Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Thực tiễn sinh động của sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.2 KB, 15 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giải quyết tốt các vấn đề xã hội là một trong những chủ trương, giải pháp lớn
nhằm phát triển kinh tế - xã hội của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới. Những vấn đề xã
hội Đảng ta quan tâm bao gồm các lĩnh vực liên quan đến sự phát triển của con người
và xã hội như: dân số và nguồn nhân lực, lao động và việc làm, giáo dục và y tế, đạo
đức và văn hoá, những đảm bảo về an ninh và an toàn xã hội của đời sống cá nhân và
cộng đồng.
Các vấn đề xã hội có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, do vị trí của con
người trong xã hội quy định. Song, do địa vị của con người ở mỗi chế độ xã hội khác
nhau là không giống nhau, cho nên vai trò, bản chất của các vấn đề xã hội cũng khác
nhau. Trong chủ nghĩa tư bản, nhân dân lao động là người làm thuê, mục tiêu của chủ
nghĩa tư bản là tăng lợi nhuận, duy trì sự thống trị của giai cấp tư sản. Để đạt tới mục
tiêu đã được xác định, chủ nghĩa tư bản đã có nhiều chủ trương, giải pháp về các vấn
đề xã hội, trong đó có những mặt tiến bộ như coi trọng giảm nhẹ sự bất bình đẳng
trong xã hội cũng như tìm cách giảm căng thẳng trong xã hội.
Tuy nhiên, những mặt tiến bộ ấy không bền vững vì mâu thuẫn cơ bản của chủ
nghĩa tư bản là xã hội hoá của sản xuất và chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vẫn
còn tồn tại. Trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động là người làm chủ, con người
được coi là vốn quý nhất, mục tiêu phục vụ của chủ nghĩa xã hội là nâng cao chất
lượng cuộc sống cho con người. Do vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn tạo ra những
khả năng khách quan để thủ tiêu tình trạng người bóc lột người, cải thiện không ngừng
các điều kiện sống, tạo ra các tiền đề cho sự phát triển của cá nhân, của người lao động
để họ tự giác tham gia có hiệu quả các hoạt động sống, cũng như xây dựng một xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã
hội vì con người, đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế, văn hoá,
xã hội và lấy việc nâng cao chất lượng cuộc sống con người làm mục tiêu phục vụ.
Đảng ta luôn nhấn mạnh phát triển kinh tế phải đi liền với việc giải quyết tốt các vấn
đề xã hội. Phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa lại càng đòi hỏi phải
giải quyết tốt những vấn đề xã hội, bởi lẽ phát triển kinh tế phải là sự phát triển bền
vững dựa trên những yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường vững
chắc…. Bền vững về mặt xã hội là bảo đảm vừa đạt được tăng trưởng kinh tế, vừa giữ


được ổn định xã hội, không có những xáo trộn xung đột, nổi loạn làm ảnh hưởng đến
việc huy động các nguồn lực cho sự phát triển. Trong phát triển bền vững, yếu tố kinh
tế và yếu tố xã hội quyện vào nhau, hoà nhập vào nhau. Mục tiêu phát triển kinh tế
phải bao gồm cả mục tiêu giải quyết những vấn đề xã hội như vấn đề việc làm, xoá đói
1
giảm nghèo… thoả mãn nhu cầu cơ bản của nhân dân, công bằng xã hội. Ngược lại,
mục tiêu phát triển xã hội cũng nhằm tạo động lực phát triển kinh tế. Đó chính là sự
khác nhau căn bản về mục tiêu phát triển giữa con đường chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta lựa chọn….
B. NỘI DUNG
I.Quan điểm của Đảng về xây dựng xã hội trong thời kỳ đổi mới.
1. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - Lý luận nền tảng công cuộc
đổi mới ở Việt Nam
Trải qua 20 năm đổi mới, một trong những bài học quan trọng mà Đảng ta rút ra là:
“trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không phải từ
bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn
hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức
đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng”. Thực tiễn
phong phú và những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới hai mươi năm qua đã
chứng minh giá trị to lớn của bài học đó, đồng thời cho thấy việc khẳng định lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng
ta. Tất nhiên, để làm rõ bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận
ấy của Đảng ta, cần phải phân tích và làm rõ tính khoa học và cách mạng trong các
luận điểm, tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là
phải làm rõ sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong tiến trình thực hiện công cuộc đổi
mới đất nước.
Hiển nhiên, đó là một công việc to lớn, đòi hỏi công sức nghiên cứu khoa học

