Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tiểu luận Hệ thống chăm sóc sức khỏe ở Thụy Điển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.43 KB, 24 trang )

Mục lục Trang
I. Tựa đề
II. Tóm tắt …………………………………………………………………… 2
III. Giới thiệu…………………………………………………………. …… 4
IV. Nội dung
4.1 Cơ cấu tổ chức…………………………………………………… 5
4.1.1. Cấp quốc gia……………………………………………………… 6
4.1.2. Cấp khu vực…………………………………………………………… 7
4.2. Tài chính BHYT…………………………………………………… … 8
4.3.Cơ chế thanh toán……………………………………………………… 8
4.4. Các dịch vụ được cung cấp………………………………………… 9
4.4.1. Y tế công cộng………………………………………………………. 9
4.4.2 Phương thức chăm sóc bệnh nhân…………………………………. 10
4.4.3 Chăm sóc sức khỏe ban đầu………………………………………… 10
4.4.4. Chăm sóc bệnh nhân nội trú ………………………………………… 11
4.4.5. Hệ thống phân phối thuốc……………………………………………. 11
4.4.6. Trung tâm phục hồi chức năng………………………………………. 12
4.4.7.Chăm sóc dài hạn…………………………………………………… 13
4.4.8. Chăm sóc sức khỏe răng miệng …………………………………… 14
4.4.9. Chăm sóc giảm nhẹ ………………………………………………… 15
4.4.10. Chăm sóc sức khỏe tâm thần ……………………………………… 15
4.4.11. Chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em…………………………… 16
4.4.12. Chăm sóc dân cư cụ thể…………………………………………… 17
4.5.Những cải cách chính của hệ thống chăm sóc sức khỏe của Thụy Điển 17
V. Kết quả……………………………………………………… 19
5.1. Những mặt đạt được…………………………………………………… 19
5.2. Một số hạn chế và giải pháp………………………………………………24
VI. Lời cảm ơn………………………………………………………………… 24
1
I. Tựa đề
Hệ thống chăm sóc sức khỏe ở Thụy Điển


Nhóm 13-Lớp Đ3 BH2:
Đặng Thị Thúy
Lê Minh Trang
Doãn Thị Tuyết
Phạm Thị Hải Yến
Email:
II. Tóm tắt
Thụy Điển được coi là một trong những nước có hệ thống chăm sóc sức khỏe
toàn diện nhất trên thế giới xét cả về cơ cấu tổ chức, nguồn tài chính, phương thức
thanh toán, các dịch vụ chăm sóc y tế… Mặc dù đã phát triển cao nhưng nhìn
chung hệ thống chăm sóc sức khỏe vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Trong thời gian
qua Thụy Điển đã có những cải cách quan trọng nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống
chăm sóc sức khỏe của mình. Nghiên cứu về hệ thống chăm sóc sức khỏe của Thụy
Điển giúp chúng ta thấy được những bước đi của Thụy Điển từ đó cũng thấy được
những mặt đạt được, chưa đạt được của hệ thống chăm sóc sức khỏe tại Thụy Điển,
tìm ra giải pháp.
Để tìm hiểu về hệ thống chăm sóc y tế của Thụy Điển chúng tôi đã nghiên
cứu từng nội dung cụ thể của toàn hệ thống trong mối liên hệ với những nội dung
khác để từ đó thấy rõ được Thụy Điển đã làm như thế nào để xây dựng, hoàn thiện
hệ thống chăm sóc y tế như hiện nay.
Hệ thống chăm sóc y tế của Thụy Điển được tổ chức trên ba cấp độ : Quốc
gia, khu vực và địa phương. Ở mỗi cấp độ có quyền hạn chức năng và nhiệm vụ
riêng được phân chia cụ thể.
2
Về tài chính, hệ thống chăm sóc y tế của Thụy Điển chủ yếu được tài trợ
thông qua thuế. Ngoài nguồn thu từ thuế thì còn có nguồn bổ sung bởi sự tài trợ của
nhà nước, hệ thống bảo hiểm xã hội trong trường hợp bện tật và khuyết tật.
Công dân của Thụy Điển thường phải trả tiền cho các dịch vụ y tế nhưng với
mức thấp hơn một mức trần do chính phủ quy định kể cả khi có cơ chế đồng thanh
toán. Các bệnh nhân là trẻ em và thanh thiếu niên dưới 20 tuổi thường được chăm

sóc miễn phí khi sử dụng các dịch vụ y tế.
