Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

đồ án Thiết kế đôg hoạ glass paint

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.28 MB, 30 trang )

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
MỤC LỤC
Ngành bao bì của Việt Nam vẫn dừng lại ở mức sản xuất thủ công, đặc biệt là ở khâu
thiết kế cấu trúc bao bì. Chính vì không có một lưu đồ thiết kế và chế tạo mẫu hoàn
chỉnh mà sản phẩm bao bì của chúng ta không tinh xảo do mò mẫm bằng tay, chúng ta
vẫn không xác định được các thông số ảnh hưởng đến quá trình sản xuất và khả năng
chịu tác dụng lực của vật liệu do không thể xây dựng mô hình để tính toán trên máy tính
từ trước khi sản xuất, không thể mô phỏng được quá trình đóng gói sản phẩm và các giải
pháp thay đổi giữa các yếu tố đầu vào và đầu ra. Tất cả đều thực hiện thủ công và mất
rất nhiều công sức nhưng hiệu quả đạt được lại không cao 11
1.2: Đặc điểm của màu vẽ thủy tinh 16
Màu bền với thời gian 16
Khó tẩy rửa va không bị phai màu, đặc biệt khi vẽ trên vật liệu trong suốt thì cho hiệu
ứng ánh sáng 16
3
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Sau một thời gian tìm hiểu và thâm nhập thực tế em nhận thấy : Việc
trang trí, làm đẹp cho các bao bì sản phẩm của hoạ sĩ thiết kế đồ hoạ là đóng
vai trò lớn trong việc tiêu thụ hàng hoá và phát triển thương hiệu. Bao bì ra
đời không chỉ đóng vai trò là bảo vệ sản phẩm mà nó còn mang giá trị thẩm
mỹ cao, với những ý tưởng sáng tạo mới mẻ của hoạ sĩ thiết kế mà sản phẩm
bao bì đang ngày càng được hoàn thiện và trở thành một lĩnh vực nghệ thuật
trong thiết kế đồ hoạ.
Một trong những mục đích chính của đồ hoạ là quảng cáo và ở đó bao bì
là hình thức tiếp thị nhanh nhất đến người tiêu dùng về hình ảnh và nhãn hiệu
của doanh nghiệp. Khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng, những yếu tố tác
động trực tiếp đến họ là màu sắc, là chữ viết, là hình ảnh, là chất liệu … được
sử dụng trong quá trình thiết kế, từ đó họ có thể cảm nhận được nội dung của
sản phẩm thông qua những yếu tố trên hay còn gọi đó là Ngôn ngữ đồ hoạ


trong thiết kế bao bì, đồng thời giúp cho người tiêu dùng nhận thức được tầm
quan trọng của bao bì đối với sự phát triển hiện nay của kinh tế Việt Nam,
hơn thế nữa là sự tìm tòi học hỏi muốn đưa vốn kiến thức đã học, đã được đào
tạo để trở thành một nhà thiết kế đồ hoạ trong tương lai.
2. Thực trạng nghiên cứu đề tài
Vẽ lên thủy tinh là loại hình nghệ thuật bắt nguồn từ Châu Âu. Hiện tại ở
Việt Nam sản phẩm “glass paint” chỉ mới dừng lại ở việc trang trí đồ thủy
tinh, quà lưu niệm mang tính chất thương mại. Một số họa sĩ , nghệ nhân táo
bạo đã sử dụng “glass paint” kết hợp với cách vẽ dân gian để tạo hình nghệ
thuật, tuy vậy loại hình nghệ thuật vẽ trên thủy tinh cao cấp còn khá mới mẻ ở
Việt Nam, và theo đó màu vẽ cũng chưa được dùng phổ biến.
4
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu các loại màu vẽ thủy tinh, ứng dung của nó trong thị trường
cũng như trong sự phát triển của nghệ thuật ở Việt Nam để từ đó tạo ra những
mẫu bao bì phù hợp cho sản phẩm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Các loại màu vẽ thủy tinh, chất liệu, cách thức sử dụng áp dụng sau đó
đưa ra hướng thiết kế bao bì phù hợp.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Sưu tầm tài liệu
Tổng hợp tài liệu, tư liệu
Đặt vấn đề và đưa ra hướng giải quyết
Phác thảo, lên ý tưởng
Hướng tới thiết kế mới lạ bắt mắt, trú trọng vào chất liệu và màu sắc đặc
trưng của “glass paint”
6. Đóng góp của luận văn:
Quảng bá sản phẩm màu vẽ thủy tinh mang thương hiệu Việt Nam
Đề tài hướng tới mục tiêu đem đến cho người dùng tiếp cận gần hơn tới

