Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

đề tài hiệu ứng nhà kính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.11 KB, 20 trang )

Đề tài: Hiệu ứng nhà kính
LỜI MỞ ĐẦU
Một trong những vấn đề lớn hiện nay là hiện tượng “Hiệu ứng nhà kính”.Hiệu ứng nhà
kính đã và đang ảnh hưởng nghiêm trọng trực tiếp đến Trái Đất với những tác động mà nó
gây ra.Từ việc thay đổi khí hậu dẫn đến sự thay đổi rõ rệt về hệ sinh thái, theo đó con
người cũng chịu ảnh hưởng. Hiệu ứng nhà kính không chỉ tác động đến Trái Đất vào thời
điểm hiện tại mà nó còn kéo dài ảnh hưởng nghiêm trọng đến tương lai.
Như chúng ta đã biết cuộc sống ngày càng phát triển, công nghiệp hóa và hiện đại hóa
càng tăng, các công ty, nhà máy phát triển cùng với các thiết bị máy móc ngày càng nhiều
dẫn đến lượng khí thải càng ngày càng tăng. Ở một số quốc gia đang phát triển thì vấn
đề môi trường chưa thực sự được quan tâm, tức là chưa có những biện pháp xử lý môi
trường dẫn đến tình trạng ô nhiễm nặng.Vấn đề này ngày nào chưa giải quyết thì cuộc
sống xung quanh chúng ta và môi trường sống càng bị đe dọa trầm trọng.
Đề tài này trình bày những vấn đề cơ bản về nguyên nhân Trái Đất nóng lên, phân
tích sự ảnh hưởng của hiện tượng “Hiệu ứng nhà kính”đối với cuộc sống con người và
môi trường. Đồng thời nêu ra một số biện pháp giải quyết của vấn đề hiệu ứng nhà kính.
Môi trường có tốt thí chất lượng cuộc sống của con người mới ngày càng tăng đúng với
tiêu chí được đặt ra của các quốc gia hiện nay. Đề tài của nhóm chúng tôi sẻ trình bày về
Hiệu ứng nhà kính.
Thực hiện: Nhóm OF Trang 1
Đề tài: Hiệu ứng nhà kính
Mục lục
Mục lục 1
PHẦN I. KHÁI NIỆM HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH 1
1. Hiệu ứng nhà kính là gì? 1
2. Cơ chế của hiệu ứng nhà kính 2
PHẦN II. NGUYÊN NHÂN GÂY RA HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH 3
1. Các khí nhà kính 3
2. Tác động của con người gây ra “Hiệu ứng nhà kính” 6
PHẦN III. TÁC ĐỘNG CỦA HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH 7
1. Tác động tích cực 7


2. Tác động tiêu cực 7
PHẦN IV. THỰC TRẠNG 9
PHẦN V. BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN VÀ GIẢM BỚT HẬU QUẢ CỦA HIỆU ỨNG
NHÀ KÍNH 10
1. Xây dựng kế hoạch để giảm các chất gây ô nhiễm môi trường – những chất làm tăng
nhiệt độ của Trái Đất 10
2. Trách nhiệm của chúng ta để giảm bớt khí nhà kính 12
3. Một số biện pháp giảm thiểu hậu quả trước sự tăng lên của hiệu ứng nhà kính Trái
Đất đối với Việt Nam 14
Thực hiện: Nhóm OF Trang 1
Đề tài: Hiệu ứng nhà kính
Thực hiện: Nhóm OF Trang 2
PHẦN I. KHÁI NIỆM HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH
1. Hiệu ứng nhà kính là gì?
Hiệu ứng nhà kính, xuất phát từ effet de serre trong tiếng Pháp, do nhà toán học, nhà
vật lý người Pháp Jean Baptiste Joseph Fourier lần đầu tiên đặt tên vào năm 1824, dùng
để chỉ hiệu ứng xảy ra khi năng lượng bức xạ của tia sáng mặt trời, xuyên qua các cửa sổ
hoặc mái nhà bằng kính, được hấp thụ và phân tán trở lại thành nhiệt lượng cho bầu
không gian bên trong, dẫn đến việc sưởi ấm toàn bộ không gian bên trong chứ không phải
chỉ ở những chỗ được chiếu sáng.
Có thể hiểu một cách đơn giản là: Các khí nhà kính chứa trong bầu khí quyển như thể
là một tấm kính dày bao bọc Trái Đất, lúc này dựa theo nguyên lý hiệu ứng nhà kính, thì
bức xạ Mặt Trời chiếu xuống Trái Đất sễ bị các khí nhà kính giữ lại, kết quả là làm cho
toàn bộ khí quyển nóng dần lên và theo đó Trái Đất cũng nóng dần lên.
Từ đó, ta có định nghĩa về hiệu ứng nhà kính:
"Hiện tượng các tia bức xạ sóng ngắn của Mặt Trời xuyên qua bầu khí quyển đến mặt đất
và được phản xạ trở lại thành các bức xạ nhiệt sóng dài rồi được một số khí trong bầu
khí quyển hấp thụ để thông qua đó làm cho khí quyển nóng lên, được gọi là hiệu ứng nhà
kính"
Ngày nay, người ta hiểu khái niệm này rộng hơn, dẫn xuất từ khái niệm này để miêu tả

