Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

SKKN Một số giải pháp quản lýnhằm giảm dần tỷ lệ học sinh yếu kém về học lực tại trường THCS Giang Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.88 KB, 44 trang )


PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐÔ LƯƠNG
TRƯỜNG THCS GIANG SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÍ
NHẰM GIẢM DẦN TỈ LỆ HỌC SINH YẾU KÉM
VỀ HỌC LỰC TẠI TRƯỜNG THCS GIANG SƠN,
HUYỆN ĐÔ LƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN


Người viết: HOÀNG ĐÌNH NGỌC
Chức vụ: PHÓ HIỆU TRƯỞNG
Điện thoại: 0972949074
NĂM HỌC 2013 - 2014
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÍ NHẰM GIẢM DẦN TỈ LỆ HỌC SINH
YẾU KÉM VỀ HỌC LỰC TẠI TRƯỜNG THCS GIANG SƠN,
HUYỆN ĐÔ LƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

A. MỞ ĐẦU
Mục tiêu giáo dục bậc THCS nêu rõ : “ Giáo dục THCS nhằm giúp học sinh
củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục Tiểu học, có trình độ học vấn phổ
thông cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học
THPT,THCN, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động” (Luật Giáo dục).
Nội dung của giáo dục THCS là “ Phải củng cố, phát triển những nội dung đã
học ở Tiểu học, bảo đảm cho học sinh có những hiểu biết phổ thông cơ bản về tiếng
Việt, toán, lịch sử dân tộc, kiến thức về khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, pháp luật,
tin học, ngoại ngữ; có những hiểu biết cần thiết tối thiểu về kỹ thuật và hướng nghiệp”
(Luật Giáo dục ).
Phương pháp giáo dục phổ thông là “ Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động sáng tạo của học sinh ; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi
dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn ; tác


động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh ” (Luật Giáo dục)
Đối chiếu với những yêu cầu về mục tiêu, nội dung và phương pháp của giáo
dục bậc THCS nêu trên, không phải bao giờ chúng ta cũng đạt được như mong muốn.
Trên thực tế, hầu khắp các trường THCS luôn tồn tại một tỷ lệ đáng kể và rất đáng
quan tâm về số học sinh không đạt được những yêu cầu nói trên, điều đó đã trở thành
vấn đề bức bách luôn đòi hỏi những người làm công tác giáo dục không thể không tìm
cách tháo gỡ, giảm thiểu số đối tượng này. Đó là những học sinh yếu kém. Số học
sinh yếu kém ở mỗi trường, mỗi lớp cao hay thấp phụ thuộc nhiều vào công tác quản
2
lý chỉ đạo và mức độ nhiệt tình của đội ngũ giáo viên có chịu khó tìm tòi nguyên
nhân và tìm ra những biện pháp hữu hiệu để khắc phục những hạn chế đó.
Đặc biệt, đối với một địa bàn vùng núi khó khăn của huyện như đơn vị chúng
tôi, chỉ tiêu chất lượng học lực luôn thấp kém hơn nhiều so với mặt bằng chung của
huyện. Nhà trường đã đề ra khá nhiều biện pháp nhằm hạn chế tỉ lệ học sinh yếu kém
này nhưng hiệu quả vẫn rất thấp, xu hướng tiến triển chậm chạp. Tình trạng này đã
kéo dài nhiều năm như thế. Trước thực trạng đó, tôi đã để tâm tìm hiểu, đề ra một
một số biện pháp đem vào áp dụng và đã có được những kết quả nhất định. Trên cơ sở
đó, tôi đã đề xuất đề tài: “Một số giải pháp quản lí nhằm giảm dần tỷ lệ học sinh
yếu kém về học lực tại trường THCS Giang Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An”.
Đề tài hướng tới mục đích nhận thức rõ thực trạng, tìm ra nguyên nhân để đề ra
các giải pháp hiệu quả trong công tác quản lí nhằm giảm dần tỷ lệ học sinh yếu kém
về học lực, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường.

3
B. NỘI DUNG
4
I. THỰC TRẠNG HỌC SINH YẾU KÉM VỀ HỌC LỰC VÀ CÔNG TÁC
QUẢN LÍ NHẰM GIẢM DẦN TỈ LỆ HỌC SINH YẾU KÉM VỀ HỌC LỰC
TRONG NHỮNG NĂM QUA.
1. Thực trạng và nguyên nhân học sinh yếu kém về học lực:

1.1 Thực trạng
Hiện nay, hơn bao giờ hết vấn đề chất lượng đào tạo là vấn đề luôn được sự
quan tâm đặc biệt trong các trường học. Đó là tín hiệu đáng mừng đối với những
người quan tâm đến sự nghiệp giáo dục. Trước đòi hỏi rất cao của thực tiễn cuộc
sống, diễn biến thay đổi một cách nhanh chóng theo sự phát triển của thời đại, đặt ra
yêu cầu chất lượng giáo dục phải đáp ứng tương xứng. Vì vậy, các nhà trường không
thể không chăm lo cho “ sản phẩm ” của mình. Kết quả cho thấy, chất lượng trong
những năm qua ở các nhà trường nhìn chung đã có những bước chuyển biến mới. Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được đối với chất lượng đào tạo, luôn tồn tại một
vấn đề bức xúc đòi hỏi phải giải quyết, đó là vấn đề học sinh yếu kém.
Có thể nói, vấn đề học sinh yếu kém luôn là vấn đề được đề cập rất nhiều
trong các bản kế hoạch của các đơn vị trường học. Nhưng tiếc thay, đề cập nhiều chắc
gì đã thu được kết quả tốt. Thực tế đã chứng minh điều đó. Ở trường chúng tôi là
một dẫn chứng cụ thể, kết quả xếp loại học lực một số năm gần đây như sau:
Cuối năm
học
Tổng
số
Giỏi Khá TB Yếu Kém Dưới.TB
SL % SL % SL % SL % SL % SL %
2010-2011 821
22 2.68 293 35.7 418 50.9 86 10.5 2 0.24 88 10.7
2011-2012 810
30 3.7 304 37.5 386 47.7 89 11 1 0.12 90 11.1
Qua bảng số liệu trên, chúng ta thấy rằng: số học sinh giỏi ở đây thấp hơn rất
nhiều so với số học sinh yếu kém. Điều đó đặt ra yêu cầu là cần phái sớm đề xuất các
giải pháp khắc phục để giảm dần tỉ lệ học sinh yếu kém.
Trường THCS Giang Sơn là một đơn vị thuộc vùng miền núi của huyện Đô
Lương tỉnh Nghệ An, gặp rất nhiều khó khăn về điều kiện kinh tế cũng như văn hóa
5

