Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:
PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
MỤC LỤC
SV: Tạ Thị Thu Thảo
Lớp: Kế hoạch 49a
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:
PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
LỜI MỞ ĐẦU
Doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm khoảng 97% tổng số doanh nghiệp đăng ký
thành lập, là khu vực doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng trong tạo việc làm, tăng
thu nhập cho người lao động, huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển
và đóng góp vào ngân sách nhà nước. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có vốn đầu tư
ban đầu tuy không lớn nhưng được hình thành và phát triển rộng khắp ở cả thành thị
và nông thôn, ở hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực.
Sự phát triển tích cực của khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa trong những
năm qua đã góp phần cơ bản tạo việc làm mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần ổn
định tình hình kinh tế, chính trị, an sinh xã hội. Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhỏ và
vừa vẫn còn có những khó khăn, hạn chế mang tính đặc trưng và lâu dài ảnh hưởng
đến khả năng cạnh tranh và phát triển như: chất lượng nguồn nhân lực còn
thấp,trình độ công nghệ lạc hậu, khả năng quản trị doanh nghiệp yếu, thiếu vốn để
phát triển sản xuất kinh doanh …
Một trong những yếu tố quan trong nhất định đến thành công hay thất bại của
doanh nghiệp nhỏ và vừa chính là nguồn nhân lực nói chung hay nguồn nhân lực
quản lý nói riêng. Thực tế đã chứng minh, một doanh nghiệp dù có nguồn tài chính
dồi dào, máy móc thiết bị hiện đại nhưng nếu không phát huy được nhân tố con
người đặc biệt là những người quản lý trong doanh nghiệp thì cũng không mang lại
thành công. Nguồn nhân lực quản lý không trực tiếp tham gia vào quá trình sản
xuất kinh doanh nhưng lại đóng vai trò rất quan trọng trong việc lập kế hoạch, tổ
chức điều hành, kiểm soát và điều chỉnh các hoạt động của doanh nghiệp đúng
hướng. Các quyết định quản lý đúng sẽ tạo
đà
cho
sự phát triển của doanh nghiệp
và ngược lại sẽ làm cho doanh nghiệp điêu đứng và có thể đứng t
rên
bờ
vực bị
phá sản. Để làm tốt công việc của bản thân đòi hỏi người quản lý phải luôn nỗ
lực, hết lòng vì công việc và không ngừng nâng cao trình độ để thích ứng với sự
thay đổi của môi trường.
Chính vì vai trò quan trọng, có tính chất quyết định của NNLQL trong doanh
nghiệp, nên em lựa chọn đề tài: “ Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quản lý
cho các DNNVV trên địa bàn TP.Hà Nội” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo
hướng dẫn PGS.TS. Ngô Thắng Lợi và Th.S Ngô Quốc Dũng về sự hướng dẫn
nhiệt tình và những ý kiến đóng góp để chuyên đề được hoàn thành tốt hơn.
SV: Tạ Thị Thu Thảo
Lớp: Kế hoạch 49a
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:
PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
CHƯƠNG 1
SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN
LỰC QUẢN LÝ CHO CÁC DNNVV
1.1. Chất lượng nguồn nhân lực quản lý
1.1.1. Nguồn nhân lực quản lý
1.1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Trong doanh nghiệp thì nguồn nhân lực là lực lượng lao động của từng doanh
nghiệp, là số người có trong danh sách của doanh nghiệp do doanh nghiệp trả
lương. “Nguồn nhân lực của doanh nghiệp được hình thành trên cơ sở của các cá
nhân có vai trò khác nhau và được liên kết với nhau theo những mục tiêu nhất định.
Nguồn nhân lực khác với các nguồn lực khác của doanh nghiệp do chính bản chất
của con người. Nhân viên có các năng lực, đặc điểm cá nhân khác nhau, có tiềm
năng phát triển, có khả năng hình thành các nhóm hội, các tổ chức công đoàn bảo vệ
quyền lợi của họ, có thể đánh giá và đặt câu hỏi đối với hoạt động của các quản trị
gia, hành vi của họ có thể thay đổi phụ thuộc vào chính bản thân họ hoặc sự tác
động của môi trường xung quanh”.
Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp: được hiểu là tất cả người lao động có
trong doanh nghiệp. Như vậy, nguồn nhân lực của một doanh nghiệp bao gồm toàn
bộ những người có quan hệ với doanh nghiệp, trực tiếp tham gia vào các hoạt động
sản xuất kinh doanh cũng như các hoạt động quản lý, điều hành của doanh nghiệp,
quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nguồn nhân lực là yếu tố
cấu thành nên doanh nghiệp, quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Cơ cấu nguồn nhân lực trong doanh nghiệp bao gồm:
- Cán bộ quản lý (Nguồn nhân lực quản lý)
- Nhân viên: là lực lượng lao động gián tiếp làm việc trong các phòng ban
nhưng không thực hiện chức năng quản lý trong doanh nghiệp
- Công nhân: là lực lượng lao động trực tiếp tham gia vào hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.1.2. Khái niệm nguồn nhân lực quản lý
“Người thuộc về bộ máy điều hành doanh nghiệp là lao động gián tiếp,lao
động quản lý”. Quan điểm này đã đồng nhất lao động gián tiếp và lao động quản lý.
“NNLQL được hiểu là tất cả những nguồn nhân lực hoạt động trong bộ máy quản lý
và tham gia vào việc thực hiện các chức năng quản lý”
(1)
. Trên cơ sở này thì
SV: Tạ Thị Thu Thảo
Lớp: Kế hoạch 49a
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:
PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
NNLQL bao gồm giám đốc, phó giám đốc, trưởng phòng, phó phòng trong bộ máy
quản lý của công ty.
“NNLQL là những người thực hiện chức năng quản lý nhằm đảm bảo cho tổ
chức đạt được những mục đích đặt ra với kết quả và hiệu quả cao”.
NNLQL là một lực lượng người lao động thực hiện chức năng quản lý các
hoạt động sản xuất kinh doanh và thực hiện chức năng quản lý nói chung. Trong
doanh nghiệp, người làm công tác quản lý được gắn kết với nhau bằng hệ thống các
mục đích, mục tiêu chung là quản lý tốt đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp đạt hiệu quả nhất, có cùng nhiệm vụ quản lý hoạt động sản xuất
kinh doanh, cùng chịu sự ràng buộc bởi các quy tắc quản lý hành chính của Nhà
nước, nội quy, quy chế hoạt động của doanh nghiệp.
NNLQL là người nắm giữ một vị trí và thực hiện những chức năng quản lý
trong bộ máy tổ chức của doanh nghiệp, bao gồm : cán bộ quản lý cấp cao (tổng
giám đốc, phó tổng giám đốc), cán bộ quản lý cấp trung ( cán bộ từ cấp phó phòng
và giám đốc các bộ phận) và những cán bộ cấp quản lý cơ sở ( quản đốc, đội
trưởng, giám sát) đảm nhân các chức năng quản lý , giám sát, điều hành hoạt động
của các nhân viên”
(2)
Nguồn nhân lực quản lý được chia thành 3 cấp:
(1) Nguồn nhân lực quản lý cấp cao: Là người quản lý chung tất cả các hoạt
động của doanh nghiệp. Người quản lý ở cấp này gọi là nhà quản lý cao cấp
nhất. Nhà quản lý cấp cao có nhiệm vụ hoạch định các mục tiêu, phạm vi
hoạt động của doanh nghiệp, xác định những vấn đề khó khăn lớn và những
nguyên nhân để tìm cách giải quyết.
(2) Nguồn nhân lực quản lý cấp trung: Là những người quản lý đứng trên những
nhà quản lý cấp cơ sở và dưới các nhà quản lý cấp cao. Nhà quản lý cấp
trung tiếp nhận các chiến lược, chính sách từ cán bộ quản lý cấp cao, biến
chúng thành các kế hoạch, mục tiêu cụ thể để chuyển đến nhà quản lý cấp
dưới thực hiện.
(3) Nguồn nhân lực quản lý cấp cơ sở: Là những người quản lý ở cấp bậc cuối
cùng trong hệ thống cấp bậc quản lý. Nhiệm vụ chủ yếu là quản lý quá trình
làm việc, các hoạt động cụ thể hàng ngày của công nhân, nhân viên trong
phòng. Hướng dẫn, đôn đốc, điều khiển nhân viên, công nhân trong các công
việc hàng ngày để đạt mục tiêu chung của doanh nghiệp
SV: Tạ Thị Thu Thảo
Lớp: Kế hoạch 49a
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:
PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
Hình 1.1: Kim tự tháp về 3 cấp quản lý trong doanh nghiệp
NNLQL được nghiên cứu trong chuyên đề gồm những người có một vị
trí và thực hiện những chức năng quản lý nhất định trong bộ máy doanh nghiệp
gồm: cán bộ quản lý cấp cao (tổng giám đốc, phó tổng giám đốc), cán bộ quản lý
cấp trung (cán bộ từ cấp phó phòng và giám đốc các bộ phận) và những cán bộ cấp
quản lý cơ sở (quản đốc, đội trưởng, giám sát). Do vậy, khi nói đến cán bộ quản lý
chính là đang đề cập đến NNLQL trong doanh nghiệp.