Các dịch vụ y tế được cung cấp trong hệ thống chăm sóc sức khỏe của Thụy
Điển được coi là đầy đủ đáp ứng được nhu cầu của mọi tầng lớp dân cư. Các dịch
vụ đó bao gồm: y tế công cộng, phương thức để người bệnh tiếp cận với bác sĩ,
chăm sóc chính và chăm sóc ban đầu, chăm sóc bệnh nhân nội trú, hệ cung cấp
thuốc, trung tâm phục hồi chức năng, chăm sóc dài hạn dành cho người cao tuổi
người mắc bệnh tâm thần và người khuyết tật, dịch vụ cho người chăm sóc chính
thức, chăm sóc giảm nhẹ, chăm sóc sức khỏe tâm thần, chăm sóc sức khỏe răng
miệng, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, thay thế bổ sung thuốc và chăm sóc
dân cư cụ thể.
Để thực hiện tốt hệ thống chăm sóc y tế, trong thời gian qua Thụy Điển đã có
những cải cách lớn đó là các cải cách năm 1982 đảm bảo sự công bằng về quyền lợi
của người dân trong chăm sóc sức khỏe y tế. Cải cách Dagmar năm 1985 về chuyển
trách nhiệm chi phí chăm sóc sức khỏe của hai khu vực công khai và tư nhân ngoại
chẩn sang cơ quan bảo hiểm xã hội Thụy Điển. Cải cáh Adel năm 1992 với mục
đích là chuyển giao trách nhiệm cung cấp dài hạn cho người già và người tàn tật từ
hội đồng quận đến các đô thị của địa phương. Cải cách năm 1995 về cải thiện chất
lượng cuộc sống cho những người mắc bệnh tâm thần. Cải cách thuốc năm 1998 tại
đây các hội đồng được trao trách nhiệm hoàn toàn về chi phí dược phẩm theo quy
định. Năm 2002 cải cách răng miệng với đề án chi phí chăm sóc cao đối với các
bệnh nhân trên 64 tuổi được thực hiện.
3
Hệ thống chăm sóc y tế của Thụy Điển trong những năm qua đã thực hiện
nhiều cải cách. Nhìn chung những cải cách đó đã có tác động đến hệ thống chăm
sóc y tế và tập trung vào ba lĩnh vực quan trọng đó là: trách nhiệm của người cung
cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, các quyền lợi ưu tiên của bệnh nhân trong chăm
sóc sức khỏe và chi phí chăm sóc sức khỏe.
Những thách thức còn lại bao gồm hạn chế về chi phí, sự bất bình đẳng về
chăm sóc sức khỏe.
Nhìn chung hệ thống chăm sóc sức khỏe của Thụy Điển đã phát triển toàn

diện và xứng đáng là một trong những nước có chính sách an sinh xã hội hàng đầu
thế giới trong đó có cả chính sách về chăm sóc sức khỏe.
III. Giới thiệu
Tăng trưởng kinh tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục đào tạo, bảo vệ môi
trường là mấy vấn đề cốt lõi trong việc phát triển đất nước. Một đất nước mà người
dân không có sức khoẻ tốt thì đất nước đó khó có tương lai, không thể phát triển.
Mặt khác, ngành chăm sóc sức khoẻ ngày càng được coi là ngành kỹ thuật cao,
chiếm vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy việc cải cách nó
cần tiến hành cẩn trọng, vì nếu được chuẩn bị chu đáo, có cơ sở và tiến hành tốt sẽ
có tác động vô cùng to lớn đến sự phát triển của đất nước; ngược lại nếu sai có thể
gây ra những hậu quả khôn lường, rất khó khắc phục. Chính vì thế bất cứ một tham
vọng nào để cải cách toàn diện, triệt để, theo một “kế hoạch tổng thế” rất có thể sẽ
thất bại. Nên tạo ra nhữn khuyến khích, những thử nghiệm và để cho bản than các
thành phần của hệ thống tự phát triển, tự điều chỉnh, qua đó hoàn thiện dần, điều
chỉnh dần các khuyến khích để hướng các hệ thống phát triển theo các mục tiêu đặt
ra.