xã hội. Học sinh nhiều em chưa đủ ăn no, mặc ấm. Nhất là những tháng mùa đông giá
rét, nhìn các em nhếch nhác đẩy chiếc xe đạp cà tàng trên những đoạn đường lầy lội
trơn trượt với khuôn mặt gầy đen, môi bầm tím vì lạnh mà đáng thương làm sao! Có
những em nhà xa trường 5-7 km, phải dậy đi học lúc tờ mờ sáng. Những hôm học cả
ngày vẫn còn cơm đùm, cơm nắm như trong chuyện ngày xưa! Nhiều em suốt nhiều
năm đi học không có một cuốn sách giáo khoa mới. Nhiều em bố mẹ lăn lộn trăm bề
mà vẫn thường xuyên bị nhà trường nhắc nhở về chậm trễ trong việc nộp tiền đóng
góp các khoản. Nhiều em không được đi học thêm vì thiếu tiền. Có nhiều trường hợp,
nhà trường miễn tiền học thêm cho các em nhưng bố mẹ lại bắt ở nhà để đỡ đần công
việc đồng áng, phụ giúp thêm kinh tế gia đình… Giáo viên nhìn thấy điều đó không?
Các nhà giáo tâm huyết ở đây nhìn thấy rất rõ điều đó. Vấn đề là làm sao để giúp đỡ
cho các em? Trong khi đó, nhiều nhà giáo ở đơn vị chúng tôi là giáo viên hợp đồng.
Giáo viên hợp đồng với mức lương trên 1 triệu đồng, chưa đủ chi phí ăn ở, còn phải
nhận sự giúp đỡ tài chính của gia đình và một phần nhỏ nhoi hỗ trợ từ quỹ phúc lợi
của nhà trường. Những nhà giáo hết sức thương yêu học sinh nhưng phần lớn cũng
chỉ bằng tình thương tội nghiệp mà thôi! Chỉ có thể trao cho các em bằng những con
chữ nếu vận động được các em đến lớp chuyên cần. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có
những giáo viên đi nghĩa vụ tăng cường do sự điều động của huyện. Một số trong đó
không thể vô tư tâm huyết được nhiều cho sự nghiệp giáo dục vùng khó. Ngoài ra,
chất lượng đội ngũ giáo viên vùng khó, vì nhiều lí do nên không thể bằng được ở
những vùng thuận lợi. Đó có phải là một trong những lí do “ những vùng khó thường
là vùng trũng của chất lượng giáo dục” không? Ngẫm ra, câu nói này thật hay mà
đúng.
Một vài nét về học sinh, giáo viên vùng khó như vậy để thấy rằng, công tác
giảm dần tỉ lệ học sinh yếu kém nói chung của các nhà trường vốn rất khó khăn thì sự
khó khăn đối với đơn vị như chúng tôi lại càng bị nhân lên gấp bội.
1.2. Nguyên nhân học sinh có học lực yếu kém :
6
1.2.1. Có nhiều học sinh THCS bị “ mất gốc ” kiến thức từ Tiểu học:
`Điều này thể hiện rõ qua các kỳ khảo sát đầu vào THCS, qua thực tế kết quả

dạy học thường xuyên của giáo viên. Thực vậy, có nhiều em không những không tiếp
cận được kiến thức của các môn khoa học phải học tập trong chương trình THCS mà
ngay cả những kỹ năng đọc viết thông thường, tính toán giản đơn, các em cũng chưa
đạt yêu cầu. Có nhiều học sinh học đến lớp 7, lớp 8 còn chưa đọc thông viết thạo,
chưa làm được những bài toán số học đơn giản của chương trình lớp 3, lớp 4. Như
vậy thì làm sao các em tiếp thu được những khối lượng kiến thức lớn của các môn học
ở bậc THCS.
Chúng ta hãy tham khảo một vài số liệu về thực trạng chất lượng đầu vào bậc
THCS. Có đến nhiều lần, nhà trường chúng tôi đã tổ chức khảo sát lại số học sinh
trúng tuyển vào lớp 6 trước khi bước vào năm học mới. Xin đơn cử kết quả một vài
năm gần đây :
Đầu năm
học
Tổng
số
Giỏi Khá TB Yếu Kém Dưới.TB
SL % SL % SL % SL % SL % SL %
2010-2011 204 28 13.7 32 15.7 39 19.1 63 30.9 42 20.59 105 51.5
2011-2012 198
9
4.55
27
13.6
49
24.7
51
25.8
62
31.31
11

3 57.1
2012-2013 139 9 6.47 12 8.63 39 28.1 42 30.2 37 26.62 79 56.8
Đề thi khảo sát có yêu cầu tương đương đề thi hoàn thành chương trình Tiểu
học mà các em vừa thi xong cách đó mấy tháng. Qua đây cho thấy một số học sinh
yếu kém là do đã bị “ hổng ” kiến thức ngay từ bậc Tiểu học
1.2.2. Có nhiều học sinh yếu kém do lơi là, buông trôi, lười học tập:
Số học sinh này thể hiện rõ khi ta kiểm tra bài cũ, kiểm tra vở bài tập, vở học
tập của các em. Không thể chấp nhận được khi có những học sinh trả lời: “ Em chưa
học bài ” hoặc “ Em chưa làm bài tập ” hoặc mới chỉ đọc qua loa… Những đối tượng
này nếu không tác động kịp thời, càng về sau càng trở nên buông trôi, lơi là và lười
nhác.
7
Vậy, tại sao lại có những em lơi là, buông trôi, lười học tập? Đó lại là câu hỏi
yêu cầu chúng ta phải trả lời. Thực tế cho thấy, đa số các học sinh lơi là trong việc
học tập là những em thiếu ý thức tự giác, mải chơi, không tập trung chăm lo bài vở.
Đa số những em buông trôi việc học hành là vốn dĩ do học yếu nhưng không có chí
hướng phấn đấu vượt khó vươn lên, để đến đâu thì đến. Còn những em lười học, đa
số là thiếu tính kỷ luật học tập, có thể có những em học lực trước đó là khá nhưng sự
lười nhác đã dẫn đến hậu quả yếu kém.
1.2.3. Một số học sinh yếu kém do tác động mặt trái của việc thực hiện đổi mới
phương pháp dạy học mà một số giáo viên chưa chú ý khắc phục mặt trái này:
Những mặt trái đó thể hiện ví dụ như : trong các hoạt động nhóm, chỉ có một
số em là thực sự hoạt động mà thôi. Thực tế, tôi đã có nhiều lần đi dự giờ thăm lớp,
nhiều lần dự giờ tại một lớp và nhận thấy: trong một số nhóm học sinh, khi nhận công
việc giáo viên giao, cả nhóm cùng xúm lại nhưng chỉ có một vài em là làm việc thực
sự ( các em khác chỉ xúm vào xem). Khi báo cáo kết quả, cũng chỉ có những em làm
việc thực sự đó báo cáo. Một số lần khác dự giờ trở lại lớp đó, cũng xẩy ra tình trạng
tương tự, có nghĩa là vẫn những em thực sự làm việc đó báo cáo, còn những em khác
tiếp tục ngồi xem ! Trong một số nội dung giành cho học sinh độc lập suy nghĩ, tích
cực chủ động dưới sự hướng dẫn của giáo viên, nhiều em đã không tự giác làm việc