hiện tượng nghẽn nhiệt trong bầu khí quyển của Trái Đất khi được Mặt Trời chiếu sáng,
gọi là hiệu ứng nhà kính khí quyển. Trong hiệu ứng nhà kính khí quyển, phần được đoán
là do tác động của loài người được gọi là hiệu ứng nhà kính nhân loại.
1.1 Hiệu ứng nhà kính khí quyển
Bức xạ nhiệt của mặt trời là các tia bức xạ có sóng ngắn xuyên qua tầng Ôzon và lớp
khí CO
2
để đi tới mặt đất ngược lại bức xạ nhiệt từ trái đất vào vũ trụ là bức sóng dài,
không có khả năng xuyên qua lớp khí CO
2
dày và bị một số phân tử trong bầu khí quyển
như CO
2
và hơi nước hấp thụ những bức xạ nhiệt này và thông qua đó giữ hơi ấm lại
trong bầu khí quyển. Hàm lượng ngày nay của khí đioxit cacbon vào khoảng 0,036% đã
đủ để tăng nhiệt độ thêm khoảng 30°C. Nếu không có hiệu ứng nhà kính tự nhiên này
nhiệt độ trái đất của chúng ta sẽ rất lạnh chỉ vào khoảng –15°C.
1.2 Hiệu ứng nhà kính nhân loại:
Từ khoảng 100 năm nay con người tác động mạnh vào sự cân bằng nhạy cảm này
giữa hiệu ứng nhà kính tự nhiên và tia bức xạ của mặt trời. Sự thay đổi nồng độ của các
khí nhà kính trong vòng 100 năm lại đây (điôxít cacbon tăng 20%, mêtan tăng 90%) đã
làm tăng nhiệt độ lên 2°C đây được gọi là hiệu ứng nhà kính nhân loại. Chúng ta không
nên nhầm lẫn hiệu ứng nhà kính nhân loại với việc làm tổn thất đến lớp khí ozon ở tầng
bình lưu cũng do loài người gây ra.
2. Cơ chế của hiệu ứng nhà kính
Trái đất nhận được năng lượng từ Mặt trời trong tia UV hình thức, có thể nhìn thấy và
gần IR bức xạ, hầu hết trong số đó đi qua không khí, không bị hấp thụ. Tổng giá trị của
năng lượng có sẵn ở phía trên cùng của bầu khí quyển (TOA), khoảng 50% được hấp thụ
tại bề mặt trái đất. Bởi vì nó là ấm áp, bề mặt phát ra bức xạ nhiệt xa IR bao gồm các
bước sóng chủ yếu là dài hơn so với các bước sóng được hấp thụ (sự chồng chéo giữa phổ

tới năng lượng mặt trời và nhiệt quang phổ trên mặt đất là đủ nhỏ để được bỏ qua đối với
hầu hết các mục đích).
Bức xạ Mặt Trời đi đến bề mặt Trái Đất có 2 dạng. Những tia sáng Mặt Trời xuyên
thẳng vào khí quyển trong một bầu trời không mây được gọi là bức xạ trực tiếp. Một phần
các tia Mặt Trời do va chạm với phân tử khí nên bị khuếch tán được gọi là bức xạ khuếch
tán.
Hai loại bức xạ trên có dạng sóng ngắn nên chúng dễ dàng xuyên qua khí quyển đến
bề mặt Trái Đất, mặt đất hấp thụ chuyển năng lượng ánh sáng đó thành nhiệt năng, đốt
nóng lớp không khí bên dưới đồng thời bức xạ trở lại khí quyển dưới dạng sóng dài, phần
này gọi là bức xạ phản hồi của bề mặt Trái Đất. Bản thân khí quyển bị đốt nóng lại tỏa
nhiệt, một phần nhiệt bốc lên trên cao và mất
đi vào không gian giữa các hành tinh, phần
này được gọi là bức xạ hiệu dụng, phần nhiệt
còn lại được các phân tử khí trước hết là
điôxít cacbon, hơi nước hấp thụ và bức xạ
ngược trở lại mặt đất, phần này được gọi
là bức xạ nghịch của khí quyển. Bức xạ
nghịch chỉ rõ vai trò của khí quyển trong chế
độ nhiệt của vỏ Trái Đất. Cụ thể, chúng tôi biểu thị ở công thức sau đây:
Bức xạ hiệu dụng = Bức xạ phản hồi của bề mặt TĐ – Bức xạ nghịch của khí quyển
Từ công thức trên cho thấy, nhiệt độ không khí gần bề mặt Trái Đất có được chủ yếu
do: Thứ nhất là, bức xạ phản hồi của bề mặt Trái Đất (bao gồm đại dương và lục địa), ở
tầng đối lưu năng lượng bức xạ Mặt Trời không có khả năng đốt nóng trực tiếp không khí.
Thứ hai là, bức xạ nghịch của khí quyển, tất cả các phân tử khí, hơi nước, bụi… Trong khí
quyển đều có khả năng hấp thụ những luồng bức xạ sóng dài từ bề mặt Trái Đất và phản
xạ ngược trở lại.
Nếu không có sự tác động ngoại lai thì sẽ luôn tồn tại ở trạng thái cân bằng, rất cần
cho sự sinh tồn của các loài trên hành tinh này. Lớp vỏ khí như chiếc áo ấm giữ nhiệt giúp
cho Trái Đất không bị hóa lạnh về ban đêm giống như trên Mặt Trăng.
PHẦN II. NGUYÊN NHÂN GÂY RA HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH

