Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Quan niệm về cái đẹp trong Chữ người tử tù

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.89 KB, 5 trang )

Đ ề luy ệ n t ậ p : Quan niệm về cái Đẹp của Nguyễn Tuân trong truyện ngắn Chữ người tử
tù.
BÀI VIẾT THAM KHẢO:
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) cả một đời văn đi tìm cái Đẹp. Nhưng khác với Thạch
Lam, tâm hồn ông hướng về vớ i những nét toàn thiện toàn mĩ , vượt lên khỏi giới hạn của
cái bình thường, luôn nhìn nhận thế giới và con người ở phương diện thẩm mĩ – văn hoá.
Vang bóng một thời như là một điểm xuất phát của quan điểm nghệ thuật mang dấu
ấn cá tính con người tài hoa tài tử Nguyễn Tuân. Mười một truyện ngắn dựng lên những chân
dung đặc sắc khó quên của một thời quá vãng, tiêu biểu cho khuynh hướng thoát li của
Nguyễn Tuân trước cách mạng : những thú chơi tao nhã, những con người của quá khứ xa
xăm, thực ra là một cách cắt nghĩa cho tấm lòng của nhà văn vốn nặng tình cùng thời vàng
son dĩ vãng. Nhưng ẩn chứa trong tập truyện là một tâm hồn dân tộc yêu tha thiết những giá
trị đã trở thành truyền thống. Bên cạnh đó, tác phẩm còn là nơi gửi gắm tâm sự yêu nước,
tâm trạng bất hoà của một người trí thức luôn cảm thấy bức bối trong khuôn đời chật hẹp.
Cảm hứng đặc biệt mãnh liệt của Nguyễn Tuân gắn với những nhân vật đối lập với trật tự
khuôn phép phong kiến, thể hiện tập trung trong truyện ngắn Chữ người tử tù, giúp ta hiểu
sự chân thành sâu lắng của Nguyễn Tuân trong cái vỏ khác người kiêu bạc.
Tác phẩm là câu chuyện xoay quanh nét chữ của Huấn Cao – người tử tù bất khuất.
Xung quanh trục chính của câu chuyện là những nhân vật thầy thơ lại, viên quản ngục và
Huấn Cao. Họ vốn là kẻ thù với nhau trong cuộc sống, nhưng lòng yêu cái Đẹp giúp họ tìm
đến với nhau như những người bạn tâm giao.
Cho đến tận thế kỉ XXI, trên văn đàn vẫn còn những cuộc tranh luận sôi nổi xung
quanh Chữ người tử tù về nhân vật chính của tác phẩm: Chữ hay là người tử tù Huấn Cao
mới là cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm này của Nguyễn Tuân? Điều đó cho thấy tính phức
tạp, đa nghĩa của tác phẩm. Chính vì vậy, sức hấp dẫn của tác phẩm vẫn còn nguyên vẹn.
Tuy nhiên cần phải nhìn nhận tác phẩm này từ quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước
cách mạng, đồng thời gắn với đặc trưng “văn học là nhân học” để xácđịnh rõ tư tưởng của
Chữ người tử tù. Trước cách mạng, Nguyễn Tuân là đại diện cho khuynh hướng thoát li
trong văn học lãng mạn bằng việc đề cao những vẻ đẹp “vang bóng một thời”. Lấy cái tôi
làm trung tâm để nhìn nhận cuộc sống, ít nhiều trong tác phẩm, người nghệ sĩ lãng mạn bao
giờ cũng muốn bộc lộ chính những suy ngẫm, tâm trạng của riêng mình. Không phải ngẫu


nhiên tác phẩm lại chọn nguyên mẫu Cao Bá Quát để tạo dựng hình tượng Huấn Cao, vì ít ra
nhà văn cũng cảm nhận được mối quan hệ tương đồng giữa bản thân mình với nhân vật. Mặt
khác, trước cách mạng, Nguyễn Tuân luôn lấy tiêu chuẩn đánh giá con người ở ba khía cạnh:
cái Tài – cái Đẹp – cái Thiên Lương nên Huấn Cao là hình tượng độc đáo giúp nhà văn phát
biểu quan niệm về con người của chính ông một cách toàn diện. Chữ – thư pháp vốn là sở
hữu của bậc văn nhân tài tử thời xưa, là phương tiện diễn tả thần thái, tinh hoa của con
người, là hiện hình cụ thể của chủ thể thẩm mĩ. Vì vậy, không thể xem chữ là nhân vật trung
tâm của tác phẩm. Con người và những vẻ đẹp Người bao giờ cũng là trung tâm cảm hứng
của văn học lãng mạn, chữ của Huấn Cao thực chất là sự lí giải một góc tâm hồn Huấn Cao,
là lời ca tụng cái đẹp Con Người trong hoàn cảnh tưởng chừng chỉ tồn tại những điều xấu xa.