của rất nhiều người.Một điều rõ ràng là, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, khi thực tiễn đất nước nảy sinh hàng loạt vấn đề cần được giải đáp về mặt lý
luận, Đảng ta đã luôn luôn đứng trên lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ
nghĩa Mác-Lênin để tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn và đưa ra được đường lối,
chủ trương, chính sách cùng với bước đi và cách làm cụ thể phù hợp với thực tiễn cách
mạng nước ta. Chẳng hạn, trong quá trình đổi mới đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, Đảng ta đã coi đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội
là khâu đột phá, coi đổi mới kinh tế là trọng tâm và phải đi trước một bước. Đảng ta
cũng khẳng định, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải gắn kết với nhau, nhưng
đổi mới chính trị phải trên cơ sở thành tựu của đổi mới kinh tế và phục vụ cho tiếp tục
đổi mới kinh tế, ngược lại, đổi mới kinh tế phải đúng định hướng chính trị, phải góp
2
phần tăng cường ổn định chính trị. Thực tiễn những năm đổi mới đã mang lại nhiều
bằng chứng xác nhận tính đúng đắn của những quan điểm nêu trên.Có thể khẳng định,
chúng ta không thể đưa công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
đến thành công nếu xa rời lập trường quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Mặt khác, việc tìm ra những giải pháp để đưa công cuộc
đổi mới đến thành công không thể không gắn liền vận dụng và phát triển sáng tạo lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn theo phương pháp khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh. Như vậy, đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và phát triển
lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một quá trình thống nhất. Đó
là sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, sự thống nhất giữa tính khoa học và tính
cách mạng của lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Chủ nghĩa xã hội đổi mới - Thực tiễn sinh động của sự thống nhất giữa
tínhkhoa học và tính cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin
Trước hết cần khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa xã hội hiện thực là hoàn toàn
phù hợp với quy luật vận động, phát triển khách quan của lịch sử xã hội, phù hợp với
tiến trình lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh tế - xã hội. Cho dù đến nay, chủ nghĩa
xã hội vẫn chưa xuất hiện ở những nơi mà chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến trình độ

cao. Theo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác thì lực lượng sản xuất, xét đến
cùng, bao giờ cũng là cái đóng vai trò quyết định trong việc thay đổi phương thức sản
xuất, dẫn đến thay đổi toàn bộ các quan hệ xã hội, thay đổi một chế độ xã hội mà Mác
gọi là hình thái kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó, Mác đi đến kết luận: xã hội loài người
phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự phát triển
đó là một hình thái kinh tế - xã hội. Và tiến bộ xã hội chính là sự vận động theo hướng
tiến lên của các hình thái kinh tế - xã hội, là sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này
bằng hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, tiến bộ hơn. Mác khẳng định: “tôi coi sự phát
triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”. Mặc dù
khẳng định quá trình lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh tế - xã hội là tiến trình bị
quy định bởi các quy luật khách quan, nhưng Mác cũng luôn luôn cho rằng, con người
“có thể rút ngắn và làm dịu bớt những cơn đau đẻ”. Điều đó có nghĩa là, trong quan
niệm của Mác đã hàm chứa tư tưởng: quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã
hội chẳng những có thể diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự từ hình thái kinh tế -
xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn có thể diễn ra bằng con đường
bỏ qua một giai đoạn phát triển nào đó, một hình thái kinh tế - xã hội nào đó trong
những điều kiện và hoàn cảnh khách quan cụ thể nhất định.
3
Như vậy về mặt lý luận, chúng ta có thể khẳng định sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay là quy luật
khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc, phù hợp với quy luật phát triển
khách quan của lịch sử và xu thế phát triển của thời đại. Chúng ta đã chứng kiến sự
sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu và đã trải nghiệm những
thành công của công cuộc đổi mới chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và Trung Quốc. Theo
chúng tôi trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây có nguyên nhân xa rời bản
chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tách rời tính cách mạng với
tính khoa học trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Có thể nói, học thuyết về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ và về khả năng
xây dựng chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là bộ phận