chất liệu “glass paint”
7. Kết cấu của luận văn:
Chương 1: Những vấn đề có liên quan đến đề tài.
Chương 2: Kết quả nghiên cứu và triển khai đề tài tốt nghiệp.
Chương 3: Thể hiện đề tài tốt nghiệp.
5
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1: Ngành mỹ thuật ứng dụng ở Việt Nam
1.1.1: Đặc điểm
Trong lĩnh vực nghệ thuật ở nước ta hiện nay, việc họa sĩ ứng dụng
những công nghệ khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sáng tác đã đem lại nhiều
biến đổi lớn về quan niệm cũng như trong hình thức thể hiện tác phẩm. Nó đã
thực sự trở thành một cuộc cách mạng trong lĩnh vực sáng tạo. Việc khai thác
triệt để khả năng đồ họa của máy vi tính giúp họa sĩ có thể xây dựng và phát
triển những hình ảnh hai chiều hoặc ba chiều, tĩnh hoặc động một cách dễ
dàng, tạo nên những tác phẩm “nghệ thuật kỹ thuật số” rất đa dạng và đặc sắc.
Có thể gọi chúng là những tác phẩm Mỹ thuật đa phương tiện (MTĐPT).
Thực tế ở nước ta hiện nay, MTĐPT là một phần không nhỏ và không
thể thiếu được trong nền mỹ thuật Việt Nam. Hơn lúc nào hết, nó góp phần
đẩy nhanh và mạnh sự phát triển, biến đổi của mỹ thuật cũng như thị trường
nghệ thuật trong nước. Tuy nhiên, ở Việt Nam khi nói đến MTĐPT rất nhiều
người thậm chí cả giới nghệ sĩ cũng đều nhìn nhận nó dưới góc độ kỹ thuật.
Lý do chính là do sự thiếu cập nhật thông tin đã gây ra những hiểu biết sai
lệch về MTĐPT. Chính sự hiểu biết sai lệch này đã tạo ra tâm lý sùng mộ quá
đáng hoặc tâm lý e sợ, dị ứng đối với MTĐPT. Thực chất, nguồn gốc mỹ
thuật và nền tảng tạo hình của tác phẩm MTĐPT lại xuất phát từ quá trình bố
cục những yếu tố tạo hình truyền thống của nghệ thuật thị giác như: điểm
chấm, đường nét, hình mảng, khối, không gian, màu sắc, chất liệu thông qua

những phương tiện biểu đạt phong phú và đa dạng của nhiều phương tiện, với
sự trợ giúp của máy vi tính. Chính vì vậy mà MTĐPT vừa mang trong nó
những đặc trưng của nghệ thuật thị giác đồng thời cũng chứa đựng những đặc
6
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
trưng ngôn ngữ tạo hình riêng do nó chịu sự chi phối của yếu tố công nghệ kỹ
thuật và quy trình thể hiện.
Sự khác nhau chủ yếu giữa “hội họa kỹ thuật số” và hội họa truyền thống
chính là sự giao tiếp của họa sĩ sáng tác và tác phẩm của mình. “Họa sĩ kỹ
thuật số” có tùy sử dụng những công cụ không phải sẵn có trong hội họa
truyền thống. Đó là: bảng mẫu màu thực tế gồm có hàng triệu màu; không
gian của tác phẩm kỹ thuật số có thể làm thay đổi to nhỏ tùy ý. Khả năng biên
tập các yếu tố thị giác trên bố cục của tranh kỹ thuật số cũng rất đa dạng và
phong phú; Bên cạnh đó, với một sự đa dạng và phong phú của những hiệu
ứng 2 chiều và 3 chiều được xây dựng sẵn và có khả năng kết hợp biến đổi để
tạo nên những hiệu ứng mới một cách nhanh chóng và hiệu quả không giới
hạn. Họa sĩ kỹ thuật số sử dụng một tablet (bàn vẽ, dùng với thiết bị nhập/
chuột hoặc bút hỗ trợ vẽ kỹ thuật số) cho phép vẽ với độ chính xác và chuyển
động giống như một cây cọ trong thực tế vẽ trang trí trên màn hình. Bề mặt
truyền thống của tranh cũng đã thay đổi trong hội họa kỹ thuật số. Thay vào
đó là một màn hình chứa khung tranh ảo hoặc sketchbook (Tấm vẽ phác thảo
kỹ thuật số), họa sĩ sử dụng một con chuột máy tính (mouse) hoặc bút vẽ và
tablet để trình bày trên bề mặt ảo của bức tranh.
Nếu xét về nghệ thuật, thể hiện tác phẩm trên máy tính cũng giống như
trên tranh trong nghệ thuật giá vẽ. Cũng sử dụng những thủ pháp bố cục,
đường nét, màu sắc , nhưng phương pháp thì khác. Ưu điểm của MTĐPT là
sáng tác đỡ tốn kém, linh động hơn, thay đổi bố cục nhanh hơn, dễ hình dung
tác phẩm và dễ sửa chữa. Tuy nhiên, họa sĩ sáng tác trên giá vẽ với cây cọ thì
nét bút khoáng đạt hơn Mặc dù vậy, nghệ thuật vẫn quan trọng nhất là ý
tưởng. Chính ý tưởng mới là hơi thở, là tiếng nói của nghệ thuật. Chất liệu,