Xem Huấn Cao là nhân vật đại diện cho cái Tài – cái Đẹp – cái Thiên Lương theo
quan niệm Nguyễn Tuân cũng cần phải xét đến vai trò của viên quản ngục và thầy thơ lại.
Bởi, cái đẹp chỉ thật sự có ý nghĩa khi có người biết thưởng thức. Đó cũng là một khía cạnh
chủ đề của tác phẩm mà nhà văn muốn thông qua những nhân vật của mình phát biểu. Sẽ
không ai biết đến Huấn Cao vào những thời khắc khốc liệt nhất của đời ông nếu như không
có những người như quản ngục, thơ lại. Hai nhân vật này cùng Huấn Cao làm nên “ba đốm
sáng đặc biệt” trên nền hiện thực tăm tối.
Tác phẩm hấp dẫn người đọc trước hết ở lối dựng chuyện rất ấn tượng của Nguyễn
Tuân. Bản thân ông ý thức rất rõ về việc tạo không khí cho tác phẩm để từ đó diễn giải về số
phận, tính cách nhân vật. Vốn là một người rất am hiểu văn hoá phương Đông, tiếp thu ảnh
hưởng của cha, Nguyễn Tuân có biệt tài tái hiện những hình ảnh xa xăm của một thời “một
đi không trở lại”. Không khí cổ điển bao trùm toàn bộ tác phẩm ngay từ câu đầu tiên: “Nhận
được phiến trát của quan Sơn-Hưng-Tuyên đốc bộ đường…”, để từ đó những con người của
một thế giới xa xưa hiện ra trước mắt ta nguyên hình rõ nét. Nhân vật chính chưa xuất hiện
mà tác phẩm lại bắt đầu từ tâm trạng nửa lo – nửa mừng của viên quan đứng đầu nhà ngục
khi nghe tin Huấn Cao sẽ bị áp giải đến nơi mình cai quản. Bổn phận của một bề tôi trung
thành là phải làm tròn chức trách nên trong cuộc trao đổi giữa ngục quan với thuộc cấp đã
hiện lên một kẻ mẫn cán trong phận sự. Hoàn cảnh đề lao đã tạo nên con người theo khuôn
phép, cẩn trọng đúng mực như ngục quan. Nhưng để thấy con người thực của ngục quan và
nỗi băn khoăn của ông ta cần phải gắn cùng một hoàn cảnh khác, tâm trạng khác. Bởi qua

những dòng đầu tiên, người đọc biết đến niềm khao khát được thưởng thức tài hoa tuyệt đỉnh
của thư pháp trong nét chữ tên tử tù Huấn Cao của một người nắm quyền sinh quyền sát
trong tay. Nhưng là người biết định giá cái Đẹp và đến với cái Đẹp bằng tất cả tấm lòng,
ngục quan cũng hiểu rõ tình thế khó xử của chính mình. Để nhân vật một mình lọt thỏm
trong mênh mông bóng tối của nhà ngục. Nguyễn Tuân đã thuật lại khá đầy đủ những xung
đột bên trong của nhân vật. Ngôn ngữ miêu tả tâm lý của Nguyễn Tuân đã đạt đến trình độ
bậc thầy khi ông đi sâu mổ xẻ những uẩn khúc trong lòng nhân vật một cách rất tự nhiên gắn
kết với khung cảnh.