Nói đến hệ thống chăm sóc sức khoẻ chúng ta không thể không nói tới Thụy
Điển. Là một quốc gia có diện tích lớn thứ 5 châu âu, với hơn 9 triệu dân. Ngay từ
thập kỷ 70, 80 của thế kỷ XX, Thụy Điển đã được ghi nhận là một “mô hình” xã
hội tiên tiến với chế độ phúc lợi xã hội cao…. Hệ thống chăm sóc sức khỏe của
4
Thụy Điển đã hướng tới toàn dân đi sâu vào chăm sóc từng đối tượng cụ thể. Thụy
Điển thường xuyên đứng đầu bảng xếp hạng thế giới trong chăm sóc sức khỏe tốt
nhất. Hệ thống y tế của Thụy Điển là phổ quát và miễn phí cho tất cả. Bên cạnh đó
hệ thống cũng còn một số hạn chế. Để hệ thống chăm sóc sức khỏe ngày càng hoàn
thiện, phát triển và tiến bộ hơn Thụy Điển đã có nhiều cải cách trong hệ thống
chăm sóc sức khỏe của mình.
Để tìm hiểu sâu hơn về hệ thống chăm sóc sức khỏe được đánh giá là “mô
hình mơ ước” cho các quốc gia khác, chúng tôi đã thực hiện đề tài nghiên cứu tổng
quan về hệ thống chăm sóc sức khỏe của Thụy Điển cũng như những cải cách về hệ

thống chăm sóc sức khỏe y tế đã thực hiện. Từ đó thấy được những kết quả mang
lại của mô hình cho đời sống sức khỏe người dân, và bên cạnh đó cũng còn một số
những hạn chế cần đưa ra những hướng khắc phục trong tương lai.
IV. Nội dung
4.1 Cơ cấu tổ chức
Hệ thống chăm sóc sức khỏe của Thụy Điển được chia thành ba cấp độ là:
Quốc gia, vùng và địa phương. Ở mỗi cấp độ có trách nhiệm và quyền hạn riêng và
được phân cấp rõ ràng.
4.1.1. Cấp quốc gia
Quốc gia chịu trách nhiệm chính trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và có sự
phối hợp với các cơ quan, bộ và hội đồng với sự phân chia trách nhiệm nghĩa vụ cụ
thể của từng hội đồng như sau.
Bộ y tế và xã hội chịu trách nhiệm chuẩn bị nội dung và những giao dịch
kinh doanh, những vấn đề về chính sách pháp luật đối với việc chăm sóc sức
khỏe,các dịch vụ phúc lợi xã hội. Ngoài ra còn hỗ trợ tài chính và giám sát hoạt
động của cơ quan cấp dưới.
Hội đồng y tế và phúc lợi quốc gia là cơ quan của chính phủ có chức năng
giám sát các hội đồng quận và giám sát trung tâm tư vấn cho các dịch vụ y tế và xã
5
hội. Hội đồng giám sát thực hiện các vấn đề chính sách công, pháp luật về chăm
sóc sức khỏe và các dịch vụ phúc lợi xã hội. Nhiệm vụ quan trọng nhất là để theo
dõi và đánh giá các dịch vụ cung cấp để xem chúng có tương ứng với các mục tiêu
đặt ra của Chính phủ hay không. Ngoài ra nó còn có chức năng giữ số liệu thống kê
chính thức về sức khỏe và chăm sóc sức khỏe. Giám sát các nhân viên chăm sóc
sức khỏe và cấp giấy phép cho các bác sĩ, nha sĩ và nhân viên y tế khác. Hội đồng
bao gồm các Trung tâm “Dịch tễ học” có mục tiêu là mô tả, phân tích và báo cáo về
sự phân bố và phát triển của sức khỏe và bệnh tật.
Hội đồng quản trị là cơ quan được chỉ định theo sự chỉ thị Cộng đồng Châu
Âu có nhiệm vụ công nhận về văn bằng, chứng chỉ liên quan đến các ngành nghề y
tế.

Hội đồng trách nhiệm y tế là một cơ quan chính phủ quyết định về các biện
pháp kỷ luật trong trường hợp khiếu nại hoặc sơ suất có thể xảy ra.