máy tính hay đôi tay, cọ vẽ hay chuột vi tính chỉ là công cụ giúp thể hiện ý
tưởng của họa sĩ mà thôi.
7
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
Việc giao tiếp giữa người nghệ sĩ và vi tính thông qua thiết bị trung gian
như giao diện màn hình, thiết bị kết xuất là hình thức hoàn toàn khác với giao
tiếp giữa họa sĩ và bức tranh. Đây cũng chính là một trong những đặc trưng
của MTĐPT. Hình thức giao tiếp giữa họa sĩ và máy vi tính là một quá trình
tương tác hai chiều qua lại trong quá trình sáng tạo:
* Chiều từ máy vi tính tới họa sĩ: thông tin được thiết bị số hóa biến
những tín hiệu thị giác như điểm chấm, đường nét, màu sắc, hình khối thành
những tín hiệu số (digital). Quá trình số hóa diễn ra trên toàn bộ những tín
hiệu thị giác trong MTĐPT. Đây chính là quá trình số hóa ”Digitalization”.
* Chiều từ họa sĩ tới máy vi tính: rất đa dạng và phong phú, tùy thuộc
vào sự phát triển của khoa học công nghệ và mức độ ứng dụng của họa sĩ.
Một số dạng cơ bản như: joysticks (thiết bị nhập dùng để điều khiển máy vi
tính, có chức năng giống như chuột), bảng vẽ đồ họa (graphics tablets), găng
tay dữ liệu (data gloves), và thậm chí là cả những thiết bị mặc vào người họa
sĩ để thể hiện những chuyển động (animation) trong khi xây dựng phim hoạt
hình hoặc mô hình thực tế ảo (virtual reality)
Ở MTĐPT, ngoài yếu tố về không gian truyền thống (chiều dài, rộng,
sâu) còn có chiều thứ tư - chiều thời gian và chiều thứ năm - chiều tương tác:
* Chiều thời gian trong MTĐPT chính là đặc trưng tạo nên hiệu quả
chuyển động (animation). Chính nhờ khái niệm thời gian này mà những tác
phẩm MTĐPT trở nên sống động và đa dạng. MTĐPT cũng như âm nhạc,
trình diễn, video và phim là những dạng nghệ thuật thời gian. Có thể nói, thời
gian và sự chuyển động là nhân tố thiết yếu cấu thành nên tác phẩm MTĐPT.
* Chiều tương tác: sự tác động qua lại giữa người xem, người thưởng
thức và tác phẩm nghệ thuật đã tạo nên một đặc trưng mới của MTĐPT.
Người xem tham gia vào tác phẩm, có quyền thay đổi dòng chảy mạch ý

tưởng của tác phẩm. Với chiều tương tác này, tác phẩm MTĐPT trở nên sống
động, lôi cuốn và đa dạng hơn so với nghệ thuật giá vẽ.
8
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
Tỷ lệ của tác phẩm MTĐPT: Trong một vài thể loại của MTĐPT như
truyền hình, phim, và đồ họa vi tính hoặc nghệ thuật màn ảnh ,họa sĩ phải thể
hiện thế giới xung quanh trong một không gian chính xác của màn hình máy
vi tính, màn hình TV Trong hội họa truyền thống, họa sĩ có thể kéo dãn
khung tranh ra theo phương thẳng đứng hoặc nằm ngang để phù hợp với nội
dung mà đề tài và ý tưởng yêu cầu. Tuy nhiên, trong MTĐPT cụ thể là nghệ
thuật màn ảnh (screen art) có phần khác biệt nhỏ: nghệ sĩ phải làm việc bên
trong một không gian nền có tỷ lệ các cạnh cố định: Tỷ lệ các cạnh là quan hệ
giữa chiều rộng bức tranh và chiều cao. Hiện nay, đa số màn hình của máy
truyền hình chuẩn có tỷ lệ các cạnh là 4 x 3. Đối với truyền hình số (DTV -
Digital Television: truyền hình kỹ thuật số) màn ảnh và phim có độ rộng hơn
tiêu chuẩn TV và những màn ảnh phim cổ điển, với những tỷ lệ các cạnh là 16
x 9, hoặc 5.3 x 3 cho DTV và thậm chí còn rộng hơn (5.6 x 3) cho phim. Lợi
thế của tỷ lệ 4 x 3 là tương phản giữa 2 chiều của màn hình không quá mạnh.
Một đặc trưng nữa của tác phẩm MTĐPT đó chính là Âm thanh kỹ thuật
số: Chức năng chính của âm thanh là: Truyền thông thông tin đặc biệt; định
hướng người xem, thưởng thức nhận định được không gian và thời gian; mô
tả những tình huống đặc biệt. Trong MTĐPT, nghệ sĩ có thể biên tập âm
thanh, sử lý, hòa trộn hoặc tạo nên những hiệu ứng đặc biệt về âm thanh, làm
cho tác phẩm MTĐPT trở nên sống động hơn, độc đáo hơn.
Hình ảnh kỹ thuật số trong tác phẩm MTĐPT rất đa dạng và phong phú.
Tuy nhiên xét về mặt bản chất, chúng đều tồn tại dưới 2 dạng cơ bản: Hình
Vector và Hình Bitmap (raster).
Màu sắc kỹ thuật số: Trong mỹ thuật truyền thống màu sắc được sử dụng
dựa trên lý thuyết pha màu của Prang và Prewster. Tuy nhiên đối với
MTĐPT, màu sắc cũng rất đa dạng và phong phú. Có thể chia màu Kỹ thuật

