Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Thuế thân dưới triều Nguyễn từ 1802 đến 1884

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (576.39 KB, 114 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu
Thủy
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Triều Nguyễn (1802-1945) là triều đại phong kiến cuối cùng trong
lịch sử Việt Nam. Triều Nguyễn thiết lập và tồn tại trong giai đoạn lịch sử
có nhiều biến cố to lớn, chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào khủng hoảng
trầm trọng, cùng với đó là sự xâm lược của tư bản phương Tây. Vì vậy, nhà
Nguyễn cần có những chính sách trị nước cho phù hợp về mọi mặt từ kinh
tế, chính trị đến văn hóa, xã hội…Để phát triển kinh tế, ổn định nền tài
chính quốc gia, nhà Nguyễn đã tiến hành rất nhiều biện pháp khác nhau,
trong đó thuế là một trong những chính sách quan trọng.
Có thể khẳng định rằng, bất kỳ một nhà nước nào muốn tồn tại được
đều cần đến thuế. Thuế chính là cơ sở kinh tế, là nguồn thu chủ yếu đảm bảo
sự tồn tại của Nhà nước. Vì vậy, thuế ra đời là một tất yếu khách quan. Nó
nhằm đảm bảo nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Thuế được Nhà nước sử dụng như một công cụ kinh tế quan trọng nhằm
điều chỉnh kinh tế và các quan hệ trong phân phối thu nhập.
Trong mọi thời điểm, thuế luôn phản ánh sự phát triển của nền kinh tế
và trình độ quản lý xã hội của một Nhà nước. Thuế được xác lập trên nền
tảng các vấn đề kinh tế và xã hội của người làm nghĩa vụ đóng thuế . Do
vậy, thuế bao giờ cũng chứa đựng các yếu tố kinh tế - xã hội. Việc xác lập
các loại hình thái thuế với các loại thuế suất khác nhau, trước hết bắt nguồn
từ nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, song mức độ động viên thuế bao giờ cũng
chịu sự ràng buộc và phụ thuộc vào các yếu tố kinh tế - xã hội của quốc gia
trong từng giai đoạn lịch sử. Trong đó, yếu tố kinh tế ràng buộc chính sách
thuế và hệ thống thuế, trước hết phải kể đến thu nhập bình quân đầu người
của một quốc gia, đến cơ cấu kinh tế, thực tiễn vận động của cơ cấu kinh tế
đó cũng như chính sách, cơ chế quản lý của Nhà nước. Bên cạnh đó, phải kể
đến phạm vi, mức độ chi tiêu của Nhà nước nhằm thực hiện các chức năng
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP


Hà Nội
1
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu
Thủy
kinh tế của mình. Yếu tố xã hội, ràng buộc chính sách thuế, hệ thống thuế
chính là các phong tục, tập quán của một quốc gia, cũng như kết cấu giai cấp
và đời sống thực tế của các thành viên trong quốc gia đó ở từng giai đoạn
lịch sử. Cùng với sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, của
quan hệ sản xuất, của khoa học quản lý và trí tuệ con người, thuế ngày càng
phát triển và được hoàn thiện, mang tính hệ thống hơn.
Dưới triều Nguyễn, nhiều loại thuế đã được đặt ra song về cơ bản có
ba loại thuế chính: thuế thân, thuế ruộng và thuế tạp dịch. Trong đó, thuế
thân được thi hành rộng rãi trong nhân dân khắp cả nước. Mặc dù là một
trong ba loại thuế rất quan trọng, được thi hành phổ biến, nhưng cho tới nay
chưa có một công trình nào nghiên cứu tập trung, hệ thống về vấn đề này.
Đây là một trong những lý do tôi chọn vấn đề này làm đề tài khoá luận.
Việc nghiên cứu chính sách thuế thân dưới triều Nguyễn sẽ làm sáng
tỏ một vấn đề lịch sử quan trọng trong mảng lịch sử kinh tế hiện đang ít
được quan tâm, đó là: cơ sở ban hành chính sách thuế thân, chủ trương, biện
pháp, phương thức đánh thuế, cách tổ chức và quản lý việc thu thuế của nhà
Nguyễn. Từ đó thấy được mối quan hệ giữa sự phát triển của nền kinh tế với
các bộ phận tài chính có sự điều tiết, chi phối của Nhà nước thông qua chính
sách thuế. Đồng thời rút ra những đặc điểm, bản chất của thuế dưới chế độ
phong kiến và lý giải phần nào nguyên nhân dẫn đến các cuộc khởi nghĩa
nông dân thế kỷ XIX.
Hơn nữa, trong giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay,
Đảng và Nhà nước ta có thể rút ra bài học kinh nghiệm từ việc nghiên cứu
này, có thể tham khảo cho việc hoạch định chính sách thuế trong giai đoạn
mới, tiến tới xây dựng một chính sách thuế phù hợp với nền kinh tế nước ta
và động viên được sức đóng góp hợp lý của nhân dân ta cho sự nghiệp công

nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
2
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu
Thủy
Đồng thời, qua nghiên cứu giúp cho nhân dân ta hiểu thêm về thuế,
nhận thức thuế là nghĩa vụ mà nhân dân phải đóng cho Nhà nước; góp phần
giáo dục, động viên, khuyến khích nhân dân ta tham gia đóng góp xây dựng
các luật thuế và động viên các đối tượng chịu thuế tự giác thực hiện nghĩa
vụ nộp thuế cho Nhà nước theo luật định.
Với ý nghĩa trên đây, Tôi mạnh dạn chọn đề tài “Thuế thân dưới triều
Nguyễn từ 1802 đến 1884” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Triều Nguyễn là một đề tài lịch sử hấp dẫn, từ lâu đã thu hút sự quan
tâm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Tuy nhiên, trờn cơ sở tìm
tòi và nhận thức chủ quan của người viết, có thể nói rằng đây là một đề tài
chưa được nghiên cứu chuyờn sõu trong bất kỳ một công trình cụ thể nào.
Qua quá trình thống kê, sưu tầm tư liệu, Tôi thấy có một số nguồn tư
liệu đề cập tới vấn đề này:
Dưới thời phong kiến phải kể đến một số tác phẩm sử học chính thống
do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn như: Đại Nam thực lục (10 tập),
Minh Mệnh chính yếu (3 tập), Quốc triều chớnh biờn toỏt yếu…và Khâm
định Đại Nam hội điển sự lệ do Nội các triều Nguyễn biên soạn…
Trước hết, “Đại Nam thực lục” là bộ biên niên sử do Quốc sử quán
triều Nguyễn biên soạn dưới thời Tự Đức, sau đó được bổ túc vào thời Duy
Tân và Khải Định, ghi chép những sự kiện quan trọng trên khắp đất nước ta.
Tác phẩm này cung cấp những tư liệu lịch sử quan trọng và khá toàn diện về
tình hình thuế thân dưới triều Nguyễn, cũng như những thay đổi qua từng
triều vua, từ đó có sự đối chiếu, so sánh với các triều đại trước. Đây là một

