháy và chữa cháy, điện thoại khẩn cấp, phát thanh radio, camera quan sát
(52 cái) cũng như hệ thống giám sát và điều khiển giao thông.
Công trình còn chứa hầm lọc bụi tĩnh điện dài 153 m, rộng 10,2 m,
cao 6,7 m. Sau gần 5 năm xây dựng, công trình hầm đường bộ Hải Vân đã
hoàn thành với đường hầm chính dài 6,3 km, hầm phụ chạy song song dài
6,3 km, hầm thông gió dài 1,9 km, 3 hầm lọc bụi tĩnh điện cùng với 15 hầm

ngang, tạo thành một hệ thống đường hầm hoàn chỉnh có tổng chiều dài
khoảng 15,1 km.
Đây là một trong những hầm đường bộ lớn nhất được xây dựng tại
Việt Nam và cũng là một trong 30 hầm lớn, hiện đại nhất thế giới. Hầm
đường bộ Hải Vân nối liền tỉnh Thừa Thiên - Huế và thành phố Đà Nẵng.
Hầm đường bộ Hải Vân được trang bị và lắp đặt các hệ thống thiết bị điện,
thông gió, cơ khí đặc chủng của Nhật Bản và Phần Lan với tính năng tự
động cao và hiện đại.
Việc thông xe công trình hầm đường bộ qua đèo Hải Vân đã cải thiện
cơ bản điều kiện giao thông qua lại trên đoạn đường đèo hiểm trở, thường
xuyên xảy ra tình trạng ách tắc và tai nạn giao thông; giảm quãng đường
phải chạy xe qua đèo từ 22 km xuống còn 10 km bằng tuyến đường hầm an
toàn, thuận lợi và hiệu quả kinh tế cao.
Bên cạnh ý nghĩa về phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thừa Thiên -
Huế và thành phố Đà Nẵng, công trình hầm đường bộ Hải Vân còn góp phần
hoàn thiện hành lang giao thông khu vực tiểu vùng sông Mê Công (nối từ
vùng Đông Bắc Thái Lan qua Trung Lào vào Việt Nam thông qua Quốc lộ 9
SVTH: Trần Thị Huyền My – Lớp 07SLS
19
BT giữa kỳ chuyên đề “đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay”
GVHD: ThS Nguyễn Mạnh Hồng
Quảng Trị), tạo điều kiện cho phát triển du lịch - thương mại và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Cửa hầm phía Bắc
Bên trong hầm Hải Vân
SVTH: Trần Thị Huyền My – Lớp 07SLS
20
BT giữa kỳ chuyên đề “đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay”
GVHD: ThS Nguyễn Mạnh Hồng
*Cầu Mỹ Thuận: là cầu dây văng đầu tiên của Việt Nam. Cầu bắc qua sông

Tiền, nối hai tỉnh Tiền Giang và Vĩnh Long ở đồng bằng sông Cửu Long.
Cầu được khởi công ngày 6/7/1997 và hoàn thành ngày 21/5/2000. Chiều
dài: 1.535 m trong đó phần cầu dây văng dài 350 m; rộng: 23,66 m; cao:
116,5m. Điểm đặc biệt: Hai trụ tháp chính hình chữ H cao, tạo dáng mỹ
thuật.
Cầu Mỹ Thuận
Cùng với trục dọc này, một trục dọc thứ hai cũng đã hình thành. Đó là
đường Hồ Chí Minh đã hoàn tất giai đoạn 1 (Đoạn từ Hoà Lạc đến Ngọc
Hồi). Đường Hồ Chí Minh sẽ nối kết hơn 100 tuyến đường ngang trong đó
có các trục hành lang Đông - Tây, nối liền với QL1A ở phía Đông, gắn với
hệ thống cảng biển nước sâu dọc bờ biển miền Trung, hệ thống các sân bay
SVTH: Trần Thị Huyền My – Lớp 07SLS
21
BT giữa kỳ chuyên đề “đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay”
GVHD: ThS Nguyễn Mạnh Hồng
trên cao nguyên hình thành một mạng lưới giao thông hoàn chỉnh từ Bắc
vào Nam và liên thông với các nước láng giềng.
QL1A
SVTH: Trần Thị Huyền My – Lớp 07SLS
22
BT giữa kỳ chuyên đề “đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay”
GVHD: ThS Nguyễn Mạnh Hồng