số thành 2 dạng chính: Màu ánh sáng (RGB) - là hệ màu được sử dụng dựa
9
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
trên cơ sở lý thuyết ánh sáng của Newton. Tác phẩm MTĐPT khi được sáng
tạo và hiển thị trên màn hình vi tính, màn hình TV, đầu máy camera thường
sử dụng hệ màu ánh sáng này; Màu mực in (CMYK) - là hệ màu sử dụng dựa
trên lý thuyết hấp thụ ánh sáng trên bề mặt của chất liệu in.
Điểm chấm: trong MTĐPT khi thể hiện trên màn hình, mỗi điểm chấm
chỉ là một pixel có dạng hình học là hình vuông. Nếu tác phẩm được đem kết
xuất (in ra) điểm chấm sẽ được hiển thị là một point có dạng hình học là hình
tròn.
Rõ ràng, tùy thuộc vào môi trường hiển thị tác phẩm MTĐPT mà hình
thức của điểm chấm có sự thay đổi nhất định.
Bố cục đặc trưng của MTĐPT là dạng lưới: do tính chất thường được
hiển thị trên màn hình bởi những điểm ảnh (pixel) theo dạng ma trận cột và
dòng. Điều này thể hiện rất rõ trong những bố cục tác phẩm MTĐPT thuộc
lĩnh vực Mỹ thuật ứng dụng như dàn trang, thiết kế web Đây là thế mạnh
của dạng bố cục lưới vì nó thể hiện tính đồ họa và tính cấu trúc của bố cục rất
cao. Tuy nhiên, đó cũng là điểm yếu trong bố cục tác phẩm MTĐPT thuộc
lĩnh vực Mỹ thuật tạo hình vì thiếu đi sự uyển chuyển và linh hoạt.
Ngoài những đặc trưng kể trên, tác phẩm MTĐPT còn có những đặc
trưng khác liên quan đến kỹ thuật và công nghệ: Chất lượng của tác phẩm
MTĐPT phụ thuộc vào thiết bị kết xuất; thiết bị hiển thị màn hình; độ phân
giải hình ảnh; độ phân giải kết xuất; độ phân giải màn hình; định dạng hình
ảnh; mô hình màu để xây dựng tác phẩm; định dạng âm thanh; tốc độ đường
truyền dữ liệu trên internet; thiết lập tùy biến trên thiết bị người sử dụng
Như vậy, MTĐPT là một trong những ngành mới, xuất hiện ở Việt Nam
vào nửa cuối của thế kỷ XX. Sự hình thành của nó khởi đầu từ sự kết hợp của
hai lĩnh vực hoàn toàn khác nhau: Kỹ thuật công nghệ và Mỹ thuật. Mặc dù
vậy, những tác phẩm MTĐPT vẫn chủ yếu xây dựng trên những kiến thức nền

10
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
tảng của Nghệ thuật tạo hình. Đó chính là sự kết hợp (bố cục) các yếu tố thị
giác: điểm chấm, đường nét, hình mảng, khối, ánh sáng, màu sắc, chất liệu,
họa tiết tạo nên tác phẩm MTĐPT. Ngoài những nền tảng tạo hình truyền
thống của nghệ thuật thị giác, tác phẩm MTĐPT bản thân nó cũng mang
những đặc trưng riêng. Đó là quá trình số hóa tất cả những tín hiệu thị giác
của nghệ thuật thị giác. Đặc trưng MTĐPT thể hiện ở sự hình thành màu kỹ
thuật số; hình ảnh kỹ thuật số; không gian thể hiện của tác phẩm; âm thanh kỹ
thuật số; hình thức tương tác của nghệ sĩ với tác phẩm và những phương tiện
biểu đạt tác phẩm cũng như yếu tố thời gian trong MTĐPT
1.1.2: Ngành công nghiệp thết kế bao bì ở Việt Nam
Ngành bao bì của Việt Nam vẫn dừng lại ở mức sản xuất thủ công, đặc
biệt là ở khâu thiết kế cấu trúc bao bì. Chính vì không có một lưu đồ thiết kế
và chế tạo mẫu hoàn chỉnh mà sản phẩm bao bì của chúng ta không tinh xảo
do mò mẫm bằng tay, chúng ta vẫn không xác định được các thông số ảnh
hưởng đến quá trình sản xuất và khả năng chịu tác dụng lực của vật liệu do
không thể xây dựng mô hình để tính toán trên máy tính từ trước khi sản xuất,
không thể mô phỏng được quá trình đóng gói sản phẩm và các giải pháp thay
đổi giữa các yếu tố đầu vào và đầu ra. Tất cả đều thực hiện thủ công và mất
rất nhiều công sức nhưng hiệu quả đạt được lại không cao.
Ngành sản xuất bao bì hộp của nước ta trong những năm gần đây đã
được các cơ sở in, các nhà sản xuất bao bì chú ý đến nhiều và cũng đã có
nhiều sự đầu tư cho quy trình thiết kế – chế bản của mình với các loại máy
móc, thiết bị ngày càng hiện đại, tính chuyên môn hoá trong quy trình sản
xuất và phân công công việc ngày càng cao. Tuy nhiên mức độ tự động hoá
trong công việc vẫn chưa được tối ưu, thời gian sản xuất vẫn còn kéo dài.
Điều này là do:
11
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