trong những nguồn tư liệu gốc chính mà tôi sử dụng chủ yếu trong quá trình
làm khóa luận. Tuy nhiên, do cách viết dưới hình thức biên niên cho nên
những vấn đề nghiên cứu thường nằm tản mạn trong những tập sách, chưa
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
3
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu
Thủy
có sự so sánh, đánh giá và rút ra bản chất của thuế thân dưới triều Nguyễn
trong từng giai đoạn cụ thể.
Bộ sách thứ hai là “Minh Mệnh chính yếu” gồm 3 tập với 25 quyển.
Bộ sách là tập hợp tất cả những văn kiện chính yếu dưới thời vua Minh
Mệnh (đầu thế kỷ XIX). Nó cho chúng ta thấy cái nhìn toàn diện về triều
vua Minh Mệnh với những chính sách cai trị dân chúng của mình. Trong đó,
quyển ái dân và quyển tài chính và thuế khóa có nhắc tới chính sách thuế
thân của Nhà nước phong kiến Nguyễn giai đoạn này. Tuy nhiên, tác phẩm
chỉ đề cập đến các chỉ dụ, điều lệ do nhà nước ban hành mà chưa đi sâu vào
phân tích, đánh giá về chính sách thuế thân dưới triều Nguyễn.
Một trong những bộ sách rất quan trọng phải kể đến đó là “Khâm
định Đại Nam hội điển sự lệ” gồm 262 quyển do Nội các triều Nguyễn biên
soạn từ năm 1843 thời vua Thiệu Trị, và hoàn tất vào năm 1851 dưới thời
vua Tự Đức. Bộ sách đã cho chúng ta cái nhìn toàn diện về tình hình kinh tế,
chính trị, xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX. Trong tập III, (từ quyển 36
đến 68), Nxb Thuận Hóa, Huế, năm 2005, có một quyển là quyển 38 giúp
chúng ta hiểu thêm về chính sách thuế thân đối với nhân dân dưới triều
Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX. Song, tác phẩm cũng chỉ mới dừng lại ở việc
liệt kê các sự kiện mà chưa có bất kỳ sự phân tích và đánh giá nào.
Tác phẩm “Quốc triều chớnh biờn toỏt yếu” cũng là bộ sách do Quốc
sử quán triều Nguyễn biên soạn. Đây là bộ sách ghi lại những điều chủ yếu
và cơ bản trong các triều vua, bởi vậy bộ sách cung cấp cho chúng ta những

nét đại cương cơ bản nhất về tình hình thuế thân của Nhà nước Nguyễn.
Mặc dù vậy, cũng giống như nhiều nguồn tư liệu gốc khác, tác phẩm cũng
chỉ liệt kê một cách tản mạn các sự kiện có liên quan đến thuế thân dưới
triều Nguyễn mà chưa có sự nghiên cứu chuyờn sõu, hệ thống về vấn đề
này.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
4
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu
Thủy
Trong tác phẩm: “Lịch triều hiến chương loại chí”, phần “Quốc dụng
chí” do Phan Huy Chú biên soạn vào thế kỷ XIX, cũng cho chúng ta biết các
sự kiện về tình hình tài chính, thuế khoá của nhiều triều đại. Mặc dù không
đề cập trực tiếp đến thuế thân dưới triều Nguyễn nhưng chính sách thuế thân
của các triều đại trước chính là cơ sở để người viết đối chiếu, so sánh với
chính sách thuế thân của nhà Nguyễn sau này.
Dưới thời Pháp thuộc, có một số công trình sử học như: tác phẩm
“Việt Nam sử lược” của tác giả Trần Trọng Kim, Nxb Tân Việt, Sài gòn,
1954 (in lần thứ 5). Trong tác phẩm này, tác giả đã nghiên cứu lịch sử Việt
Nam từ thời thượng cổ đến năm 1902. Trong đó cú cỏc chương nghiên cứu
về triều Nguyễn: Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu trị và Tự Đức. Tác phẩm đã
cho ta cái nhìn khái quát về mọi mặt tình hình Việt Nam dưới thời Nguyễn.
Tình hình tài chính, thuế khoá dưới triều Nguyễn cũng được nhắc đến một
cách sơ lược nhất. Tuy nhiên, vấn đề thuế thân vẫn chưa được đề cập đến
trong tác phẩm.
Tác phẩm “Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến nhà Nguyễn trước
1858” của Giáo sư Trần Văn Giàu, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1958. Trong cuốn
sách này tác giả đã nghiên cứu khá toàn diện mọi mặt về chế độ phong kiến
nhà Nguyễn trước 1858, từ chính trị đến kinh tế - tài chính và ngoại giao.
Trong phần tài chính, tác giả cũng có đề cập một cách rất sơ lược đến chính

sách thuế thân của nhà Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX.
Bước sang thập niên 60 của thế kỷ XX, tác giả Phan Huy Lê cùng một
số nhà nghiên cứu khỏc đó biên soạn cuốn giáo trình “Lịch sử chế độ phong
kiến Việt Nam”, tập III: từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XIX, Nxb Giáo dục,
Hà Nội, 1960. Tác phẩm này bao gồm 3 phần biên soạn lịch sử Việt Nam từ
đầu thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XIX. Trong phần III, tác giả đã đề cập đến
“chính sách nội trị phản động của nhà Nguyễn – tình hình chính trị và kinh
tế trong nước”. Tuy nhiên, trong khuôn khổ có hạn của cuốn giáo trình,
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
5
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu
Thủy
chính sách thuế khóa nói chung và chính sách thuế thân dưới triều Nguyễn
một cách khái quát nhất.
Năm 1971, Nguyễn Thế Anh trong tác phẩm “Kinh tế xã hội việt Nam
dưới các vua triều Nguyễn”, Nxb Lửa thiêng, Sài Gũn, cú trình bày khá tổng
quát các vấn đề kinh tế - xã hội dưới triều Nguyễn. Trong tác phẩm này, tác
giả cũng ít nhiều đề cập đến vấn đề nhân khẩu, thể lệ thuế…
Sau năm 1975, vấn đề nhà Nguyễn nói chung đã thu hút được nhiều
người quan tâm nghiên cứu và cũng đã cho ra đời một số công trình mới.
Trong cuốn “Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XIX” của tác giả Vũ Huy Phúc, xuất bản năm 1979, trong phần mục lục cuối
sách, tác giả cũng có đề cập đến vấn đề dân số và chính sách thuế thân của
nhà nước phong kiến Nguyễn.
Tác phẩm “Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân
dưới triều Nguyễn” của tác giả Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang, Nxb Thuận
Hoá, Huế, xuất bản năm 1997. Tác phẩm đã vẽ lại bức tranh cụ thể về tình
hình nông nghiệp và đời sống nông dân dưới các triều vua Nguyễn. Trong
đó, có một mục nhỏ đề cập đến chính sách thuế thân của triều Nguyễn, được

minh chứng bằng các con số sinh động.
Cũng trong thời gian này, tác giả Trương Hữu Quýnh (chủ biên) đã
biên soạn tác phẩm “Đại cương lịch sử Việt Nam”, tập I (từ khởi thủy đến
năm 1858), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1997. Tiếp sau đó, tác giả Đinh Xuõn
Lõm chủ biên viết “Đại cương lịch sử Việt Nam”, tập II, Nxb Giáo dục, Hà
Nội, 1998. Đây là hai bộ giáo trình cung cấp cho chúng ta những kiến thức
cơ bản nhất về các đời vua nhà Nguyễn trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế -
chính trị - quân sự - văn hóa – ngoại giao. Tuy nhiên, cũng như các cuốn
giáo trình khác, chính sách thuế thân dưới triều Nguyễn cũng chỉ được nhắc
đến một cách mờ nhạt, ít ỏi.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
6
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu
Thủy
Năm 2001, hai tác giả Hồ Xuân Phương và Nguyễn Công Nghiệp đã
biên soạn và cho xuất bản cuốn sách “Tài chính Việt Nam qua các thời kỳ”,
Nxb Tài chính, Hà Nội. Tác phẩm đã tái hiện gần như đầy đủ những thăng
trầm, đổi thay của nền tài chính nước nhà từ thế kỷ X đến nay. Tuy nhiên, đó
mới là những nét cơ bản nhất mang tính đại cương. Trong đó, các tác giả cũng
nhắc tới chính sách thuế thân dưới triều Nguyễn một cách giản lược nhất.
Cùng năm này, tác giả Phan Khoang cũng đã cho xuất bản tác phẩm
sử học “Việt sử xứ Đàng Trong” , Nxb Văn Học, Hà Nội. Mặc dù không đề
cập trực tiếp đến chính sách thuế thân dưới triều Nguyễn nhưng tác giả cũng
dành một phần nhỏ nói khái quát về chính sách thuế thân ở Đàng Trong từ
thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII. Đõy chớnh là cơ sở để tôi đối chiếu, so sánh
với chính sách thuế thân của nhà Nguyễn sau này.
Năm 2005, “Lịch sử nhà Nguyễn – một cách tiếp cận mới” được xuất
bản (Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội). Đây là một công trình tập hợp nhiều
bài nghiên cứu của các nhà sử học và nhiều nhà giáo giảng dạy lịch sử Việt

