Website: Email : Tel : 0918.775.368
ĐỀ BÀI:
Hoàn cảnh ra đời và sự tác động của nó tới nội dung và tính chất của
các bản Hiến pháp Việt Nam.
TRẢ LỜI:
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của một quốc gia, có vai trò rất quan
trọng trong việc điều chỉnh toàn bộ đời sống xã hội. Mỗi một bản hiến pháp
ra đời trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể mang theo dấu ấn đặc thù của mỗi quốc
gia. Lịch sử lập hiến Việt Nam đã trải qua những bước ngoặt to lớn cùng với
sự ra đời của các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp 1992
sửa đổi, bổ sung năm 2001. Nó đánh dấu bước phát triển trong lịch sử lập
hiến Việt Nam cũng như sự tác động của hoàn cảnh lịch sử tới nội dung và
tính chất của các bản hiến pháp.
Trước cách mạng tháng 8/ 1945, nước ta là một nước thuộc địa nửa
phong kiến với chính thể quân chủ chuyên chế, nhưng thực chất là bộ máy
tay sai của thực dân Pháp. Bởi vậy, nước ta là một nước thuộc địa không có
hiến pháp.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng tư tưởng cách mạng của các nước trên thế
giới trong giới trí thức Việt Nam đã xuất hiện tư tưởng lập hiến. Có hai
khuynh hướng chính trị chủ yếu trong thời gian này. khuynh hướng thứ nhất
của Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh và Bùi Quang Chiêu chủ trương xây
dựng Nhà nước quân chủ lập hiến trong sự thừa nhận sự bảo hộ của Chính
phủ Pháp. khuynh hướng thứ hai của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và
Nguyễn Ái Quốc chủ trương giành độc lập, tự do cho dân tộc sau đó xây
dựng hiến pháp của nhà nước độc lập vì không có độc lập, tự do thì không
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thể có hiến pháp thực sự. Đây cũng là khuynh hướng tiến bộ và đúng đắn
nhất. Bằng những hoạt động tích cực Nguyễn Ái Quốc đã cụ thể hoá tư
tưởng lập hiến của mình và tư tưởng ấy được thể hiện trong hiến pháp 1946
– hiến pháp đầu tiên của nước nhà.
1/ Hoàn cảnh ra đời và sự tác động của nó tới nội dung và tính chất hiến
pháp 1946.
Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà. Một ngày sau đó, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ Hồ Chủ tịch
đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách, một trong những nhiệm vụ đó là: “chúng ta
phải có một bản hiến pháp dân chủ”.
Ngày 9/11/1946, sau một thời gian dài làm việc, Quốc hội đã thông
qua bản hiến pháp đầu tiên với 240 phiếu thuận, 2 phiếu trống.
Vào thời điểm Quốc hội thông qua hiến pháp, thực dân Pháp đã phản
bội các hiệp định đã kí kết với Chính phủ ta, chúng không ngừng khiêu
khích và tấn công chúng ta bằng vũ lực, hòng lặp lại ách thống trị của chúng
tại Việt Nam. Do hoàn cảnh chiến tranh mà hiến pháp 1946 không được
chính thức công bố. Tuy nhiên Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Ban thường vụ Quốc hội luôn luôn dựa vào tinh thần và nội dung
của Hiến pháp 1946 để điều hành mọi hoạt động của Nhà nước. Với hoàn
cảnh lịch sử như vậy, nội dung và tính chất của Hiến pháp 1946 mang những
đặc thù riêng.
Hiến pháp 1946 bao gồm 70 điều chia làm 7 chương. Do đất nước có
chiến tranh nên lời nói đầu của bản hiến pháp xác định nhiệm vụ của dân tộc
ta trong giai đoạn này là: bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn, kiến
thiết quốc gia trên nền tảng dân tộc. Đồng thời xác định ba nguyên tắc cơ
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
bản của hiến pháp là: đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, trai gái,
giai cấp, tôn giáo; đảm bảo các quyền tự do dân chủ; thực hiện chính quyền
mạnh mẽ của toàn dân. Toàn bộ 7 chương của hiến pháp đều được xây dựng
dựa trên ba nguyên tắc cơ bản, chính ba nguyên tắc này đã thể hiện ba đặc
điểm cơ bản của Hiến pháp năm 1946: dân tộc, dân chủ, nhân dân.
Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, hình thức nhà nước là hình thức
cộng hoà. Nhà nước ta là nhà nước dân chủ nhân dân thể hiện sự phát triển
của tư tưởng dân chủ, đề cao tính dân tộc của Nhà nước. Trong công cuộc
đấu tranh giành độc lập, tự do khai sinh ra nhà nước dân chủ cộng hoà đã có
sự đóng góp của bao giai tầng trong xã hội. Bởi thế Nhà nước dân chủ nhân
dân đầu tiên của ta là Nhà nước đoàn kết toàn dân không biệt giống nòi, trai
gái, giàu nghèo, tôn giáo (Điều 1).