Hội đồng quản trị lợi ích dược phẩm là một cơ quan độc lập với Chính phủ,
bắt đầu hoạt động từ ngày mùng 1 tháng 10 năm 2002, có nhiệm vụ là quyết định
chương trình trợ cấp dược phẩm bao gồm những sản phẩm thuốc nào và để xác
định giá.
Hội đồng thụy điển về khoa học công nghệ trong chăm sóc sức khỏe có
nhiệm vụ là thúc đẩy việc sử dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào chăm sóc
y tế.
Viện Y tế công cộng là một cơ quan nhà nước trực thuộc Bộ Y tế và Xã hội
có nhiệm vụ nâng c sao sức khỏe và ngăn ngừa bệnh tật.
Tổng công ty thuốc quốc gia Thụy Điển là công ty nhà nước độc quyền sở
hữu tất cả các hiệu thuốc và do đó duy trì một hệ thống phân phối trên toàn quốc.
Ngoài ra, có trách nhiệm cung cấp cho công chúng và các bác sĩ về các thong tin
quan trọng khác.
Cơ quan Bảo hiểm xã hội Thụy Điển là cơ quan ban hành các loại bảo hiểm
và tạo nên lợi ích bảo hiểm xã hội tại Thụy Điển. Ngoài ra, nhiệm vụ của Cơ quan
6
này cũng bao gồm việc thiết kế để ngăn ngừa và giảm bệnh tật.
4.1.2. Cấp khu vực
Các hội đồng tỉnh có trách nhiệm tổng thể cho tất cả các dịch vụ chăm sóc
sức khỏe và có thẩm quyền về cơ cấu các bệnh viện. Ban điều hành của hội đồng
quận, hoặc bệnh viện do hội đồng quản trị bầu, quyết định làm thế nào để tổ chức
quản lý. Điều hành viên của hội đồng quản trị đảm bảo hoạt động chăm sóc sức
khỏe đạt hiệu quả.
Ở cấp độ khu vực, hội đồng quận và chính quyền trung ương thông qua các
hình thức của hệ thống chăm sóc sức khỏe tại cơ sở. Các hội đồng quận quy hoạch
phát triển và tổ chức chăm sóc sức khỏe theo nhu cầu của cư dân của họ. Trách
nhiệm lập kế hoạch của họ cũng bao gồm các dịch vụ y tế được cung cấp bởi các
nhà tài trợ khác chẳng hạn như nhân viên tư vấn và bác sĩ trong ngành y học

4.2. Tài chính BHYT
Kinh phí của hệ thống chăm sóc y tế ở Thụy Điển chủ yếu là từ thuế. Cả hội
đồng quận và thành phố đều có quyền đánh thuế thu nhập theo tỉ lệ dân số của họ.
Cơ quan bảo hiểm xã hội Thụy Điển đảm bảo về mặt tài chính trong các trường
hợp bệnh tật và khuyết tật. Đa số bảo hiểm y tế quốc gia được tài trợ bởi các khoản
đóng góp từ người sử dụng lao động phần còn lại được tài trợ bởi khoản thanh toán
chuyển giao cụ thể từ chính quyền trung ương.
4.3. Cơ chế thanh toán
Bệnh nhân ở Thụy Điển phải trả phí khám chữa bệnh do hội đồng quận quy
định; Quốc hội đặt ra mức chi trả cao nhất mà người dân phải trả tại bất kỳ thời
điểm nào trong vòng 12 tháng. Điều này có nghĩa là bệnh nhân chỉ phải trả một số
tiền không vượt quá một mức tối đa nào đó cho việc chăm sóc sức khỏe trong vòng
12 tháng. Sau khi đã đạt tới mức phí trần (tính cả chăm sóc bệnh nhân nội trú). Sau
khi đã đạt tới mức phí trần bệnh nhân không trả thêm các chi phí cho những phần
còn lại trong thời gian 12 tháng. Khoảng thời gian 12 tháng được tính từ việc khám
bệnh đầu tiên cho bệnh nhân của bác sĩ.
7
Trong hầu hết các hội đồng quận thì bệnh nhân là trẻ em và thanh thiếu niên
(dưới 20 tuổi) được miến phí. Chỉ có một số ít quận có thu phí nhưng mức phí cũng
thấp.
Trẻ em và thanh thiếu niên dưới 20 tuổi cũng được cung cấp miễn phí trong
chăm sóc sức khỏe răng miệng. Riêng đối với người lớn thì nhận được sự trợ cấp
tài chính từ hệ thống bảo hiểm quốc gia nha khoa để chăm sóc cơ bản về răng
miệng.