Nam thời đại nhà Nguyễn (1802 - 1945). Sự tồn tại của nhà Nguyễn suốt
143 năm trong dòng chảy dân tộc đó gõy không ít tranh cãi trong giới sử học
nói riêng và trong giới khoa học xã hội Việt Nam nói chung. Từ cách tiếp
cận khác nhau đã tạo ra cái nhìn và đánh giá vai trò của triều Nguyễn cũng
khác nhau. Tác phẩm giúp người đọc có cái nhìn khách quan về lịch sử triều
Nguyễn, tuy nội dung chính sách thuế thân không được tác phẩm đề cập
nhiều song cũng giỳp tôi có những quan điểm nhìn nhận đúng đắn, khách
quan hơn về triều đại cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Ngoài các công trình chuyên biệt còn có rất nhiều giáo trình được
xuất bản cũng phần nào đề cập một cách gián tiếp đến vấn đề thuế khóa nói
chung và thuế thân triều Nguyễn nói riêng như: “Tiến trình lịch sử Việt
Nam” của Nguyễn Quang Ngọc chủ biên; “Lịch sử Việt Nam từ thế kỷ X
đến 1858” do Trương Hữu Quýnh chủ biờn…
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
7
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu
Thủy
Tóm lại, trong các công trình nghiên cứu trên, vấn đề thuế thân dưới
triều Nguyễn mới chỉ được đề cập một cách rải rác, chưa có hệ thống, chưa
có một công trình chuyên biệt nghiên cứu. Nhận thức được ý nghĩa và tầm
quan trọng của vấn đề này, kế thừa những thành quả của những người đi
trước, tôi mong muốn nghiên cứu vấn đề “Thuế thân dưới triều Nguyễn từ
1802 đến 1884” một cách hệ thống và toàn diện.
3. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1 Đối tượng
Khóa luận tập trung đi sâu nghiên cứu về một đối tượng cụ thể, đó là:
“Thuế thân dưới triều Nguyễn từ 1802 đến 1884”
3.2 Phạm vi
Về không gian: với phạm vi của một khóa luận tốt nghiệp, đề tài chỉ

tập trung nghiên cứu về thuế thân, được áp dụng trong cả nước dưới một
triều đại cụ thể là triều Nguyễn.
Về thời gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu tình hình thuế thân dưới
triều Nguyễn từ 1802 đến 1884, tức là từ khi thành lập vương triều năm
1802 dưới triều Gia Long đến trước khi thực dân pháp đặt ách thống trị trên
đất nước ta năm 1884.
3.3 Nhiệm vụ
Đề tài tập trung làm rõ những vấn đề sau:
Thứ nhất, khóa luận nghiên cứu những nét khái quát nhất về thuế thân
trước 1802, để hiểu được cơ sở nền tảng của chính sách thuế thân dưới triều
Nguyễn. Đõy chớnh là sự kế thừa từ các giai đoạn trước và phát triển ở mức
độ cao hơn.
Thứ hai, khóa luận tập trung nghiên cứu về thuế thân dưới triều
Nguyễn giai đoạn 1802 – 1884. Trên cơ sở đó rút ra một vài nhận xét, đánh
giá về chính sách thuế thân triều Nguyễn.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
8
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu
Thủy
Thứ ba, thông qua việc nghiên cứu tình hình thuế thân dưới triều
Nguyễn, tôi có dịp để tìm hiểu, so sánh với các loại thuế khác cùng thời như:
thuế ruộng, thuế tạp dịch…
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1 Nguồn tư liệu
Để nghiên cứu đề tài “Thuế thân dưới triều Nguyễn từ 1802 đến
1884”, tôi đã dựa vào một số nguồn tư liệu chủ yếu sau đây:
- Tư liệu gốc: Nguồn tư liệu gốc chủ yếu là các bộ sử do triều Nguyễn
biên soạn, trong đó quan trọng nhất là các bộ sử: “Đại Nam thực lục” được
Nxb Giáo dục, Hà Nội xuất bản năm 2007; bộ “Minh Mệnh chính yếu” được

Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội xuất bản năm 1994; bộ “Khâm định Đại
Nam hội điển sự lệ” được tập thể tác giả Viện sử học dịch và Nxb Thuận
Hóa, Huế xuất bản năm 2005; Đại Việt sử ký toàn thư do Ngô sỹ liên và các
sử thần triều Lờ biờn soạn; “Lịch triều hiến chương loại chí” do Phan Huy
Chỳ biờn soạn…
- Các công trình chuyên khảo về triều Nguyễn, các bài báo trên tạp
chí khoa học có liên quan đến nội dung đề tài.
- Một số thông tin, tư liệu về lịch sử triều Nguyễn trên Internet.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng kết hợp hai phương pháp
chính là phương pháp lịch sử và phương pháp logic trên nền tảng phương pháp
luận sử học macxớt, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi còn sử dụng phương pháp sưu tầm, phân
loại tư liệu, phương pháp phân tích, so sánh, thống kê và đánh giá sự kiện.
5. Đóng góp của khóa luận
Nghiên cứu đề tài “Thuế thân dưới triều Nguyễn từ 1802 đến 1884”, tôi
mong muốn có một vài đóng góp nhỏ về nghiên cứu triều Nguyễn như sau:
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
9
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu
Thủy
Thứ nhất, khóa luận góp phần khôi phục lại bức tranh hoàn chỉnh về
tình hình thuế thân dưới triều Nguyễn, phân tích, đánh giá những mặt tích
cực và hạn chế của thuế thân dưới triều Nguyễn, đồng thời qua đó đánh giá
về vai trò, trách nhiệm của triều Nguyễn đối với lịch sử dân tộc.
Thứ hai, đề tài còn là nguồn tư liệu tham khảo cho cán bộ, sinh viên,
học viên cao học trong quá trình giảng dạy, nghiên cứu, học tập về lịch sử
triều Nguyễn.
6. Bố cục của khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung
khóa luận chia làm 3 chương với bố cục như sau:
Chương 1: Khái quát về thuế thân trước 1802
Chương 2: Tỡnh hình thuế thân dưới triều Nguyễn từ 1802 đến 1884
Chương 3: Đặc điểm, tác động của thuế thân đối với tình hình kinh
tế, chính trị, xã hội triều Nguyễn từ 1802 đến 1884
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
10
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu
Thủy
NỘI DUNG
CHƯƠNG1
KHÁI QUÁT VỀ THUẾ THÂN TRƯỚC 1802
1.1 Thuế thân từ thế kỷ X đến 1407
1.1.1 Hoàn cảnh lịch sử
1.1.1.1 Tình hình chính trị
Hơn 20 năm của buổi đầu độc lập, kể từ khi Khúc Hạo giành quyền tự
chủ năm 905, thời gian quỏ ớt trong bối cảnh của thế kỷ X, nhưng nhân dân
ta đã tự tạo cho mình được một nền tảng khá vững chắc để rồi hai lần đánh
bại quân xâm lược Nam Hán, đặc biệt là ở lần hai, với chiến thắng Bạch
Đằng năm 938, không chỉ khẳng định quyền làm chủ của người dân Việt
trên đất nước mình, mà từ đó còn tạo nên cái uy cần thiết cho Ngô Quyền -
người chỉ đạo cuộc kháng chiến - xưng vương, xác lập chế độ quân chủ.
Đại Việt thế kỷ X, dưới sự trị vì của các triều đại Ngô – Đinh – Tiền
Lê, nền chính trị bước đầu đã đi vào ổn định và thống nhất sau nhiều năm
rối loạn. Nước ta đã tiến một bước quan trọng trên con đường khẳng định
nền độc lập dân tộc. Điều này thể hiện sự quá độ sang một thời kỳ phát triển
ổn định theo hướng phong kiến hóa ngày càng vững chắc và mang đậm ý
thức dân tộc.

Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi, ông đó cú một quyết định táo bạo
khi rời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Đây là một quyết định có tính chất lịch
sử, thể hiện tầm nhìn chiến lược của một vị vua đứng đầu đất nước. Nó
không chỉ là sự phát triển của đất nước về mọi mặt mà còn thể hiện sự
trưởng thành của ý thức dân tộc của giai cấp thống trị. Từ đây Thăng Long
trở thành trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa của cả nước. Năm 1054, nhà
Lý quyết định đổi tên nước là Đại Việt. Nhà nước phong kiến Trung ương
tập quyền được củng cố thêm một bước.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
11
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu
Thủy
Năm 1226, dưới sự điều khiển của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng
chính thức nhường ngôi cho Trần Cảnh. Vương triều Lý chấm dứt sau 215
năm tồn tại. Cuộc thay đổi triều đại, chuyển chính quyền từ dòng họ Lý sang
họ Trần diễn ra trong hoàng cung và triều đình mà hầu như không có tác
động gì xáo trộn xã hội, không một ảnh hưởng gì lan xa. Tập đoàn quý tộc
họ Trần rất khôn khéo, dần dần từng bước vững chắc và cuối cùng nắm giữ
chính quyền nhanh gọn.
Vương triều Lý – Trần bước đầu xây dựng bộ máy Nhà nước quân chủ
chuyên chế Trung ương tập quyền, đứng đầu là vua. Vua là người nắm mọi
quyền hành trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, tôn giáo. Giúp việc
cho vua là một hệ thống cơ quan và các chức quan chuyên trách. Thể chế
chính trị nhà Trần là nền quân chủ quý tộc. Quan lại đều xuất thân từ quý tộc
tôn thất nhà Trần. Bộ máy quan lại ngày càng được củng cố vững chắc và
hoàn thiện. Thông qua chế độ giáo dục, thi cử, đội ngũ quan lại có học thức
dần dần đóng vai trò quan trọng trong bộ máy nhà nước. Tóm lại, mặc dù có
học tập kinh nghiệm của các triều đại phong kiến Trung Hoa, nhưng bộ máy
quốc gia thời Lý - Trần vẫn thể hiện rừ tớnh tự chủ, độc lập dân tộc.

Nhà nước Lý – Trần là nước quân chủ quý tộc và mang tính quan liêu,
vì thế giai cấp thống trị luôn có ý thức trong việc đem lại quyền lợi kinh tế
cũng như chính trị cho bộ phận này, buộc họ trung thành với Nhà nước.
Trong khi ngân quỹ Nhà nước còn nhiều hạn hẹp, điều này sẽ chi phối phần
nào đến chính sách kinh tế - tài chính nói chung và chính sách thuế của nhà
nước Lý – Trần nói riờng.
Vào nửa cuối thế kỷ XIV, sau một thời gian phát huy được mặt tích
cực đối với sự phát triển kinh tế, ổn định xã hội, thì vào cuối thời Trần, thiết
chế chính trị quân chủ quý tộc nhà Trần đã bộc lộ rõ sự suy yếu thảm hại,
những mâu thuẫn gay gắt giữa quý tộc với các tầng lớp trong xã hội, trong
đó có cả tầng lớp quan liêu nho sỹ. Điều đó đã kìm hãm sự tiến hóa của xã
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
12
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu
Thủy
hội Đại Việt. Lúc này, yêu cầu lịch sử đặt ra đó là, muốn vượt qua cuộc
khủng hoảng cuối thế kỷ XIV đòi hỏi phải có một cuộc cải cách toàn diện.
Muốn vậy phải có một Nhà nước trung ương tập quyền vững mạnh đủ khả
năng tiến hành cuộc cải cách, lãnh đạo dân tộc đánh thắng giặc ngoại xâm.
Năm 1400, nhà Hồ thiết lập. Hồ Quý Ly đã đưa ra nhiều biện pháp
giải quyết tình trạng khủng hoảng kinh tế - chính trị - xã hội cuối triều Trần
thông qua nhiều chính sách cải cách. Trong đó, Hồ Quý Ly cũng rất quan
tâm đến chính sách tài khóa của quốc gia. Biểu thuế thân vì thế cũng ít nhiều
có sự thay đổi so với thời kỳ trước.
Không những thế, trong giai đoạn từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, nhân
dân Đại Việt còn phải tiến hành đấu tranh chống lại các thế lực ngoại xâm.
Không một thế kỷ nào nhân dân Đại Việt được sống trong hòa bình trọn
vẹn: kháng chiến chống Tống (1075-1077), ba lần kháng chiến chống Mụng
Nguyờn (1258-1288) yêu cầu chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc trở

thành một yêu cầu thường trực, cấp thiết trong giai đoạn lịch sử này. Trong
khi nguồn tài chính quốc gia đang ngày càng cạn kiệt, bởi lẽ đó, muốn củng
cố, tăng cường tiềm lực kinh tế - tài chính của đất nước thì việc đóng thuế
nói chung và thuế thân của người dân trở nên tất yếu. Điều này đã tác động
trực tiếp đến chính sách thuế của Nhà nước phong kiến đương thời.
Về mặt lãnh thổ, trong giai đoạn này, lãnh thổ Đại Việt không ngừng
được mở rộng xuống phía Nam. Năm 1069, vua Champa là Chế Củ xin dâng
3 châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính để chuộc mạng, nhà Lý mở rộng miền
đất phía Nam xuống Bắc Quảng Trị ngày nay.
Năm 1075, vua Lý Nhõn Tụng sai Lý Thường Kiệt đi “kinh lý” vùng
đất mới. Nhà Lý cho đổi châu Địa Lý thành chõu Lõm Bỡnh, Ma Linh thành
Minh Linh, đồng thời chiêu mộ cư dân Đàng Ngoài vào lập làng.
Năm 1306, vua Trần Anh Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua
Champa là Chế Mân. Chế Mõn đó dõng hai châu Ô và Lý để làm sính lễ.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
13
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu
Thủy
Ngay sau khi cai quản vùng đất mới, vua Trần sai Hành khiển Đoàn Nhữ
Hài đến phủ dụ cư dân địa phương, chọn người Chàm có uy tín làm quan,
cấp ruộng đất cho dân Chàm đồng thời miễn tô thuế cho họ 3 năm. Trần
Anh Tông đổi tên gọi vùng đất mới là Thuận Hóa.
Năm 1400, Hồ Quý Ly cử quân đánh Champa nhằm yên mặt Nam để
chống lại phương Bắc. Năm 1402, trong một lần bị thua, vua Champa phải
xin nộp đất Động Chiêm và Cổ Lũy cho nhà Hồ. Đây chính là hai châu
Thăng Hoa và Tư Nghĩa mà sau này nhà Hồ đã đặt tên.
Có thể thấy rằng, việc mở rộng lãnh thổ như trên bên cạnh ý nghĩa
tích cực trong việc khai hoang mở rộng diện tích đất đai, còn đặt ra cho nhà
nước phong kiến những khó khăn, thách thức mới. Đó là làm sao phải có