1. Các khí nhà kính
Các thành phần khí chủ yếu gây ra hiệu ứng nhà kính, bao gồm: hơi nước, khí Cacbon
dioxit ( CO
2
), khí metan (CH
4
), khí Dinito oxit (N
2
O) và ô zôn (O
3
). Ngoài ra, những hoạt
động của con người đã làm xuất hiện thêm các chất khí mới vào thành phần các chất gây
ra hiệu ứng nhà kính như fluorure lưu huỳnh SF6, hydroflurocarbone HFC và
Hydrocarbures perfluoré PFC. Những khí này đều có đặc tính hấp thụ tia bức xạ hồng
ngọai từ bề mặt trái đất lên không gian.
Khí Công thức Tỉ lệ đóng góp (%)
Hơi nước H2O 36-72 %
CO
2
CO
2
9-26 %
CH
4
CH
4
4-9 %
O
3
O

3
3-7 %
Bảng 1.1: Tỉ lệ đóng góp của các khí gây hiệu
ứng nhà kính
1.1 Hơi nước (H
2
O)
Hơi nước là chất quan trọng và chiếm số lượng lớn trong khí nhà kính. Mây được hình
thành từ hơi nước trong khí quyển và cũng ảnh hưởng đến quá trình cân bằng nhiệt của
Trái Đất bằng việc phản xạ ánh sáng mặt trời và việc giữ lại các bức xạ cực tím. Khi
lượng khí trong bầu khí quyển tăng thì khí hậu sẽ thay đổi, do đó, lượng hơi nước trong
khí quyển cũng tăng lên. Tuy nhiên, khi nhiệt độ tăng, các yếu tố khí hậu sẽ thay đổi bao
gồm cả lượng hơi nước trong khí quyển. Trong khi đó, hoạt động của con người không
trực tiếp thêm lượng hơi nước đáng kể nào trong khí quyển.Khi hơi nước ngưng tụ lại, sự
nóng lên toàn cầu tăng lên khi mà lượng nước trong khí quyển tăng.
1.2 Khí Cacbon dioxit (CO2):
Cacbon dioxit là sản phẩm của quá trình hô hấp và nó đóng vai trò quan trọng trong
quá trình quang hợp của thực vật. Do đó, khi nó ở trạng thái cân bằng thì sẽ không có vấn
đề nào xảy ra. Bên cạnh đó, CO
2
được tạo ra từ sự phun trào núi lửa hoặc từ các hoạt
động của con người như phá rừng, đốt cháy các nhiên liệu hóa thạch. Từ khi cuộc cách
mạng công nghiệp bắt đầu và sự tàn phá rừng của con người một cách chóng mặt thì hàm
lượng khí CO
2
đã bắt đầu tăng nhanh.
1.3 Khí Metan (CH4)
Khí CH
4
được giải phóng ra bầu khí quyển trong quá trình khai thác và vận chuyển

than, khí đốt tự nhiên và dầu mỏ. Ngoài ra, nó còn được tạo ra trong quá trình phân hủy
các chất thải trong các bãi chôn lấp, nông nghiệp, và đặc biệt là trồng lúa, tiêu hóa động
vật nhai lại và quản lý phân bón kết hợp với chăn nuôi trong nước.CH
4
là một loại khí gây
hiệu ứng nhà kính hoạt động hơn rất nhiều so
với CO
2
. CH
4
giữ nhiệt gấp 21 lần so với khí
CO
2
.
1.4 Ôzôn (O3)
Ôzôn có thể tìm thấy rất nhiều trong các
chất tẩy rửa công nghiệp ngày nay.
1.5 Khí Dinito oxit (N2O)
Một trong những khí gây hiệu ứng nhà kính mạnh mẽ được tạo ra trong quá trình sản
xuất nông nghiệp, phân bón hữu cơ. Ngoài ra còn được sản xuất ra từ các hoạt động công
nghiệp như sản xuất sản xuất HNO
3
cũng như quá trình đốt cháy nhiên liệu hóa thạch, đốt
sinh khối,… Mỗi phân tử N
2
O bắt giữ nhiệt gấp 270 lần so với CO
2
.
1.6 Các chất khí khác
Các chất khí trong họ CFC là hợp chất hữu cơ được tổng hợp hoàn toàn khi sản xuất

công nghiệp và được sử dụng rộng rãi. Các chất khí trong họ CFC ngày nay đang được sử
dụng rộng rãi trong các bình khí nén của máy lạnh, máy điều hòa không khí hay các loại
bình xịt, đây là chất khí gây hiệu ứng nhà kính bắt nguồn chủ yếu từ hoạt động công
nghiệp của con người. CFC chiếm tỷ trọng lớn nhất nhưng nó không đóng góp nhiều vào
hiệu ứng nhà kính mà chủ yếu gây phá hủy tầng ô-zon mà thôi.
Khí CO được thải ra ngoài khí quyển khi sản xuất công nghiệp, nhiên liệu chứa C
nhưng được đốt không hoàn toàn. Nó tác động 1 cách gián tiếp đến bức xạ bằng cách
nâng cao nồng độ khí CH
4
và O
3
. Trong bầu khí quyển, nó sẽ bị oxy hóa tạo thành CO
2
,
làm tăng hàm lượng của CO
2
trong khí quyển. CO chỉ tồn tại trong khí quyển được vài
tháng, chỉ có như thế thì nó sẽ tồn tại lâu hơn.
2. Tác động của con người gây ra “Hiệu ứng nhà kính”
Theo cơ chế hoạt động của hiệu ứng nhà kính Trái Đất thì không chỉ thải khí, bụi mới
làm tăng hiệu ứng nhà kính của Trái Đất mà việc phá rừng, lấn biển (rừng và biển đều có
vai trò là hấp thụ nhiệt từ từ và tỏa nhiệt từ từ, bên cạnh đó nó còn có khả năng là hấp thụ
khí cacbonic, nhả ôxi), thay đổi hệ thống thủy văn, xây dựng các đô thị, khu công nghiệp,
… thì cũng gián tiếp làm tăng thêm hiệu ứng nhà kính.
Từ khi bắt đầu của cuộc Cách mạng công nghiệp (260 trăm năm trước), chúng ta đã
đốt nhiên liệu hóa thạch, than ban đầu, sau đó dầu và khí tự nhiên với số lượng lớn hơn
nhiều so với trước đây. Nhiên liệu hóa thạch có chứa C đã được ẩn đi trong hàng triệu
năm. Đốt cháy nhiên liệu hóa thạch ta lại thải ra một lượng CO
2
vào trong khí quyển,