dẫn đến đã yếu kém lại càng tụt hậu.
Nếu không có biện pháp khắc phục tình trạng này thì đây là một nguyên nhân
mới đáng kể làm gia tăng tỷ lệ học sinh yếu kém.
Ngoài ra, nội dung chương trình giáo dục phổ thông của chúng ta hiện nay còn
có những vấn đề nặng về tính hàn lâm, ôm đồm, không sát thực tế nhu cầu hướng tới
phát triển cá nhân học sinh. Tuy vậy, vẫn buộc học sinh phải học, mặc dù việc học tập
đó các em không hứng thú và không mang lại lợi ích thiết thực nào. Học sinh phải
gồng mình lên đối phó với yêu cầu của giáo viên. Việc học này không có chiều sâu.
Vì vậy, càng học nhiều, càng quên nhiều. Mặc dù nhiều em học sinh, ngoài việc học
8
chính khóa, học thêm ở trường, bố mẹ còn bắt đi học thêm ở ngoài. Vậy mà yếu kém
vẫn hoàn yếu kém. Càng học nhiều lại càng yếu kém về nhiều mặt.
1.2.4. Nhằm chạy đua thành tích đạt tỷ lệ cao và đúng độ tuổi của công tác phổ
cập giáo dục, đã dẫn đến tình trạng có nhiều học sinh “ ngồi ghế nhầm lớp”:
Yêu cầu của công tác phổ cập giáo dục là huy động, duy trì sỹ số và đảm bảo
chất lượng. Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta mới chỉ quan tâm đến mặt số lượng, đến tỷ
lệ, đến thành tích một cách hình thức mà chưa thực sự quan tâm đến chất lượng phổ
cập như thế nào. Chưa mạnh tay trong công tác quản lý, chỉ đạo, kiểm tra chất lượng
dẫn đến có nhiều học sinh đi học là tính thời gian, tính năm, tính tháng, tính tuổi để
được lên lớp mà đáng lẽ có nhiều em chưa đạt được điều đó, đúng ra là phải lưu ban,
phải học lại. Thực tế, có rất nhiều học sinh yếu kém thì mặc yếu kém, hầu như không
bao giờ phải lo chuyện ở lại lớp ! Nếu em nào có thiếu điểm một số môn nào đó, các
em sẽ được thi lại trong hè và được xét là đủ điều kiện để được lên lớp. Việc thi lại ở
đây gần giống như là một thao tác để “ hợp pháp hoá ” cho các em được lên lớp, mà
đáng lẽ ra là các em phải lưu ban. Vậy, lợi ích thiết thực của việc không phải lưu ban
là gì ? Có phải đó là vấn đề chạy đua để đạt tỷ lệ đẹp về vấn đề phổ cập giáo dục hay
không ? ! Có người cho rằng, sự chạy đua về số lượng của công tác phổ cập là một
trong những nguyên nhân chính dẫn đến có nhiều học sinh yếu kém.
1.2.5. Các nguyên nhân khác:
Ngoài các nguyên nhân cơ bản nói trên , còn có những nguyên nhân khác như :

Có những học sinh học yếu là do ảnh hưởng xấu của các hiện tượng tiêu cực
từ môi trường xã hội tác động đến như lối ăn chơi đua đòi, các trò chơi tiêu khiển
các trò chơi điện tử …
Có những em học yếu do năng lực của các em bị hạn chế.
Có những học sinh học yếu là do hoàn cảnh gia đình có khó khăn, hoặc do sự
thiếu quan tâm của các bậc phụ huynh đối với việc học tập của con em. Có thể nói
9
đây là một nhóm nguyên nhân từ phía gia đình. Có những em là con của hộ nghèo,
không đủ kinh phí đầu tư cho con cái học hành. Có những gia đình thì ngược lại, bố
mẹ lo chạy đua kinh tế, lo làm ăn theo cơ chế thị trường, thiếu sự quan tâm, chăm lo,
quản lý dẫn đến con cái ăn chơi, đua đòi lêu lổng… Lại có những em học yếu hoặc
bỏ học do gặp phải những hoàn cảnh khác …
Ngoài ra, còn có những học sinh học yếu có ý thức phấn đấu nhưng chưa có
phương pháp, chưa nhận được sự giúp đỡ của các lực lượng giáo dục trong và ngoài
nhà trường… dẫn đến các em vẫn không tiến bộ được.
Một điều đáng quan tâm, đó là Ban Giám hiệu nhà trường, các đoàn thể, tập thể
giáo viên đã chú trọng đến công tác này hay chưa? Có nhiều trường hợp, Ban Giám
hiệu và giáo viên đều nhìn thấy tình trạng học sinh học yếu là đáng báo động, song
thấy là chỉ để thấy, nói là chỉ để nói nhưng động thì không động, làm thì không làm
hay nói đúng hơn là chưa thực sự làm, hoặc làm sơ sài, hoặc thiếu phương pháp,
thiếu kế hoạch, biện pháp cụ thể và hiệu quả, hoặc có khi bi quan cho rằng không thể
cải thiện được tình hình , đổ lỗi với nhiều lý do khác…
Tóm lại, kết quả sự học yếu của học sinh có thể là do nhiều nguyên nhân khác
nhau. Vấn đề mấu chốt của các nhà sư phạm là phải chỉ ra đúng nguyên nhân của
từng trường hợp, đối tượng cụ thể để có biện pháp khắc phục đúng đắn, phù hợp và
hiệu quả.
2. Thực trạng và nguyên nhân không thành công về công tác quản lí nhằm giảm
dần tỷ lệ học sinh yếu kém trong những năm qua.
2.1. Thực trạng về công tác quản lí nhằm giảm dần tỷ lệ học sinh yếu kém trong
những năm qua.

Về công tác chỉ đạo, quản lí nhằm khắc phục dần tình trạng học sinh yếu kém,
có thể nói bất cứ trường nào cũng đều quan tâm, ở mức độ khác nhau, đều tìm những
giải pháp nhất định để thực hiện điều này. Trước thực trạng về tình hình học sinh yếu
10
kém về học lực như đã nêu trên, ở trường chúng tôi đã tiến hành một số biện pháp
nhằm giảm dần tỉ lệ học sinh yếu kém này. Cụ thể, đó là một số biện pháp như sau:
1. Chỉ đạo tiến hành phân luồng, tổ chức dạy học phụ đạo đại trà cho học sinh
yếu kém.
2. Tăng cường kiểm tra bài cũ, bài làm ở nhà của học sinh.
3. Tiến hành hỏi bài cũ dưới cờ.
4. Tiến hành họp phụ huynh của những em yếu kém nhằm phối hợp với phụ
huynh để đôn đốc việc học tập của học sinh.
5. Ghi tên những học sinh không thuộc bài, phê bình dưới cờ, trừ điểm thi đua
của lớp.
6. Bắt học sinh không thuộc bài trong buổi học chính khoá đi học lại bài vào
một buổi khác.
V.v …
Với những biện pháp trên, tình hình có được cải thiện chút ít nhưng mức độ tiến
triển vẫn chậm chạp và chưa vững chắc, thậm chí có khi còn không thay đổi được tình
hình. Vì vậy, một số cán bộ và giáo viên đã có lúc nản lòng.
2.2. Nguyên nhân không thành công của những giải pháp chỉ đạo, quản lí nhằm
giảm dần tỷ lệ học sinh yếu kém trong những năm qua.
Là một cán bộ quản lí phụ trách công tác chuyên môn, tôi đã cố gắng tìm hiểu và
thấy được một số nguyên nhân không thành công của các giải pháp chỉ đạo, quản lí
nêu trên như sau.
1.Đa số các giải pháp không đạt hiệu quả là do đánh giá chưa đầy đủ, đúng mức
về thực trạng học sinh yếu kém.
2. Chưa đi sâu tìm hiểu các nguyên nhân học sinh yếu kém để đề ra các giải
pháp phù hợp, sát đối tượng.
11