quan trọng nhất của chủ nghĩa Mác-Lênin. Là một học thuyết khoa học và cách mạng,
học thuyết Mác - Lênin đã đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng của thời đại, phản
ánh chính xác những nhu cầu cơ bản cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản
nhằm thay đổi thế giới và giải phóng con người. Để hoàn thành sự nghiệp vĩ đại đó,
các Đảng cộng sản phải vận dụng sáng tạo bản chất khoa học và cách mạng của chủ
nghĩa Mác-Lênin trong tiến trình cách mạng, nhất là trong xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở những nước lạc hậu, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, quá độ dần lên chủ
nghĩa xã hội. Tuy nhiên, sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu, đã có không ít người hoài nghi tính đúng đắn của học thuyết Mác - Lênin về
chủ nghĩa xã hội. Các thế lực phản động quốc tế coi sự sụp đổ đó là “sự cáo chung”
của toàn bộ lý luận mác xít về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ và khả năng quá độ
lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong tình hình cực kỳ khó
khăn phức tạp như vậy, công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và
lãnh đạo đã thể hiện mạnh mẽ sức sống của chủ nghĩa xã hội hiện thực và thu được
những thành tựu ngày càng to lớn. Thắng lợi của đường lối đổi mới đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hai mươi năm qua đã cho thấy, những luận điểm,
tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội vẫn giữ nguyên giá trị,
vẫn là cơ sở lý luận, là kim chỉ nam cho mọi hành động của chúng ta trên con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề không phải là bản thân lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề nằm ở
chỗ chúng ta có nhận thức thật sự đúng đắn bản chất khoa học và cách mạng của chủ
nghĩa Mác - Lênin và biết vận dụng một cách sáng tạo nó trong thực tiễn xây dựng chủ
nghĩa xã hội hay không. Thực tiễn cho thấy, công cuộc đổi mới đất nước ngày càng đi
vào chiều sâu thì chúng ta càng phải đối diện với những vấn đề khó khăn, phức tạp
4
mới. Đất nước hiện đang đứng trước cả cơ hội lớn và thách thức lớn. Tất cả đều đòi
hỏi chúng ta phải nhận thức lại cho đúng, vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển lý
luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với bối cảnh mới của thế giới và
trong nước hiện nay. Vận dụng sáng tạo bản chất khoa học và cách mạng của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã ngày càng làm sáng tỏ con

đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới. Đó là con đường “phát triển
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập
vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền tảng kinh tế hiện đại”.
Rõ ràng, chúng ta đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa với phương thức “phát triển rút ngắn” nhằm đạt tới mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xây dựng chủ nghĩa xã hội,
đương nhiên là một sự nghiệp to lớn, lâu dài, đầy khó khăn phức tạp. Nhưng thực tiễn
luôn luôn là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn hai mươi năm đổi mới đã đưa đất nước
ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dài, đã hoàn thành những nhiệm vụ cơ bản của chặng
đường đầu của thời kỳ quá độ và bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của
chúng ta đang tiến lên phía trước, bởi chủ nghĩa xã hội đổi mới của Việt Nam là biểu
hiện sinh động sự thống nhất biện chứng giữa thuộc tính khoa học và thuộc tính cách
mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Con đường tiến lên chủ
nghĩa xã hội của chúng ta là không gì có thể ngăn cản nổi, bởi vì đó là quy luật tiến
hóa khách quan của lịch sử, lại đang được Đảng ta nhận thức và vận dụng sáng tạo.
Quán triệt bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, phát huy tính độc lập, sáng tạo, đồng thời kế thừa tinh hoa trí tuệ dân tộc, những
kinh nghiệm và thành tựu khoa học, văn hóa của thế giới, nhất định chúng ta sẽ xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, góp phần quan trọng vào sự nghiệp
cách mạng chung của những người cộng sản và nhân dân thế giới. Với thành công
ngày càng to lớn của công cuộc đổi mới, đất nước ta, một lần nữa trở thành nơi gửi
gắm niềm tin và sự kỳ vọng của bạn bè quốc tế. Việt Nam hôm nay đang được nhìn
nhận một cách đầy ngưỡng mộ: “Đường lối đổi mới trong đó kết hợp kinh tế thị
trường với kế hoạch, tiến lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở công nhận sự tồn tại của
nhiều thành phần kinh tế là con đường của những người mở đường mới mẻ trong lịch
sử hy vọng rằng Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam, đã từng chiến