1.1.1.3. Các yếu tố cấu thành NNLQL trong doanh nghiệp
a) Quy mô và cơ cấu NNLQL trong doanh nghiệp
Đặc trưng cơ bản trước tiên của một nguồn nhân lực chính là số lượng
NNLQL. Đối với DN nó thể hiện ở số lượng, cơ cấu tuổi, cơ cấu giới tính, trình độ
và sự phân bố của NNL tại các bộ phận trong DN ấy nhằm thực hiện các mục tiêu
nhiệm vụ của tổ chức trong giai đoạn hiện tại và tương lai.
Chính vì vậy, vấn đề đảm bảo cho DN có đủ số lượng cán bộ nhân viên với
cơ cấu phù hợp là vấn đề cần được quan tâm đúng mức.
Việc đảm bảo cho DN đủ về số lượng cán bộ nhân viên và cơ cấu phù hợp
phụ thuộc vào việc hoạch định, thu hút, tuyển chọn nguồn nhân lực đảm bảo cho
DN thực hiện thành công chiến lược, kế hoạch sản xuất, kinh doanh do mình đề ra.
(1)Theo TS. Vũ Thị Uyên- Khoa quản trị nhân lực- trường ĐH KTQD
(2) Theo Tiến sĩ Trần Thị Vân Hoa, Viện trưởng Viện Quản trị kinh doanh, Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
SV: Tạ Thị Thu Thảo
Lớp: Kế hoạch 49a
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:
PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
Hoạch đinh nguồn nhân lực là một tiến trình triển khai thực hiện các kế
hoạch và các chương trình nhằm đảm bảo rằng tổ chức sẽ có đủ số lượng lao động
và bố trí đúng công việc.
Để có thể tuyển chọn được đúng người đúng việc, trước hết công ty phải căn
cứ vào chiến lược. kế hoạch sản xuất kinh doanh và thực trạng sử dụng nhân viên
trong công ty, nhằm xác định những công việc nào cần tuyển bao nhiêu người và
các tiêu chuẩn, yêu cầu đặt ra đối với các ứng cử viên.
b) Chất lượng NNLQL trong doanh nghiệp
Chất lượng NNLQL được cấu thành bởi 3 yếu tố: Thể lực, trí lực và đạo đức,
tác phong làm việc
Thể lực:
Xuất phát từ nhu cầu của quá trình sản xuất kinh doanh hàng hóa và dịch vụ,
NNLQL của các DNNVV phải đảm bảo đáp ứng tốt về mặt thể lực, có sức chịu
đựng dẻo dai trong điều kiện liên tục, kéo dài với yêu cầu đảm bảo an toàn tuyệt
đối. Các DNNVV cần xây dựng những tiêu chuẩn phù hợp với ngành nghề kinh
doanh của mình như: ban hành quy chế tuyển dụng. DN nên tiến hành khám sức
khỏa hàng năm cho tất cả cán bộ công nhân viên và quan tâm đúng mức đến việc
chăm sóc và bồi dưỡng sức khỏe cho lực lượng lao động của mình.
Trí lực (Trình độ chuyên môn và nghiệp vụ):
Trình độ chuyên môn và nghiệp vụ luôn được quan tâm hàng đầu, nó ảnh
hưởng rất lớn đến hiệu quả công việc và kết quả kinh doanh.
Một người NNLQL có sức khỏe tốt thôi chưa đủ mà trong xu thế hội nhập hiện nay
còn đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn cao. Trình độ chuyên môn cao thể hiện ở
các mặt sau:
Thứ nhất: nắm được kiến thức cơ bản về kinh tế và nghiệp vụ kinh doanh
cũng như kiến thức chuyên ngành.
Thứ hai: có kỹ năng trong quản lý và điều hành, tiếp cận với những kỹ năng
kinh doanh hiện đại như: marketing, thị trường chứng khoán…
Thứ ba: có kinh nghiệm và nghệ thuật quản lý, có khả năng nắm bắt nhu cầu thị
trường, có khả năng dự đoán các yếu tố tác động đến kinh doanh và xử lý kịp thời các tình
huống. Thứ bốn: nhạy cảm với tình hình hoạt động kinh doanh của DN.
Trình độ chuyên môn của NNLQL DN cao đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của
đơn vị đạt hiệu quả cao, thu lợi nhuận lớn, làm lợi cho xã hội và đất nước. Đó là sự
kết hợp giữa kiến thức với kinh nghiệm, khoa học với nghệ thuật trong kinh doanh.
Đạo đức và tác phong làm việc:
SV: Tạ Thị Thu Thảo
Lớp: Kế hoạch 49a
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:
PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
Đạo đức và tác phong là việc của NNLQL cơ bản được hình thành trên những quan
điểm, sở thích, thói quen trong cuộc sống và nó là cơ sở tạo nên những quyết định
quan trọng, chỉ đạo hành vi, ứng xử của các nhân con người trong công việc và
cuộc sống. Qua nhiều cuộc khảo sát cho thấy, những nhóm người có trình độ đặc
thù công việc, tuổi tác khác nhau có những suy nghĩ và theo đuổi những giá trị khác
nhau. Giữa giá trị và sự ứng xử có những mối quan hệ rất rõ rệt. Giá trị mà người đó
theo đuổi thường được thể hiện qua hành vi ứng xử trong công việc và trong cuộc
sống của họ. Ngược lại ứng xử thường thể hiện giá trị và mức độ trưởng thành chín
chắn về phẩm chất cá nhân.
1.1.2. Chất lượng nguồn nhân lực quản lý
1.1.2.1. Khái niệm và vai trò của chất lượng nguồn nhân lực quản lý
a) Khái niệm
Chất lượng nguồn nhân lực: là khái niệm để chỉ một con người, một người lao
động cụ thể có trình độ lành nghề (về chuyên môn, kỹ thuật) ứng với một ngành
nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định
(Đại học, trên đại học, cao đẳng, THCN); có kỹ năng lao động giỏi và có khả năng
thích ứng nhanh với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất; có sức
khỏe và phẩm chất tốt, có khả năng vận dụng sáng tạo những tri thức, những kỹ
năng đã được đào tạo vào quá trình lao động sản xuất nhằm đem lại năng suất, chất
lượng và hiệu quả cao.
Chất lượng nguồn nhân lực quản lý:
Chất lượng của NNLQL trong doanh nghiệp được thể hiện ở đức và tài. Đức và
tài là hai tiêu chuẩn cơ bản nhất của người cán bộ quản lý. Chất lượng của cán bộ quản
lý trước hết được thể hiện cụ thể qua kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, phải có đạo đức trong nghề nghiệp cũng như trong cuộc sống, biết gắn kết lợi
ích tập thể và lợi ích cá nhân một cách hài hòa, am hiểu và tuân thủ pháp luật của Nhà
nước trong quá trình điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
b) Nội dung của chất lượng NNLQL:
Chất lượng NNLQL là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất
bại của doanh nghiệp. Chất lượng NNLQL bao gồm các yếu tố về thể lực; trí lực;
phẩm chất đạo đức, thái độ và tác phong làm việc.
Đánh giá chất lượng NNLQL cần đánh giá nhiều mặt, tuy nhiên, trong phạm
vi đề tài này, em chỉ tập trung đi sâu vào đánh giá yếu tố trí lực của NNLQL.
Trong các yếu tố chất lượng của NNL thì yếu tố trí lực là quan trọng nhất.
Khi tham gia vào quá trình sản xuất, con người không chỉ sử dụng lao động chân
SV: Tạ Thị Thu Thảo
Lớp: Kế hoạch 49a
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:
PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
tay mà còn phải sử dụng lao động trí óc. Như vậy, bên cạnh sức khỏe là trí lực- yếu
tố không thể thiếu được của chất lượng NNL. Trí lực ngày càng đóng vai trò quyết
định trong sự phát triển NNL. Với sự phát triển như vũ bão của khoa học công
nghệ, yêu cầu người lao động phải có trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn nhất
định, đặc biệt là người làm quản lý trong doanh nghiệp thì mới có khả năng tiếp thu
và áp dụng công nghệ mới, làm việc chủ động, linh hoạt và sáng tạo, sử dụng các
công cụ lao động hiện đại, tiên tiến.
Trí lực có thể thay đổi, có thể phát triển, được khai thác và sử dụng ở các
mức độ khác nhau. Một người có được hoặc có thể đạt được trí lực tốt nhất. Trí lực
có được là trí lực đã hình thành và tích lũy được, không kể nó được sử dụng ở mức
độ nào cho công việc hiện tại. Trí lực có thể đạt được tốt nhất nếu như được tạo
những điều kiện thuận lợi phát triển. Nghĩa là hiện tại một người nào đó có trí lực ở
một mức độ nhất định, nhưng nếu được đào tạo, học tập, và tích lũy, tạo điều kiện
thuận lợi thì người đó có thể đạt được năng lực cao hơn, thậm chí có thể đạt được ở
mức độ không ngờ.
