Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Chỉ số IQ và bộ não con người Phụ huynh nên biết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.55 KB, 10 trang )

Chỉ số IQ và bộ não con người
Kích cỡ bộ não
Những nghiên cứu hiện đại sử dụng kĩ thuật MRI
cho thấy kích cỡ bộ não có liên quan đến IQ với
một hệ số là khoảng 0,4. Một nghiên cứu trên
những cặp sinh đôi do Thompson cùng những
cộng sự xuất bản vào năm 2001 cho thấy rằng
chất xám có liên quan đến hệ số g và cũng có hệ
số di truyền rất cao (một nghiên cứu gần đây cho
thấy con số đó là 0,85)
Những vùng não tương ứng với IQ
Nhiền nguồn thông tin khác nhau cùng đồng ý ở một điểm là não trước đóng một
vai trò quyết định trong việc
hình thành những "dòng suy
nghĩ". Những bệnh nhân có
những vấn đề về não trước có
kết quả IQ và chất trắng cũng
đã được cho là có liên quan
mật thiết với trí thông minh
tổng quát. Tuy nhiên, những
hình chụp mới về bộ não cho
thấy điều đó chỉ giới hạn ở
vùng hai bên vỏ não trước.
Ducan và các đồng sự khi sử
dụng phương pháp chụp PET
thì xác định phần não dùng
để giải quyết các vấn đề liên
quan rất lớn đến trí thông
minh nằm ở vùng hai bên vỏ
não trước. Gần đây hơn,
Gray và các cộng sự (2003) đã dùng phương pháp fMRI để chứng minh ở những


người có trí thông minh cao thì vùng này có thêm khả năng chống lại những sự
mất tập trung. Gray và Thompson (2004) có một bài viết về điều này.
1
Cấu trúc bộ não và IQ
Một nghiên cứu bao gồm 307 trẻ
em từ 6 đến 19 tuổi bằng cách đo
kích cỡ từng phần của bộ não bằng
phương pháp MRI và đo các khả
năng từ vựng và suy luận đã được
thực hiện (Shaw, 2006). Nghiên
cứu cho thấy có một sự liên quan
nào đó giữa IQ và cấu trúc của vỏ
não – những người có trí thông
minh cao thường có vỏ não mỏng
khi nhỏ và dày dần thêm khi lớn
lên.
Hiệu ứng Flynn
Trên toàn thế giới, chỉ số IQ sẽ tăng một cách chậm, còn được biết đến với tên
gọi hiệu ứng Flynn (1999). Hiệu ứng Flynn đã được quan sát từ rất lâu nhưng rất
khó để giải thích. Tuy nhiên, những bài kiểm tra trí thông minh luôn được điều
chỉnh lại để điểm trung bình luôn là 100, ví dụ WISC-R (1974), WISC-III (1991)
và WISC-IV (2003). Vì vậy, có thể nói rất khó so sánh chỉ số IQ với nhiều năm
trước.
Chủng tộc và trí thông minh
2
Chất xám và chất trắng trong bộ não
Chỉ số IQ của các nhóm người khác nhau trên thế giới vào năm 1981. Chú thích:
người châu Á: xanh dương; châu Âu: cam, Tây Ban Nha: xanh lá cây; châu Phi:
vàng
Trong khi chỉ số IQ của một cá thể trong

những xã hội được phân bố trên cùng một
thang IQ, nhưng những nhóm người khác
nhau sẽ có những thang IQ có vị trí khác
nhau. Trong khi người Do Thái và Đông
Á có khu vực phân bố thang IQ cao hơn
người Châu Âu, trong khi những người
Latin và ở vùng hạ Sahara lại có khu vực
phân bố thang IQ thấp hơn[6]. Rất nhiều
những nghiên cứu đang được tiến hành
nhằm tìm hiểu nguyên nhân của sự phân bố IQ như thế, lý do của việc đó và độ
chính xác của những bài kiểm tra IQ. Một số nhà khoa học cho rằng đó là do sự
khác nhau trong những điều kiện kinh tế xã hội nhưng giả thiết trên vẫn chưa
được chấp nhận hoàn toàn[1].
Sự tìm hiểu về những vấn đề trên gây rất nhiều tranh cãi do tính chất nhạy cảm
của nó.
Giới và trí thông minh
Theo Jackson và Rushton, một cuộc khảo sát đầu thế kỷ 20 cho thấy giới không
đóng vai trò về trí thông minh. Trước đó thì Cyril Burt và Lewis Terman cũng
không tìm thấy sự khác biệt về trí thông minh giữa hai giới. Năm 1995, Hedges
và Nowell chỉ ra những sự khác biệt không có ý nghĩa về mặt thống kê về chỉ số
IQ trung bình giữa nam và nữ sử dụng các số liệu trong các nghiên cứu phổ biến
xuất bản thời đó.
Một nghiên cứu năm 1995 bởi Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ cũng không chỉ ra được sự
khác biệt về IQ giữa hai giới. Những nghiên cứu thực hiện giữa thập niên 1990
chỉ ra rằng có sự khác biệt nhỏ giữa chỉ số IQ của nam và nữ.[8] [9] Một số liệu
phân tích từ 2,404 người của "California Verbal Learning Test" kết luận rằng
"Khi các biến trung gian được kiểm soát, những sự khác biệt về giới có xu hướng
biến mất trong các bài test có lợi thế cho nam và có xu hướng phóng đại trong
các bài test có lợi thế cho nữ".
3