5
thắng trong cuộc đấu tranh đầy gian khổ trước đây, sẽ thành công trước thách thức mới
trên chặng đường mà chưa một ai đi qua”.
3. Chủ chương của Đảng về xây dựng văn hóa mới trong công cuộc đổi mới
Các vấn đề xã hội có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, do vị trí của con
người trong xã hội quy định. Song, do địa vị của con người ở mỗi chế độ xã hội khác
nhau là không giống nhau, cho nên vai trò, bản chất của các vấn đề xã hội cũng khác
nhau. Trong chủ nghĩa tư bản, nhân dân lao động là người làm thuê, mục tiêu của chủ
nghĩa tư bản là tăng lợi nhuận, duy trì sự thống trị của giai cấp tư sản. Để đạt tới mục
tiêu đã được xác định, chủ nghĩa tư bản đã có nhiều chủ trương, giải pháp về các vấn
đề xã hội, trong đó có những mặt tiến bộ như coi trọng giảm nhẹ sự bất bình đẳng
trong xã hội cũng như tìm cách giảm căng thẳng trong xã hội. Tuy nhiên, những mặt
tiến bộ ấy không bền vững vì mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản là xã hội hoá của
sản xuất và chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vẫn còn tồn tại. Trong chủ nghĩa xã
hội, nhân dân lao động là người làm chủ, con người được coi là vốn quý nhất, mục tiêu
phục vụ của chủ nghĩa xã hội là nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người. Do
vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn tạo ra những khả năng khách quan để thủ tiêu tình
trạng người bóc lột người, cải thiện không ngừng các điều kiện sống, tạo ra các tiền đề
cho sự phát triển của cá nhân, của người lao động để họ tự giác tham gia có hiệu quả
các hoạt động sống, cũng như xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xã
hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội vì con người, đặt con người
vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và lấy việc nâng cao chất
lượng cuộc sống con người làm mục tiêu phục vụ. Đảng ta luôn nhấn mạnh phát
triểnkinh tế phải đi liền với việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Phát triển kinh tế theo
định hướng xã hội chủ nghĩa lại càng đòi hỏi phải giải quyết tốt những vấn đề xã hội,
bởi lẽ phát triển kinh tế phải là sự phát triển bền vững dựa trên những yếu tố chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường vững chắc…. Bền vững về mặt xã hội là bảo đảm
vừa đạt được tăng trưởng kinh tế, vừa giữ được ổn định xã hội, không có những xáo
trộn xung đột, nổi loạn làm ảnh hưởng đến việc huy động các nguồn lực cho sự phát
triển. Trong phát triển bền vững, yếu tố kinh tế và yếu tố xã hội quyện vào nhau, hoà

nhập vào nhau. Mục tiêu phát triển kinh tế phải bao gồm cả mục tiêu giải quyết những
vấn đề xã hội như vấn đề việc làm, xoá đói giảm nghèo… thoả mãn nhu cầu cơ bản
của nhân dân, công bằng xã hội. Ngược lại, mục tiêu phát triển xã hội cũng nhằm tạo
động lực phát triển kinh tế. Đó chính là sự khác nhau căn bản về mục tiêu phát triển
giữa con đường chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta lựa
chọn…. Trên cơ sở nhận thức mới về vai trò của các vấn đề xã hội, mở đầu công cuộc
đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ “Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện
6
vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng mục tiêu xã hội lại là mục đích của các
hoạt độngkinh tế”
- .Đến Đại hội VII (1991), sau khi xác định được những đặc trưng cơ bản của xã
hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, Đảng ta đã nêu lên định hướng lớn
“Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát triển
mọi tiềm năngsáng tạo của nhân dân trong xây dựng xã hội chủ nghĩa”
- Trên cơ sở định hướng ấy, Đảng ta đã chính thức khẳng định một số quan điểm
chỉ đạo việc kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
Cụ thể là: Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế,
đều nhằm phát huy sức mạnh của yếu tố con người và vì con người. Kết hợp hài hoà
giữa kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội,
giữa đời sống vật chất với đời sống tinh thần của nhân dân. Coi phát triển kinh tế là cơ
sở và tiền đề để thực hiện chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động
lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Đến Đại hội VIII (1996) Đảng ta đã bổ sung một quan
điểm quan trọng là “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển”
- . Đồng thời, Đảng đã đề ra những quan điểm chỉ đạo việc hoạch định hệ thống
chính sách xã hội, đó là:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu
phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều
kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình.