Tuy nhiên, trí lực của các nhân được sử dụng trong công việc hiện tại như
thế nào là điều đáng quan tâm. Có thể trên thực tế, trí lực của cá nhân chỉ được sử dụng ở
một mức độ nhất định so với khả năng tốt nhất của cá nhân đó, hoặc chưa có điều kiện
để phát triển tới một mức độ tối đa. Có thể do bản thân người đó cũng có thể do yếu tố
khách quan từ doanh nghiệp, từ xã hội, làm hạn chế tới việc làm hạn chế tới việc sử dụng
và phát triển trí lực của cá nhân con người. Như vậy điều quan trọng là cần có sự tác
động từ chủ quan cá nhân, từ có yếu tố khác quan để có thể hình thành, nâng cao, khai
thác, sử dụng trí lực của mỗi có nhân ở một mức độ tốt nhất.
c) Tiêu chí đánh giá chất lượng NNLQL về mặt trí lực
Trình độ văn hóa
Trình độ văn hóa của NNLQL là những hiểu biết của CBQL đối với những
kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã hội, những khả năng về tri thức và kỹ năng
của CBQL để tiếp thu những kiến thức cơ bản, thực hiện những việc đơn giản để
duy trì cuộc sống.
Trình độ văn hóa được cung cấp thông qua hệ thống giáo dục chính quy, qua
quá trình học tập suốt đời của mỗi cá nhân.
Trình độ văn hóa của NNLQL được đánh giá qua chỉ tiêu sau:
- Tỷ lệ CBQL Tốt nghiệp THPT, THCS, Tiểu học so với tổng số CBQL
SV: Tạ Thị Thu Thảo
Lớp: Kế hoạch 49a
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:
PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
Các cấp học phổ thông trang bị những kiến thức cơ bản và phát triển tư duy,
tạo nền tảng để người học có thể tiếp tục tiếp thu những kiến thức và kỹ năng nghề
nghiệp. Những kiến thức và khả năng tư duy của cấp học phổ thông có vai trò quan
trọng để tiếp thu những kỹ năng về nghề nghiệp chuyên môn.
Trình độ văn hóa là chỉ tiêu cơ bản phản ánh chất lượng NNL nói chung và chất
lượng NNLQL nói riêng và nó tác động mạnh đến sự tồn tại và phát triển của DN.
Trình độ văn hóa cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh
chóng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong quá trình sản xuất kinh doanh.Chỉ tiêu
này được sử dụng để đánh giá trình độ ở mức tối thiểu của CBQL.
Trình độ chuyên môn
Trình độ chuyên môn kỹ thuật là kiến thức và kỹ năng cần thiết để đảm đương các
chức vụ trong quản lý, kinh doanh và các hoạt động nghề nghiệp.
CBQL làm việc trong một ngành nào đó thì không thể không biết gì về chuyên môn
kỹ thuật của ngành đó, tuy nhiên các cấp quản lý khác nhau người ta thường đòi hỏi
các mức độ hiều biết kiến thức kỹ năng chuyên môn khác nhau. Cấp quản lý càng
cao thì càng đòi hỏi kỹ năng quản lý cao, trong khi kiến thức và kỹ năng chuyên
môn kỹ thuật chỉ yêu cầu ở một mức độ nhất định.
Đánh giá trình độ chuyên môn kỹ thuật của NNLQL, người ta dùng các chỉ tiêu sau:
• Tỷ lệ cán bộ quản lý đã qua đào tạo so với tổng số cán bộ quản lý đang làm việc
Tỷ lệ cán bộ quản lý được đào tạo so với tổng số cán bộ quản lý đang làm việc
là % số cán bộ quản lý đã qua đào tạo: từ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học, sau
đại học so với cán bộ quản lý đang làm việc. Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khái
quát về trình độ chuyên môn kỹ thuật của NNLQL
• Tỷ lệ cán bộ quản lý được đào tạo theo cấp bậc:
Tỷ lệ cán bộ được đào tạo theo cấp bậc là % cán bộ có trình độ chuyên môn kỹ
thuật (trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, trên đại học) so với tổng số cán
bộ quản lý đã qua đào tạo. Chỉ tiêu này đánh giá một các cụ thể nhất trình độ
chuyên môn kỹ thuật của NNLQL.
Các kỹ năng: Kỹ năng quản lý, kỹ năng ứng dụng CNTT,kỹ năng sử dụng
ngoại ngữ
- Kỹ năng quản lý
SV: Tạ Thị Thu Thảo
Lớp: Kế hoạch 49a
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:
PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
Có rất nhiều tiêu chí để đánh giá xem một CBQL có kỹ năng quản lý tốt hay
không, tuy nhiên để đo lường nó là rất khó. Do vậy trong đề tài này, em sử dụng
tiêu chí: số năm làm công việc quản lý để đánh giá. Khi quá trình làm quản lý càng
lâu thì kinh nghiệm quản lý cũng tăng. Kinh nghiệm quản lý biểu hiện số lần làm
công việc đó lặp lại theo thời gian, độ lớn của kinh nghiệm tỷ lệ thuận với mức độ
lặp lại các hoạt động trong công việc mà họ đã trải qua. Một người nào đó có trình
độ chuyên môn cao nhưng chưa chắc người đó đã biết quản lý.
Kiến thức và kỹ năng chuyên môn kỹ thuật ngày càng được hoàn thiện, phát
huy và phát triển theo thời gian làm việc, do ngày càng được trang bị bồi dưỡng
kiến thức, kinh nghiệm ngày càng được tích lũy, thử thách, sáng tạo, năng động và
linh hoạt trong suốt quá trình làm việc của CBQL Những người càng có nhiều
kinh nghiệm thì sự chín chắn trong công việc càng lớn và hiệu quả làm việc cao
hơn. Những người có khả năng và kinh nghiệm làm việc càng cao thì càng quan
tâm thỏa mãn nhu cầu được tôn trọng và tự chủ trong công việc. Để phát
huy
được
khả năng và kinh nghiệm cần giao công việc phù hợp với khả năng, sở
trường, phân định trách nhiệm rõ ràng để phát huy hết những lợi thế của người
quản lý doanh nghiệp.
Chỉ tiêu này phản ánh kinh nghiệm trong thực tế của các cán bộ quản lý, đặc
biệt là những cán bộ quản lý không được qua đào tạo ở trường lớp nhưng nhờ có
kinh nghiệm quản lý lâu năm mà có trình độ tương đương với trình độ trung cấp trở
lên được lên làm cán bộ quản lý trong doanh nghiệp.
- Đánh giá kỹ năng ứng dụng CNTT trong quản lý:
Máy tính ngày nay đã trở thành công cụ không thể thiếu được trong mọi lĩnh
vực, đặc biệt khi mà toàn cầu hóa diễn ra nhanh chóng, nguồn thông tin, kiến thức
gì cũng có thể tìm được trên Internet. Người ta có thể truyền dữ liệu, có thể khai
thác thông tin từ mọi nơi, có thể quản cáo bán hàng và hội họp trên Internet… Để
đáp ứng những yêu cầu đó thì đòi hỏi CBQL phải nắm bắt và sử dụng thành thạo
các chương trình trên máy tính, ít nhất là phục vụ hiệu quả cho công việc hàng
ngày, và để phục vụ cho công ty.
Trong quá trình hội nhập quốc tế và cạnh tranh toàn cầu, khai thác hiệu quả
các công cụ CNTT không chỉ nâng cao năng lực chỉ đạo điều hành của doanh
nghiệp mà còn cải thiện khả năng cạnh tranh và tạo ra các cơ hội mới cho doanh
nghiệp.
Một số chỉ tiêu đánh giá khả năng ứng dụng CNTT trong công việc của các
CBQL như:
SV: Tạ Thị Thu Thảo
Lớp: Kế hoạch 49a
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:
PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
- Tỷ lệ CBQL sử dụng máy tính thường xuyên trong công việc
- Tỷ lệ CBQL ứng dụng các phần mềm vào quản lý, điều hành DN
- Đánh giá trình độ ngoại ngữ của CBQL
Phát triển hội nhập đang ngày càng mở rộng cả quy mô và chất lượng trên
phạm vi toàn cầu. Việc sử dụng một ngôn ngữ phổ biến để có thể giao tiếp, đàm
phán, tra cứu, tham khảo tài liệu, ký kết các hợp đồng kinh tế, tìm hiểu về môi
trường luật pháp, văn hóa, kinh tế của nước ngoài khi mở rộng thị trường, ngay cả
khi sử dụng máy vi tính cũng cần có một trình độ ngoại ngữ nhất định, là một yêu
cầu nhất thiết đối với CBQL. Điều này đòi hỏi CBQL ngày càng thông thạo các
ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng anh để đáp ứng được yêu cầu của công việc.