nhiều hơn so với chu kỳ C bình thường có thể quản lý và làm cho bầu không khí ấm dần
lên.
Than, dầu và khí tự nhiên được hình thành từ những thực vật đã sống hàng triệu năm
trước đây. Chúng được lấp dưới cát, đá phấn hoặc các trầm tích khác. Dưới áp lực cao,
một phần biến thành than. Các phần khác của thực vật kết hợp với hy-đrô thành dầu và
khí tự nhiên. Bằng cách này, một lượng lớn C được giữ lại dưới đất cho đến khi con người
bắt đầu khai thác mỏ và khoan xuống đất. Khi nhiên liệu hóa thạch bị đốt và cháy trong
các nhà máy điện, các công xưởng, tòa nhà, ô-tô, và các động cơ khác, C được giải
phóng. Ngày nay, thiên nhiên chỉ có thể hấp thụ một phần của lượng C tăng thêm đó. Phá
rừng làm cho vấn đề hiệu ứng nhà kính nghiêm trọng hơn, bởi vì đất bị để trống và C bị
thải ra nhanh hơn nhiều so với lượng thực vật có thể tăng trưởng và hấp thụ C ở những
nơi khác.
Trong nông nghiệp cũng làm trầm trọng thêm vấn đề tại việc sử dụng đất. Ví dụ, khi
số gia súc và bò tăng lên để sản xuất thêm nhiều thịt và sữa, khí nhà kính cũng thải nhiều
hơn. Các con vật nhai lại thải ra CH
4
khi chúng tiêu hóa. Người ta cần sử dụng nhiều đất,
đạm thực vật và năng lượng để nuôi động vật hơn là sản xuất thức ăn thực vật.
PHẦN III. TÁC ĐỘNG CỦA HIỆU
ỨNG NHÀ KÍNH
1. Tác động tích cực
Nếu không có hiệu ứng nhà kính, thì
nhiệt độ trên Trái Đất sẽ chỉ là 15
o
C – một
nhiệt độ mà không phải bất kì sinh vật nào
trên hành tinh này cũng có thể thích nghi
được, nhưng nhờ có hiệu ứng nhà kính, mà nhiệt độ trên Trái Đất được nâng lên, tạo điều
kiện thích hợp cho các sinh vật phát triển.
Hiệu ứng nhà kính cững được các nhà khoa học sử dụng như một nguồn cung cấp

năng lượng, bằng cách đặt các hộp thu phẳng trong các nhà kính, để hấp thu nhiệt lượng
trong đó, nhiệt độ có thể đạt được trên 150
0
C, ứng dụng để đun nước, thiết bị sấy, bếp Mặt
Trời
Người ta thường trồng các loại hoa, rau quả trong các nhà kính, để nhờ hơi ấm trong
đó mà cây cối có thể nhanh chóng đâm chồi, nảy lộc.
2. Tác động tiêu cực
Bên cạnh những tác động tích cực, thì hiệu ứng nhà kính, hay nói chính xác hơn là
những hoạt động làm tăng hàm lượng khí nhà kính trong khí quyển lên, đã tạo ra những
ảnh hưởng tiêu cực, mà cụ thể là làm cho Trái Đất nống dần lên kéo theo những hệ quả
khôn lường như:
2.1 Băng ở hai cực tan chảy
Một nghiên cứu mới của các nhà khoa học
cho thấy nhiệt độ Nam cực đang tăng lên
nhanh hơn so với dự đoán, trong khi những
tảng băng ở Bắc cực đang dần biến mất và
Greenland (một vùng nằm ở Bắc cực) có thể
nằm dưới nước biển trong tương lai không xa. Băng tại phía tây của Nam cực- nơi có
lượng băng rất vững chắc, cũng đang dần tan chảy, làm mực nước biển tăng lên nhanh
chóng.
Hilary Benn- Bộ trưởng môi trường của một trong 16 nước tham gia nghiên cứu, đã
tới thăm Nam cực và chứng kiến công việc của các nhà khoa học. Ông phát biểu: ”Từ
những nơi hẻo lánh nhất của thế giới, tình trạng thay đổi khí hậu đang diễn ra nghiêm
trọng. Chúng ta cần phải hành động ngay”.
2.2 Dòng hải lưu thay đổi
Hiệu ứng nhà kính làm áp suất không khí tác dụng lên lục địa và biển giảm đi, dẫn tới
sự biến thiên của các luồng gió, làm thay đổi các dòng hải lưu.Nhiệt độ tăng, băng tan
làm hải lưu thay đổi mạnh hơn, và điều này gây ảnh hưởng tới chuyển động quay quanh
trục của trái đất.