3.Việc tổ chức dạy học phụ đạo còn tiến hành một cách chung chung, nhiều lúc
mang tính hình thức, kém hiệu quả. Không phân luồng kỹ đối tượng theo từng môn
học, từng nhóm nguyên nhân Không tổ chức xây dựng và chỉ đạo thực hiện theo
một khung chương trình dạy học phù hợp.
4.Các giải pháp đưa ra nhiều lúc mang tính đối phó cục bộ, hành chính, thiếu
tính hệ thống, thiếu chiều sâu, không thể giải quyết được tình hình.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHẰM GIẢM DẦN TỈ LỆ HỌC SINH YẾU
KÉM VỀ HỌC LỰC
I. Giải pháp:
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân học sinh yếu kém, chúng
tôi đã đề xuất và thể nghiệm một số giải pháp mang lại hiệu quả khả quan như sau :
1. Thu thập thông tin, tìm hiểu thấu đáo nguyên nhân học sinh học yếu đối với
từng trường hợp cụ thể để từ đó có biện pháp khắc phục phù hợp.
Điều này đòi hỏi giáo viên phải thực sự tâm huyết, nhiệt tình mới có thể đạt
được thành công. Muốn tìm hiểu nguyên nhân học sinh học yếu, cần thường xuyên
sát sao với từng em cụ thể. Ngoài việc tìm hiểu thu thập thông tin tại lớp, tại trường,
giáo viên phải biết thêm tình hình từng đối tượng học sinh lúc ở nhà và ngoài xã hội,
từ đó, đề ra các giải pháp tương ứng, phù hợp.
Biện pháp này có thể tiến hành theo nhiều cách, nhiều hình thức, trong đó có
những hình thức đã áp dụng hiệu quả như sau :
- Đưa vào nội dung sinh hoạt chuyên đề trong tổ chuyên môn của nhà trường,
yêu cầu cơ bản là thu thập thông tin về : nguyên nhân tại sao học sinh học yếu? đồng
chí đã đề xuất những giải pháp gì (nêu cụ thể )? thực hiện như thế nào ? kết quả ra
sao ? v. v… Sau đó cho thảo luận, tổng hợp ý kiến.
12
- Phát phiếu thăm dò trong học sinh. Nội dung cơ bản của phiếu là: mức độ học
lực thực tế của em ( học sinh ) như thế nào ? em học yếu môn nào ? nguyên nhân học
yếu ? sách vở đồ dùng học tập của em thiếu cái gì ? các bậc phụ huynh quan tâm đến
việc học của em như thế nào ? kế hoạch và thời gian biểu tự học của em ra sao ? sở
thích của em là gì ? kế hoạch phấn đấu học tập của em như thế nào ?…Những yêu

cầu, đề xuất của em : về công tác tổ chức dạy học của nhà trường ( kể cả chính khoá
và học thêm ) ? về nội dung, phương pháp giảng dạy các bộ môn của các giáo viên
như thế nào ? v.v…
Sau phiếu thăm dò có ý kiến và chữ ký của phụ huynh ( chúng tôi có mẫu kèm
theo ở phần phụ lục ).
Công tác phát phiếu thăm dò cần quán triệt rõ mục đích cuối cùng là nhằm đảm
bảo hiểu đúng đối tượng, làm sao cho công tác dạy tốt hơn, học tốt hơn, hiệu quả giáo
dục ngày càng tốt hơn. Thăm dò là để xây dựng. Sử dụng biện pháp này cần linh hoạt
mềm dẻo tránh những mặt tiêu cực có thể xẩy ra.
Sau khi thu thập, tìm hiểu được nguyên nhân của học sinh học yếu, chúng ta
tiến hành thực hiện các biện pháp tác động. Mỗi một nguyên nhân thường có một số
biện pháp cụ thể để khắc phục. Một số ví dụ cụ thể như:
- Trường hợp đối với các đối tượng bị “hổng“ kiến thức từ Tiểu học.
Đối tượng này, phải phụ đạo lại cho các em những kiến thức sơ đẳng nhất,
thông thường nhất như những kỹ năng về đọc viết, tính toán cơ bản… để từ đó làm
cơ sở cho việc tiếp thu kiến thức mới. Thực tế cho thấy, nhiều học sinh THCS chưa
đọc thông viết thạo. Nếu chúng ta không quan tâm đến các đối tượng này thì chắc
chắn rằng, các em đến lớp là chỉ đi cho có, không thể thu nhận được gì, lời giáo viên
chỉ là nước đổ lá môn! Vì vậy, với đối tượng này, đòi hỏi giáo viên phải kiên trì,
phải chịu khó hướng dẫn các em. Điều tất nhiên, không thể quan tâm chỉ trong 45
phút chính khoá là có thể được mà chắc chắn là phải bố trí thêm thời gian ngoài cho
các em học tập.
13
Cụ thể:
Đối với lớp 6, vào đầu năm học, chúng tôi tiến hành khảo sát chất lượng để
tiến hành phân loại học sinh đầu vào. Lập danh sách học sinh yếu kém lần 1 bắt đầu
tiến hành phân công giáo viên phụ đạo.
Giữa học kỳ I: sau một thời gian giáo viên trực tiếp giảng dạy, giáo viên có
thêm cơ sở để đánh giá đầy đủ hơn về học sinh, cho phép rà soát điều chỉnh danh sách
học sinh yếu kém của lần 1. Bởi vì, ở lần 1, chúng ta mới chỉ có kết quả qua một bài

kiểm tra ( Ngữ văn và Toán ), chưa thể khẳng định đúng năng lực, trình độ của các
em.
Cuối học kỳ I: kết hợp thông tin từ phía giáo viên giảng dạy các bộ môn chính
khóa, giáo viên dạy phụ đạo và kết quả chất lượng trên sổ điểm, chính thức rà soát lập
lớp phụ đạo cho cả năm học.
Trong năm học lớp 6, do nhiều nguyên nhân, có thể chưa hoàn thiện được việc
lấp đầy “ lỗ hổng” kiến thức từ Tiểu học. Chúng ta tiếp tục kiên trì tổ chức phụ đạo
cho các em ở các lớp trên.
- Trường hợp đối với những học sinh lười học, lơi là, buông trôi việc học tập .
Đối tượng này phải tăng cường các biện pháp mềm dẻo liên quan đến nội quy,
kỷ luật kết hợp với thuyết phục, động viên, tạo hứng thú thu hút học sinh quay trở lại
với việc học tập. Giáo viên phải biết được nguyên nhân tại sao các em lười học? tại
sao lơi là ? tại sao buông trôi? Lười thì phải tìm cách rèn cho siêng. Siêng rồi thì tìm
cách học cho tốt. Lơi là thì tăng cường kỷ luật cho nghiêm. Kỷ luật nghiêm nhưng
đừng có cứng nhắc. Buông trôi thì phải níu lại. Đừng thấy thả trôi mà để trôi đi mất.
Như thế thì vô trách nhiệm lắm. Số đối tượng này, nhìn chung, nếu có phương pháp
tốt thì hiệu quả tiến triển nhanh hơn, thường mất ít thời gian công sức hơn.
- Trường hợp đối với các đối tượng chịu ảnh hưởng xấu của các hiện tượng
tiêu cực ngoài xã hội. Trong trường hợp này, phải phối hợp với các lực lượng ngoài
14
xã hội tìm cách ngăn chặn, giảm thiểu những tác động tiêu cực ảnh hưởng đến học
sinh,tìm cách giúp các em học tập tiến bộ. Tuy nhiên trước khi phối hợp thì nhà
trường phải tự lo phần mình trước đã. Nghĩa là chăm lo giáo dục cho các em tính tự
giác trong học tập, phân biệt được những cái ngưỡng cần dừng của sự đam mê. Phân
biệt được cái gì là có lợi, cái gì là có hại và hại như thế nào mà phòng mà tránh. Nhà
trường tìm cách thu hút giáo dục học sinh thông qua nhiều hình thức như: tổ chức
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ( trong giờ chủ nhiệm, giờ chào cờ, giờ ngoại
khoá …), phối hợp trong các hoạt động Đoàn Đội, các hoạt động xã hội khác … Biểu
dương khen ngợi những gương chăm ngoan học giỏi, những em chấp hành tốt kỷ luật
nhà trường, phê phán những em chưa ngoan và yêu cầu các em tu dưỡng, rèn luyện