Tuân thủ nguyên tắc “ Đảm bảo các quyền tự do, dân chủ”, Hiến pháp
1946 rất chú trọng đến chế độ công dân (chương II). Lần đầu tiên trong lịch
sử Việt Nam, nhân dân được đảm bảo các quyền tự do, dân chủ (Điều 70);
quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 6,7); phụ nữ được ngang quyền với
nam giới về mọi phương diện; công dân được hưởng các quyền bầu cử, ứng
cử, có quyền bãi miễn các đại biểu do mình bầu ra khi họ không còn xứng
đáng với danh hiệu đó nữa; quyền tư hữu tài sản của công dân được bảo
vệ…
Dựa trên nguyên tắc: “thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt
của nhân dân”, hình thức Nhà nước theo Hiến pháp 1946 có nhiều nét độc
đáo đáng chú ý. Đứng đầu Chính phủ là Chủ tịch nước có quyền phủ quyết
(Điều 31 và 54). Hình thức chính thể của nước ta là sự kết hợp giữa cộng
hoà tổng thống và cộng hoà đại nghị.
Mặc dù là bản hiến pháp đầu tiên của nước ta, nhưng Hiến pháp 1946
tiến bộ không kém bất cứ một bant hiến pháp nào trên thế giới. Là một bản
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hiến pháp cô đúc, khúc chiết, mạch lạc và dễ hiểu, là một bản hiến pháp mẫu
mực trên mọi phương diện.
2/ Hoàn cảnh ra đời và sự tác động của nó tới nội dung và tính chất
Hiến pháp 1959.
Tính đến thời điểm năm 1959, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
đã ra đời và phát triển được14 năm. Hiến pháp 1946 đã hoàn thành sứ mệnh
lịch sử của mình, tuy nhiên với tình hình đất nước và nhiệm vụ cách mạng
mới nó cần được bổ sung và điều chỉnh.
Với chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 Hiệp định Giơnevơ
được kí kết buộc Pháp phải công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải
phóng, miền Nam tạm thời vẫn dưới sự thống trị của Mĩ và tay sai.Vì vậy
đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền và việc thống nhất đất nước theo
hiệp định sẽ được thực hiện sau hai năm bằng cuộc tổng tuyển cử trong cả
nước do chính quyền hai miền hiệp thương tổ chức.
Ngay sau khi hất cẳng Pháp đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai đã vi phạm
Hiệp định Giơnevơ từ chối hiệp thương thống nhất đất nước. Vì vậy nhiệm
vụ cách mạng trong giai đoạn mới là miền Bắc đi lên xây dựng CNXH, miền
Nam tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân – thống nhất
đất nước. Để đáp ứng nhiệm vụ cách mạng mới, trong kì họp thứ 6 nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá I đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm
1946 và thành lập ban dự thảo hiến pháp sửa đổi. Sau một thời gian bản dự
thảo được đưa ra thảo luận và lấy ý kiến xây dựng ngày 1/1/1960 Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã kí sắc lệnh công bố hiến pháp.
Hiến pháp 1959 gồm lời nói đầu và 112 điều chia làm 10 chương.
Hiến pháp 1959 được xem là bản hiến pháp XHCN đầu tiên của nước ta
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trong đó qui định về chế độ kinh tế, chính trị, văn hoá- xã hội, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức và hoạt động của Bộ máy Nhà nước.
Để phù hợp với hoàn cảnh đất nước bị chia cắt thì Hiến pháp 1959
không thể chỉ mang tính chất dân tộc dân chủ nhân dân như Hiến pháp 1946
mà còn phải mang tính chất XHCN. Nội dung Hiến pháp 1959 là sự thể chế
hoá nhiệm vụ ở nước ta thời kì này: xây dựng CNXH ở miền Bắc và làm
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ỏ miền Nam, đấu tranh thống nhất
nước nhà . Tình trạng chia cắt đất nước chỉ là tạm thời, dù sớm hay muộn thì
“ Đất nước Việt Nam là một khối Bắc Nam thống nhất không thể chia cắt”.
Sự thể hiện đó bao trùm lên tất cả các lĩnh vực mà hiến pháp qui định:
Về mặt chính trị: Bộ máy Nhà nước ta đựơc tổ chức theo mô hình tổ
chức của Nhà nước XHCN. Trong tổ chức bộ máy Nhà nước lúc này đã áp
dụng nguyên tắc tập trung dân chủ và mô hình xây dựng CNXH ở các nước
khác.
Về vai trò lãnh đạo của Đảng được ghi nhận trong lời nói đầu của hiến
pháp mà lúc này là Đảng Lao động Việt Nam.
Về mặt kinh tế: kinh tế Nhà nước được xác định là giữ vai trò lãnh đạo
trong nền kinh tế quốc dân và được Nhà nước ưu tiên phát triển, cải tạo nền
kinh tế quốc dân theo định hướng XHCN, xây dựng và phát triển nhiều
thành phần kinh tế.
Về các mặt khác như: văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ được
Nhà nước khuyến khích phát triển.
Hiến pháp 1959 là bản hiến pháp mở đầu cho thời kì nước ta bước
những bước đầu tiên trên con đường tiến lên CNXH. Nó đã đáp ứng một
cách tốt nhất những nhiệm vụ mà cách mạng đặt ra trong điều kiện hoàn
cảnh đất nước bị chia cắt. Với những định hướng của mình Hiến pháp 1959
5