2.3 Tăng mực nước biển
Mực nước biển toàn cầu đang gia tăng với tốc độ nhanh hơn so với dự đoán của giới
khoa học, do tình trạng băng tan chảy nghiêm trọng ở hai địa cực.
Theo nhận định của các nhà khoa học, mực nước biển sẽ dâng lên với tốc độ tăng dần
do hành tinh ngày càng nóng hơn. Dự báo này có ý nghĩa quan trọng đối với những cộng
đồng dân cư dọc bờ biển.
Mực nước biển đang dâng với tốc độ trung bình là 1,8 mm/năm trong thế kỉ qua,và
gần đây, trong kỷ nguyên sử dụng veệ tinh đo độ cao để xác định mực nước biển, từ năm
1993 đến 2000, mực nước biển đã dâng vào khoảng 2,9-3,4 ± 0,4-0,6 mm/năm.
2.4 Khí hậu trái đất sẽ bị biến đổi sâu sắc
Các đới khí hậu có xu hướng thay đổi:
 Nhiều vùng đất bị sa mạc hóa
 Hạn hán kéo dài, cháy rừng diễn ra thường xuyên hơn.
 Hiện tượng El Nino và La Nina ngày càng diễn ra thường xuyên hơn, làm cho lượng
mưa tăng lên gây lụt lội, trong khi những nơi khác lại là hạn hán.
2.5 Nhiều bệnh tật mới xuất hiện, sức khỏe con người suy giảm
Nhiều loại bệnh tật mới đối với con người xuất hiện, các loại dịch bệnh lan tràn, sức
khoẻ của con người bị suy giảm. Số người chết vì nóng có thể tăng do nhiệt độ cao trong
những chu kì dài hơn trước. Sự thay đổi lượng mưa và nhiệt độ có thể đẩy mạnh các bệnh
truyền nhiễm.
Từ đó cho ta thấy rằng, hiệu ứng nhà kính nhân loại làm cho khí hậu nóng dần lên,
gây mất cân bằng sinh thái, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và các hoạt động
sống toàn nhân loại chúng ta.
PHẦN IV. THỰC TRẠNG
Các nhà khoa học dự đoán rằng: Nếu cứ để nồng độ Carbon dioxit cứ tiếp tục tăng lên
thì sau 100 năm nữa hoặc trong thời gian ngắn hơn, rất có thể hiệu ứng nhà kính có mức
độ giống như thời kỳ kỷ Jura sẽ tái xuất hiện. Lúc đó băng ở hai cực của trái đất sẽ tan ra,
đất liền sẽ bị thu hẹp, nhiệt độ tăng cao và một lượng lớn sinh vật sẽ bị huỷ diệt.
Theo các phân tích mới đây: trong 200 năm qua, nhiệt độ trung bình của Trái đất tăng
lên 0,5

0
C. Ước tính đến giữa thế kỷ sau, bề mặt Trái đất sẽ nóng thêm 1,5 - 4,5
0
C, trong
đó nhiệt độ ở vĩ độ trung và cao tăng lên càng nhiều.
Vùng Bắc cực nóng lên nhanh gấp 2 lần mức nóng trung bình trên toàn cầu. Diện tích
của Biển Bắc cực được bao phủ bởi băng trong mỗi mùa hè đang thu nhỏ lại. Tính từ năm
1980, vùng Bắc Âu đã mất khoảng 20-30% lượng băng trên biển
Trong vòng 100 năm qua, mực nước biển trên phạm vi toàn cầu đã tăng từ 1-2mm mỗi
năm. Kể từ năm 1992, tỷ lệ này khoảng 3mm/năm. Mực nước biển tăng, cư dân sống ở
các đảo thấp và các thành phố ven biển đối mặt với tình trạng ngập lụt.
Cháy rừng thường xuyên diễn ra hơn, với quy mô trên diện rộng làm mất rất nhiều
diện tích bao phủ trên bề mặt Trái Đất.
Lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính lên mức kỷ lục. Tổ chức khí tượng thế giới
(WMO) cho biết:
Kể từ sau năm 1750 , hàm lượng khí CO
2
đã tăng 38%, chủ yếu là do việc đốt cháy
các nhiên liệu hóa thạch, nạn phá rừng và những thay đổi về việc sử dụng đất đai.
Nồng độ khí CO
2
trong không khí hiện nay là 380ppm, trong khi đó mức chuẩn là
350ppm.
Các phương tiện giao thông ngày càng nhiều, dẫn đến lượng khí NO, NO
2
ngày càng
gia tăng
Về khí metan, loại khí gây hiệu ứng nhà kính lớn thứ hai, hàm lượng khí này trong
bầu khí quyển cũng đã tăng 158%, chủ yếu do các hoạt động của con người như khai thác
các nhiên liệu hóa thạch và đổ các chất thải