4.4. Các dịch vụ được cung cấp
4.4.1. Y tế công cộng
Mục đích của việc thực hiện y tế công cộng của Thụy Điển là cố gắng cải
thiện y tế công cộng và làm giảm sự khác biệt về sức khỏe cho các nhóm dân số
khác nhau, các khu vực địa lý khác nhau. Mọi người đều có cơ hội như nhau để có
sức khỏe tốt không phân biệt giới tính, học vấn, tầng lớp xã hội hay người khuyết

tật.
Nội dung của y tế công cộng tại Thụy Điển là tổ chức công khai toàn diện
các dịch vụ y tế cộng cộng, chẳng hạn như chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, y tế
học đường, tiêm phòng và kiểm tra sức khỏe, chương trình kiểm tra và ngăn ngừa
những tác hại của rượu, lạm dụng ma túy, thuốc lá và nghiện cờ bạc, và thúc đẩy
các hoạt động cơ học như thói quen ăn uống lành mạnh và sức khỏe tình dục và
sinh sản. Hơn nữa, kiểm soát bệnh truyền nhiễm, chẳng hạn như công tác phòng
chống HIV/ AIDS.
Công tác dự phòng và chăm sóc sức khỏe được thực hiện trên phạm vi toàn
dân. Cụ thể như việc tiến hành đo huyết áp, máu và chất béo tại các trung tâm y
tế. Đặc biệt các chương trình giáo dục sức khỏe về sử dụng rượu, thuốc chế độ ăn
uống và là tất cả chức năng thường được thực hiện bởi các học viên nói chung. Tất
cả các học viên đều tham gia cung cấp một số dịch vụ chẩn đoán trong tiêm chủng
và giám sát sức khỏe trẻ em. Một số chương trình, đặc biệt như đối với sức khỏe
của phụ nữ (cổ tử cung ung thư và ung thư vú) được tổ chức tập trung bởi các các
8
kế hoạch của hội đồng tỉnh. Bên cạnh đó nữ hộ sinh, y tá và bác sĩ đa khoa huyện
cung cấp dịch vụ kế hoạch hóa gia đình.
Ngoài ra trong hoạt động y tế công cộng còn có sự giúp đỡ và hỗ trợ của các
nhân viên công tác xã hội trong việc tuyên truyền, giúp đỡ và hỗ trợ hoàn thành
mục tiêu của y tế công cộng. Như giúp người dân hiểu được tác hại của rượu, thuốc
lá, và các chất kích thích khác, thực hành các hoạt động y tế công cộng diễn ra ở
cấp địa phương, trong lĩnh vực chăm sóc trẻ em, trong các trường học và ở nơi làm
việc. Y tế học đường và giáo viên cho giáo dục sức khỏe nói chung.
4.4.2 Phương thức chăm sóc bệnh nhân.
Mục tiêu của Chính sách chăm sóc sức khỏe của Thụy Điển trong suốt 25
năm qua đã tập trung quyền lợi của các bênh nhân của mình bằng các ưu tiên cho
bệnh nhân có nhu cầu rất lớn về
dịch vụ chăm sóc sức khỏe, mở rộng thêm cơ hội cho bệnh nhân để lựa chọn
người chăm sóc sức khỏe, và đảm bảo sức khỏe được cải thiện.

4.4.3 Chăm sóc sức khỏe ban đầu
Chăm sóc sức khỏe ban đầu là những chăm sóc sức khỏe thiết yếu, dựa trên
những phương pháp và kỹ thuật thực hành, đưa đến tận cá nhân và từng gia đình
trong cộng đồng, được mọi người chấp nhận thông qua sự tham gia đầy đủ của họ,
với giá thành mà họ có thể chấp nhận được nhằm đạt được mức sức khỏe cao nhất
có thể được. Chăm sóc sức khỏe ban đầu nhấn mạnh đến những vấn đề sức khỏe
chủ yếu của cộng đồng, đến tăng cường sức khỏe, phòng bệnh, chữa bệnh và phục
hồi sức khỏe.
Mục đích của lĩnh vực chăm sóc sức khỏe ban đầu là để cải thiện sức khỏe
chung của dân số và để điều trị bệnh và thương tích mà không cần phải nhập viện.