Tiêu chí đánh giá: Tỷ lệ CBQL biết các loại ngoại ngữ so với tổng số CBQL
d) Vai trò của chất lượng NNLQL
Một doanh nghiệp dù có nguồn tài chính dồi dào, máy móc thiết bị hiện đại
nhưng nếu không phát huy được nhân tố con người đặc biệt là những người quản lý
trong doanh nghiệp thì cũng không mang lại thành công, điều này được thực tiễn
kiểm nghiệm và chứng minh.
Không phải ngẫu nhiên mà các vấn đề nâng cao chất lượng NNLQL, khai
thác và sử dụng NNL thế nào cho hiệu quả nhất được đưa ra thảo luận, nó không
chỉ thôi thúc họ trong một giai đoạn nhất định mà trong suốt quá trình sản xuất kinh
doanh của tất cả các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển. Tự bản thân nó đã
khẳng định vai trò của chất lượng NNLQL đối với hoạt động của doanh nghiệp.
Chất lượng NNLQL quyết định chiến lược của doanh nghiệp
Trên cơ sở phân tích đánh giá môi trường kinh doanh, các lực lượng cạnh
tranh và tiềm lực thực tế của doanh nghiệp. Những cán bộ quản lý cấp cao bằng
kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm và các phương pháp khác nhau tiến hành dự báo
các xu hướng, cá chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật, xã hội… có liên quan đến hoạt động của
doanh nghiệp làm căn cứ để xây dựng chiến lược của doanh nghiệp.
Chiến lược chỉ ra cho doanh nghiệp cần đi đến đâu? Đi như thế nào? Đồng thời
chiến lược của doanh nghiệp nhất thiết phải được cụ thể hóa bằng các chiến lược
bộ phận đồng bộ để thực hiện được các mục tiêu chiến lược đã đề ra. Đây là vai trò
hàng đầu của cán bộ quản lý doanh nghiệp cấp cao mà giám đốc doanh nghiệp là
người quyết định cuối cùng về hoạch định, điều chỉnh và thực hiện chiến lược của
doanh nghiệp. Chiến lược phát triển doanh nghiệp thể hiện tầm nhìn, khả năng dự
báo và tính thực tiễn của giám đốc và đội ngũ cán bộ quản lý trong doanh nghiệp.
Để làm được những điều trên thì cần phải có một đội ngũ cán bộ quản lý có chất
lượng cao.
SV: Tạ Thị Thu Thảo
Lớp: Kế hoạch 49a
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:
PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
Chất lượng NNLQL quyết định kết quả thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp.
Hoạch định chiến lược là công việc hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp,
nhưng nếu chiến lược không được triển khai tổ chức thực hiện bằng sự điều hành
sát sao, năng động thì những định hướng chiến lược đó vẫn chỉ nằm trên giấy. Do
đó, không phải ai khác ngoài đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp lại đóng vai trò
quyết định đối với kết quả điều hành tổ chức thực hiện chiến lược của doanh
nghiệp. Sự điều hành đó thể hiện trên một số mặt chủ yếu:
+ Là người cụ thể hóa chiến lược của DN thành các mục tiêu, các kế hoạch
và giải pháp cụ thể để truyền đạt đến những cá nhân, những bộ phận và toàn DN
thấu hiểu mục tiêu chung của DN, kế hoạch hành động của từng bộ phận, cung cấp
cho mọi thành viên trong DN những thông tin cần thiết để định hướng cho hoạt
động của tất cả mọi người cùng hướng và việc thực hiện mục tiêu chung của DN.
+ Sau khi đã hoạch định chiến lược, cán bộ quản lý DN là người đầu mối
thường xuyên thu thập, xử lý thông tin có liên quan đến hoạt động của DN từ bên
ngoài để phân tích, dự báo tác động của môi trường kinh doanh để kịp thời đưa ra
các quyết đinh quản lý nhằm điều chỉnh các giải pháp thực hiện hoặc các chiến
lược của từng bộ phận.
+ Cán bộ quản lý xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức, bố trí và sử dụng
lao động. Để thực hiện mục tiêu của DN thì toàn bộ các nhiệm vụ cần thiết của DN
phải được phân công đến các đơn vị cơ sở, đến cá nhân có thể thực hiện chúng tốt
nhất.
+ Cán bộ quản lý là những người tác động đến con người sao cho họ đóng
góp tự nguyện và nhiệt tình vào việc thực hiện mục tiêu của DN.
Là người phối hợp các chiến lược của các cá nhân thành chiến lược của DN,
các mục đích của cá nhân hài hòa với mục đích của DN, khả năng kinh doanh của
cá nhân thành khả năng kinh doanh của DN. Muốn thực hiện được vai trò kết hợp
tốt thì cán bộ quản lý phải là những người có năng lực chuyên môn, am hiểu thực
tiễn, có uy tín, đồng thời họ phải có nghệ thuật thu hút, thuyết phục và sử dụng có
hiệu quả các động lực thúc đẩy để khuyến khích nhân viên trong phạm vi có thể
của DN.
Chất lượng NNLQL có vai trò quan trọng trong việc tổ chức sản xuất kinh
doanh trong doanh nghiệp
Cho dù doanh nghiệp là một doanh nghiệp sản xuất hay một doanh nghiệp
thương mại thì kết quả mong muốn của quá trình lao động cũng vẫn là lợi nhuận mà
nó mang lại.
SV: Tạ Thị Thu Thảo
Lớp: Kế hoạch 49a
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:
PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
Đối với doanh nghiệp thương mại, dù họ kinh doanh hàng hóa hay dịch vụ,
thì vấn đề vẫn phải làm sao để bán cho nhiều sản phẩm và có lãi. Một điều quan
trọng đối với doanh nghiệp này là phải có chữ tín, phải có thái độ thân thiện với
khách hàng, khi đó vai trò của các nhà quản lý cũng có thể là trực tiếp trao đổi với
khách hàng và cũng có thể là gián tiếp đào tạo nhân viên của mình làm sao để kinh
doanh đạt hiệu quả tốt nhất. Để đạt được những điều đó thì cần có phải có đội ngũ
cán bộ quản lý năng động, hiểu biết, có kỹ năng và kinh nghiệm.
Khi một doanh nghiệp áp dụng dây chuyền hiện đại, với máy móc thiết bị
mới, nó đòi hỏi người sử dụng cũng phải có trình độ chuyên môn cao mới có thể
vận hành được.
Xét về năng suất lao động, ta thấy rằng với các yếu tố đầu vào là như nhau, điều
kiện vận hành sản xuất như nhau, thì nơi nào có NNL chất lượng cao sẽ cho năng suất cao
hơn, sẽ tạo ra được sự khác biệt hóa trong sản phẩm và sẽ chiến thắng.
Chất lượng NNLQL cao sẽ tổ chức tốt đội ngũ lao động trong doanh nghiệp
đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, bố trí hợp lý, cân đối lao động giữa các bộ
phận đảm bảo quan hệ bền vững trong tổ chức, hoạt động ăn khớp, nhịp nhàng và
hoàn thành tốt mục tiêu đề ra
Chất lượng NNLQL cao sẽ tạo ra bầu không khí, văn hóa tốt lành trong
doanh nghiệp.
Mỗi cơ quan tổ chức đều có bầu không khí văn hóa riêng. Trong mỗi doanh
nghiệp có những hệ thống những khuôn mẫu có giá trị, các nghi thức, thực tiễn tất
cả đều phát triển theo thời gian. Tất cả cá nhân trong doanh nghiệp đều cần có ý
thức, góp phần tạo bầu không khí vui vẻ, thân thiện với đồng nghiệp. Bầu không khí
ảnh hưởng đến tâm lý của tất cả lao động và ảnh hưởng sự hoàn thành công tác
trong khắp tổ chức, ảnh hướng tới khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Nhưng trước
hết, bầu không khí văn hóa của doanh nghiệp được hình thành và tiến triển từ
những nhà quản lý, chủ yếu nảy mầm từ những thứ họ làm chứ không phải từ
những gì họ nói. Để tạo một bầu không khí thân thiện, văn hóa doanh nghiệp tốt
đẹp thì trước hết cần có các cán bộ quản lý phải là những người biết quan tâm đến
nhân viên, lắng nghe và thấu hiểu cấp dưới của mình.Các nhà quản lý cần tạo cho
các nhân viên cấp dưới một tâm lý thoải mái -là yếu tố chính nâng cao chất lượng
công việc. Để tạo ra những tiền đề trên, chỉ có nguồn nhân lực quản lý có chất
lượng cao mới có thể làm được.
Vậy để tạo văn hóa doanh nghiệp tốt đẹp trước hết là nhờ các nhà quản lý
chất lượng cao, sau đó là chất lượng nhân viên, người lao động hay giá trị của các
SV: Tạ Thị Thu Thảo
Lớp: Kế hoạch 49a
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:
PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
thành viên cấu thành NNL với những đặc điểm về thể lực, trí lực, phẩm chất đạo
đức, tác phong làm việc và sinh hoạt của họ.