PHẦN V. BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN VÀ GIẢM BỚT HẬU QUẢ CỦA HIỆU ỨNG
NHÀ KÍNH
Hiệu ứng nhà kính là một trong những vấn đề đang được thế giới quan tâm, nó gây ra
những hậu quả mà chúng ta không thể lường trước được. Vì vậy, chúng ta cần phải xây
dựng kế hoạch để ngăn chặn và giảm bớt hậu quả trước sự tăng lên của hiệu ứng nhà
kính.
1. Xây dựng kế hoạch để giảm các chất gây ô nhiễm môi trường – những chất làm
tăng nhiệt độ của Trái Đất.
1.1 Thực hiện các điều ước quốc tế về biến đổi khí hậu
a. Công ước khung của liên hợp quốc về biến đổi khí hậu:
Trước những hiểm họa và thách thức lớn về hiệu ứng nhà kính, Liên Hợp Quốc cùng
với Tổ Chức Khí Tượng Thế Giới (WMO) và Chương trình Môi trường của Liên Hợp
Quốc (UNEP) đã đưa ra một Công ước quốc tế về khí hậu. Đó là cở sở pháp lý để tập
trung sự nổ lực của cộng đồng thế giới đối phó với những biểu hiện tiêu cực của biến đổi
khí hậu. Ngày 9 tháng 5 năm 1992, Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí
hậu (UNFCCC) đã được chấp nhận tại New York. Công ước khung của Liên Hợp Quốc
về biến đổi khí hậu (UNFCCC) còn được gọi là Hội nghị thượng đỉnh về Trái Đất được tổ
chức ở Rio de Janeiro (Brasil) từ ngày 3 đến ngày 14 tháng 6 năm 1992. Công ước có
hiệu lực từ ngày 21 tháng 3 năm 1994. Tháng 11 năm 1994, Việt Nam chính thức phê
chuẩn tham gia công ước này. Cho đến nay, 192 quốc gia trên thế giới đã phê chuẩn công
ước này.
Theo công ước, các quốc gia tham gia công ước phải thực hiện các biện pháp tương
ứng về giảm sự thay đổi khí hậu bằng cách giới hạn những phát thải các khí nhà kính do
con người gây ra và bảo vệ, tăng cường các bể hấp thụ và bể chứa khí nhà kính của mình.
Các chính phủ phải thu thập thông tin về phát thải khí nhà kính, các chính sách cấp quốc
gia và những thực hành, kinh nghiệm tốt nhất, khởi động chiến lược quốc gia để đối phó
với phát thải nhà kính và thích ứng với những tác động đụ kiến bao gồm giúp đỡ các nước
đang phát triển về mặt tài chính và kỹ thuật, hợp tác với nhau trong việc chuẩn bị để thích
ứng với những tác động của biến đổi khí hậu.
b.Nghị định thư Kyoto

Nghị định Kyoto là một nghị định liên quan đến chương trình khung về biên đổi khí
hậu mang tầm vóc quốc tế của Liên Hợp Quốc vối mục tiêu cắt giảm lượng khí thải gây
hiệu ứng nhà kính. Bản dự thảo được đưa ra ký kết vào ngày 11 tháng 12 năm 1997 ở
Kyoto, Nhật Bản. Tháng 2 năm 2005, Nghị định thư Kyoto chính thức có hiệu lực. Tính
đến thời điểm tháng 2 năm 2009, Nghị định thư Kyoto có 181 quốc gia tham gia.
Mục tiêu được đặt ra nhằm cân bằng lại lượng khí thải trong môi trường ở mức độ có
thể ngăn chặn những tác động nguy hiểm cho sự tồn tại và phát triển của con người vốn
chịu ảnh hưởng sâu sắc của môi trường.
1.2 Thực hiện Giờ Trái Đất
Giờ Trái Đất là một sáng kiến toàn cầu của tổ chức Quỹ Quốc tế về Bảo vệ Thiên
nhiên (WWF) về biến đổi khí hậu. Tổ chức đã kêu gọi các cá nhân, doanh nghiệp, chính
phủ và những tổ chức xã hội tắt đèn trong 1 giờ vào lúc 20h30 đến 21h30 theo giờ địa
phương vào ngày thứ 7 cuối cùng của tháng 3 hàng năm. Mục đích của sự kiện này nhằm
đề cao việc tiết kiệm điện năng.
Sự kiện Giờ Trái Đất đã bắt đầu tại Sydney vào ngày 31 tháng 3 năm 2007 và thu hút
sự tham gia của hơn 2 triệu người và 2000 doanh nghiệp. Sự kiện này đã làm giảm 10.2%
sảm lượng điện bằng 48.613 chiếc ô tô trên đường, giảm 24,86 tấn khí CO
2
. Sau đó, nhờ
các phương tiện truyền thông, sự kiện ngày càng thu hút sự chú ý của hang triệu công dân
trên toàn thế giới.
Năm 2008, số người tham gia là hơn 50 triệu người của 35 quốc gia.
Năm 2009, sự kiện dự kiến đã thu hút 1 tỉ
người và 1.000 thành phố trên toàn thế giới tham
gia vời thông điệp “Hành động của chúng ta có thể
làm thay đổi thế giới”. Việt Nam đã lần đầu tiên
tham gia sự kiện Giờ Trái Đất vào năm 2009 với
các thành phố là: thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh, Cần Thơ, Hội An, Huế và Nha Trang.
Năm 2010, sự kiện được diễn ra lần lượt ở các quốc gia trên thế giới vào ngày 27