những chính sách phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với từng địa phương,
vùng miền trong cả nước, trong đó chính sách thuế thân của Nhà nước cũng
cần có sự điều chỉnh cho phù hợp. Đây là vấn đề cấp bách đặt ra với nhà
nước Lý – Trần – Hồ.
1.1.1.2 Tình hình kinh tế
Nông nghiệp trồng lúa nước là ngành kinh tế chính của đất nước Đại
Việt. Bên cạnh việc xây dựng, củng cố chính quyền, nhà nước phong kiến
thời Lý – Trần – Hồ còn có nhiều biện pháp tích cực khuyến khích phát triển
kinh tế nông nghiệp.
Năm 1010, Lý Công Uẩn xuống chiếu bắt những người trốn tránh
phải trở về quê hương bản quán. Sang thời Lý Thỏnh Tụng, vua Lý cho ban
hành chiếu khuyến khích nông tang, chăm lo đời sống nhân dân, thực hiện lễ
cày ruộng “tịch điền”. Nhà vua cũng đích thân đến xem nhân dân cày cấy,
gặt hỏi Để có lực lượng lao động sản xuất thường xuyên, Nhà nước thực
hiện chính sách “ngụ binh ư nông”. Chính sách này có tác dụng to lớn nhằm
phát triển sản xuất nông nghiệp. Nhà nước Lý – Trần còn ban hành nhiều
đạo luật về việc bảo vệ trâu bò nhằm giữ gìn sức kéo trong sản xuất nông
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
14
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu
Thủy
nghiệp. Luật pháp triều Lý quy định người ăn trộm trâu bò đều phải bồi
thường tiền và đánh 80 trượng, xử tội đồ.
Không chỉ vậy, nhà nước phong kiến Lý – Trần còn đặc biệt chú trọng
đến công tác trị thủy và thủy lợi, công tác đê điều được chú ý. Đây là một
trong những chính sách lớn của đất nước, đặc biệt dưới thời Trần nhằm bảo
vệ và phát triển nền sản xuất nông nghiệp. Nhờ vậy, kinh tế nông nghiệp đã
đi vào ổn định, tạo sức mạnh cho quốc gia dân tộc trong cuộc đấu tranh với
các thế lực bên ngoài và phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân.

Bên cạnh nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng đóng
vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế Đại Việt. Dưới các
triều Lý, Trần, Hồ, một hệ thống các quan xưởng được xây dựng nhiều,
phục vụ cho nhu cầu của vua, quan và triều đình. Thời Lý – Trần Thăng
Long không chỉ là trung tâm chính trị, văn hóa mà còn là trung tâm kinh tế
của Nhà nước với nhiều hoạt động buôn bán diễn ra khá sôi nổi. Nếu ở thời
nhà Lý, cảng Vân Đồn làm nơi trao đổi buôn bán chớnh thỡ sang thời Trần,
Thăng Long vừa là nơi buôn bán, vừa là nơi làm thủ công. Bên cạnh đó,
nhiều trung tâm buôn bán khác cũng ra đời như: Vị Hoàng, Thanh Hoa,
Thiên Trường – Tức Mặc Việc buôn bán với nước ngoài cũng rất phát triển
đặc biệt với Trung Hoa.
Trong thời kỳ này, tiền là phương tiện lưu thông hàng hóa. Các vua
Đại Việt thời Lý – Trần đều có đúc tiền. Ngoài ra, trên thị trường còn sử
dụng nhiều tiền Trung Quốc. Đến thời Hồ, với chính sách cải cách của Hồ
Quý Ly tiền giấy đã thay thế tiền đồng. Quan hệ tiền tệ đã thâm nhập vào
đời sống chính trị và tín ngưỡng của nhân dân. Nhà nước cũng chuyển từ thu
tô thuế bằng hiện vật sang thu tô thuế bằng tiền. Vì thế, điều này cũng tác
động rất lớn đến chính sách thuế thân của Nhà nước.
Tóm lại, trong các thế kỷ XI – XV, bộ máy quản lý Nhà nước dần dần
hoàn thiện từ Trung ương đến địa phương. Đại Việt về căn bản vẫn là một
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
15
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu
Thủy
nước nông nghiệp trên cơ sở trồng lúa nước là chủ yếu. Nó tác động không
nhỏ đến việc đưa ra chính sách tài khóa đối với nhân dân.
1.1.1.3 Tình hình xã hội
Xã hội Đại Việt sau một thời kỳ phát triển phồn vinh từ thế kỷ XI đến
nửa sau thế kỷ XIV đã lâm vào cuộc khủng hoảng khá sâu sắc trên nhiều

lĩnh vực.
Trước hết, đó là sự sa đọa của các tầng lớp quý tộc cầm quyền.
Vương triều Trần từ vua Trần Dụ Tông (1341-1369) trở về sau, ngày càng
đi vào con đường suy tàn. Vua quan đua nhau ăn chơi hưởng lạc, không
quan tâm chăm lo đến đời sống của người nông dân như trước. Trong nội bộ
tầng lớp quý tộc cầm quyền chia bè phái, mâu thuẫn, giết hại lẫn nhau để
tranh giành địa vị, quyền lực ngày càng khốc liệt, điển hình là vụ một số quý
tộc đại thần nhà Trần như: Thái bảo Trần Nguyờn Hón, Thượng tướng quân
Trần Khỏt Chõn mưu giết Hồ Quý Ly không được, bị Hồ Quý Ly giết cùng
với 370 quan lại quý tộc khác. Cuộc thanh trừng lẫn nhau diễn ra “hết năm
này qua năm khác” là một ví dụ.
Trong khi đó, từ đầu thế kỷ XIV, do mất mùa, đói kém, nông dân đã bán
nhà cửa, ruộng vườn, con cái, bán mình làm nô tỳ cho các quý tộc địa chủ giàu
có. Bọn này nhõn đú xâm chiếm hoặc mua rẻ ruộng đất, mở rộng các điền
trang, tăng thêm số người làm. Nhiều nhà thờ cũng trở thành chủ đất lớn với
nhiều điền nô. Cùng với tình trạng đó, vua quan, quý tộc lo ăn chơi, hưởng lạc,
không chăm lo thực hiện các chức năng của Nhà nước, lại còn ra sức huy động
sức người, sức của của nhân dân phục vụ cho các cuộc chiến tranh “chinh
phạt” các nước Ai Lao, Champa. Bởi vậy, đời sống của nhân dân vô cùng cực
khổ, tình trạng nhân dân phiờu tỏn trở nên khá phổ biến. Lúc này, Nhà nước
không còn đủ sức quan tâm đến sản xuất nông nghiệp, sửa đắp và bảo vệ đê
điều, các công trình thủy lợi. Từ nửa sau thế kỷ XIV, đó cú 9 lần vỡ đê, lụt lớn
vào các năm 1348, 1351, 1352, 1353, 1358, 1359, 1360, 1378, 1393, 11 lần
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
16
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu
Thủy
hạn hỏn Hậu quả tất nhiên của thiên tai, chiến tranh là tình trạng mất mùa, đói
kém. Đời sống điêu đứng của nhân dân lúc bấy giờ được phản ánh khá rõ nét