Độ chính xác trong quá trình sản xuất chưa cao.
Công đoạn đầu tiên nhất, quyết định nhất để thiết kế ra một bao bì hộp là
phải xây dựng cấu trúc của nó, thông thường ở công đoạn này cấu trúc của
hộp được tạo trong các phần mềm chuyên dụng như Adobe Illustrator, Corel,
Freehand… với độ chính xác cho các thông số về độ dài, góc bo… chưa được
cao, mọi tính toán phải làm bằng tay rất thủ công mà lại không kiểm soát chặt
chẽ được sai hỏng.
Khi thiết kế cấu trúc thì hình dạng khuôn bế ít khi được bù trừ, và nếu có
thì vẫn chưa theo một chuẩn mực nào, chưa để ý nhiều đến các thông số quan
trọng như độ dày dao và độ dày giấy. Điều này làm cho bộ phận làm khuôn
rất khó khăn tuy đầu vào của bộ phận này cũng đã được kiểm soát chặt chẽ (là
file, phim, bài mẫu gốc, bản vẽ kỹ thuật, bản phân tích kỹ thuật, tờ in khung
định hình…) thế nhưng những người thợ ở đây vẫn phải thiết kế lại hình ảnh
từng hộp trên khuôn bằng cách vẽ thêm các đường đã bù trừ (các số bù trừ
cũng theo ước lượng – thông thường chỉ bù trừ độ dày giấy), các góc bo cần
thiết để dễ làm khuôn, các ký hiệu trên tờ phim để đặt các loại dao thích hợp.
Điều này làm cho quá trình làm khuôn bế cho một sản phẩm phải mất
khá nhiều thời gian.
Các hình ảnh đồ họa cho mẫu thiết kế cũng được tạo ra dựa vào khuôn
bế, do đó nếu khuôn bế sai thì vị trí, kích thước các hình ảnh này trên hộp
cũng sai.
Khả năng bố trí khuôn bế không nhanh và không sắp xếp các hộp trên
khuôn ở vị trí chính xác sao cho lợi giấy nhất do chỉ sử dụng Step and Repeat
trên các phần mềm thông dụng như AI, Corel, Freehand, Quark, PageMaker
hay bình trên các phần mềm bình trang điện tử vì khi bình vẫn phải tự tính
toán các thông số đan lồng cho các hộp mà chưa sử dụng phần mềm nào có
chức năng tự động tính toán cách bố trí dựa trên các thông số về khoảng cách
12
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
giữa hai hộp (khoảng cách giữa hai “con” trên khuôn bế), các thông số chừa

xén đã nhập vào phần mềm (như trong ArtiosCAD).
Khuôn bế sau khi thiết kế vẫn chưa được dàn chính xác trên tờ in, chưa
có một tiêu chuẩn nào đặt ra chung cho các cơ sở in để căn cứ vào đó chừa
các khoảng cách khi bố trí. Do đó, có nơi khi dàn khuôn vẫn chưa tiết kiệm
được giấy trong khi giấy là nguyên liệu có ảnh hưởng rất lớn đến chi phí sản
xuất và do đó chưa thể tăng số tiền lãi cho cơ sở in và giảm giá thành để giá
cả cạnh tranh được với các công ty khác.
Thợ làm khuôn sau khi có phim định hình vẫn chưa làm được khuôn
ngay mà thường phải chờ tờ vỗ bài có khung định hình tới thì mới xếp thử,
canh chỉnh, vẽ lại tờ phim theo tờ vỗ bài trước và sau khi bế (co giãn bao
nhiêu so với ban đầu, chừa giấy bao nhiêu để gấp hộp được…). Làm khuôn
sau khi in vỗ bài như vậy sẽ làm giảm tốc độ sản xuất (phương thức sản xuất
nối tiếp không thể nhanh bằng phương thức song song hay phương thức hỗn
hợp).
Phế phẩm nhiều do độ chính xác chưa cao ở từng khâu trong quá trình
sản xuất.
Thời gian chỉnh sửa lâu, muốn chỉnh sửa thì phải đi ngược lại nhiều
khâu, do đó làm tốn nhiều nhân công.
Mức độ nhanh chóng và tự động hoá trong các công đoạn chưa cao.
Năng suất và hiệu quả sản xuất chưa cao sẽ làm công ty chưa thể có lợi
nhuận cao.
Khi mua một món hàng người tiêu dùng không chỉ trả tiền cho sản phẩm
của mình cần mua mà còn phải thanh toán một khoản chi phí không nhỏ cho
bao bì. Trong một số trường hợp chi phí này lến đến 30% hoặc lớn hơn 30%
tổng giá trị thanh toán, nhưng người mua vẫn vui lòng chấp nhận. Vì sao như
vậy?
13
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
Các nhà sản xuất bao bì phải cân nhắc kỹ lưỡng khi quyết định xem sẽ
phải làm như thế nào để bao bì phải là một thể thống nhất với sản phẩm bên