1.1.2.2. Nâng cao chất lượng NNLQL ở các DNNVV
a) Khái niệm:
Nâng cao chất lượng của NNLQL được hiểu là quá trình giáo dục các giá trị
và phẩm chất, trang bị kiến thức, kỹ năng chuyên môn, kỹ năng quản lý sâu rộng và
thành thạo dưới nhiều hình thức, sử dụng thành thạo và tạo mọi điều kiện để cán bộ
quản lý có thể phát huy cao nhất khả năng làm việc một cách sáng tạo, hiệu quả và
hiệu suất trong công việc
Điều này cũng có nghĩa phải tăng cường các kiến thức và kỹ năng ở trình độ
cao hơn, rộng hơn, sâu hơn tức là nâng cao năng lực cá nhân cho cán bộ, mặt khác
phải tạo điều kiện để nâng cao khả năng làm việc thực tế của cán bộ nhằm khai thác
triệt để năng lực tốt nhất của họ giúp DN sản xuất kinh doanh ngày càng có kết quả
cao hơn.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quản lý trong các DNNVV là quá trình
tạo ra sự biến đổi theo chiều hướng tích cực chất lượng NNLQL với việc nâng cao
hiệu quả sử dụng chúng nhắm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển của
DNNVV
Cũng có thể hiểu: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quản lý trong các
DNNVV là tổng thể các hình thức, phương pháp, chính sách và biện pháp nhằm
nâng cao năng lực quản lý để đáp ứng về NNLQL cho sự phát triển của DNNVV.
b) Sự cần thiết nâng cao chất lượng NNLQL trong các DNNVV
Doanh nghiệp muốn đạt được kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh ngày càng
cao trong quá trình biến đổi của xã hội ngày càng sâu sắc, thì không thể duy trì một
đội ngũ lao động nói chung và đội ngũ cán bộ quản lý nói riêng có năng lực và chất
lượng yếu kém . Sự tồn tại và phát triển của DN phụ thuộc cơ bản vào lao động mà
trước hết là các cán bộ quản lý. Vì vậy cần phải xây dựng, duy trì và không ngừng
nâng cao chất lượng của đội ngũ lao động cũng như các cán bộ quản lý. Sự cần thiết
phải nâng cao chất lượng NNLQL được thể hiện thông qua một số lý do cụ thể sau:
(1) Đặc điểm các DNNVV
- Phần lớn DNNVV là doanh nghiệp có quy mô vốn và lao động nhỏ.
Đặc điểm này làm cho các DNNVV gặp khó khăn trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh cũng như nâng cao chất lượng NNL. DNNVV luôn thiếu nguồn
vốn kinh doanh, trong khi đó viêc tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng chính thức
thường gặp phải nhiều khó khăn do không có đủ tài sản thế chấp khi vay vốn,
không đủ khả năng xây dựng các kế hoạch kinh doanh thuyết phục để có thể được
SV: Tạ Thị Thu Thảo
Lớp: Kế hoạch 49a
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:
PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
cho vay. Do hạn chế về tài chính làm cho các DNNVV rất khó khăc trong việc tổ
chức đào tạo. Với số lao động ít thì việc đào tạo nâng cao chất lượng NNL cũng khó
khăn do không có người chuyên trách chịu trách nhiệm thực hiện về công tác này và
nhu cầu đào tạo thường nhỏ và đa dạng cũng khó trong việc mời các tổ chức cung
cấp dịch vụ đào tạo và tổ chức đào tạo.
Tuy nhiên với quy mô lao động nhỏ, các DNNVV cũng có lợi thế là gọn nhẹ và dễ
dàng thay đổi, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Quy mô lao động nhỏ cũng góp
phần làm cho các thành viên trong doanh nghiệp hiểu nhau hơn, giúp cho các nhà
quản lý nắm bắt được hết nhu cầu của nhân viên, dễ dàng động viên chia sẻ với
nhân viên, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện công việc quản lý trong doanh
nghiệp.
- Trình độ công nghệ của các DNNVV thấp:
Phần lớn các DNNVV sử dụng công nghệ lạc hậu, năng suất thấp. Đặc biệt là
“doanh nghiệp nhỏ có công suất sản xuất lạc hậu hàng chục năm, thậm chí hàng
trăm năm so với các nước đang phát triển”. “Phần lớn các doanh nghiệp nước ta
đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình trên thế giới từ 3 đến 4 thế
hệ. Nhiều DNNVV còn đang sử dụng những thiết bị cũ kỹ mà DNNN đã loại bỏ”
Máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu làm các DNNVV có khả năng cạnh tranh kém,
năng suất lao động thấp, sản phẩm chất lượng thấp. Đây còn là nguyên nhân chính
dẫn đến ô nhiễm môi trường lao động, môi trường chung, làm ảnh hưởng xấu đến
sức khỏe người lao động và tỷ lệ tai nạn lao động gia tăng. Điều này làm cho các
DNNVV không thu hút được lao động giỏi, nhà quản lý có năng lực, và cũng khó
khăn trong việc đào tạo nâng cao trình độ nguồn nhân lực.
(2) Những yêu cầu mới đặt ra cho các DNNVV trong thời kỳ cạnh tranh, hội nhập
Các DNNVV Việt Nam muốn tồn tại và phát triển trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế thì nhiệm vụ trung tâm là phải nâng cao năng lực cạnh tranh của
các sản phẩm và dịch vụ, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường.
DNNVV cần nhận thức rõ rằng, hội nhập kinh tế quốc tế về bản chất là quá trình
vừa hợp tác, vừa đấu tranh mở rộng thị trường hàng hoá và thương nhân trong
nước vươn ra thị trường quốc tế, đồng thời tạo cơ hội tranh thủ những tiến bộ
về khoa học, công nghệ mới phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, trong đó sức cạnh tranh của các DN là yếu tố hàng đầu
quyết định đến thành công trong quá trình hội nhập đó.
Các yêu cầu đối với các DNNVV có thể xem xét trên một số khía cạnh sau:
- Đổi mới công nghệ máy móc thiết bị.
SV: Tạ Thị Thu Thảo
Lớp: Kế hoạch 49a
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:
PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
Ở Việt Nam cũng có nhiều DNNVV đã đi tiên phong trong việc đầu tư ứng
dụng công nghệ mới và đã gặt hái được nhiều thành công, trở thành những công
ty lớn chỉ trong vòng vài năm. Tuy nhiên, trình độ công nghệ nói chung của
các DNNVV Việt Nam lạc hậu từ 3-4 thế hệ so với các nước trong khu vực và
trên thế giới. Thậm chí, trình độ công nghệ của Việt Nam năm 2010 đang bị tụt
3 bậc so với năm 2009. Đây là một tín hiệu rất đáng quan tâm của các
DNNVV và Chính phủ
- Đầu tư vào các hoạt động marketing và tìm kiếm thị trường.
Đây thực sự là một yếu điểm căn bản của các DNNVV Việt Nam. Nền kinh tế
Việt Nam trải qua một thời gian dài dưới cơ chế kế hoạch hoá tập trung, không biết
đến khái niệm Marketing là gì. Do đó việc chủ động tìm kiếm thị trường, chủ
động đưa ra các chương trình marketing cho sản phẩm hàng hoá của mình chưa
là thói quen của các DNNVV. Bên cạnh đó, các kỹ năng kinh doanh khác như
kỹ năng đàm phán, kỹ năng thuyết trình và thuyết phục của các DNNVV là rất
yếu kém, không thể hiện được tính chuyên nghiệp trong kinh doanh. Không chỉ
riêng người lao động trong các DNNVV yếu kém về năng lực marketing và bán
hàng, mà bản thân các CBQL DNNVV cũng thiếu kiến thức cơ bản về các kỹ
năng đó. Chính vì vậy, đây sẽ là một yêu cầu bức xúc đối với các DNNVV về
việc đào tạo nâng cao các kỹ năng trong kinh doanh trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế.
- Đào tạo nguồn nhân lực cho các DNNVV.
Đây là một yêu cầu thời sự trong quá trình hội nhập quốc tế. Các DNNVV thường
xem nhẹ yếu tố con người trong quá trình kinh doanh. Hơn thế nữa, người lao
động trong các DNNVV thường chưa được đào tạo bài bản theo những kiến thức
và kỹ năng mà thị trường yêu cầu. Mặc dù rất nhiều người đã tốt nghiệp từ các
trường cao đẳng, đại học nhưng khả năng xử lý các vấn đề nảy sinh và các kỹ
năng cần thiết là rất yếu kém vì bản thân các trường cũng không đào tạo các kỹ
năng đó. Vì vậy, bên cạnh việc Chính phủ có các chương trình đào tạo, cập
nhật thông tin cho các DNNVV, các DN phải chủ động đào tạo đội ngũ nhân viên,
coi đầu tư vào nguồn nhân lực là một khoản đầu tư chiến lược không thể thiếu
trong quá trình kinh doanh.