qua mấy câu thơ của Nguyễn Phi Khanh:
Dịch nghĩa:
“Ruộng lúa ngàn dặm đỏ như cháy, đồng quê than vãn trông vào đâu
Lưới chài quan lại còn vơ vét, máu thịt nhân dân cạn nửa rồi”[31, tr705].
Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn xã hội gay gắt và
phong trào khởi nghĩa nông dân cuối thế kỷ XIV. Đó là các cuộc khởi nghĩa
của Ngô Bệ ở Hải Dương năm 1344, cuộc khởi nghĩa của Tề ở Bắc Giang
năm 1354, cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thanh ở Thanh Hóa năm 1379,
cuộc khởi nghĩa của Phạm Sư Ôn ở Hà Tây năm 1390 Lực lượng đông đảo
nhất tham gia các cuộc khởi nghĩa là nông dân nghèo, nông nô, nô tỳ trong
các điền trang của vương hầu, quý tộc Trần. Điều đó chứng tỏ, từ nửa cuối
thế kỷ XIV, xã hội Đại Việt đã bước vào cuộc khủng hoảng, vương triều
Trần đã suy thoái trầm trọng. Thiết chế chính trị quân chủ quý tộc và quan
hệ bóc lột nông nô, nô tỳ lúc này đã khủng hoảng, kìm hãm sự tiến hóa của
xã hội Đại Việt, làm cho quá trình phong kiến hóa trong xã hội tiến tới xác
lập một thể chế quân chủ quan liêu chuyên chế, một Nhà nước phong kiến
Trung ương tập quyền thống nhất và mạnh, một quan hệ sản xuất địa chủ -
nông dân lệ thuộc thống trị nền kinh tế bị cản trở. Bởi lẽ, tầng lớp quý tộc
tôn thất nhà Trần từ vua đến quan lại vẫn ra sức giữ nguyên thiết chế quân
chủ quý tộc, trong khi mô hình này đã bộc lộ rõ sự suy yếu và những mâu
thuẫn gay gắt không thể điều hòa giữa quý tộc với các tầng lớp xã hội.
Tình trạng xã hội bất ổn nêu trên còn là nguyên nhân dẫn đến sự đình
đốn và trì trệ trong sản xuất và phát triển kinh tế, ngân quỹ quốc gia lúc này
trống rỗng, kiệt quệ. Đứng trước muôn vàn khó khăn đó, Nhà nước phong
kiến đó cú những biện pháp cải cách nhằm tăng cường và bổ sung thêm
nguồn thu vào ngân sách nhà nước, trong đó có chính sách thuế thân.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
17
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu

Thủy
1.1.2 Chính sách thuế thân
Trong xã hội phong kiến, nhất là ở giai đoạn đầu, dân đinh giữ một vị
trí vô cùng quan trọng, không những ruộng đất, các nghề kinh doanh sinh lợi
phải đóng thuế, mà ngay cả bản thân con người cũng phải đóng thuế. Tất cả
dân đinh đến tuổi trưởng thành đều phải đóng một khoản thuế gọi là thuế
thân hay thuế nhân suất, thuế nhân đinh, thuế thân dung, tiền dung, tiền quý.
Dân đinh vừa là nguồn để thu thuế, vừa là nguồn để lao dịch, bắt lính. Tất cả
con trai đến tuổi trưởng thành đều phải ghi vào sổ đinh (theo tuổi) để hưởng
quyền lợi chia phần ruộng công và làm nghĩa vụ nộp thuế, đi lính, lao dịch.
1.1.2.1 Thời Lý
Theo nhà sử học Phan Huy Chú, vào thời Lý Thái Tổ, năm Thuận
Thiên thứ 4 [1013] đã bắt đầu định lệ thu thuế, tuy nhiên lúc này chưa có
thuế thân:
“Ngạch thuế thời Lý có 6 hạng:
1. Đầm, ao, đất ruộng;
2. Tiền thóc và tiến thuế bãi dâu;
3. Thuế sản vật núi rừng và ở phiên trấn
4. Thuế quan ải xét hỏi về mắm muối;
5. Thuế sừng tê ngà voi và các thứ hương liệu của người dân Mãn
Lao (dân tộc thiểu số);
6. Thuế gỗ và hoa quả nơi đầu nguồn”[3, tr227].
Tuy nhiên, chi tiết về thứ bậc các loại thuế như thế nào thì còn chưa rõ.
Mặc dù thuế thân chưa được ban hành nhưng dưới triều Lý, công việc
kiểm soát hộ tịch được thực hiện hết sức nghiêm ngặt.
Nhà Lý định lệ khai sổ mỗi năm: “dân đinh nào đến 18 tuổi thì được
biên vào sổ gọi là hoàng nam, đến 20 tuổi thì gọi là đại hoàng nam ; người
nào ẩn giấu hạng nam thì phải chịu tội”[26, tr22].
Đến năm 1083, Lý Nhõn Tụng lại chia đinh nam thành 3 hạng. Cụ thể:
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP

Hà Nội
18
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu
Thủy
“Dân đinh ở các hương được ghi vào sổ hộ tịch, phân làm ba hạng
theo tuổi:
- 17 tuổi là tiểu hoàng nam (từ 17 tuổi đến 19 tuổi).
- 20 tuổi trở lên là đại hoàng nam (từ 20 tuổi đến 59 tuổi).
- 60 tuổi trở lên là lão hạng.
Hàng năm, vào mùa xuân, chính quyền hương, xã kiểm tra nhân khẩu
để báo lên trên”[43, tr182].
Bắt đầu từ thời Lý, Nhà nước quy định tất cả con trai đến tuổi trưởng
thành đều phải ghi vào sổ đinh (theo tuổi) để hưởng quyền lợi chia phần
ruộng công và làm nghĩa vụ đi lính, lao dịch. Nhờ công việc kiểm tra dân số,
lập sổ hộ tịch được tiến hành thường xuyên và chặt chẽ nên dưới thời Lý,
tình trạng ẩn lậu dân đinh trong các làng xã là không nhiều. Điều này tiếp
tục được các triều đại phong kiến về sau vận dụng, kế thừa và phát huy có
hiệu quả.
Mặc dù dưới triều Lý, Nhà nước chưa có quy định cụ thể về việc đánh
thuế thân, nhưng việc chia dân đinh và lập sổ hộ tịch chính là cơ sở thuận
cho các triều đại sau tiếp tục hoàn thiện và ban hành một chính sách thuế
thân phù hợp.
1.1.2.2 Thời Trần
Bước sang thời Trần, ngay sau khi lên ngôi, các vua Trần cũng rất chú
trọng đến công tác kiểm duyệt dân số. Vua Trần đã ra lệnh cho các làng xã
phải làm đầy đủ sổ hộ tịch cho từng hộ gia đình và chia dân số thành ba loại.
Do yêu cầu tô thuế, điều động nhân lực phục dịch và tuyển lính nên Nhà
nước thường kiểm kê dân số. Ở các Lộ (Tỉnh) xa, vua còn sai các đại thần
đến theo dõi, kiểm tra tại chỗ việc lập sổ nói trên. Năm Mậu Tý [1228], triều
đình phái đại thần đi duyệt sổ đinh phủ Thanh Hoá và quy định: “Xét sổ