tháng 3 năm 2010. Khẩu hiệu của năm 2010 là: “ Hành động nhỏ cho thay đổi lớn”.
Sự kiện Giờ Trái Đất 2011 được diễn ra vào ngày 26 tháng 3. Ở Việt Nam với khẩu
hiệu là: “Tắt đèn 60 phút, hành động 365 ngày vì biến đổi khí hậu”, mục đích là kêu gọi
tiết kiệm điện quanh năm. Sự kiện này đã thu hút được 30 tỉnh thành trong cả nước tham
gia.
Năm 2012, ở Việt Nam tham gia sự kiện với khẩu hiệu: “Tôi và bạn hãy cùng hành
động” vào ngày 31 tháng 3 năm 2012.
2. Trách nhiệm của chúng ta để giảm bớt khí nhà kính
2.1 Trồng cây và bảo vệ rừng
Rừng được ví là lá phổi xanh của Trái Đất và nó có vai trò rất quan trọng trong sự
sống của nhân loại.Rừng có chức năng là cân bằng lượng khí CO
2
và khí O
2
trong khi
quyển.
Cây xanh và rừng có khả năng hấp thụ và làm giảm hàm lượng của khí CO
2
trong khí
quyển.Vì vậy, rừng có thể hạn chế được hiệu ứng nhà kính và những hậu quả sinh thái do
hiệu ứng nhà kính gây ra. Cây xanh thực hiện quá trình quang hợp để hấp thụ khí CO
2

nhả ra khí O
2
cần thiết cho sự sống.
2.2 Sử dụng năng lượng một cách tiết kiệm và hợp lý
a. Chúng ta hãy tiết kiệm điện
Một phần điện năng được sản xuất từ việc đốt các nhiên liệu hóa thạch, sinh ra một
lượng khí CO

2
lớn. Hãy sử dụng ánh sáng tự nhiên, dùng các thiết bị dân dụng tiết kiệm
điện như bóng đèn compact, các loại pin nạp, tắt hết các thiết bị điện khi ra khỏi phòng là
bạn đã góp phần cùng nhân loại bảo vệ Trái đất.
b. Hạn chế sử dụng nhiên liệu hóa thạch:

Một trong những giải pháp khả thi nhất là hạn chế đốt than, dầu và khí thiên nhiên.
Hiện nay, dầu là nhiên liệu phổ biến và cũng từ dầu người ta sản xuất ra nhiều sản phẩm
khác, còn than lại được sử dụng rất phổ biến ở hầu hết các quốc gia, chủ yếu là để sản
xuất điện. Theo các chuyên gia Năng lượng Mỹ, cho tới thời điểm hiện nay chưa có một
giải pháp hoàn hảo nào để thay thế nhiên liệu hóa thạch mặc dù đây là nguồn gây hiệu
ứng nhà kính rất lớn. Bởi vậy, sớm hay muộn con người cũng sẽ phải tìm ra nguồn nhiên
liệu khác thay thế như nhiên liệu sinh học, điện nguyên tử hay các nguồn năng lượng
khác. Chúng ta hãy thay cho những các bếp than hay bếp dầu bằng bếp gas để vừa tiết
kiệm được thời gian và vừa than thiệt với môi trường
c. Sử dụng các phương tiện đi lại phù hợp để giảm lượng khí CO
2
Theo các nhà khoa học nghiên cứu, khoảng 4.5 lít nhiên liệu cho xe chạy sẽ tạo ra
khoảng 9 kg khí CO
2
ngoài khí quyển. Do đó, chúng ta cần phải sử dụng phương tiện đi
lại một cách hợp lý như đi xe buýt để đi làm hoặc đi học, sử dụng xe đạp khi đi những nơi
gần,… Ở Hoa Kỳ và các nước tiên tiến khác đã có nhiều biện pháp để giảm khí nhà kính
mà chủ yếu là giảm lượng khí thải từ xe máy nổ và các nhà máy kỹ nghệ.
2.3 Sử dụng năng lượng xanh để giảm thiểu khí nhà kính
Năng lượng xanh còn gọi là năng lượng tái tạo, năng lượng tái sinh hoặc năng lượng
sạch. Các loại năng lượng xanh mà ngày nay người ta thường đề cập đến là: năng lượng
mặt trời, năng lượng sóng, năng lượng gió, năng lượng thủy triều, năng lượng địa nhiệt,…
Nguyên tắc cơ bản của việc sử dụng năng lượng xanh là tách một phần năng lượng từ
các quy trình diễn biến liên tục trong môi trường và đưa vào trong sử dụng kỹ thuật. Mục