Einstin là người gôc Do thái
Một nghiên cứu của Richard Lynn năm 1999 trong đó ông phân tích số liệu từ một
số bài test được xuất bản trước đó và phát hiện ra rằng chỉ số IQ trung bình của
nam giới cao hơn của nữ giới khoảng 3-4 điểm IQ.
[11]
Các phân tích quy mô lớn
của Lynn thực hiện năm 2004 khảo sát sự khác biệt giới cũng chỉ ra nam giới có
chỉ số IQ trung bình cao hơn nữ là 5.0 điểm IQ.
[12]
Trong một nghiên cứu khác
bởi Rushton phát hiện nam giới ở độ tuổi 17 - 18 tuổi có chỉ số IQ trung bình cao
hơn 3.63 điểm so với nữ.
[13]
. Một nghiên cứu năm 2009 đo được khoảng cách là
3-5 điểm IQ cao hơn nghiêng về nam giới.
[14]
Tôn giáo và IQ
Một số nghiên cứu đã được tiến hành nhằm tìm hiểu mối liên hệ giữa trí thông
minh (được đo bằng trình độ học vấn, điểm số và một số yếu tố khác) và tín
ngưỡng, hầu hết đều cho rằng không có bất kì một sự liên vệ nào cả.
Sức khỏe và IQ
Một người có trí thông minh cao thường ít bị bệnh tật nặng hơn và sống lâu hơn.
Điều đó có thể là bởi vì họ có khả năng né tránh những chấn thương tốt hơn và
chăm sóc sức khỏe của mình tốt hơn và mặt khác, họ thường có đời sống kinh tế
khá giả hơn. Nó cũng giúp chống lại trầm cảm, tuyệt vọng
Nghiên cứu ở Scotland cho thấy những người có IQ thấp hơn trung bình 15 điểm
có cơ hội mừng sinh nhật thứ 76 của mình thấp hơn 1/5 so với trung bình. Những
người có IQ nhỏ hơn 30 điểm thì tỉ lệ đó giảm 37%
Sự phát triển kinh tế và IQ
Một số cuốn sách gây tranh cãi của tác giả Dr. Richard Lynn, Professor Emeritus

về tâm lý học tại Đại học Ulster, Bắc Ireland, và Dr. Tatu Vanhanen, Professor
Emeritus về khoa học chính trị tại Đại học Tampere, Tampere, Phần Lan IQ and the Wealth
of Nations (2002) (IQ và sự thịnh vượng của quốc gia) và IQ and Global
Inequality (2006) cho rằng sự giàu có của một quốc gia một phần lớn có thể giải
thích bằng cách nhìn vào chỉ số IQ trung bình của nước đó. Luận điểm trên đã và
đang được ủng hộ nhưng cũng có nhiều chê bai. Thông tin đó đang được đặt câu
hỏi để nghiên cứu thêm.
Sự hiệu quả thực tế
Bằng chứng về hiệu quả thực tế của chỉ số thông minh được kiểm chứng bằng
cách kiểm soát "độ liên quan giữa IQ và thực tế cuộc sống.
4
Những điều kiện kinh tế và xã hội liên quan đến IQ
Yếu tố Độ liên quan
Học vấn và IQ 0,5
Tổng số năm học tập và IQ 0,55
IQ và điều kiện kinh tế xã hội của cha mẹ 0,33
Hiệu suất làm việc và IQ 0,54
Những rắc rối trong xã hội và IQ -0,2
IQ của những cặp sinh đôi 0,86
IQ của vợ và chồng 0,4
Chiều cao của bố mẹ và đứa trẻ 0,47
5
Đặc điểm về kinh tế và xã hội của IQ
IQ <75 75–90 90–110 110–125 >125
Chiếm tỉ lệ tong dân số Hoa Kì 5 20 50 20 5
Kết hôn trước 30 tuổi 72 81 81 72 67
Không lao động trên 1 tháng mỗi năm
(đàn ông)
22 19 15 14 10
Thất nghiệp trên 1 tháng mỗi năm