Các dịch vụ chăm sóc ban đầu bao gồm cả chăm sóc cơ bản và dự phòng bệnh, các
dịch vụ chữa bênh được phân phối thông qua các trung tâm chăm sóc y tế địa
phương.
9
Nội dung: Hướng dẫn các cấp thực hiên công tác chăm sóc ban đầu như sau:
toàn diện, sự gần gũi và khả năng tiếp cận, liên tục, chất lượng và an toàn. dịch vụ
chăm sóc ban đầu bao gồm: giáo dục sức khỏe nhằm thay đổi lối sống và thói quen
không lành mạnh, cung cấp đầy đủ thực phẩm và dinh dưỡng hợp lý, cung cấp
nước sạch và vệ sinh môi trường, Chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em trong đó có
kế hoạch hóa gia đình, tiêm chủng phòng chống 6 bệnh nhiễm trùng phổ biến ở trẻ
em, phòng chống các bệnh dịch lưu hành phổ biến ở địa phương, cung cấp các loại
thuốc thiết yếu… các chương trình tiêm chủng cho trẻ em, kiểm tra khi mà đang
mang thai, kiểm tra sức khỏe và tư vấn, cũng như một số các loại hình điều trị. Mỗi
hội đồng tỉnh quyết định làm thế nào để cung cấp chăm sóc ban đầu cho dân số mà
tỉnh chịu trách nhiệm. Ngay cả khi chăm sóc chủ yếu là công khai cung cấp, cũng
có nhà cung cấp tư nhân ở cấp độ này. Ngoài y tế địa phương các trung tâm và gia
đình, bác sĩ phẫu thuật, bác sĩ tư nhân và vật lý trị liệu, y tá bệnh viện huyện và
bệnh viện cho trẻ em và chăm sóc sức khỏe thai sản cung cấp chăm sóc. trung tâm
y tế tư nhân và các học viên là tương đối phổ biến ở các ở các thành phố lớn và ở
các vùng đô thị.

4.4.4. Chăm sóc bệnh nhân nội trú
Chăm sóc bệnh nhân nội trú là việc chăm sóc bệnh nhân trong các trường
hợp đòi hỏi phải nhập viện. Những tiến bộ trong y học hiện đại và sự ra đời của
các phòng khám ngoại trú đảm bảo rằng bệnh nhân chỉ được nhận vào bệnh viện
khi họ đang trong tình trạng nguy kịch, gặp phải tai nạn hay chấn thương nghiêm
trọng.
Các trung tâm dịch vụ được cung cấp bởi các chuyên gia y tế người thường
không có liên hệ trước với các bệnh nhân, ví dụ, tim mạch, tiết niệu và các bác sĩ da
liễu.
Nội dung với các điều kiện cần điều trị bệnh viện, được cung cấp dịch vụ y
tế tại huyện và bệnh viện khu vực. Tại Thụy Điển, một tỷ lệ tương đối lớn của
nguồn lực sẵn có cho các dịch vụ y tế đã được phân bổ cho việc cung cấp chăm sóc
10
và điều trị tại bệnh viện. Các bệnh viện ở Thụy Điển được chia thành các bệnh viện
quận, Đối huyện, trung tâm bệnh viện huyện và bệnh viện khu vực, phụ thuộc vào
kích thước và mức độ ít nhất bốn chuyên ngành: nội y học, phẫu thuật, X quang, và
gây mê.
4.4.5. Hệ thống phân phối thuốc
Ngay từ thế kỷ XVII việc phân phối thuốc đã trở thành một phần của hệ
thống chăm sóc sức khỏe ở Thụy Điển. Đến năm 2003 tất cả các hiệu thuốc của
Thụy Điển thuộc sở hữu của nhà nước và quản lý bởi các công ty thuốc quốc gia
Thụy Điển. Tất cả dược phẩm ở Thụy Điển được phân phối và bán cho công chúng
phụ thuộc hoàn toàn vào bởi Tổng công ty thuốc quốc gia, nhà thuốc bệnh viện
hoạt động theo hợp đồng một năm với các hội đồng quận. Từ năm 2009, việc độc
quyền nhà nước trong lĩnh vực này đã được bãi bỏ và thị trường mở cửa cho đối
thủ cạnh tranh khác.