đinh phủ Thanh Hoá theo lệ cũ, hàng năm đầu mùa xuõn, xó quan (nay là
xã trưởng) khai báo số nhân khẩu gọi là đơn số, rồi sau cứ theo sổ mà
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
19
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu
Thủy
định, kê rừ cỏc hạng tôn thất, quan văn giai, quan võ giai, quan theo hầu,
quân nhân tạp lưu, hoàng nam, già yếu, bất cụ, phụ tịch, xiờu tỏn…”[15,
tr267].
Tác giả Phan Huy Chú cũng cho biết: “buổi đầu nhà Trần làm sổ hộ
tịch, cứ hàng năm lại làm kế tiếp, phép làm rất rõ ràng và kỹ vì là noi theo
phép cũ của nhà Lý”[3, tr192].
Có thể thấy rằng, việc điều tra dân số được Nhà nước đặc biệt quan
tâm và tiến hành khá chặt chẽ, đặc biệt ở vùng đồng bằng sông Hồng và
Thanh Nghệ. Điều này xuất phát từ yêu cầu tuyển lính, bắt phu và quan
trọng hơn cả, việc tra xét dân số nhằm thực hiện hiệu quả việc phân chia
ruộng đất công ở các làng xã, trên cơ sở đó triều đình bắt đầu định lệ đánh
thuế thân đối với các hạng dân đinh, tránh tình trạng ẩn lậu, đảm bảo nguồn
thu cho ngân sách Nhà nước, tăng cường tiềm lực tài chính của quốc gia,
đẩy mạnh phát triển kinh tế, tiến tới bình ổn xã hội.
Để thuận tiện cho việc đánh thuế, Nhà nước chia dân đinh thành các
hạng khác nhau theo độ tuổi. Năm 1242, Trần Thỏi Tụng ra chỉ dụ: “Làm sổ
hộ khẩu, con trai lớn gọi là đại hoàng nam, nhỏ là tiểu hoàng nam, 60 tuổi
gọi là lão, già lắm gọi là long lão”[15, tr276]. Theo đó, dân đinh lúc bấy giờ
chia thành 4 hạng: tiểu hoàng nam, đại hoàng nam, lão và long lão.
Dưới triều Trần, Nhà nước phong kiến định lệ thuế thân đối với dân
đinh chủ yếu dựa vào số ruộng đất công của họ. Cụ thể:
“- Đinh nam có 1 – 2 mẫu ruộng phải nộp 1 quan tiền
- Đinh nam có 3 – 4 mẫu ruộng phải nộp 2 quan tiền

- Đinh nam cú trờn 5 mẫu ruộng phải nộp 3 quan tiền
- Không có ruộng không phải nộp thuế”[26, tr23].
Như vậy, thuế thân đánh vào đầu người thời kỳ này chủ yếu là đánh
vào những người có ruộng đất công làng xã. Nhân đinh cày ruộng công làng
xã phải nộp thuế cho Nhà nước bằng thóc theo diện tích gọi là địa tô và phải
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
20
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu
Thủy
nộp thêm một số tiền nhất định đó chính là thuế thân. Cũng rõ ràng là, số
tiền và thóc mà người nông dân làng xã phải nộp cho Nhà nước đã mang
một ý nghĩa tổng hợp, vừa là thuế, vừa là địa tô. Việc miễn thuế cho những
nhân đinh không có ruộng đất cũng cho thấy phần nào sự khoan dung của
Nhà nước lúc bấy giờ.
Mức thuế quy định năm 1242 như trên là rất nặng. Bởi, theo thời giá
lúc đó, 1 mẫu ruộng đất giá từ 5 đến 10 quan. Như vậy là hàng năm người
nụng dõn phải nộp số tiền bằng từ 1/10 đến 1/5 mẫu ruộng (đối với loại chỉ có
1 mẫu) hoặc từ 1/20 đến 1/10 mẫu ruộng (đối với loại có 2 mẫu) [43, tr194].
Như vậy, thuế thân đã và đang là gánh nặng đè lên vai người nông
dân nghèo khổ lúc bấy giờ. Cuộc sống của họ vốn đã khó khăn nay càng
thêm bấp bênh, túng thiếu.
Vào những năm cuối của thế kỷ XIII, đặc biệt là năm 1290, trong
nước, thiên tai, dịch bệnh thường xuyên xảy ra khiến nhân dân chết đói đầy
đường. Lúc này “Đói to, 3 thăng gạo trị giá 1 quan tiền, nhân dân nhiều
người phải bán ruộng đất, bán con trai con gái làm nô tỳ cho người khác, 1
người trị giá 1 quan tiền”[15, tr320]. Trước tình cảnh cơ cực của người
nông dân, vua Trần Nhõn Tụng đó xuống chiếu chẩn cấp dân nghèo và miễn
thuế thân cho họ. Đây là điều vô cùng cần thiết trong thời điểm hiện tại,
nhằm cứu giúp nhân dân và ổn định cuộc sống của họ.

Bước sang thế kỷ XIV, thiên tai và chiến tranh xảy ra liên miên, đã để
lại hậu quả vô cùng nặng nề trong nhân dân, đó là mất mùa và đói kém. Chỉ
tính từ đầu thế kỷ XIV đến năm 1379 đó cú hơn 10 nạn đói lớn, người dân
phải bán cả nhà cửa, con cái, ruộng vườn…nền kinh tế suy sụp nhanh
chóng. Tình hình trờn đó khiến cho ngân quỹ quốc gia trống rỗng, Nhà nước
đã nhiều lần kêu gọi các nhà giàu nộp tiền, thóc để nhận quan tước nhưng
vẫn không cứu vãn được tình hình trên.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
21
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu
Thủy
Đứng trước nguy cơ khủng hoảng về mọi mặt, năm 1378, nhà Trần đã
chấp thuận đề nghị của Đỗ Tử Bình, tách thuế thân ra khỏi ruộng đất, buộc
mỗi dân đinh phải đóng 3 quan tiền thuế thân hàng năm: “Mùa thu tháng 7,
nước to, Đỗ Tử Bình kiến nghị bắt các đinh nam mỗi hộ nộp 3 quan. Vua y
theo. Bấy giờ đang có việc dụng binh, kho tàng kiệt quệ, nên Tử Bình kiến
nghị như thế”[15, tr406]. Từ đây, thuế ngày càng thêm nặng nề và thực sự
trở thành gánh nặng đối với người dân.
Trong cuốn Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú cũng có
những nhận xét về chính sách thuế thân của nhà Trần như sau: “Việc phú
thuế ở buổi đầu nhà Trần chỉ đánh vào ruộng đất, dân đinh cùng khổ đều
được miễn cả. Rộng thương kẻ nghèo yếu cố nhiên là chính sách hay.
Nhưng có thân phải có dung [thuế thân], đó là phép thường. Ở đất của vua,
làm dân của vua, không có lẽ suốt năm không chịu lao dịch. Đời Hán có
phép khẩu phú, đời đường có phép đinh dung, vốn là phép hay. Thế thì các
lệ đinh nam phải nộp tiền tuy cũng nặng hơn trước, nhưng cỏi phộp định
phú thực cũng là châm trước theo đời xưa”[3, tr227].
Với chính sách thuế thân như trên, người nông dân đã bị bóc lột đến
tận xương tuỷ, họ trở nên bất bình và gây nên hàng loạt các cuộc nổi dậy

chống triều đình. Như vậy, chính sách thuế thân nặng nề của Nhà nước
phong kiến là một trong những nguyên nhân tất yếu dẫn đến sự bùng nổ của
phong trào nông dân khởi nghĩa trên toàn quốc.
Chính sách thuế khoá nặng nề cùng hàng loạt những khó khăn khác như:
thiên tai, bệnh tật, chiến tranh,…đó đẩy quốc gia Đại Việt rơi vào tình trạng
khủng hoảng trầm trọng. Tướng quốc triều Trần là Trần Nguyên Đán mới ngày
nào đú cũn vui mừng thốt lên “Triệu tính âu ca lạc thịnh thì” (Trăm họ mừng
vui cảnh thịnh giàu) thì nay đã buồn rầu than rằng[43, tr248]:
“Năm nay hè hạn, thu nước to,
Mại thối, lỳa khụ hại biết bao.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
22
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu
Thủy
Đọc sách triệu trang mà bất lực,
Bạc đầu xinh phụ nỗi thương dân”.
1.1.2.4 Thời Hồ
Từ năm 1375, khi được phong chức Tham mưu quân sự, rồi giữ trọng
chức Nhập nội chính Thái sư Bình chương quân quốc trọng sự, Tuyên trung
vệ đại vương (1395) với lời uỷ thác của Thượng hoàng Trần Nghệ Tông
“Bình chương là họ thân thích nhà vua, mọi Nhà nước đều do khanh cả.
Nay thế nước suy yếu, trẫm thì già nua, sau khi trẫm chết, quan gia (vua
Trần) nếu giúp được thỡ giỳp, nếu thấp hèn, ngu muội thì khanh cứ tự nhận
lấy ngôi vua”[19, tr74]. Cho đến khi bức vua Trần nhường ngôi và tự lập
làm vua, thành lập triều đại nhà Hồ, Hồ Quý Ly đã thi hành những chính
sách cải cách tích cực trên mọi mặt của đời sống xã hội.
Năm 1400, ngay sau khi thành lập, nhà Hồ đã bắt tay thực hiện một đợt
làm sổ mới với quy mô rộng lớn hơn, bắt tất cả những người từ 2 tuổi trở lên
phải ghi tên vào sổ. Những người ngụ cư cũng phải trở về quê quán để ghi