(đàn ông)
12 10 7 7 2
Li dị trong 5 năm 21 22 23 15 9
Bà mẹ có con với IQ thấp hơn bình
thường
39 17 6 7 < 1
Bà mẹ có con ngoài giá thú 32 17 8 4 2
Sống trong nghèo khó 30 16 6 3 2
Bị án tù chung thân 7 7 3 1 < 1
6
Nhận tiền trợ cấp 31 17 8 2 < 1
Không tốt nghệp phổ thông 55 35 6 0.4 < 0.4
Đơn vị: %. Số liệu trên được đo ở những người da trắng. Tài liệu của Herrnstein
và Murray (1994), trang 171, 158, 163, 174, 230, 180, 132, 194, 247-248, 194,
146)
Nghiên cứu cho rằng trí thông minh tổng quát đóng một vai trò rất quan trọng
trong cuộc sống. Bên cạnh sự thành công trong trường học, IQ có một vai trò hết
sức quan trọng hiệu quả làm việc, thăng tiến, địa vị xã hội và cả tỉ lệ phạm tội,
nghèo khó, thất nghiệp, có con ngoài giá thú, Nghiên cứu gần đây cũng đưa ra
những mối liên hệ giữa trí thông minh và sức khỏe, sống thọ, số lượng từ vựng
được người đó sử dụng. Mối liên hệ giữa hệ số g và cuộc sống khá rõ ràng trong
khi IQ và hạnh phúc thì hầu như không. IQ và hệ số g liên quan rất nhiều với
nhau trong trường học, nhưng ít hơn trong nghề nghiệp, trung bình trong thu
nhập và có một phần nhỏ đến tình trạng phạm tội.
Trí thông minh tổng quát chính là một tiên đoán gần đúng nhất cho khả năng làm
việc của con người. Độ liên quan thể hiện mức độ giống nhau giữa những gì mà
họ thể hiện trong bài kiểm tra và trong thực tế (được đo bằng nhiều tiêu chí, trong
đó có đánh giá của thủ trưởng, thăng thưởng, ) là một con số từ -1,0 (sai hoàn
toàn) đến 1,0 (đúng hoàn toàn). Người ta nhận
thấy rằng độ liên quan với những việc chưa

từng làm là 0,2 trong khi những việc đã có
kinh nghiệm là 0,8.
Một cuộc phân tích lớn (Hunter and Hunter,
1984) trên 32,124 công nhân trên phương
diện thông minh tổng quát cho thấy rằng độ
liên quan của những người mới vào làm là
0,54, thử việc 0,44, có kinh nghiệm 0,18,
phỏng vấn 0,14, tuổi tác -0,01, đang được
huấn luyện 0,10. Một bài kiểm tra được thiết
7
Trẻ em song sinh là đối tượng
nghiên cứu chỉ số IQ
kế tốt có thể cho phép các công ty lựa chọn những người có IQ cao. Đó cũng là lý
do sau khi xem xét tất cả các ứng viên, người ta thường có phỏng vấn (độ liên
quan 0,14) hơn lựa chọn ngẫu nhiên (độ liên quan 0,00).
Tuy nhiên, có những hàng rào luật pháp như quyền con người, như trong năm 1971,
tòa án tối cao Hoa Kì sau vụ án Griggs và công ty năng lượng Duke đã cấm hoàn
toàn việc các công ty Hoa Kì dùng những bài kiểm tra thông minh để lựa chọn
nhân viên khi kết quả của bài kiểm tra có ảnh hưởng quyết định đến việc người
đó có được nhận vào làm hay không. Tuy nhiên, Microsoft rất nổi tiếng trong việc
sử dụng những bài kiểm tra trên một cách bất hợp pháp bằng cách kết hợp nó với
quá trình phỏng vấn, và đôi khi họ đặt vấn đề thông minh cao hơn cả kinh
nghiệm .
Những nhà khoa học cũng đã lên tiếng "trong kinh tế, sự đo lường trí thông minh
đồng nghĩa với sự suy giảm những giá trị đạo đức"(Detterman and Daniel, 1989,
xem thêm ở.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu về IQ tiếp tục tìm ra những lợi ích của sự thông
minh ở một mức độ cao. Khả năng làm việc là một ví dụ, tăng dần theo IQ
(Coward và Sackett, 1990). Trong cuộc phân tích hàng trăm đứa trẻ, người ta
thấy rằng IQ có một hiệu quả rất lớn lên thu nhập bình quân của gia đình