trong và góp phần gia tăng giá trị của sản phẩm. Chẳng những thế, bao bì còn
phải có tính kinh tế, nghĩa là với một lượng vật liệu tối thiểu phải có số thành
phẩm tối đa. Bao bì phải vừa khít, quá trình đóng gói sản phẩm dễ dàng ít tốn
thời gian, giảm thiểu số màu in nhưng đạt hiệu quả trình bầy
Có một điều quan trọng mà chúng ta cần ghi nhớ: Bao bì có tính động và
thường xuyên thay đổi, vật liệu đòi hỏi phương pháp sản xuất mới vì vậy cần
có thiết bị mới. Chu kỳ thay đổi sẽ ngày càng nhanh. Chất lượng bao bì sẽ
ngày càng tốt hơn.
Ngoài ra, để đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng, quảng cáo sản phẩm bao
bì cần phải được thiết kế tạo nên sự hấp dẫn, nổi bật của sản phẩm bên trong,
phân biệt dễ dàng sản phẩm của nhà sản xuất này với nhà sản xuất khác Bao
bì phải đẹp và hấp dẫn. Màu sắc, hình ảnh, thông tin phải đáp ứng yêu cầu của
nhà sản xuất sản phẩm. Màu phải bền với thời gian, ánh sáng, phải giống
nhau giữa các đợt in khác nhau. Khi thiết kế bao bì phải thể hiện đầy đủ các
thông tin về sản phẩm bên trong, đáp ứng được yêu cầu của nhà sản xuất lẫn
người tiêu dùng: Ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, nguồn gốc sản phẩm, thành
phần, hướng dẫn sử dụng Trong một số trường hợp yêu cầu này cực kỳ
nghiêm khắc như những bao bì dược phẩm.
Tuy vậy, tương lai công nghiệp bao bì sẽ phải đối đầu với những thách
thức lớn về công nghệ, đó là khuynh hướng bao bì phải mỏng, nhẹ, an toàn
hơn cho môi trường, năng suất đóng gói cao, in ấn đẹp hơn. Trong khi đó thì
nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất bao bì ngày càng khan hiếm, yêu cầu
của khách hàng đối với nhà sản xuất bao bì ngày càng khắt khe và đòi hỏi cao
hơn, đồng thời sự quản lý của chính phủ ngày càng nghiêm khắc.
Trả lời về xu hướng bao bì toàn cầu, ông Herry Debney - Chủ tỉnh hội
14
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
đồng bao bì Úc có nêu: “Cắt giảm chi phí; rút ngắn quá trình sản xuất; bao bì
tiện lợi; thời gian sử dụng được kéo dài; hệ thống phân phối tiên tiến và quản
lý hiệu quả kênh phân phối; bao bì như một công cụ marketing; quan tâm đến

môi trường; thương mại điện tử và xu hướng toàn cầu hóa".
Việc đặt xu hướng cắt giảm chi phí lên hàng đầu là một sự thật không
thể trốn tránh đối với tất cả các doanh nghiệp bao bì. Ngày nay chúng ta
muốn giữ được hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thì phải liên tục nâng
cao chất lượng hiệu quả trong sản xuất và dịch vụ, phải tìm ra các biện pháp
nhằm phục vụ tốt nhất, mang lại nhiều lợi ích cao nhất cho khách hàng.
Xem xét bao bì như một công cụ tiếp thị cũng là một xu hướng quan
trọng mà chúng ta cần quan tâm. Việc thay đổi thói quen tiêu dùng mua hàng
từ các cửa hiệu nhỏ đến mua hàng trong các siêu thị cũng ảnh hưởng nhiều
đến thiết kế bao bì. Trung bình một siêu thị có khoảng 30.000 sản phẩm được
bày bán thì 2/3 quyết định mua hàng được thực hiện ngay ở quầy. Mỗi khách
thông thường có ý định mua 10 sản phẩm khi vào siêu thị, nhưng sau đó
thường mua đến 19 sản phẩm, trung bình mỗi người mất 9 giây để quyết định
mua hàng.
Như vậy, hình dáng, vẻ bề ngoài của bao bì, thương hiệu sản phẩm đã
thực sự đóng vai trò quan trọng trong quyết định mua hàng. Các nhà quản lý
thương hiệu sản phẩm ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của nhãn
hiệu mang tính quốc tế và nhãn hiệu mang tính quốc gia. Điều này đặt ra yêu
cầu các doanh nghiệp sản xuất bao bì phải áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế
trong sản xuất và phân phối sản phẩm bao bì.
Các khách hàng trông đợi và nhà sản xuất sẽ mở rộng mạng lưới cung
cấp bao bì không chỉ tại chỗ mà cả trong khu vực và toàn cầu. Thị trường mở
rộng, phạm vi mở rộng, sản phẩm đa dạng đòi hỏi khả năng phối hợp nhịp
nhàng linh hoạt thì ở đây yếu tố con người lại càng trở nên quan trọng và
15
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
quyết định. Mối quan hệ giữa các nhà sản xuất bao bì, người sử dụng bao bì
và người tiêu dùng đã trở nên quan trọng hơn lúc nào hết.
Công nghệ thay đổi, khoa học phát triển đó là điều kiện quan trọng
để phát triển sản xuất, tuy nhiên đối với nền công nghiệp của Việt Nam chúng

ta, và ở đây là công nghiệp bao bì chỉ thực sự lớn mạnh, đồng thời có khả
năng cạnh tranh cao khi có sự liên kết chặt chẽ của các nhà sản xuất trong
ngành, có định hướng đúng đắn của các nhà quản lý chiến lược. Đó thật sự là
trách nhiệm và thách thức đối với mọi chúng ta.
1.2: Đặc điểm của màu vẽ thủy tinh
Màu bền với thời gian
Khó tẩy rửa va không bị phai màu, đặc biệt khi vẽ trên vật liệu trong suốt
thì cho hiệu ứng ánh sáng
16
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ CẢM HỨNG
ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP
2.1: Phát triển ý tưởng
Hướng tới thiết kế mới lạ bắt mắt, trú trọng vào chất liệu và màu sắc đặc
trưng của “glass paint”
Đặc điểm của “glass paint” là dạng lỏng nên bao bì đựng sẽ là lọ hoặc
tuýp
Thể hiện được tính chất của màu vẽ trên bộ bao bì
Logo, thương hiệu được lấy ý tưởng từ những vệt màu với 4 màu
Bao bì dạng hộp giấy có kích cỡ tương ứng để đựng được loại 6 màu và
loại 12 màu
2.2: Cảm hứng thiết kế
Bộ bao bì sản phẩm màu vẽ thủy tinh “glass paint” được lấy cảm hứng từ
hộp đựng màu vẽ vô cùng tiện lợi để đựng sản phẩm
Sự tiện lợi của hộp bao bì sản phẩm màu vẽ thủy tinh “glass paint” là có
thể xách đi như một hộp đựng màu vẽ của các họa sĩ.
2.2.1: Bộ bao bì
Thiết kế bao bì, thiết kế hộp là yếu tố đặc biệt quan trọng tạo ra sự thu
hút thị giác của khách hàng tới sản phẩm của bạn trong hàng trăm sản phẩm
cùng loại khác. Là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới quyết định mua của khách