- Đảm bảo nguồn tín dụng kinh doanh có hiệu quả trong quá trình hội
SV: Tạ Thị Thu Thảo
Lớp: Kế hoạch 49a
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:
PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
nhập kinh tế quốc tế.
Vốn luôn là yếu tố quan trọng trong quá trình kinh doanh, đặc biệt là các
DNNVV vì thông thường họ là những DN non trẻ trên thương trường, chưa có
nhiều kinh nghiệm, chưa có nhiều uy tín trong đối tác. Chính vì thế mà họ gặp
nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn tín dụng chính thức của các tổ chức
tài chính. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi các DNNVV phải đương đầu
với nhiều thách thức hơn, như phải nâng cao năng lực quản lý, đào tạo lại nhân
viên, nâng cấp máy móc thiết bị công nghệ để có được các sản phẩm có chất
lượng cao hơn, có tính cạnh tranh hơn trên thương trường. Do đó việc huy động
vốn và sử dụng có hiệu quả các nguồn tín dụng là một yêu cầu quan trọng đối
với các DNNVV trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
(3) Sự yếu kém của NNLQL DNNVV hiện nay ở Việt Nam
Trình độ của NNLQL trong các DNNVV nói trung còn rất yếu kém. Rất nhiều
DNNVV trong thời gian dài làm ăn thua lỗ, nợ nần kéo dài và không có khả năng
thanh toán, các DNNVV tự sinh tự diệt. Một phần do không có điều trang bị máy
móc, day truyền sản xuất hiện đại, mở rộng quy mô và cơ sở cho sản xuất, nhưng về
cơ bản là do trình độ chuyên môn và năng lực của CBQL nhất là những cán bộ cấp
cao thiếu linh hoạt, sáng tạo, kiến thức hiểu biết về kinh tế thị trường và khả năng
chậm thích nghi với môi trường kinh doanh biến động nhanh chóng.
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ thấp, vận dụng vào quá trình thực
hiện công việc kém hiệu quả.
Kiến thức về chuyên môn và nghiệp vụ được trang bị còn thiếu hụt, chưa sâu
rộng, chưa chắc chắn, nhất là kiến thức về pháp những vấn đề vượt khỏi chuyên
môn, vượt khỏi tầm hiều biết các CBQL DNNVV thường lúng túng. Đôi khi vì sự
hiểu biết yếu mà làm bừa, làm ẩu mà không biết mình đã vi phạm pháp luật gây nên
hậu quả lớn làm ảnh hưởng đến hoạt động của bộ phận và của DNNVV.
Sự hạn chế về kiến thức và kỹ năng chuyên môn, nhất là kỹ năng của nền kinh tế thị
trường và hiện đại, do vậy CBQL thường lúng túng khi ra các quyết định, các ý kiến
tham mưu cho cấp trên thường thiếu được phân tích bản chất, các ý kiến chỉ đạo cho
cấp dưới thực hiện thường thiếu cụ thể và thực tiễn. Vì vậy không ít CBQL ỉ lại cấp
trên, dựa dẫm cấp dưới. Điều đó làm cho CBQL cấp trên không yên tâm, CBQL cấp
dưới thiếu tin tưởng ảnh hưởng đến quá trình vận hành của hệ thống quản lý.
SV: Tạ Thị Thu Thảo
Lớp: Kế hoạch 49a
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:
PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
- Năng lực tổ chức và quản lý còn hạn chế
Đây có thể nói là một vấn đề nan giải nhất đối với mỗi doanh nghiệp và DNNVV
nói riêng. Một doanh nghiệp không thể tồn tại và phát triển được nếu có như bộ
máy quản lý tồi. Vì vậy để phát triển, DN phải có bộ máy quản lý có đầy đủ trình
độ, có khả năng ra các quyết định quan trọng đạt được hiệu quả cao. Tuy nhiên một
thực tế đặt ra đối với các DN ở nước ta nói chung là trình độ quản lý còn rất yếu
kém. Các nhà quản lý có trình độ cao còn chiếm tỉ lệ rất ít, và chủ yếu tập trung
trong các doanh nghiệp có qui mô lớn
Tuy nhiên, do các DNNVV luôn biểu hiện sức ì quá lớn, không chịu nâng cao trình
độ quản lý, không thúc đẩy hoạt động kinh doanh của DNNVV thậm chí nó còn là
yếu tố kìm hãm sự phát triển của DNNVV. Do đó ở mỗi DN được cho là có tiềm
năng phát triển, điều cần thiết là họ phải thay đổi tư duy và nhìn nhận hoạt động
kinh doanh một cách chiến lược và lâu dài để phát triển DN của mình về trung hạn
cũng như dài hạn.
Ở nước ta do trình độ quản lý nói chung là còn thiếu và yếu nên đội ngũ các
CBQL DNNVV chưa được đào tạo đầy đủ. Đội ngũ chủ DNNVV có những người
đã từng là công nhân viên nhà nước đứng ra lập DN. Chủ DNNVV hoạt động chủ
yếu dựa trên kinh nghiệm và các mối quan hệ thân quen.
- Khả năng ngoại ngữ và tin học yếu kém.
Rất nhiều CBQL DNNVV thường lúng túng kho phải giao tiếp bằng văn bản, viết
báo cáo, trình bày một dự án. Những thông tin thông báo cho các cấp thường thiếu
chính xác và hiệu quả. Những kỹ năng giao tiếp ứng dụng tin học và ngoại ngữ đòi
hỏi CBQL phải đạt trình độ cao, nhưng ở các CBQL DNNVV kỹ năng này rất yếu,
những CBQL cấp cơ sở trẻ tuổi, năng động tuy có kỹ năng sử dụng vi tính và ngoại
ngữ tương đối khá so với CBQL cấp cao và CBQL cấp trung, nhưng so với nhu cầu
hiện tại và tương lai thì vẫn cần phải được phát triển hơn nữa. Những hạn chế này
làm cho các DNNVV đánh mất rất nhiều cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp lớn
và doanh nghiệp nước ngoài.
Điều này cho thấy phải nhanh chóng nâng cao chất lượng của cán bộ quản lý để
hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNVV có hiệu quả cao.
c) Nội dung nâng cao chất lượng NNLQL trong các DNNVV
(1) Nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ
Trong xu thế cạnh tranh và hội nhập, năng lực chuyên môn cao là một yêu cầu hết
sức quan trọng đối với mọi CBQL nói chung và CBQL trong DNNVV nói riêng,
SV: Tạ Thị Thu Thảo
Lớp: Kế hoạch 49a
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:
PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
đồng thời dây cũng là mặt thiếu hụt mà ta phải ra sức khắc phục. Nâng cao trình độ
chuyên môn của CBQL DNNVV bao gồm:
- Tìm tòi, học hỏi để nắm bắt kiến thức về kinh tế và nghiệp vụ kinh doanh,
kiến thức chuyên ngành
- Để đứng vững và vươn ra thị trường nước ngoài trong xu hướng toàn cầu
hóa đòi hỏi người quản lý cần am hiểu luật pháp kinh doanh quốc tế. Chính mỗi
người quản lý cần phải nỗ lực tìm hiểu luật quốc tế để không bị sai lầm trong
kinh doanh vì một thực tế là một số doanh nghiệp Việt Nam thường bị kiện tụng
do có những quyết định chưa dựa trên chuẩn mực luật pháp quốc tế chẳng hạn như
việc ghi sai nhãn hàng hóa, hoặc hay bị kiện về việc bán phá giá do chúng ta
chưa có được những cơ sở lý giải rõ ràng.
- Từng bước tiếp cận với những kiến thức kinh doanh hiện đại như: marketing,
thị trường chứng khoán.
(2) Nâng cao năng lực tổ chức và quản lý
Trình độ quản lý của các DNNVV Việt Nam trong những năm vừa qua
đã có những biến chuyển tích cực. Số lượng các chủ DNNVV tham gia vào các
khoá học nâng cao năng lực quản lý đã tăng lên rất nhiều. Họ cũng đã có nhiều cố
gắng trong việc tiếp thu và học hỏi kinh nghiệm quản lý của các công ty nước
ngoài.
Theo số liệu thống kê thì có rất nhiều các ông chủ DNNVV đã từng làm
việc cho các công ty liên doanh hoặc các công ty lớn 100% vốn nước ngoài. Đây
là một trong những yếu tố tích cực tác động đến trình độ quản lý nói chung của
các chủ DNNVV. Họ sẽ có cơ hội để vận dụng các kinh nghiệm quản lý, các bí
quyết kinh doanh đã học được trong thời gian làm việc cho các công ty nước
ngoài vào các DN của mình. Tuy nhiên, nhìn chung trình độ quản lý của các
DNNVV còn rất yếu kém, lạc hậu, chưa áp dụng được các mô hình quản lý mới
của các nước tiên tiến. Do đó, đây sẽ là một yêu cầu quan trọng đối với các
DNNVV trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Năng lực tổ chức quản lý thể
hiện trên 3 mặt chủ yếu sau mà yêu cầu CBQL phải được nâng cao:
- Tổ chức và quản lý sản xuất bên trong nội bộ doanh nghiệp nhằm đảm bảo
hiệu quả quá trình tạo ra hàng hóa và dịch vụ
- Xây dựng hệ thống các mối quan hệ kinh doanh, tạo ra mang lưới cung cấp
và tiêu thụ cùng với các quan hệ liên doanh và liên kết, đại lý, khác hàng tương đối
ổn định và gắn bó.