Để cắt nghĩa tâm trạng ngục quan, Nguyễn Tuân đã khắc họa khỏanh khắc ngục quan
khơi lại ngọn đèn dầu sở soi sáng khuôn mặt, đối diện chính bản thân. Đây cũng là thủ pháp
thường gặp trong văn xuôi hiện đại. Nhà văn cũng đã không ngần ngại bộc lộ cảm tình của
mình với ngục quan, khi ông dùng những nét vẽ bằng ngôn ngữ phác họa chân dung nhân vật
một cách trân trọng. Phẩm chất nhân vật được khái quát đầy đủ ngay từ đầu với những nét
tương hợp giữa ngôn ngữ, ngọai hình và nội tâm của nhân vật. Đàng sau khuôn mặt bình
thản như mặt nước hồ thu là cả một thế giới tâm hồn đáng trọng: “trọng người ngay, biết giá
người…” là cơ sở nhà văn khẳng định tâm hồn ngục quan như “bản đàn trong trẻo” trong thế
giới tạp âm, đối lập với “bọn cặn bã, lũ quay quắt”. Nhân vật đối lập với hoàn cảnh luôn là
đặc điểm hàng đầu trong sáng tác của Nguyễn Tuân, là chiếc chìa khóa mở tung những cửa
ngách phức tạp của hồn Nguyễn Tuân, văn Nguyễn Tuân. Đoạn đặc tả chân dung nhằm diễn
giải cho tình huống thử thách xảy đến cùng ngục quan: liệu giữa con người bản – chất và con
người mặt – nạ, phía nào sẽ thắng thế? Tâm nguyện của ngục quan có cơ hội thực hiện,
nhưng bằng con đường nào phải lẽ, bản thân nhân vật phải trải qua quá trình đấu tranh căng
thẳng với chính mình. Xin được chữ Huấn Cao – con người “văn hay chữ tốt nổi tiếng một
vùng” là vinh hạnh của một kẻ như quản ngục, bị giam cầm trong bổn phận, trách nhiệm.
Liệu nhân vật có vượt qua được thử thách hay không? Câu hỏi định hình từ phía nhà văn đã
gợi được trí tò mò cho bạn đọc để làm nên một không khí khác hẳn với lối diễn giải một
chiều của tiểu thuyết chương hồi, phơi bày những phức tạp mâu thuẫn nội tâm để làm rõ nét
chân dung đặc sắc của ngục quan.
Nếu Huấn Cao là nhân vật trung tâm của tác phẩm thì ngục quan chính là nhân vật đối
chiếu để làm rõ cho ý đồ của nhà văn. Thế nhưng góc nhìn đối sánh ấy lại bắt đầu từ vị thế

đối lập giữa hai nhân vật. Ngay từ khoảnh khắc đầu tiên xuất hiện giữa nhà ngục, Huấn Cao
đã hiện ra sừng sững những cốt cách, khí phách của một anh hùng. Chiếc gông đeo cổ sáu tử
tù – biểu tượng dữ tợn của quyền uy và tội ác với kích cỡ “xứng đáng”, với màu “đen bóng”
vì mồ hôi bao kẻ tử tội trở nên tầm thường thảm hại trước thái độ lạnh lùng “dỗ gông” của
Huấn Cao. Giữa ranh giới sống – chết mong manh, khí phách “uy vũ bất năng khuất” (uy vũ
không thể khuất phục) của Huấn Cao không thể được hiểu bằng đầu óc u tối của đám lính lệ
dựa hơi quan quyền ra oai phách lối. Chỉ có thái độ “hiền lành khác hẳn ngày thường” của
ngục quan mới là sự trọng thị thật sự của những người ý thức bản thân rõ nét. Nguyễn Tuân
đã thuật lại quá trình tìm cách tiếp cận Huấn Cao của ngục quan hoàn toàn khách quan và
hợp logic phát triển trên tâm lý nhân vật. Nhưng ông cũng giúp thấy rõ nghịch cảnh trớ trêu:
một đàng tìm cách gần gũi, một đàng cảnh giác tuyệt giao. Nỗi khổ tâm của ngục quan càng
tăng thì sự lạnh lùng “khinh bạc đến điều” của Huấn Cao càng tỏ rõ sự cứng rắn, đầy bản
lĩnh của người anh hùng mạt lộ. Đơn giản một điều là họ chưa tìm thấy tiếng nói chung khi
vị thế hai người được đặt trong sự đối đầu về mặt xã hội.