hàng, nó là cầu nối quan trọng giữa sản phẩm và khách hàng.
Luôn song hành cùng sản phẩm và tác dụng bậc nhất trong việc định vị
sản phẩm, thương hiệu sản phẩm, doanh nghiệp trên thị trường. Bao bì nhãn
mác làm tôn thêm chất lượng sản phẩm, làm cho sản phẩm đẹp hơn, bắt mắt
hơn.
Thiết kế bao bì sản phẩm là sự kết hợp giữa nguyên liệu, cấu trúc, cách
17
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
trình bày, hình ảnh, màu sắc và những thành phần khác tạo ra sự thu hút thị
giác cho mục đích truyền thông mục tiêu và chiến lược marketing của một
thương hiệu hay sản phẩm.
Nếu để một sản phẩm riêng lẻ thì chúng ta ít chú ý đến bao bì. Nhưng
đặt sản phẩm đó trên một quầy hàng bán lẻ với hàng chục sản phẩm cùng loại
thì chẳng khác nào một cuộc thi hoa hậu…
Người mua hàng muốn gì ở bao bì? Trước hết là yếu tố thẩm mỹ, “bắt
mắt”. Trước nhiều sản phẩm có thương hiệu xa lạ, chưa dùng bao giờ, người
mua hàng bị thu hút bởi bao bì có kiểu dáng đẹp, có hình ảnh, kiểu chữ trình
bày gây ấn tượng.
Thứ đến là thông tin trên bao bì. Ở mức tối thiểu, thiết kế bao bì phải có
những thông tin như tên nhãn hiệu, đơn vị sản xuất, thành phần, số lượng,
cách sử dụng, thời gian bảo hành (đối với các sản phẩm có thời gian bảo
hành)… Cuối cùng là sự tiện dụng: dễ mở, dễ sử dụng, dễ cất trữ và có thể tái
sử dụng. Một gói kẹo cho trẻ con không có đường rãnh để xé ra, phải dùng
kéo để cắt là quá bất tiện.
Người bán lẻ, nhìn bao bì sản phẩm dưới một khía cạnh khác: họ muốn
hàng hóa đựng trong bao bì (thùng giấy, hộp kim loại…) phải dễ bốc xếp, bảo
quản, hàng bên trong phải đúng số lượng ghi trong bao bì. Kiểu dáng bao bì
phải tiện lợi cho việc trưng bày, có thể xếp chồng lên nhau trên kệ hàng. Và
người bán cũng cần những thông tin trên bao bì để giải thích cho khách hàng
khi khách hàng chỉ hỏi sơ qua mặt hàng nào đó mà chưa quyết định mua.

Đối với một doanh nghiệp kinh doanh nghiêm túc, thiết kế bao bì sản
phẩm không chỉ là yếu tố thẩm mỹ. Việc thiết kế bao bì nằm trong định
hướng của chiến lược tiếp thị sản phẩm. Trong một thời gian theo định kỳ,
nhà sản xuất phải đánh giá lại mẫu bao bì, đo lường tác dụng đối với người
mua và thay đổi bao bì nếu thấy cần thiết.
18
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
Một yếu tố khác – màu sắc, đồ họa, kiểu chữ và bố cục – giữ được tính
nhất quán của thương hiệu và góp phần xây dựng mối quan hệ mang tính cảm
tính đối với người tiêu dùng. Nó được hỗ trợ bởi truyền thông đại chúng,
nhưng nếu nhà thiết kế truyền đạt được lời hứa thương hiệu một cách rõ ràng
và chính xác ngay từ đầu, phí tổn khắc phục sẽ rất lớn. Vậy thiết kế bao bì sẽ
giúp hỗ trợ việc xây dựng thương hiệu đến mức nào? Nhà thiết kế cần hỗ trợ
việc nhận diện thương hiệu để giúp nó tạo được sự nhận biết cao trong các
cửa hàng bán lẻ, và đồng thời cũng hỗ trợ quá trình trải nghiệm mua hàng của
người tiêu dùng.
Trong các tình huống thường gặp, nhà thiết kế có vai trò quan trọng
trong việc thể hiện giá trị cốt lõi của một sản phẩm và truyền đạt nó đến đối
tượng muc tiêu thông qua truyền thông. Dù sự truyền tải này có thể đi suốt
công đoạn xây dựng thương hiệu hay là từng phần nhỏ trong qui trình đó, nó
đều phải được xác định mục tiêu rõ ràng trong bản thảo thiết kế. Thực tế thì
không hẳn được như vậy, một phần do đòi hỏi phức tạp của người đặt hàng,
họ mong muốn truyền đạt được mọi thứ thông qua thiết kế bao bì sản phẩm.
Có thể cơ hội lớn nhất đối với nhà thiết kế chính là việc người đặt hàng phải
thấu hiểu chiến lược xây dựng giá trị thương hiệu, tập trung vào mục đích
chính của việc thiết kế.
Chính vì vậy doanh nghiệp muốn bán được nhiều hàng hoá hơn nhất
thiết phải thiết kế bao bì, hộp đựng sản phẩm đẹp và chuyên nghiệp.
3.2.2: Bộ nhận diện thương hiệu
Vai trò của bao bì, nhãn hiệu ngày càng trở nên quan trọng hơn trong