Thứ hai, thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động và
hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực
khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội, đi đôi
với chính sách điều tiết hợp lý, bảo vệ quyền lợi của người lao động.
Thứ ba, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xoá đói, giảm nghèo,
thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, các dân
tộc, các tầng lớp dân cư.
Thứ tư, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc “uống nước nhớ nguồn”, “đền
ơn đáp nghĩa”, “nhân hậu, thủy chung”
Thứ năm, các vấn đề chính sách xã hội đều được giải quyết theo tinh thần xã hội.
Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các
doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham
gia giải quyết những vấn đề xã hội. Đại hội IX của Đảng không nhắc lại các quan điểm
chỉ đạo của Đại hội VIII, nhưng nhấn mạnh “Thực hiện các chính sách xã hội, hướng
7
vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo
động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình
đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp” và “Các
chính sách xã hội được tiến hành theo tinh thần xã hội hoá, đề cao tinh thần trách
nhiệm của chính quyền các cấp, huy động các nguồn lực trong nhân dân, các tổ chức
xã hội” 4. Đồng thời Đại hội IX cũng chỉ ra những nhiệm vụ, mục tiêu của từng lĩnh
vực cụ thể cần tập trung giải quyết trong những năm tới là: giải quyết việc làm là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của chính sách xã hội; Tiền lương và thu nhập; xoá đói,
giảm nghèo; đền ơn đáp nghĩa; uống nước nhớ nguồn; xâydựng cơ sở hạ tầng xã hội;
chính sách dân số; chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân; chính sách
chăm sóc và bảo vệ trẻ em; phong trào toàn dân tập luyện thể dục, thể thao; phong
trào toàn dân đấu tranh phòng chống tội phạm
Trên cơ sở khái quát những thành tựu và hạn chế của 20 năm đổi mới, trong đó
có thành tựu và hạn chế của việc xây dựng và phát triển các vấn đề xã hội, Đại hội X
của Đảng khẳng định quan điểm: “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã

hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các
chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến
và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế xã hội….
Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc”.
- Nội dung chủ yếu của quan điểm Đại hội X là:
Thứ nhất, kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội, trên bình diện cả
nước cũng như từng lĩnh vực, địa phương. Sự kết hợp các mục tiêu kinh tế với các
mục tiêu xã hội được xác định ở tất cả các cấp, các ngành không chỉ ở Trung ương mà
từng ngành, từng địa phương, tạo thành sự thống nhất trong chính sách kinh tế và
chính sách xã hội của địa phương, ngành và cơ sở. Sự kết hợp này bảo đảm tính đồng
bộ, công bằng và bình đẳng cho mọi người dân, mọi vùng miền, khắc phục tình trạng
phân hoá, bất bình đẳng do các khuyết tật của cơ chế thị trường và những phát sinh do
nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi gây ra.
Thứ hai, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển. Tiếp tục kế thừa và phát triển những quan điểm được xác định
từ Đại hội XIII, Đại hội X khẳng định, cần phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng chính sách phát triển. Điều đó được thể hiện qua các nội dung sau:
+ Thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn bó hữu cơ
giữa quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ. Một vấn đề có tính quy luật là chỉ
có trên cơ sở phát triển kinh tế mới có điều kiện để làm tốt chính sách xã hội. Như vậy,
8
yêu cầu này nhằm nhấn mạnh phải tập trung phát triển kinh tế, một nhiệm vụ trọng
tâm. Đồng thời, thực hiện tốt chính sách xã hội, không chỉ đảm bảo cho sự phát triển
bền vững của nền kinh tế mà còn thúc đẩy kinh tế phát triển. Sự gắn bó giữa quyền lợi
và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ là vấn đề có tính nguyên tắc trong xã hội. Chủ
nghĩa xã hội mà ta đang xây dựng là do nhân dân thực hiện. Nhà nước chỉ tạo điều
kiện và môi trường để nhân dân bằng lao động của mình không ngừng nâng cao đời
sống cho mình và tham gia vào sự phát triển của xã hội. Gắn nghĩa vụ với quyền lợi
cống hiến với hưởng thụ là bảo đảm sự công bằng trong đời sống xã hội, chống ỷ lại,