vào sổ. Điều này đã góp phần hạn chế việc dân đinh phiờu tỏn và ẩn lậu.
Trước những phản ứng mạnh mẽ của nhân dân về thuế khoá nặng nề
dưới thời Trần và sau khi phát hành tiền giấy thay cho tiền đồng để tiêu
dùng, đến năm 1402, nhà Hồ cho ban hành “chính sách thuế mới”, trong đó
có quy định lại biểu thuế thân theo mức cho mỗi năm. Theo đó, thuế thân
chỉ đánh vào người có ruộng được chia, người không có ruộng, trẻ mồ côi,
đàn bà goá bụa không phải nộp. Thuế đánh theo quy tắc luỹ tiến, cụ thể:
“Thuế đinh (nam) thời Trần mỗi năm mỗi đinh nam đóng 3 quan tiền nhất
loạt thì nay chiếu theo số ruộng. Người nào ruộng chỉ có 5 sào thỡ đúng 5
tiền giấy; từ 6 sào đến 1 mẫu thì nộp 1 quan; từ 1 mẫu 1 sào đến 1 mẫu 5
sào thì nộp 1 quan 5 tiền; từ 1 mẫu 6 sào đến 2 mẫu thì nộp 2 quan; từ 2
mẫu 1 sào đến 2 mẫu 5 sào thì nộp 2 quan 6 tiền; từ 2 mẫu 6 sào trở lên thu
3 quan tiền giấy. Đinh nam không có ruộng, trẻ con mồ côi, đàn bà gúa
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
23
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu
Thủy
chồng dự cú ruộng đều không phải đóng”[19, tr17]. Ở thời điểm này, 1 quan
tiền đồng có giá trị bằng 1,2 quan tiền giấy.
Như vậy, chính sách thuế thân của nhà Hồ nói trên so với thời kỳ trước
đã giảm đi nhiều, điều này đã góp phần ổn định tình hình xã hội hiện tại.
Có thể núi, cỏc nhà nước phong kiến Lý - Trần - Hồ đó cú những cố
gắng nhất định trong việc đề ra một chính sách thuế thõn đối với nhõn dõn.
Dự cũn nhiều hạn chế và bất cập nhưng đã phần nào giải quyết vấn đề khó
khăn về tài chính cho Nhà nước trong những giai đoạn khủng hoảng nhất.
1.2 Thuế thân thời Lê sơ (1428 - 1527)
1.2.1 Hoàn cảnh lịch sử
1.2.1.1 Tình hình chính trị
Đầu thế kỷ XV, quân Minh sang xâm lược và đặt ách thống trị trên

đất nước ta trong suốt 20 năm (1407 -1427). Năm 1428, cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn đã đập tan ách thống trị của nhà Minh, vương triều Lê sơ được
thiết lập.
Ngay sau khi thành lập, nhà Lê sơ phải tiếp nhận một di sản vô cùng
nặng nề do nhà Minh để lại. Tình hình chính trị bất ổn, dân lưu tán nhiều,
ngân khố quốc gia cạn kiệt. Do đó, muốn củng cố, tăng cường tiềm lực kinh
tế, tài chính của đất nước thì việc đóng thuế trở nên tất yếu. Đây là một
trong những nguyên nhân tác động trực tiếp đến chính sách thuế của Nhà
nước Lê sơ.
Dưới thời Lê sơ, do sự phát triển của chế độ giáo dục, thi cử, nên hầu
hết các quan lại đều xuất thân khoa cử. Theo con số thống kê năm 1471,
“Tổng số quan lại là 5370 người, gồm 2755 quan lại ở Trung ương, 2615
quan lại địa phương”[43, tr321]. Để tạo điều kiện cho các quan lại làm việc
đúng theo mong muốn của mỡnh, Thỏnh Tụng đặt ra quy chế lương bổng,
ruộng lộc, phẩm tước rõ ràng và thống nhất. Vì vậy, muốn duy trì và đảm bảo
chế độ bổng lộc cho các quan lại thì việc củng cố và tăng cường nền tài chính
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
24
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thu
Thủy
quốc gia là vô cùng cần thiết. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chính
sách thuế khóa nói chung và thuế thân nói riêng của nhà nước Lê sơ.
Về mặt lãnh thổ, trong thế kỷ XV, lãnh thổ Đại Việt vẫn tiếp tục được
mở rộng xuống phía Nam. Năm 1471, sau khi chiếm vùng đất ở phía Nam
Thuận Hóa cho đến đốo Cự Mụng, Lê Thỏnh Tụng lập thêm đạo thừa tuyên
thứ 13 là Quảng Nam. Việc mở rộng lãnh thổ như trên cũng đặt ra những
khó khăn, thách thức mới cho Nhà nước phong kiến trong việc tiếp quản
vùng đất mới. Vấn đề đặt ra là làm sao phải có những chính sách phát triển
kinh tế - xã hội phù hợp với từng địa phương trong cả nước, trong đó có

chính sách thuế thân.
1.2.1.2 Tình hình kinh tế - xã hội
Đến thời Lê sơ, nền nông nghiệp trồng lúa nước vẫn đóng vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế Việt Nam. Tiếp nối truyền thống, kinh nghiệm của các
triều đại trước, sang thời Lê sơ, công việc đắp đê ngăn nước biển tiếp tục
được thực hiện. Năm 1467, nước biển dâng cao làm vỡ các đê ngăn ở phủ
Nam Sỏch, Giỏp Sơn, Thái Bình, Kiến Xương. Nhà nước đã cử quan lại đi
khám xét và yêu cầu bồi đắp lại. Đặc biệt dưới thời Lê sơ, công việc đắp đê
còn được quy định khá rõ ràng trong luật pháp. Nhờ sự quan tâm của Nhà
nước đến công tác trị thuỷ và thuỷ lợi nên kinh tế nông nghiệp thời kỳ này
khỏ phỏt triển. Đõy chớnh là cơ sở thuận lợi tạo tiềm lực và sức mạnh cho
quốc gia độc lập.
Ngoài ra, Nhà nước còn có nhiều chính sách khuyến nông khác: Nhà
nước quy định mọi công trình xây dựng cần điều động dân phu đều phải tiến
hành ngoài thời vụ cày cấy, gặt mùa “hễ công việc gì có hại cho dõn thỡ
không được khinh động sức dõn”; Pháp luật nhà Lờ cũn bảo vệ chặt chẽ sức
kéo trong nông nghiệp. Tội ăn trộm trâu bò bị Nhà nước trừng phạt nặng…
Chính sách trọng nông của nhà nước Lê sơ bước đầu đã thu được kết
quả rất đáng khích lệ. Nhân dân ta đã từng ca ngợi về triều đại thịnh trị này:
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
25

×