với những biện pháp giáo dục tương ứng.
- Trường hợp học sinh yếu kém do tác động mặt trái của việc đổi mới phương
pháp dạy học. Trường hợp này, giáo viên phải chú ý điều chỉnh cho phù hợp. Giáo
viên cần tăng cường quan tâm hơn đối với những học sinh năng lực còn hạn chế. Ví
dụ như: trong hoạt động nhóm, khi giao nhiệm vụ cho học sinh, giáo viên bắt buộc tất
cả các cá nhân phải làm việc, học sinh khá hơn giúp đỡ học sinh yếu hơn. Khi báo cáo
kết quả làm việc của nhóm, giáo viên chú ý giành cơ hội cho học sinh yếu trình bày,
coi kết quả trình bày này là kết quả của cả nhóm (có thể giáo viên cho điểm- đó là
điểm chung của cả nhóm). Làm như vậy, tính đồng đội, tính tập thể trong nhóm sẽ
tăng lên, buộc các em học khá phải có trách nhiệm giúp đỡ các em học yếu ( nếu
không, tất cả sẽ cùng chịu điểm thấp). Hiệu quả của việc “ Học thày không tày học
bạn ” được phát huy.
- Trường hợp học sinh “ngồi ghế nhầm lớp” do việc “đẩy” học sinh yếu lên
lớp để đảm bảo công tác phổ cập giáo dục đạt tỷ lệ cao và đúng độ tuổi. Đối với
trường hợp này, yêu cầu nhà quản lý giáo dục phải quan tâm hơn đối với thước đo
chất lượng thật của công tác phổ cập giáo dục. Phải có những biện pháp chống chạy
đua thành tích, chạy đua về số lượng ( huy động, duy trì sỹ số, tỷ lệ đẹp với yêu cầu
15
tiêu chuẩn phổ cập …) mà ảnh hưởng đến chất lượng học sinh, ảnh hưởng đến cả uy
tín của sự nghiệp giáo dục. Nếu thực sự học sinh lên lớp mà kiến thức trỗng rỗng thì
đừng lừa dối mình, lừa dối các em và cả xã hội mà trở thành có tội. Hãy thẳng thắn
chỉ rõ cho các em và phụ huynh các em nhìn đúng thực tế. Cái gì cũng có cái giá của
nó. Hãy để các em học lại. Học lại thì phải cố gắng vươn lên, đừng mặc cảm, hãy
biến hành vi mặc cảm thành hành vi tích cực phấn đấu. Tuy nhiên, biện pháp khắc
phục hiện tượng “ngồi ghế nhầm lớp” này, phải tiến hành dần dần từng bước theo lộ
trình.
- Trường hợp học học yếu do thiếu sự quan tâm của gia đình hoặc gia đình có
khó khăn. Trường hợp này yêu cầu giáo viên phải nắm vững hoàn cảnh gia đình của
các em với từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể để có biện pháp giúp đỡ phù hợp.
Tóm lại, mỗi một nguyên nhân dẫn đến học sinh học yếu, phải có những giải

pháp nhất định phù hợp, đúng đắn, thì mới có thể đem lại hiệu quả cao.
2. Tiến hành tổ chức dạy học trên cơ sở giải quyết chuyên đề “ giải pháp giảm
dần học sinh yếu kém ”.
Nhà trường đưa vào kế hoạch chuyên môn của năm học, triển khai cho các tổ
chuyên môn xây dựng thể nghiệm chuyên đề “ Giải pháp giảm dần học sinh yếu
kém”. Quy trình thực hiện ở tổ và nhóm chuyên môn như sau:
- Bước 1: Buổi sinh hoạt thứ nhất: Triển khai kế hoạch.
Các tổ thông qua kế hoạch chuyên môn của nhà trường về chuyên đề “Giải pháp
giảm dần học sinh yếu kém”, triển khai cho các nhóm tìm hiểu thực trạng tình hình,
chuẩn bị viết báo cáo tham luận, định hướng xây dựng báo cáo lý thuyết chuyên đề
của nhóm. Nội dung cơ bản trong tham luận của các giáo viên là phải đánh giá được
thực trạng tình hình học sinh yếu kém của bộ môn mình phụ trách. Tìm hiểu nguyên
nhân. Đề xuất giải pháp thực hiện.
16
- Bước 2: Buổi sinh hoạt thứ hai: Báo cáo tham luận của giáo viên; tổng hợp
thống nhất báo cáo lý thuyết của nhóm; tiến hành xây dựng, thiết kế bài dạy thể
nghiệm.
Các nhóm cho các thành viên của nhóm báo cáo tham luận đã được chuẩn bị
trước về chuyên đề “Giải pháp giảm dần học sinh yếu kém”. Mỗi giáo viên phải có
trách nhiệm thực hiện tốt tham luận, trình bày rõ ràng trước nhóm, không được đối
phó, qua loa, chiếu lệ. Cá nhân trình bày xong, tập thể nhóm đóng góp ý kiến, tổng
hợp thành báo cáo của nhóm. Trên cơ sở thống nhất báo cáo lý thuyết, nhóm tiến
hành xây dựng, thiết kế bài dạy thể nghiệm.
- Bước 3: Buổi sinh hoạt thứ ba: Dạy thể nghiệm chuyên đề.
Nhóm cử ra một người dạy thể nghiệm, cả nhóm tham gia dự giờ, tiếp tục đánh
giá, rút kinh nghiệm, bổ sung ý kiến. Sau khi cân nhắc ưu nhược điểm của chuyên đề,
nếu thấy có hiệu quả rõ rệt thì đề xuất cho phép nhân rộng, áp dụng đại trà.
- Bước 4 : Nhân rộng đại trà với các phương án hiệu quả đã chọn.
Khi thấy chuyên đề có giá trị thiết thực, được nhà trường cho phép thì các tổ
triển khai nhân rộng theo các phương án đã lựa chọn. Tuy nhiên trong quá trình áp