Đỉnh cao của xung đột đầu tiên giữa hai kẻ không cùng chiến tuyến là lúc ngục quan
mạo hiểm xuất hiện trước mặt Huấn Cao và nhận được câu trả lời đuổi thẳng. Đáp lại thái độ
khinh bạc của Huấn Cao là một lời bẽ bàng của quản ngục “Xin lĩnh ý” . Tưởng chừng sau
phút đó, chuyện sẽ rẽ ngoặt sang hướng khác: kính trọng sẽ thành thù hận. Nhưng điều bất
thường là rượu thịt cung phụng cho “thú sinh bình” của Huấn Cao lại còn hậu hơn trước
khiến cho nảy sinh tình huống mới: thái độ ngạc nhiên băn khoăn về quản ngục của Huấn
Cao. Ngạc nhiên là phải, vì đàng sau rượu thịt không phải là những trò mua chuộc hạ sách
mà ông Huấn Cao từng biết. Băn khoăn của Huấn Cao xoay quanh bí ẩn về nhân thân của
quản ngục. Nét đặc sắc trong nghệ thuật dựng chân dung nhân vật của Nguyễn Tuân là ở đó,
ông đặt nhân vật vào những ranh giới đòi hỏi sự lựa chọn đúng – sai, thật – giả, tốt – xấu …
để khám phá thêm những mặt tiềm ẩn của tâm hồn con người, hé lộ những mặt đa dạng của
tính cách nhân vật.
Lời giải đáp cho băn khoăn của Huấn Cao đến trong một hoàn cảnh thật nghiệt ngã,
ông phải đứng trước thử thách của chính mình. Ranh giới phân định không còn nằm trong
thế cho con người lựa chọn như trước, bởi đó là sự sống còn và cái chết của chính ông. Kết
cục số phận của một người tử tù là cái chết, nhưng trước cái chết con người cũng có những

phản ứng khác nhau. Một người bình thường sẽ mặt tái nhợt hốt hoảng như thầy thơ lại khi
báo tin cho Huấn Cao, còn bản thân một kẻ “chọc trời khuấy nước” như Huấn Cao lại dường
như bình thản đón nhận. Người anh hùng luôn đón đợi hiểm nguy, xem cái chết nhẹ tựa lông
hồng, phải chăng vì vậy Nguyễn Tuân đã không dùng một từ nào mô tả phản ứng của Huấn
Cao khi nghe tin dữ đến với mình. Giây phút “lặng người đi một lát rồi mỉm cười” của Huấn
Cao chính là thời điểm mở ra thế giới thực của một con người tài hoa. Cuối cùng những “kẻ
thù “ trong đời đã gặp nhau ở một tấm lòng. Thời điểm này ta cũng nhận rõ hơn vai trò của
thầy thơ lại. Ông ta hoàn toàn không phải là người trung gian, kẻ đầu sai cho chủ. Cũng
giống viên quản ngục, ông ta còn giữ được “thiên lương” nhưng hoàn cảnh không cho phép
ông bộc lộ con người thực của mình. Thậm chí, so với ngục quan, thầy thơ lại còn hiêïn lên
vẻ an phận thủ thường bằng dáng vẻ khúm núm, rụt rè, hớt hải của một kẻ ý thức được thân
phận của mình. Nhưng đôi mắt “biết giá người” của ngục quan đã phát hiện được con người
thực của ông ta. Thầy thơ lại chính là điểm tựa, là niềm tin giúp ngục quan đủ dũng khí vượt
qua nỗi sợ hãi thường trực trong cảnh sống nơm nớp lo âu. Có thể xem thầy thơ lại là nhân
vật bổ sung cho tính cách của ngục quan. Dẫu cho ông ta không phải là người đam mê cái
đẹp thư pháp giống như ngục quan, nhưng ông ta là người đóng vai trò xúc tác để cái đẹp tìm
đến nhau. Cuộc sống rất cần loại người như thế. Trong thế giới nhân vật lý tưởng hoá của
Nguyễn Tuân, viên thơ lại này là con người của đời thường, tận tâm trong công việc và tận
tâm với cả bạn bè, dám làm những việc nguy hiểm cho tính mạng bản thân vì người khác.
Không có thầy thơ lại, sẽ không có cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao với quản ngục, không có
cảnh tượng cho chữ “xưa nay chưa từng có”.
Khi những hận thù, ngộ nhận được xoá nhoà, nhà văn mới để Huấn Cao bộc lộ rõ con
người thật bằng những lời nói cảm động. Điều bất ngờ của Huấn Cao về quản ngục còn làm
người đọc bất ngờ hơn về thái độ của Huấn Cao khi ân hận “Thiếu chút nữa thì ta đã phụ mất
một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn Cao bỗng trở nên gần gũi, rất con người sau câu nói này.