việc xây dựng một thương hiệu mạnh. Thiết kế bao bì, nhãn hiệu chuyên
nghiệp là cách doanh nghiệp tạo ấn tượng ngay từ lần tiếp xúc đầu tiên với
khác hàng của mình.
Khi một thương hiệu được định vị tập trung vào phân khúc theo độ tuổi,
19
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
theo sở thích hay hành vi xã hội, nhà thiết kế cần tập trung làm hài lòng khách
hàng mục tiêu để tạo hiệu quả cao nhất.
Thiết kế bao bì sản phẩm là sự hiện hữu của thương hiệu trên sản phẩm.
Ngày nay các nhà thiết kế khôn ngoan luôn đo lường tất cả những yếu tố tác
động đến bề ngòai thương hiệu để giúp cho hoạt động truyền thông được phối
hợp hài hòa. Trách nhiệm của nhà thiết kế ngày càng cao và xứng tầm với sức
mạnh của công việc đem lại.
Việc đóng gói bao bì truyền thống kết hợp với lý thuyết hiện đại về xây
dựng thương hiệu và đã trở thành một bộ phận của một thể thống nhất. Trong
khái niệm xây dựng thương hiệu hiện đại, hình ảnh thương hiệu và biểu tượng
phải truyền đạt được giá trị cốt lõi của một thương hiệu.
20
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
CHƯƠNG 3: THỂ HIỆN ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP
3.1: Sản phẩm bộ bao bì màu vẽ thủy tinh
Trong cuộc sống, ứng dụng đồ họa vào bao bì, nhãn mác vô cùng phong
phú. Bao bì nhãn mác ngoài nhiệm vụ chính để đựng, bao bọc sản phẩm bên
trong thì nó còn là một sản phẩm văn hoá thể hiện trình độ thẩm mỹ, sự sáng
tạo của con người.
Tạo sự thu hút, chú ý khách hàng bởi màu sắc của bao bì, nhãn mác luôn
là câu hỏi đặt ra hàng đầu cho bất kỳ một người họa sỹ thiết kế đồ họa nào.
Làm thế nào để sản phẩm trông thật đẹp, thật bắt mắt để sản phẩm đó không
bị các sản phẩm khác “che khuất”? Bởi yếu tố ban đầu thu hút sự chú ý của
khách hàng không phải là chất lượng mà chính là bao bì, nhãn mác của sản

phẩm. Màu sắc của sản phẩm bao bì, nhãn mác sẽ phần nào quyết định sự
thành công của sản phẩm trên thương trường.
Để thiết kế được một bao bì nhãn mác đẹp đòi hỏi người hoạ sỹ phải có
sự hiểu biết thấu đáo về màu sắc. Mỗi một lĩnh vực đều có những màu sắc để
biểu hiện riêng.
21
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
Màu sắc trong bao bì nhãn mác không chỉ làm cho sản phẩm nổi bật, thu
hút sự chú ý của mọi người mà nó còn có nhiệm vụ kết nối các mặt với nhau
(đối với sản phẩm đồ hộp) tạo nên một bố cục chặt chẽ, vững chắc cho sản
phẩm. Trên bề mặt sản phẩm bao bì nhãn mác có rất nhiều lượng thông tin mà
nhà sản xuất cung cấp cho người tiêu dùng như: thành phần, khối lượng, ngày
sản xuất, địa chỉ… tất cả đều rời rạc nhưng không thể thiếu đối với một sản
phẩm. Vậy nhiệm vụ của người họa sỹ là làm thế nào để liên kết những thông
tin đó thành một thể thống nhất giữa các mặt tạo một bố cục hài
hoà, hợp lý cho sản phẩm.
Màu sắc bao bì nhãn mác phải nêu bật nội dung bên trong của sản phẩm.
Bao bì là phần vỏ bọc bên ngoài có nhiệm vụ bảo vệ sản phẩm khỏi tác động
từ môi trường bên ngoài, tiện dụng trong việc vận chuyển. Chính vì vậy sản
phẩm bên trong bị che khuất, người tiêu dùng không thể hình dung được hình
dáng, màu sắc của sản phẩm.
22
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
Bao bì đựng 6 sản phẩm:
23
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
Bao bì cho 12 sản phẩm:
3.2: Sản phẩm bộ nhận diên thương hiệu
Màu sắc rất quan trọng trong việc thiết kế logo, bao bì và hệ thống nhận
diện thương hiệu đồng bộ

24
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
3.3: Sản phẩm quà tặng
Sản phẩm quà tặng khuyến mại khi mua sản phẩm:
Sản phẩm quà tặng tự do được lấy ý tưởng từ hình dạng một con cá voi
đang phun nước được cách điệu đơn giản
Chất liệu gỗ, công dụng cắm bút

25
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
Sản phẩm quà tặng kỉ niệm 20 năm thành lập Viện đại hoac Mở Hà Nội:
26
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
3.4: Tổng quan đồ án tốt nghiệp
Dàn trải bộ bao bì sản phẩm: “Bộ màu vẽ thủy tinh”
27

×