dụng, phải thường xuyên chú ý bổ sung hoặc điều chỉnh để chuyên đề tiếp tục được
hoàn thiện hơn.
Hồ sơ chuyên đề gồm có :
1. Báo cáo lí thuyết chuyên đề của nhóm bộ môn kèm biên bản thảo luận phần
báo cáo lí thuyết của chuyên đề ( để biết ý kiến từng giáo viên trong nhóm). Nếu kèm
thêm tham luận của giáo viên càng tốt.
2. Giáo án tiết dạy thể nghiệm.
3. Phiếu đánh giá tiết dạy thể nghiệm.
4. Biên bản đánh giá, rút kinh nghiệm tiết dạy thể nghiệm.
17
Trên cơ sở kết quả của chuyên đề, nhà trường tiến hành tổ chức dạy học.
Hiện nay, tại các nhà trường, để có thể tổ chức mở lớp phụ đạo cho tất cả các
môn của bậc THCS là rất khó thực hiện do khó bố trí về thời gian, nhân sự. Ở trường
chúng tôi, thành lập lớp phụ đạo cơ bản tập trung vào các môn Toán, Ngữ văn, Ngoại
ngữ. Lịch cố định thời gian là vào chiều thứ 2 hàng tuần. Mỗi tuần chỉ học một môn
luân phiên nhau cho tất cả các khối. Vì có những học sinh phải đi học phụ đạo nhiều
môn, xếp như vậy để các em được tham gia nhiều môn và nhà trường dễ theo dõi
quản lí. Mỗi học kỳ tổ chức được 15 buổi tập trung cho mỗi khối ( Mỗi môn 5 buổi ).
Sau khi thống nhất số buổi, căn cứ năng lực, chất lượng, trình độ của học sinh,
nhóm chuyên môn xây dựng khung chương trình phụ đạo phù hợp, sát đối tượng.
Trên cơ sở đó, định hướng giáo viên thiết kế bài lên lớp đảm bảo hiệu quả nhất.
Các môn không thành lập được lớp thì triến khai cho giáo viên bộ môn nắm
vững đối tượng học sinh yếu kém của môn mình để có biện pháp tác động thích hợp.
Ở lớp, trên các tiết dạy chính khóa, yêu cầu giáo viên thiết kế bài giảng phải có phần
dành cho học sinh yếu kém. Giáo viên phải kiên trì quan tâm kiểm tra, động viên nhắc
nhở. Thường xuyên động viên khích lệ, tạo cơ hội cho các em được mạnh dạn phát
biểu, trình bày ý kiến. Phần bài tập về nhà có thể bổ sung thêm các phiếu học tập dành
riêng phát cho các em, thường xuyên kiểm tra việc làm bài qua các phiếu. Đây là biện
pháp đã đem lại hiệu quả tiến bộ rõ rệt.
Việc bố trí giáo viên giảng dạy cũng phải chọn những người có năng lực, nhiệt

tình có ý thức trách nhiệm cao. Những giáo viên này có khi còn yêu cầu cao hơn đối
với giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi. Giáo viên dạy phụ đạo phải nắm vững đến tận
từng em học sinh về nguyên nhân học yếu để có phương pháp dạy học thích hợp.
Giáo viên phải thường xuyên kiểm tra theo dõi về mức độ tiến bộ của học sinh. Nếu
thấy có sự tiến bộ là khen ngợi động viên ngay.
18
Ngoài việc lên lớp phụ đạo tại trường, giáo viên cần ra thêm bài tập cho học
sinh tự luyện. Đồng thời nhắc nhở học sinh nhờ phụ huynh và bạn bè giúp đỡ thêm.
Tuy nhiên, việc này đòi hỏi sự tự giác cao
Việc tổ chức dạy học phụ đạo cho học sinh yếu kém chủ yếu dựa trên cơ sở
phát huy tinh thần trách nhiệm của giáo viên là chính. Tuy nhiên, nhà trường cần cố
gắng tạo một phần kinh phí để hỗ trợ cho những cán bộ giáo viên trực tiếp làm công
tác này. Nếu nhà trường dôi dư giáo viên thì tính toán cân đối số tiết dạy để đảm bảo
quyền lợi cho họ.
Đối với học sinh tham gia học tập, không thu tiền của các em. Ngược lại, cần
cố gắng vận động để hỗ trợ thêm sách vở, đồ dùng học tập cho các em. Đặc biệt quan
tâm các em có hoàn cảnh khó khăn hoặc những em có nguy cơ bỏ học.
3. Xây dựng lòng tin ở giáo viên và học sinh, tận tình giúp đỡ học sinh :
Trước hết là xây dựng lòng tin ở giáo viên:
Giáo viên phải tin tưởng rằng : “ Với tất cả niềm tin, nhất định học sinh sẽ tiến
bộ ”. Làm việc có niềm tin thì mới có hy vọng đạt được thành công. Tuyệt đối không
được có tư tưởng bỏ mặc, buông trôi, đến đâu thì đến. Vì vậy, Ban Giám hiệu phải có
biện pháp về công tác tư tưởng, xây dựng niềm tin, động viên khuyến khích đối với
giáo viên trong việc bồi dưỡng phụ đạo học sinh yếu kém. Giáo viên tin tưởng làm
được thì nhẩt định sẽ có kết quả làm được.
Đối với học sinh, xây dựng niềm tin ở các em cũng có vai trò hết sức quan
trọng, góp phần quyết định sự thành công, sự tiến bộ của các em. Giáo viên phải hết
sức chú ý đến yếu tố tâm lý mà tác động đến tư tưởng tình cảm, và động viên khuyến
khích kịp thời. Công việc này đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, không nóng vội. Giáo
viên phải hiểu được học sinh, căn cứ vào trình độ năng lực thực tế của các em để đề

ra những bài tập hợp lý, vừa sức, đi từ dễ đến khó. Phải cho các em thực hiện nhiều
lần đến khi thành thạo. Phải gây sự hứng thú và niềm tin ở các em, làm sao để các em
19
thấy được: “ Mình ngày càng tiến bộ, ngày càng làm được nhiều bài tập khó”… thậm
chí, “còn có khả năng học giỏi nữa là khác ”…
Việc xây dựng lòng tin phải kết hợp với sự tận tình, quan tâm chăm sóc giúp
đỡ. Sự giúp đỡ bắt đầu từ những cử chỉ thân thiện, gần gũi, thấu hiểu, từ cách biết gây
hứng thú đến động viên khuyến khích Việc giúp đỡ kết hợp giữa tình cảm với động
viên vật chất như sách, vở, bút, giấy… Làm được như vậy thì hiệu quả nhất định sẽ
đến sớm hơn. Thực tế, việc vận dụng của chúng tôi đã chứng minh điều đó.
4. Thường xuyên chú ý động viên, biểu dương, khen thưởng:
Biện pháp này áp dụng cho cả giáo viên và học sinh dựa trên cơ sở kết quả
đánh giá tổng kết công tác một cách trung thực và đúng đắn.
Đối với giáo viên, nếu hoàn thành tốt với những kết quả cụ thể trong công tác
bồi dưỡng phụ đạo học sinh yếu kém thì phải động viên khen thưởng ngay. Vì trên
thực tế, nhiều khi việc chọn giáo viên phụ đạo học sinh yếu kém còn khó hơn cả việc
chọn giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi. Công sức giáo viên đổ ra thì nhiều nhưng
hiệu quả thu được rất khó khăn so với bồi dưỡng học sinh giỏi. Vậy mà, nhiều khi
những người góp phần làm nên chất lượng đại trà, song song với chất lượng mũi nhọn
(có khi còn là nền tảng cho chất lượng mũi nhọn ) lại hay bị lãng quên về thành tích
đóng góp của họ. Mức biểu dương khen thưởng tùy thuộc vào so sánh chất lượng,
mức tăng tiến của học sinh trước và sau khi giáo viên nhận phân công nhiệm vụ công
tác phụ đạo. Việc này cần cụ thể trên cơ sở số lượng, tỷ lệ tăng tiến của từng học sinh.
Đối với học sinh, để thu hút, tạo hứng thú cho các em về việc học tập, khích lệ
niềm tin phấn đấu, nên tăng cường các biện pháp động viên khuyến khích kịp thời với
các hình thức phù hợp. Cụ thể, chúng tôi đã áp dụng như sau : đối với những học sinh
từ yếu kém lên trung bình: biểu dương; đối với những học sinh từ yếu kém lên khá là
khen thưởng, với mức thưởng như đối với học sinh giỏi toàn diện. Các biện pháp
biểu dương dưới cờ hàng tuần, kết hợp trong các đợt thi đua, cũng như biểu dương
khen thưởng cuối kỳ, cuối năm học đã tỏ ra có tác động tích cực giúp học sinh yếu