(Murray, 1998).
Một số những nhà nghiên cứu khác đặt một câu hỏi liệu IQ có là nguyên nhân
của sự giàu có và sự không đồng đều về kinh tế trong một quốc gia hay không?
Câu trả lời là dưới một phần sáu thu nhập bị ảnh hưởng bởi trí thông minh (xem
thêm ở
[20]
). Trong một nghiên cứu gần đây vào năm 2002, người ta còn tìm thấy
rằng chủng tộc, của cải, học vấn mới có những vai trò chủ chốt trong việc quyết
định tình trạng kinh tế trong tương lai còn IQ là một yếu tố nhỏ và sự di truyền trí
thông minh còn đóng một vai trò còn nhỏ hơn thế (xem thêm ở
[21]
). Nhiều người
xem IQ là một biện pháp tình thế của chính phủ các nước nhằm không chấm dứt
tình trạng nghèo khổ. Một số khác cho IQ là nguyên nhân của xã hội phong kiến,
đối xử bất bình đẳng với phụ nữ. Cũng có ý kiến cho rằng những người có trí
thông minh cao thường cho rằng trí thông minh rất quan trọng khiến nhiều người
bực mình trong cách cư xử của họ .
Chỉ số IQ & Sự chậm phát triển trí não
8
Khoảng 75-80% sự chậm phát triển trí não là do di truyền, và 20-25% còn lại là
do những nguyên nhân bên trong cơ thể như sự bất thường ở các nhiễn sắc thể
hay chấn thương ở não[4]. Sự chậm phát triển trí tuệ từ nhẹ đến vừa có thể có
nguyên nhân là do sự rối loạn của một gene cho đến nhiều nhiễm sắc thể bất
thường, có thể bao gồm hiện tượng mất đoạn nhiễm sắc thể. Theo như nhiên cứu
trên những cặp sinh đôi, sự kém phát triển trí tuệ từ vừa đến nặng là không do
yếu tố di truyền, nhưng dạng nhẹ của bệnh lại là do di truyền. Đó cũng là lý do họ
hàng của những người kém phát triển trí tuệ nặng hầu hết đều bình thường còn
trong những gia đình có người kém phát triển trí tuệ nhẹ thì có chỉ số IQ thấp hơn
hẳn so với mức trung bình.
Bảng chỉ số IQ

 kém phát triển trí tuệ dạng nhẹ: có IQ từ 50-55 đến 70, trẻ em như thế cần
giúp đỡ nhẹ nhàng.
 kém phát triển trí tuệ dạng trung bình: có IQ từ 35-40 đến 50-55, trẻ em
cầy giúp đỡ nhiều và theo dõi.
 kém phát triển trí tuệ dạng nặng: có IQ từ 20-25 đến 35-40, trẻ chỉ có thể
được dạy các kĩ năng cơ bản trong cuộc sống, cần được theo dõi thường
xuyên.
 kém phát triển trí tuệ dạng rất nặng: có IQ dưới 20-25, thường bị gây ra bởi
những vấn đề về hệ thần kinh, rất cần chăm sóc thường xuyên.
Tỉ lệ mắc chứng kém phát triển trí tuệ ở
nam cao hơn ở nữ, ở người da đen cao hơn
người khác, theo như một nghiên cứu năm
1991 của Trung tâm Điều khiển và Phòng
chống Dịch bệnh (CDC)[5].
Đối với chủng tộc, tỉ lệ chung là 1,66%
cho người da đen và 0.68% cho người da
trắng. Đối với nam, da đen thì có tỉ lệ cao
nhất: gấp 1,7 lần nữ, da đen; 2,4 lần so với
nam, da trắng và 3,1 lần so với nữ, da
trắng.
Nguồn (VntoanHoc) – ST Phạm Huy Hoạt
9
Chú thích: người châu Á: xanh
dương; châu Âu: cam, Tây Ban
Nha: xanh lá cây; châu Phi: vàng
10

×