Hoá ra nhân cách cao quí của Huấn Cao ngoài thái độ bất khuất kiên cường còn có cả một
tấm lòng biết trân trọng con người. Hoá ra nụ cười Huấn Cao không chỉ là “trông chết cười
ngạo nghễ” mà còn là nụ cười sung sướng tìm được một con người có “sở thích cao quí”
chính vào thời khắc số mệnh đã an bài. Cuộc gặp gỡ của những tấm lòng đã làm nên lời giải
đáp, hoá giải mọi khổ tâm, băn khoăn, sợ hãi.

Nguyễn Tuân đã dựng lên một không gian đặc biệt để ba nhân vật gặp gỡ. Đúng như
ông mô tả, đây là cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Nhưng trang viết này đã thể hiện bút lực
Nguyễn Tuân dồi dào sung mãn nhất. Cảm hứng mạnh mẽ, tô đậm những nét độc đáo phi
thường đã làm nên nhừng hình ảnh, câu văn thật phóng khoáng. Bắt đầu của sự chuyển đổi
không gian nhà ngục – vốn tối tăm ghê rợn đã bừng sáng lên trong ánh lửa cháy “rừng rực”
của những bó đuốc tẩm dầu. Xung đột Bóng tối – Ánh sáng mang ý nghĩa tượng trưng, điển
hình cho một cảm hứng quen thuộc của chủ nghĩa lãng mạn. Đây là ánh sáng khác hẳn với
sắc nhợt nhạt của “những vì sao” nhấp nháy sắp rụng, với ánh leo lét của ngọn đèn dầu sở soi
sáng gương mặt ngục quan, tâm hồn ngục quan. Aùnh đuốc làm bật lên ba con người đẹp đẽ
trên nền hiện thực nhà tù tàn ác xấu xa. Đối cực giữa hoàn cảnh với con người nhờ vậy tạo
được ấn tượng mạnh mẽ cho độc giả, tạo một tâm thế hào hứng đón nhận cái đẹp vượt lên
thực tại tầm thường tù túng, để thât sự thăng hoa.
Cảnh tượng đẹp nhất đánh dấu thời khắc cái Đẹp lên ngôi chính là lúc Huấn Cao viết
chữ, thầy thơ lại khúm núm bưng chậu mực, viên quan coi ngục đánh dấu lên từng con chữ.
Vẫn là những con người ấy nhưng thật sự họ đã toàn tâm toàn trí hướng về cái đẹp. Người
sáng tạo, người thưởng thức, tôn vinh cái đẹp đã gặp gỡ nhau. Lời nói của Huấn Cao dành
cho quan coi ngục là lời chỉ dành cho người tri âm tri kỷ. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng
bình khoảnh khắc này là khoảnh khắc “ba đốm sáng gặp nhau”, khoảnh khắc để con người
cúi đầu trước cái đẹp để thật sự cảm nhận vẻ đẹp toát lên từ con chữ, từ tấm lụa bạch, thỏi
mực thơm.
Nhà văn khép lại câu chuyện bằng lời nói của ngục quan, như hứng lấy tâm huyết
hoài bão một đời của Huấn Cao: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh!”. Đó là lúc cái đẹp chiến
thắng tuyệt đối, là lúc “Ba người nhìn bức châm rồi lại nhìn nhau”. Họ đã thật sự chiến thắng
nỗi sợ hãi, cái chết. Đó là thời khắc hội tụ cái Tài – cái Đẹp – cái Thiên Lương.
Chữ người tử tù đã thể hiện trọn vẹn quan niệm cái đẹp của Nguyễn Tuân trước các
h mạng tháng Tám. Cái đẹp đối lập vối thực tại tầm thường giả trá, cái đẹp của những con
người phản ứng thực tại xã hội đương thời. Và Nguyễn Tuân cũng đã đem lại cho người đọc
thú thưởng thức văn hoá rất đặc sắc trong nét chữ tài hoa. Tài hoa ấy, tấm lòng ấy cũng là
của chính Nguyễn Tuân muốn gửi gắm lại cho cuộc đời này.
TRẦN HÀ NAM

×