trông chờ, thụ động.
- Coi trọng chỉ tiêu GDP bình quân đầu người gắn với chỉ tiêu phát triển con
người (HDI). Từ điểm xuất phát thấp, trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, chúng ta phải rất quan tâm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, rút
ngắn khoảng cách giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy,
coi trọng chỉ tiêu tăng trưởng GDP là rất cần thiết. Mặt khác, mục tiêu phát triển kinh
tế là để phục vụ con người, để con người phát triển toàn diện. Chỉ tiêu HDI liên quan
trực tiếp đến các mức độ đáp ứng các nhu cầu xã hội của con người đến chất lượng
cuộc sống. Tăng trưởng GDP là cơ sở để thực hiện chiến lược con người và các chính
sách xã hội. Vì vậy, Đại hội X xác định yêu cầu coi trọng chỉ tiêu GDP phải gắn liền
với chỉ tiêu con người HDI trong suốt quá trình phát triển và trong từng chính sách
kinh tế- xã hội. Từ thực tiễn xây dựng đất nước trong những năm qua, nhằm từng bước
thực hiện quan điểm của Đảng để xây dựng và phát triển các vấn đề xã hội trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta cần đồng thời triển khai thực hiện
các chủ trương và giải pháp lớn như sau:
Trước hết là khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện có
hiệu quả các chính sách xoá đói giảm nghèo. Với nội dung này, trong những năm tới
cần thực hiện các yêu cầu là tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận bình đẳng nguồn lực phát
triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản, vươn lên xoá đói giảm nghèo bền vững ở
các vùng, khắc phục tình trạng bao cấp dàn đều, tư tưởng ỷ lại, phấn đấu không còn hộ
đói, giảm mạnh hộ nghèo, tăng nhanh hộ giàu, từng bước xây dựng gia đình cộng đồng
và xã hội phồn vinh. Tạo được động lực làm giàu trong đông đảo các tầng lớp dân cư,
khuyến khích những người đã thoát nghèo mạnh dạn vươn lên làm giàu và giúp những
người khác sớm thoát khỏi hộ nghèo. Xây dựng chương trình xoá đói giảm nghèo sát
với điều kiện cụ thể của từng địa phương, dành nguồn ưu tiên hỗ trợ các vùng xa, khó
khăn, có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số. Giảm dần chênh lệch về phát triển kinh tế và
đời sống của nhân dân giữa các vùng, miền và các tầng lớp dân cư. Phấn đấu đến năm
2010 giảm 1/2 tỷ lệ nghèo theo Chuẩn quốc tế so với năm 2000. Giảm 3/4 tỷ lệ nghèo
9
về lương thực, thực phẩm so với năm 2000. Giảm 3/5 tỷ lệ hộ nghèo so với năm 2000

theo chuẩn của Chương trình mục tiêu quốc gia.
Thứ hai, xây dựng hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ
công cộng thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo dục và đào tạo, tạo việc
làm, chăm sóc sức khoẻ, văn hoá - thông tin, thể dục thể thao. Xây dựng hệ thống an
sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiến tới
bảo hiểm y tế toàn dân. Đa dạng hoá các loại hình cứu trợ xã hội, tạo việc làm, đẩy
mạnh xuất khẩu lao động, hướng tới xuất khẩu lao động trình độ cao; Tiếp tục đổi mới
chính sách tiền lương; Phân phối thu nhập xã hội công bằng, hợp lý để tạo được động
lực phát triển mạnh, góp phần phòng chống tiêu cực, tệ nạn xã hội; Tăng nguồn lực
đầu tư của nhà nước để phát triển các lĩnh vực xã hội và thực hiện các mục tiêu xã hội,
đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá, coi đây là một chính sách có tính chiến lược, nhằm
huy động mọi nguồn lực, trí tuệ của các thành phần kinh tế, của các tổ chức xã hội, của
mọi người.
Thứ ba, phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả, bảo đảm mọi người dân
được chăm sóc và nâng cao sức khoẻ. Củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, hệ
thống các chính sách bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân. Đổi mới cơ
chế khám, chữa bệnh. Nhà nước tăng đầu tư, nâng cao mức và chất lượng chăm sóc
sức khoẻ cơ bản cho toàn dân, quan tâm nhiều hơn nữa cho các đối tượng chính sách,
đồng bào dân tộc thiểu số và vùng sâu, vùng xa, hộ nghèo. Chú trọng phát triển các
dịch vụ y tế công nghệ cao, khuyến khích phát triển đa dạng, các dịch vụ y tế ngoài
công lập. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế. Có
chiến lược, quy hoạch phát triển và cơ chế chính sách hợp lý để phát triển hệ thống sản
xuất, lưu thông, phân phối thuốc chữa bệnh, từng bước xây dựng ngành công nghiệp
dược, ngành công nghiệp thiết bị y tế trở thành ngành kinh tế- kỹ thuật đáp ứng nhu
cầu trong nước và xuất khẩu.
Thứ tư, xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ, tầm vóc con người
Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi. Cụ thể, phát triển mạnh thể
dục thể thao với phương châm kết hợp tốt thể thao phong trào và thể thao thành tích
cao, dân tộc và hiện đại, chú trọng phát triển thể dục thể thao trường học, nâng cao
chất lượng phong trào thể dục thể thao quần chúng. Có chính sách và cơ chế cần thiết