SV: Tạ Thị Thu Thảo
Lớp: Kế hoạch 49a
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:
PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
- Tổ chức và điều hành bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh của DNNVV hở
động nhịp nhàng và đồng bộ.
Năng lực tổ chức quản lý thể hiện ở trình độ quan sát, phán đoán tình hình
diễn biến của đối tượng quản lý và của thị trường để đưa ra những quyết định kịp
thời, có đầu óc tổ chức công việc và điều phối hoạt động cấp dưới, có khả năng cảm
hóa và thu hút mọi người dưới quyền vào công việc chung và mục tiêu chung của
doanh nghiệp.
Sự phân biệt trình độ chuyên môn và năng lực tổ chức quản lý chỉ có tính
chất tương đối. Người có trình độ chuyên môn cao thì phát hiện và nhìn nhận vấn
đề một cách chuẩn xác, nhanh nhạy, như vậy có điều kiện thuận lợi để tổ chức quản
lý tốt. Tuy nhiên năng lực tổ chức quản lý còn đòi hỏi trình độ khoa học và nghệ
thuật quản lý, có năng khiếu về quản lý kinh doanh, được tích lũy và nâng cao
thông qua quá trình học tập, rèn luyện nghiêm túc, được thử thách và chắt lọc thông
qua thực tế kinh doanh trên thương trường.
(3) Nâng cao kỹ năng tin học và ngoại ngữ
- NNLQL trong các DNNVV phải nắm bắt thành thạo các chương trình trên
máy tính để có thể giải quyết được những chương trình đa dạng và phức tạp trong
kỹ thuật, trong ứng dụng, để thực hiện được hàng tỷ phép tính, hàng triệu công việc
trong thời gian cực ngắn giúp con người tiết kiệm được tiền bạc và thời gian.
- NNLQL phải am hiểu vi tính và ngoại để có thể bắt kịp với sự thay đổi của
thế giới thông qua mạng lưới thông tin toàn cầu Internet, truyền bá, thu thập thông
tin từ mọi nơi để quản cáo bán hàng, hội họp trên mạng, tìm hiểu đối tác và trau dồi
sự hiểu biết vè kiến thức, chuyên môn và văn hóa của các nước bạn.
- Sử dụng ngoại ngữ thường xuyên để nâng cao trình độ ngoại ngữ, có thể giao
tiếp, đàm phán, tra cứu tài liệu tham khảo, soạn thảo và ký kết các hợp động kinh tế,
tìm hiểu môi trường pháp luật của nước ngoài trong hội nhập. Ngay cả khi sử dụng
vi tính cũng cần phải có trình độ ngoại ngữ nhất định.
SV: Tạ Thị Thu Thảo
Lớp: Kế hoạch 49a
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:
PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC QUẢN
LÝ Ở CÁC DNNVV TRÊN ĐỊA BÀN TP HÀ NỘI
2.1. Giới thiệu khái quát về DNNVV của Hà Nội
2.1.1. Định nghĩa về DNNVV
Theo nghị đinh 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ thì Doanh nghiệp
nhỏ và vừa ( DNNVV) là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định
pháp luật, theo quy mô tổng nguồn vốn hoặc số lao động bình quân năm được chia
thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa.
Bảng 2.1: Tiêu chí phân loại DNNVV
DN siêu
nhỏ
DN nhỏ DN vừa
Số lao
động
Tổng
nguồn
vốn
Số lao
động
Tổng nguồn
vốn
Số lao
động
Nông, lâm
nghiệp và
thủy sản
10 người
trở xuống
20 tỉ
đồng trở
xuống
Từ trên 10
người đến
200 người
Từ trên 20 tỉ
đồng tới 100
tỉ đồng
Từ trên
200 người
đến 300
người
Công nghiệp
và xây dựng
10 người
trở xuống
20 tỉ
đồng trở
xuống
Từ trên 10
người đến
200 người
Từ trên 20 tỉ
đồng đến
100 tỉ đồng
Từ trên
200 người
đến 300
người
Thương mại
và dịch vụ
10 người
trở xuống
10 tỉ
đồng trở
xuống
Từ trên 10
người đến
50 người
Từ trên 10 tỉ
đồng đến 50
tỉ đồng
Từ trên 50
người đến
100 người
(Nguồn: Điều 3 – Nghị định 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ)
2.1.2. Số lượng, quy mô và lĩnh vực hoạt động các DNNVV trên địa bàn Hà Nội
2.1.2.1. Số lượng và quy mô DNNVV Hà Nội
SV: Tạ Thị Thu Thảo
Lớp: Kế hoạch 49a
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:
PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
Số lượng DNNVV Hà Nội năm 2010 thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.2: Số lượng DNNVV Hà Nội
Doanh nghiệp
Loại
hình
Công ty TNHH
25.865
Công ty CP
19.306
DN tư nhân
1.931
DN Nhà nước đang/chưa cổ phần hóa
10
Lĩnh
vực
Thương mại- Dịch vụ
37.846
Công nghiệp- Xây dựng
8.918
Nông nghiệp- Lâm nghiệp- Thủy sản
349
Quy
mô
Nhỏ
18.058
Siêu nhỏ
21.987
Vừa
7.067
Tổng
47.112
Nguồn: Báo cáo điều tra của Tổng cục thống kê.
Tính đến hết năm 2010, số DNNVV đang hoạt động trên địa bàn Hà Nội là
47.112 doanh nghiệp. Trong số các DNNVV đang hoạt động trên địa bàn Hà Nội,
thì số công ty TNHH rất cao 25.865 doanh nghiệp (với tỷ lệ 56%). Số công ty CP ở
Hà Nội tương đối lớn 19.306 doanh nghiệp (chiếm 41,2% số DN) gần bằng số công
ty TNHH cho thấy xu hướng huy động vốn cổ phần đang ngày càng phát triển
mạnh, và đang phổ biến ở Hà Nội. Còn DNTN chỉ có 1.932 doanh nghiệp (chiếm
2,23%) nhỏ hơn 10 lần công ty CP và nhỏ hơn 12 lần công ty TNHH. Số doanh
nghiệp nhà nước đang/ chưa cổ phần hóa là rất nhỏ (10 doanh nghiệp). So sánh với
TP Hồ Chí Minh thì số công ty CP ở Hà Nội cao gấp 2 lần TP Hồ Chí Minh, trong
khi ở TP Hồ Chí Minh số công ty TNHH gấp 2,5 lần Hà Nội.
Các DNNVV hoạt động trong lĩnh vực thương mại- dịch vụ với số lượng
37.846 doanh nghiệp trong tổng số 47.112 doanh nghiệp. Các doanh nghiệp công
nghiệp- xây dựng là 8.918 doanh nghiệp, chiếm tỷ lệ khoảng 19% và 349 doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp- lâm nghiệp- thủy sản, chiếm 1%. Số
liệu này cũng nói nên rằng, chủ trương 3 nhà cùng kết hợp là: Nhà doanh nghiệp,
nhà khoa học và nhà nông vẫn chưa thực sự đi vào cuộc sống. Khu vực nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản rất cần những doanh nghiệp đầu tầu dẫn dắt yếu tố kỹ thuật cho
khu vực này phát triển theo hướng sản xuất lớn thay cho sản xuất nhỏ, manh mún
như hiện nay. Có quá ít doanh nghiệp tham gia vào khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ
sản cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng là Hà Nội luôn phải
SV: Tạ Thị Thu Thảo
Lớp: Kế hoạch 49a
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:
PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
nhập khẩu lương thực từ các tỉnh khác, và đặc biệt là phải nhập khẩu gạo từ nước
ngoài, mặc dù gạo trong nước vẫn đủ đáp ứng.