tiêu của việc sản xuất năng lượng xanh là tạo ra năng lượng mà không gây hại đến môi
trường và năng lượng tái tạo là đối tượng gây ra ít tác động hơn cả. Vì vậy, khi sử dụng
năng lượng xanh sẽ giảm sự tạo ra của các khí nhà kính. Nhiều người ủng hộ năng lượng
tái tạo cho rằng càng sử dụng năng lượng xanh bao nhiêu thì hành tinh cua chúng ta sẽ
“sống” lâu hơn bấy nhiêu
3. Một số biện pháp giảm thiểu hậu quả trước sự tăng lên của hiệu ứng nhà kính
Trái Đất đối với Việt Nam.
Tăng hiệu ứng nhà kính của Trái Đất đã kéo theo biến đổi khí hậu và Việt Nam là một
trong 5 quốc gia trên thế giới gánh chịu những hậu quả nặng nề do biến đổi khí hậu gây
ra. Những năm gần đây, Việt Nam thường phải hứng chịu thiên tai như bão, lũ lụt, hạn
hán, rét đậm, rét hại,…. Tính chất thất thường của nó gây ra những tổn thất to lớn cho
người dân Việt Nam. Vì vậy, Việt Nam cần có những biện pháp giảm thiểu hậu quả do
hiệu ứng nhà kính gây ra.
3.1 Trồng cây xanh và bảo vệ rừng
Giải pháp này rất quan trọng trong việc giảm lượng khí nhà kính và điều hòa khí hậu,
có những lợi ích trước mắt và lâu dài. Nhà nước cần có những chính sách nghiêm ngặt
hơn để bảo vệ rừng, thực hiện giao đất rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc, thực hiện đóng
cửa rừng, bảo vệ rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn và rừng ngập mặn. Ngoài ra, Nhà nước
cần có những chính sách khuyến khích người dân tham gia trống cây gây rừng.
3.2 Thực hiện các biện pháp giảm thiểu tác động của hạn hán, nhiễm mặn, thiếu nước
sản xuất, sinh hoạt và ngập úng
Đối với miền Bắc, cần tiến hành khảo sát và nạo vét lòng hồ cũ, xây thêm hồ chứa
nhằm giải quyết nước cho sản xuất, sinh hoạt khi khô hạn kéo dài; tìm giải pháp hữu hiệu
bảo vệ gia súc, gia cầm, cây trồng trước những đợt rét đậm, rét hại và nắng nóng kéo dài.
Khu vực TP HCM cần tăng cường xây dựng, gia cố các đê bao để chống sự sụt lở
những nơi xung yếu. Hạn chế lấp kênh rạch ở mức thấp nhất vì nó là nơi chứa, dẫn nước
ra sông lớn và có khả năng chống ngập úng trên diện rộng. Đồng thời, cấm khai thác cát
trên sông, tăng cường nạo vét kênh rạch giúp nước lưu thông tốt hơn.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long cần đầu tư xây dựng các bờ đê bao để chống nhiễm
mặn, tăng cường trồng và bảo vệ rừng ngập mặn, đồng thời nghiên cứu giải pháp giải

quyết nước sinh hoạt trong mùa khô. Quy hoạch những vùng nuôi trồng thủy sản (nhất là
nuôi tôm), không để tái diễn tình trạng phá rừng nuôi tôm. Bên cạnh đó, nên tập trung
nghiên cứu để tạo ra những giống cây trồng, vật nuôi chịu được đất phèn, đất mặn, chịu
được ngập úng và phù hợp với điều kiện sinh thái, tập quán canh tác nơi đây.
Nhà nước cần điều chỉnh lại chiến lược “sống chung với lũ” cho vùng đồng bằng sông
Cửu Long và đẩy mạnh tăng cường hợp tác quốc tế trên cơ sở cùng khai thác, bảo vệ tài
nguyên sông Mê-kông.
3.3 Thực hiện đồng loạt các biện pháp nhằm giảm thiểu tối đa tác hại của bão, lũ lụt,
xói lở, sạt đất và cần xác định chống bão là quá trình lâu dài, hàng năm và thường
xuyên.
Mỗi làng, xã, thôn, xóm cần chọn những địa điểm cao nhất trong địa phương để xây
dựng nhà cộng đồng, bể chứa nước, kho dự trữ lương thực và chất đốt, nhà cho gia cầm,
gia súc phòng khi bão, lũ lụt đến thì người dân và tài sản của họ cò thể lên đó lánh nạn.
Việc xây dựng cần có sự phối hợp của Nhà nước và nhân dân trên cơ sở đóng góp kinh
phí. Trong điều kiên cho phép, chúng ta cần xây dựng trường học, đường giao thông lên
những địa điểm cao ráo của địa phương.
Các địa phương cần thường xuyên gia cố các đê, đập, hồ thủy điện, đặc biệt là những
đoạn xung yếu, đồng thời buộc tất cả những nhà dân sống trên mặt đê, sườn và chân đê
phải di dời tạo không gian an toàn để kiểm soát đê (các tổ mối thường rất khó bị phát hiện
nếu có nhà dân sinh sống trên đê, nó là những “quả bom” nổ chậm rất dễ gây vỡ đê).
Về lâu dài, chúng ta cần đề phòng sự dâng lên của mực nước biển, vì thế ngay từ bây
giờ phải đi đến những nơi ven biển, những nơi trũng để đắp đê và trồng rừng ngập mặn,
có kế hạch di chuyển dân.
3.4 Nghiên cứu, phát triển ứng dụng nguồn năng lượng sạch:
Đẩy mạnh nghiên cứu phát triển năng lượng gió, thủy triều, Mặt Trời, sóng biển, sinh
học để giải quyết thiếu điện, chất đốt nhằm giảm sự tăng lên của hiệu ứng nhà kính Trái
Đất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tự Lập, Địa lí tự nhiên Việt Nam , Nhà xuất bản Đại học Sư phạm (năm 2007).
2. Lê Bá Thảo, Thiên nhiên Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam (năm 2009).

3. Phạm Ngọc Toàn, Phan Tất Đắc, Khí hậu Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học và Kỉ
thuật Hà Nội (năm 1975).
4. Tăng Văn Đoàn, Trần Đức Hạ, Kĩ thuật môi trường, Nhà xuất bản Giáo dục (năm
2004)
5. L.P. Subaev, Địa lí tự nhiên đại cương tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục (năm 1981).
6. Http://www.wikipedia.com.
7. />8. />

×