( Đại lộ Thăng Long )
Ngoài 02 trục dọc trên, Ngành GTVT đã hoàn thành các tuyến quốc lộ
chính yếu nối đến các cảng biển và cửa khẩu quốc tế như QL5, QL18, QL10,
QL22, QL51, QL14B Đồng thời, đã và đang nâng cấp các tuyến quốc lộ
hướng tâm và vành đai phía Bắc, phía Nam; các tuyến quốc lộ ở Đông Nam
Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.
Trên các tuyến đường mới, hàng loạt các cầu đã được xây dựng như:

cầu Kiền, cầu Tô Châu, Tạ Khoa, Bến Lức, cầu Tuần và tuyến tránh thành
phố Huế, cầu Tân An và tuyến tránh Tân An, cầu Yên Lệnh; cầu Tuyên
Nhơn (tuyến N2); các cầu thuộc dự án cầu QL1: Đà Rằng, Diêu Trì, Tam
Giang; Sông Vệ, Câu Lâu, Trà Khúc, Cây Bứa, Bồng Sơn và Bàn Thạch;
cầu Sông Rộ (dự án Đường HCM về quê Bác); cầu Gò Chai (dự án Đường
xuyên Á)cầu Hoà Mạc, cầu Kênh Tiêu, cầu Hà Nha, cầu Giát (QL38)
Đặc biệt, hiện nay công trình cầu Cần Thơ đã được khởi công, đánh
dấu sự hoàn tất các cầu trên Quốc lộ 1 - huyết mạch giao thông của đất
nước. Sau hơn 5 năm thi công, ngày 24/4 cầu Cần Thơ, cây cầu dây văng lớn
SVTH: Trần Thị Huyền My – Lớp 07SLS
23
BT giữa kỳ chuyên đề “đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay”
GVHD: ThS Nguyễn Mạnh Hồng
nhất Đông Nam Á, nằm trên QL1A nối liền hai bờ sông Hậu chính thức
được khánh thành.
Bên cạnh các dự án sử dụng vốn NSNN và tài trợ quốc tế, trong giai
đoạn vừa qua đã nổi lên một số dự án BOT lần đầu tiên đã được hoàn thành
và đưa vào sử dụng như BOT Đèo Ngang; BOT An Sương – An Lạc. Đây là
tín hiệu rất đáng mừng về khả năng huy động tối đa các nguồn lực trong xã
hội cho sự phát triển kết cấu hạ tầng giao thông.
Cầu dây văng Cần Thơ qua sông Hậu
b. Về đường sắt
SVTH: Trần Thị Huyền My – Lớp 07SLS
24
BT giữa kỳ chuyên đề “đổi mới ở Việt Nam từ 1986 đến nay”
GVHD: ThS Nguyễn Mạnh Hồng
Ngành GTVT đã từng bước nâng cấp các tuyến đường sắt hiện có,
nâng cao an toàn và rút ngắn đáng kể thời gian chạy tàu. Các cầu và ga trên
đường sắt Thống Nhất đã được cải tạo và nâng cấp.
Ngày 14/2/1996 tái khai thông tuyến đường sắt liên vận Việt – Trung.

Ngày 19/5/1997 chuyển tàu 38 giờ chuyển bánh từ TP Hồ Chí Minh –
Hà Nội giảm còn 34 giờ. Ngày 05/01/1998 còn 32 giờ cũng đã khởi hành,
hiện nay giảm xuống còn 30 giờ.
c. Về đường sông
Đã hoàn thành nâng cấp 2 tuyến đường thuỷ phía Nam (TP HCM –
Cà Mau, TP HCM – Kiên Lương); đồng thời từng bước nâng cấp các tuyến
sông chính yếu khác.
d. Về hàng hải
Ngành GTVT trong giai đoạn vừa qua đã hoàn thành nâng cấp giai
đoạn 1 các cảng biển tổng hợp quốc gia chủ yếu như: Cảng Cái Lân, cảng
Hải Phòng, cảng Cửa Lò, cảng Vũng áng, cảng Tiên Sa, cảng Quy Nhơn,
cảng Nha Trang, cảng Sài Gòn, cảng Cần Thơ và hoàn thành nâng cấp một
số cảng địa phương cần thiết đáp ứng lượng hàng hoá thông qua.
SVTH: Trần Thị Huyền My – Lớp 07SLS
25

×