để phát hiện, bồi dưỡng và phát triển tài năng thể thao phù hợp với điều kiện và tố chất
người Việt Nam, đưa nền thể thao nước ta tới vị trí cao của khu vực, từng bước tiếp
cận với châu lục và quốc tế ở những bộ môn thể thao mà Việt Nam có ưu thế. Nghiên
cứu xây dựng và tuyên truyền hướng dẫn chế độ dinh dưỡng trong cơ cấu bữa ăn phù
hợp với lứa tuổi. Quan tâm chăm sóc sức khoẻ sinh sản. Đẩy mạnh phong trào xã hội
10
chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong môi
trường an toàn, lành mạnh, phát triển hài hoà về trí tuệ, đạo đức, giảm nhanh tỷ lệ trẻ
em suy dinh dưỡng. Đẩy mạnh công tác bảo vệ giống nòi, bảo vệ sức khoẻ nhân dân,
thực hiện các giải pháp mạnh mẽ, kiên trì và có hiệu quả để phòng chống HIV/AIDS
và các tệ nạn xã hội.
Thứ năm, thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình. Cụ thể là
giảm tốc độ dân số. Tiếp tục duy trì kế hoạch giảm sinh, phấn đấu sớm đạt mục tiêu
mức sinh quy định, đảm bảo quy mô và cơ cấu dân số hợp lý. Nâng cao chất lượng dân
số. Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng với
những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xây dựng gia đình ấm no,
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lạnh mạnh của
xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách của
con người, bảo tồn nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy
văn hoá truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Thứ sáu, chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội. Cụ thể là thực hiện tốt chính
sách xã hội đối với người có công, gia đình thương binh liệt sỹ như vấn đề nhà ở,
khám chữa bệnh và điều dưỡng phục vụ sức khoẻ, các chính sách ưu tiên trong giáo
dục, vấn đề trợ cấp cho những người có công với cách mạng. Vận động toàn dân tham
gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với các lão thành cách
mạng, người có công với nước, người được hưởng chính sách xã hội. Chăm sóc đời
sống vật chất và tinh thần của người già. Giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam, người tàn
tật, trẻ mồ côi.
Thứ bảy, đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng

cụ
thể là phát triển về quy mô gắn với chất lượng và hiệu quả các dịch vụ công cộng,
nâng cao chất lượng quản lý nhà nước, đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị công
lập và huy động mạnh mọi nguồn lực của xã hội. Nhà nước tiếp tục tăng nguồn lực,
đầu tư tập trung cơ sở vật chất- kỹ thuật để nâng cao phúc lợi chung cho toàn xã hội
Quan tâm vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo, vùng đồng bảo dân tộc thiểu số. Từng bước
chuyển các cơ sở công lập dịch vụ công cộng đang hoạt động theo cơ chế sự nghiệp
mang nặng tính hành chính bao cấp sang cơ chế tự chủ, không bao cấp tràn lan và
không vì mục tiêu lợi nhuận. Công khai mức phí tại các cơ sở dịch vụ công lập và
ngoài công lập. Thúc đẩy các cơ sở công lập và ngoài công lập vụ dịch vụ công cộng
cả về quy mô và chất lượng. Các vấn đề xã hội có vị trí và vai trò rất quan trọng trong
đời sống xã hội. Qua hơn 20năm đổi mới, nhận thức mới của Đảng ta về những vấn đề
11
xã hội thể hiện ở hệ thống quan điểm, giải pháp về xây dựng và phát triển các vấn đề
xã hội, trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Quán triệt để vận dụng
quan điểm, giải pháp trên vào thực tiễn là yêu cầu quan trọng hiện nay để đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta trở thành hiện thực.
II. Ý nghĩa của bản than về quan điểm xây dựng xã hội đổi mới của Đảng.
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đi qua chặng đường
gần 25 năm và thu được những kết quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Cùng với những
thành tựu quan trọng về kinh tế, an ninh - quốc phòng, đối ngoại, vấn đề phát triển văn
hoá- xã hội và xây dựng con người luôn luôn được Đảng coi trọng.
Từ quan điểm xây dựng xã hội đổi mới của Đảng cá nhân ta có thể rút ra một số ý
nghĩa đối với bản thân và xã hội sau đây:
- Đối với xã hội: Tích cực tham gia các chương trình xã hội, đặc biệt là các
chương trình tình nguyện “mùa hè xanh”. Ủng hộ quan điểm chủ chương của Đảng,
luôn tích cực trong các phong trào xây dựng xã hội cụ thể là nếp sống mới ở trường
cũng như tại địa phương, như gia đình văn hóa….
- Xây dựng nếp sống mới lành mạnh theo tư tưởng và quan điểm của Đảng. Đối
với bản thân cần chủ động tích cực tham gia vào tiến trình xây dựng xã hội mới làm

sao biến quá trình được giáo dục thành quá trình tự học hỏi, tự ý thức vươn lên bằng
bản lĩnh và ý chí của mình trở thành những con người độc lập có tri thức, có lý luận
chính trị, làm chủ đời sống XH mà mình đang sống, hoà nhập mà không hoà tan vào
đời sống XH góp phần thúc đẩy phát triển XH theo hướng dân chủ-bình đẳng-ấm no-
hạnh phúc. Bổ xung học tập, rèn luyện về mặt chính trị tư tưởng (học tập và làm việc
theo tấm gương đạo đức của Bác). Từ đó, rèn luyện hơn nữa về mặt đạo đức, cộng với
việc học văn hóa, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Không vi phạm đường lối
của Đảng, pháp luật của Nhà nước và những nội quy của nhà trường. Hăng hái tham
gia các phong trào của lớp, của trường góp phần đẩy mạnh phong trào thi đua học tập
của tập thể đi lên. Cùng tuyên truyền, phổ biến phong trào “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đưa phong trào trở nên rộng khắp. Cùng tập thể lớp,
trường và thế hệ Thanh niên Việt Nam thực hiện được lời di trúc của Bác “đưa Việt
Nam lên đài vinh quan, sánh vai với các cường quốc năm châu”.

12
C. KẾT LUẬN
Từ khi ra đời cho đến nay, nhờ nắm vững và vận dụng sáng tạo bản chất khoa
học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin mà Đảng ta đã dẫn dắt cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Chủ nghĩa xã hội đổi mới Việt Nam đã
chứng tỏ sức sống mãnh liệt của mình và ngày càng thu được những thành tựu to lớn.
Điều đó trước hết bắt nguồn từ bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-
Lênin.
Tuy hiện nay, việc xây dựng xã hội mới gặp vô vàn khó khăn thách thức một
phần do nền kinh tế thị trường đã tha hóa một số lớp trẻ làm lệch lạc lý tưởng, dẫn đến
vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, dưới sự dẫn dắt của sang suốt của Đảng, nhất định Đảng
ta sẽ lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội của thời kỳ đổi mới
gắn với dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong bài viết có thể còn có nhiều sai sót, tôi rất mong sự nhận xét, giúp đỡ của
thầy
13

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
• Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ IX. Nxb CTQG,
• H. 2001.
• Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ X. Nxb CTQG,
• H. 2006
• Vở ghi Đường Lối Cách Mạng Của Đảng Cộng Sản Việt
Nam
• Giáo Trinh Đường Lối Cách Mạng Của Đảng Cộng Sản Việt
Nam
14
MỤC LỤC
15

×