20
kém vươn lên. Ngoài ra, có thể mua sắm để hỗ trợ cho các em một số sách vở đồ
dùng học tập v.v…
5. Phối hợp với các đoàn thể trong và ngoài nhà trường:
Đối với các đoàn thể trong nhà trường:
Hoạt động trọng tâm trong nhà trường là hoạt động dạy học. Vì vậy, phải quán
triệt với tất cả các thành viên, các đoàn thể , các tổ chức trong nhà trường phải có
trách nhiệm đối với vấn đề giúp đỡ, bồi dưỡng, phụ đạo học sinh yếu kém .
Đối với Công đoàn, trong khả năng của mình, phải tạo điều kiện thuận lợi nhất
để ưu tiên cho công tác phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu kém. Thường xuyên đôn đốc
đoàn viên công đoàn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đưa vấn đề này thành một
chỉ tiêu thi đua để đánh giá công tác thi đua của cá nhân đoàn viên vào cuối học kỳ,
cuối năm học.Tất nhiên, phải lượng hoá nhiệm vụ này một cách cụ thể, rõ ràng, công
bằng và hợp lý. Hiện tại, tại đơn vị chúng tôi đã thực hiện giao số lượng cụ thể cho
từng đồng chí giáo viên. Trước khi giao nhiệm vụ, có khảo sát chất lượng học sinh,
ghi rõ kết quả cụ thể của từng em. Sau đó, tiến hành kiểm tra khảo sát, đánh giá hàng
tháng hàng kỳ để nắm vững diễn biến tiến bộ hay không tiến bộ của học sinh, từ đó
có cơ sở đề ra những biện pháp kịp thời tiếp theo tương ứng và phù hợp. Đồng thời,
qua kết quả kiểm tra, khảo sát để đánh giá hiệu quả của giáo viên trong công tác phụ
đạo giúp đỡ học sinh yếu kém. Đánh giá chất lượng học sinh qua báo cáo của giáo
viên kết hợp với việc khảo sát thực tế của nhà trường để đảm bảo tính khách quan,
trung thực.
Đối với Chi đoàn giáo viên, nhà trường cũng triển khai Chi đoàn giao nhiệm vụ
cụ thể như Công đoàn và phối hợp với Công đoàn để làm tốt công tác bồi dưỡng phụ
đạo học sinh yếu kém. Có thể phân ra các nhóm phụ trách các khối lớp. Trong mỗi
nhóm, đều có sự phân công nhiệm vụ rõ ràng .
21
Ví dụ : Một số đồng chí chuyên trách giảng dạy trên lớp, số khác cung cấp
thông tin ( như tìm hiểu tận các gia đình học sinh v.v…) hỗ trợ sách vở, tài liệu và
những vấn đề liên quan để đảm bảo cho công tác có hiệu quả cao.

Nếu những đơn vị mà số lượng đoàn viên là giáo viên quá ít thì chuyển công
việc này cho Công đoàn.
Đối với công tác Đoàn - Đội trong trường học : cần đưa công tác này thành
một mặt của phong trào thi đua toàn diện trong trường học. Thường xuyên cập nhật
thông tin từ bộ phận chuyên môn để có hình thức biểu dương, khen – chê - thưởng –
phạt kịp thời. Muốn vậy, nhà trường và Đoàn - Đội cần phối hợp với nhau để thống
nhất chương trình hành động, để triển khai trong kế hoạch chung của Liên đội và từng
Chi đội. Ưu thế đặc biệt của Đội là công tác thi đua, công tác động viên khuyến khích
bằng hình thức biểu dương, khen thưởng,giúp đỡ lẫn nhau trong các “ Nhóm bạn cùng
tiến”… Phối hợp giữa chuyên môn và Đoàn Đội duy trì tốt việc hỏi bài cũ dưới cờ
trong các buổi chào cờ đầu tuần.
Đối với các đoàn thể ngoài nhà trường :
Cần bám sát chương trình kế hoạch xã hội hoá giáo dục của địa phương để phối
hợp hành động tuỳ theo đặc trưng từng đoàn thể mà linh hoạt thực hiện cho hợp lý,
chú ý thông tin hai chiều từ nhà trường đến gia đình nơi cư trú để có sự điều chỉnh các
giải pháp một cách phù hợp, kịp thời và hiệu quả.
Đặc biệt chú ý tới các đoàn thể ở cấp khối xóm. Chúng tôi đã đề xuất, mỗi khối
xóm cần có một Ban chuyên trách giáo dục. Trưởng ban chuyên trách phải là xóm
trưởng. Xóm trưởng - trong chừng mực nhất định, phải được coi như là một ông Hiệu
trưởng ở xóm. Xóm trưởng cùng với Ban chuyên trách phải có chương trình, kế hoạch
công tác giáo dục của xóm ( không cầu kỳ, rườm rà, chỉ yêu cầu súc tích và hiệu
quả ). Phải nắm được tình hình thực trạng số lượng cụ thể học sinh đang học các cấp
từ Mầm non đến các nghành học, bậc học khác. Phải biết được trong xóm có bao
22
nhiêu học sinh khá giỏi để động viên khuyến khích, tạo hạt nhân thúc đẩy phong trào.
Phải nắm vững số học sinh yếu kém để có biện pháp giúp đỡ thích hợp.
Xóm trưởng cần chú ý đưa thêm một cách phù hợp nội dung công tác giáo dục
vào trong các buổi họp xóm. Triển khai chương trình, kế hoạch công tác xã hội hoá
giáo dục của xóm. Thường xuyên nhắc nhở các bậc phụ huynh trong xóm đôn đốc
con em học tập. Nhắc nhở : “Mỗi gia đình một góc học tập”, “ Mỗi đêm 5 phút xem