2.1.2.2. Cơ cấu DNNVV Hà Nội
Cơ cấu DNNVV Hà Nội theo quy mô lao động năm 2010 được thể hiện ở bảng
dưới đây:
Bảng 2.3: Cơ cấu DNNVV Hà Nội theo quy mô lao động
DN siêu nhỏ DN nhỏ DN vừa
Tổng Dưới
5
người
Từ 5
đến 9
người
Từ 10 đến
49 người
Từ 50
đến 199
người
Từ 200
đến 299
người
Tổng số DNNVV Hà Nội
(doanh nghiệp)
47.112 6.942 19.908 17.136 2.763 363
Tỷ lệ DNNVV Hà Nội (%) 100 14,7 42,3 36,4 5,9 0,7
Tỷ lệ DNTN (%) 100 28,7 40,3 26,5 4,2 0,3
Tỷ lệ công ty TNHH (%) 100 8,5 51,6 29,8 8,2 1,3
Tỷ lệ công ty cổ phần (%) 100 8,6 42,5 28,3 18,9 1,7
Tỷ lệ DNNN đang/ chưa CP
hóa (%)
100 6,7 37,3 49,47 6,5 0,03
Nguồn: Báo cáo Sở Kế hoạch Đầu tư Hà Nội
Trong tổng số các DNNVV Hà Nội thì doanh nghiệp quy mô lao động từ 5
đến 9 người chiếm tỷ lệ cao nhất(42,3%), tiếp đó là doanh nghiệp có quy mô lao
động 10 đến 49 người (36,4%), DNNVV có từ 200 lao động trở lên chiems tỷ lệ vô
cùng nhỏ chỉ có 0,7%.
Xét theo từng loại hình doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân có số lượng lao
động dưới 5 người chiếm tỷ lệ tương đối cao (28,7%), số doanh nghiệp loại này có
số lượng lao động từ 5 đến 9 người chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số doanh
nghiệp tư nhân (40,3% năm 2010). Công ty cổ phần thì tỷ lệ doanh nghiệp có số lao
động từ 50 đến 199 người và tỷ lệ lao động từ 200 đến 299 người cao hơn so với
các loại hình doanh nghiệp khác. Tuy nhiên doanh nghiệp có số lao động từ 5 đến 9
người vẫn chiếm tỷ lệ cao (42,5%). Phần lớn công ty TNHH có lao động từ 5 đến 9
người (năm 2010 là 51,6% tăng gấp 1,5 lần so với năm 2008), tỷ lệ công ty TNHH
có số lao động từ 10 đến 49 cũng rất cao 29,8%. Quy mô lao động trong các
DNNVV cũng tương tự ở DNNN đang/ chưa CP hóa, số doanh nghiệp có từ 10 đến
49 người chiếm tỷ lệ cao nhất 49,47%, đứng thứ hai là tỷ lệ doanh nghiệp có quy
mô lao động từ 5 đến 9 người (37,3%), tỷ lệ các doanh nghiệp có quy mô lao động
từ 200 đến 299 chỉ chiếm 0,03%.
SV: Tạ Thị Thu Thảo
Lớp: Kế hoạch 49a
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:
PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
Như vậy, các doanh nghiệp đang hoạt động ở Hà Nội có đến hơn một nửa là
doanh nghiệp siêu nhỏ, chỉ có 0,7% là doanh nghiệp vừa, còn lại là doanh nghiệp
nhỏ cũng gần bằng doanh nghiệp siêu nhỏ. Trong các doanh nghiệp vừa thì công ty
CP có tỷ lệ cao nhất, DNTN và công ty TNHH có tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ và siêu
nhỏ cao nhất Hà Nội.
2.1.3. Vai trò của DNNVV đối với phát triển KTXH Hà Nội trong thời gian qua
2.1.3.1. Tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho NLĐ
Các DNNVV thường được xem là khu vự tạo ra việc làm và thu nhập nhiều
nhất trong nền kinh tế, đặc biệt là ở cá nền kinh tế đang phát triển. Với khả năng tạo
ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, đặc biệt là nguồn lao động di
cư từ nơi khác đến Hà Nội làm cho nhu cầu việc làm tăng cao đột biến, thì DNNVV
là nơi tạo ra nguồn cung việc làm to lớn, nó luôn được xem là động lực kinh tế quan
trọng để giảm bớt chênh lệch về mức sống giữa các tầng lớp dân cư, xóa đói giảm
nghèo cho các khu vực nông thôn, qua đó giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần
thực hiện các mục tiêu quốc gia về phát triển bền vững.
Theo tổng cục thống kê, mỗi năm Hà Nội có thêm khoảng 180.000 đến 200.000
người/năm, tương ứng 5,34% số lao động tham gia hoạt động kinh tế toàn thành phố, cùng
với lực lượng lao động không nhỏ những di cư từ những tỉnh thành khác và một lực lượng
lớn lao động nông nghiệp có nhu cầu chuyển sang các ngành phi nông nghiệp. Điều này
áp lực lớn cho việc phải tạo thêm hàng nghìn việc làm mỗi năm. Với khả năng tạo được
nhiều công ăn việc làm cho người lao động, khu vực DNNVV không chỉ góp phần quan
trọng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, mà còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.
Hiện tại, suất đầu tư cho mỗi chỗ làm việc tại DNNVV chỉ bằng 3- 10% so với các DN
lớn, do vậy các DNNVV là nơi có khả năng tiếp nhận phần lớn số LĐ mới và số lao động
dư thừa do sắp xếp lại DNNN, hay cải cách hành chính, góp phần chủ yếu tạo việc làm,
tăng thu nhập cho người LĐ, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội. Theo số
liệu điều tra năm 2009 của tổng cục thống kê, riêng khu vực DN ngoài quốc doanh đã tạo
ra việc làm cho gần 60% số lao động làm việc trong khu vực DN nói chung (gần 375
nghìn LĐ).
Bên cạnh vai trò to lớn là tạo công ăn việc làm, giải quyết các vấn đề xã hội,
khu vực DNNVV còn là động lực cho sự phát triển cân bằng giữa thành thị và nông
thôn, qua đó góp phần duy trì sự phát triển bền vững của Hà Nội. Với khả năng tạo
lập dễ dàng, DNNVV có thể phát triển rộng rãi ở mọi nơi và tạo ra những sản phẩm
phong phú, đa dạng.
SV: Tạ Thị Thu Thảo
Lớp: Kế hoạch 49a
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:
PGS.TS. Ngô Thắng Lợi
2.1.3.2. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Hà Nội theo hướng năng động và hiệu quả
DNNVV là khu vực DN có sự linh hoạt, năng động cao hơn hẳn so với các DN
có quy mô lớn. Với một lượng lớn DN mới thành lập, bắt đầu những hoạt động kinh
doanh mới và cũng có ngần ấy những DN chấm dứt các hoạt động kinh doanh
không còn hiệu quả, khu vực DNNVV luôn duy trì được một động lực năng động
cho nền kinh tế đông thời cho phép loại bỏ dễ dàng các DN không còn hiệu quả,
góp phần cân bằng các lực lượng cung cầu hàng hóa, dịch vụ trên thị trường một
các liên tục, bền vững.
Khu vực DNNVV luôn năng động trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế và thích
ứng nhanh chóng với những thay đổi trong môi trường kinh doanh. Các DNNVV
luôn phải đối mặt với những thách thức trực tiếp của thị trường và hiếm khi nhận
được sự trợ cấp của một nguồn nào khác. Vì vậy các DNNVV thường phải tự xoay
xở. Với hoàn cảnh tự sinh tự diệt, DNNVV bắt buộc phải duy trì sự hiệu quả để
phát triển nếu không sẽ dễ dàng lâm vào tình trang phá sản. Chính sự khắc nghiệt
trong cạnh tranh luôn đòi hỏi bất cứ một DN nào cũng phải luôn ở trạng thái sẵn
sàng thay đổi cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh mới. Sức ép của công cuộc kinh
doanh và môi trường tự lập đã làm cho năng động trở thành bản chất của DNNVV.
Do quy mô nhỏ nên khi phải thay đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động, DNNVV ít
gặp khó khăn hơn DN lớn. Những máy móc công nghệ cũ có thể bán đi để thay thế
bằng dây chuyền sản xuất sản phẩm mới, điều này vô cùng khó khăn đối với DN
lớn, đòi hỏi chi phí lớn và thời gian dài.
Trong thời gian qua, DNNVV đã có quan hệ liên kết với các DN lớn trong
việc cung ứng NVL, thực hiện thầu phụ, dần hình thành mạng lưới công nghiệp bổ
trợ và đặc biệt tạo ra mạng lưới vệ tinh phân phối sản phẩm. Đây là mối quan hệ hai
chiều ràng buộc lẫn nhau, các DN lớn đảm bảo vững chắc cho các DNNVV về thị
trường, công nghệ, tiêu chuẩn kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý. Ngược lại, các
DNNVV đảm bảo cho các DN lớn về công nghiệp bổ trợ, mạng lưới tiêu thụ sản
phẩm rộng khắp cả nước. Điển hình như tập đoàn Unilever trong quá trình đầu tư
vào Việt Nam đã thiết lập được một mạng lưới với hơn 60 DNNVV hoạt động như
những vệ tinh xoay quanh nhà máy chính của Unilever tại Hà Nội. Mối quan hệ này
mang ý nghĩa sống còn với cả hai bên. Đối với Unilever, nhờ có DNNVV này mà
Unilever nội hóa được các nguyên liệu đầu vào, góp phần Việt Nam hóa các sản
phẩm của mình và dần chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và đặc biệt là 2 thị trường
SV: Tạ Thị Thu Thảo
Lớp: Kế hoạch 49a
24