con học bài ” Làm sao để mỗi phụ huynh đều biết được số sách vở cơ bản của
con em mình có bao nhiêu quyển, con em mình học bao nhiêu bộ môn, học ở lớp nào,
bao nhiêu thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy v.v… Bên cạnh việc biểu dương khen
thưởng con em học giỏi nên chăng bổ sung khen thưởng “ phụ huynh giỏi, phụ huynh
tiêu biểu”.
Ban chuyên trách giáo dục ở xóm cần quán triệt chương trình hành động, phân
công công việc đối với tất cả các đoàn thể trong xóm, tạo sự đồng thuận nhất trí cao
và cùng nhau thực hiện tốt. Ở xóm nên tiếp tục “ tiếng kẻng học bài” như trước đây
và giao cho Chi đoàn thanh niên đảm nhiệm công tác này. Ngoài ra, ban chuyên trách
giáo dục nên phối hợp với các dòng họ trên địa bàn dân cư để hiệu quả công tác được
tốt hơn.
Xóm trưởng và nhà trường cần có kế hoạch phối hợp công tác một cách nhịp
nhàng, cụ thể. Hiện tại, đơn vị chúng tôi đã phối hợp khá hiệu quả với một số xóm ở
địa phương. Nhà trường cung cấp danh sách học sinh tất cả các lớp của xóm đang học
tại trường. Trong tập danh sách có đủ thông tin cơ bản về sơ yếu lý lịch ( họ tên, ngày
sinh, con ông (bà ), nam , nữ, diện ưu tiên chính sách xã hội, kết quả xếp loại học lực
- hạnh kiểm , những lưu ý đặc biệt khác… Ban Giám hiệu nhà trường và các xóm có
lịch tiếp xúc thường kỳ để trao đổi thông tin hai chiều ( Một năm ít nhất là 3 lần: đầu
năm để triển khai kế hoạch; cuối học kỳ I và cuối năm để sơ kết, tổng kết và triển khai
kế hoạch tiếp theo ). Khi cần về các xóm, phải có sự chuẩn bị nội dung, chương
trình,nhân sự thật chu chu đáo, có sức thuyết phục để tiếp xúc với phụ huynh. Đây là
23
việc làm đem lại hiệu quả nhiều mặt, thuận lợi cho công tác giáo dục nhưng đòi hỏi
người thực hiện phải thực sự tâm huyết, nhiệt tình và có khả năng công tác tốt.
6. Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, đôn đốc.
Công tác quản lí ở lĩnh vực này bao gồm nội dung như: kế hoạch chỉ đạo, quản
lí tổ chức thời gian, điều hành nhân sự, quản lí chương trình, hồ sơ, chất lượng…
Để thực hiện tốt “ Giảỉ pháp giảm dần tỉ lệ học sinh yếu kém ” phải có kế hoạch
khả thi. Kế hoạch phải đánh giá đúng thực trạng, phải đưa ra được các giải pháp phù
hợp, hiệu quả. Sau khi có kế hoạch, nhà trường cần tổ chức quán triệt thực hiện tốt.

Hàng tháng, hàng tuần, cần cập nhật tình hình kịp thời. Vào các buổi sinh hoạt chuyên
môn và họp Hội đồng sư phạm, cần bổ sung mục : “ Báo cáo về tình hình học sinh
yếu kém ” để từ đó có cơ sở xử lý các tình huống xẩy ra và đề ra kế hoạch tiếp nối
phù hợp. Lúc đầu, đề xuất mục này có thể hơi gượng ép, nhưng qua một quá trình sẽ
trở thành quen và đem lại hiệu quả công tác tốt hơn.
Công tác bố trí thời gian dạy học phải hợp lí, tránh chồng chéo. Đã tổ chức dạy
học phụ đạo, không thể tổ chức dạy học thêm đại trà. Bởi vì, danh sách học sinh yếu
kém phải tập hợp từ tất cả các lớp gộp lại. Mỗi khối thường tổ chức thành một lớp.
Một lớp có khoảng 20 em. Lịch học phụ đạo của trường chúng tôi là vào thứ 2 hàng
tuần, theo sự thỏa thuận giữa nhà trường và phụ huynh học sinh. Làm như vậy để cha
mẹ học sinh biết được ngày đó là con em mình đi học phụ đạo, để thuận tiện trong
việc theo dõi, quản lí.
Điều hành phân công nhân sự phải trên cơ sở công bằng lao động, thực hiện
đúng quy chế. Ở trường chúng tôi, giáo viên phụ đạo học sinh yếu kém được cộng
thêm một tiết trên tuần. Cứ 3 tuần thì dạy 1 buổi theo vòng ( Toán - Ngữ văn - Tiếng
Anh). Riêng với giáo viên chủ nhiệm lớp yếu kém được cộng thêm 1 tiết nữa để làm
công tác tổ chức, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc … Nhân sự dạy phụ đạo phải là những
người có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, tâm huyết.
24
Chương trình dạy học là do nhóm chuyên môn xây dựng trên cơ sở thảo luận
thống nhất và được nhà trường phê duyệt cho từng bộ môn, từng khối lớp, phù hợp
với đối tượng. Đó là kết quả của nội dung sinh hoạt chuyên đề “ Giải pháp giảm dần tỉ
lệ học sinh yếu kém” mà nhà trường đã triển khai.
Hồ sơ quản lí bao gồm: kế hoạch của nhà trường và của giáo viên, sổ theo
dõi, sổ đầu bài, sổ gọi tên ghi điểm, sổ chủ nhiệm đối với lớp phụ đạo học sinh yếu
kém. Đặc biệt lưu ý kiểm tra sổ điểm, sổ đầu bài, vở ghi và tập bài kiểm tra của học
sinh để thường xuyên cập nhật tình hình học tập của học sinh. Hồ sơ quản lí dạy học
phụ đạo là cơ sở quan trọng để đánh giá hiệu quả công tác nâng cao chất lượng cho
học sinh yếu kém. Cuối mỗi kỳ học có bổ sung thêm biên bản xét vượt hạng cho các
em. Vì sau mỗi kỳ, phải tiến hành ra soát, đối chiếu kết quả học tập theo sổ điểm lớp

chính khóa và kết quả học tập lớp phụ đạo để cho ra khỏi lớp với những em vượt hạng
và bổ sung thêm những em khác vào lớp nếu có.
Ban Giám hiệu tăng cường kiểm tra đôn đốc sẽ có ảnh hưởng lớn đến chất
lượng của lớp phụ đạo. Kinh nghiệm cho thấy, dù giáo viên và học sinh có tự giác
đến đâu thì cũng không thể không có sự kiểm tra, giám sát. Trong công tác kiểm tra
cần chịu khó cập nhật thường xuyên diễn biến chất lượng của học sinh, yêu cầu giáo
viên nắm thật chắc đến tận từng học sinh đồng thời phải khái quát tổng hợp kết quả
học tập của cả khối lớp được phân công phụ trách. Để đánh giá sự tiến triển của một
lớp, bên cạnh việc phân loại theo tỷ lệ % về xếp loại học lực, để có tính trực quan
sinh động tạo hứng thú và có tác dụng nhắc nhở trường xuyên, chúng tôi yêu cầu
giáo viên Biểu đồ hoá bằng đường biểu diễn thể hiện kết quả chất lượng của việc bối
dưỡng phụ đạo cho học sinh. Mỗi tháng giáo viên kiểm tra đánh giá cho điểm học
sinh một lần. Giáo viên tính điểm trung bình cộng của cả lớp học, lấy giá trị điểm số
trung bình đó thể hiện lên biểu đồ. Mỗi tháng ta sẽ có một điểm thể hiện. Nối các
điểm đó qua các tháng chúng ta sẽ được một biểu đồ đường biểu diễn sinh động. Biểu
đồ này được ghim lên bảng theo dõi chất lượng. Mỗi môn học của mỗi lớp trong cả
25

×