Trước khi thuốc mới hoặc sản phẩm y tế mới có thể được bán ra, nó phải
được phê duyệt và đăng ký với Cơ quan y tế - một cơ quan quốc gia chịu trách
nhiệm quy định và giám sát phát triển, sản xuất và bán các loại thuốc và các sản
phẩm thuốc khác. Dược phẩm sử dụng trong các bệnh viện được mua sắm trực tiếp

bởi các hội đồng quận nên chi phí thường thấp hơn so với ngoài thị trường.
Để cho một loại thuốc được đưa vào thử nghiệm lâm sàng và ứng dụng như
là một phần của Đề án Trợ cấp Dược phẩm quốc gia, phải đươc Tổ chức thử
nghiệm lâm sàng phê chuẩn. Tuy nhiên, nếu tổ chức này bác bỏ một loại thuốc ở
cấp quốc gia, một hội đồng tỉnh có thể quyết định để tài trợ cho nó, miễn là các tiêu
chí cụ thể được đáp ứng (ví dụ nếu một loại thuốc có hiệu quả nhưng chỉ đáp ứng
cho số ít nguời cần, trong một bệnh nghiêm trọng, nơi có chỉ một số ít bệnh nhân
đã lựa chọn không điều trị). Hơn nữa, bệnh nhân có thể mua thuốc ở các hiệu thuốc
tư nhân nhưng sẽ không được hoàn lại các chi phí dịch vụ y tế của quốc gia. Cơ
quan sản phẩm y tế quốc gia chịu trách nhiệm quy định và giám sát sự phát triển,
sản xuất, và bán các sản phẩm thuốc.
11
Như vậy việc quản lý thuốc và chế biến dược phẩm đươc nhà nước quản lý
khá nghiêm ngặt từ việc quản lý sản xuất thuốc, định giá dựoc phẩm và đến tận
khâu phân phối đó là hệ thống các của hàng .
4.4.6. Trung tâm phục hồi chức năng
Hầu hết bệnh nhân xuất viện có nhu cầu rất lớn về việc tiếp tục chăm sóc từ
khu vực chăm sóc ban đầu. Để đáp ứng nhu cầu đó thì đa số các bệnh viện đã giúp
bệnh nhân liên hệ trực tiếp với một y tá huyện hoặc nơi cư trú của bệnh nhân.
Nhưng thực tế kết quả đạt được không cao bởi không phải bác sỹ nào cũng tận tình
chăm sóc những bệnh nhân ngoại trú, và chất lượng dịch vụ y tế ở mỗi địa phương
là khác nhau nên việc hưởng các dịch vụ chăm sóc ngoại trú của người bệnh cũng
khác nhau.
Một phương pháp mới để cải thiện hợp tác trong việc chăm sóc sức khỏe
giữa các trung tâm y tế và bệnh viện đã được giới thiệu trong một số hội đồng
quận. Theo đó tổng các bác sĩ từ khu vực chăm sóc ban đầu dành một tỷ lệ thời
gian làm việc nhất định của họ tại các phòng khám bệnh viện hàng tháng để chia sẻ
kiến thức về công việc và nguồn lực sẵn có tại các trung tâm, đổi lại họ được nhận
thêm quyền lợi khi tham gia chương trình này. Đây là chương trình do các bác sĩ
nói chung và các chuyên gia chăm sóc thực hiện, nhằm cải thiện chất lượng chăm

sóc và sự hợp tác giữa các bác sĩ, đã được phát triển tại các địa phương. Mô hình
này càng được mở rộng hơn và đi sâu vào chăm sóc từng bệnh cụ thể: trung tâm
chăm sóc người bị bệnh tiểu đường, thận,…
Các hội đồng tỉnh có trách nhiệm đối với các bệnh nhân cho đến khi bệnh
nhân có đầy đủ điều trị y khoa, tức là cho đến khi bệnh nhân không còn đòi hỏi
phải chăm sóc tại bệnh viện. Một khi bệnh nhân được điều trị y khoa đầy đủ và
một kế hoạch chăm sóc được phát triển, trách nhiệm đối với bệnh nhân được
chuyển giao cho thành phố. Như vậy sẽ đảm bảo được việc chăm sóc thường xuyên
hơn cho bệnh nhân tại nhà riêng. Nhưng cũng chính vì vậy mà gây nên sự căng
thẳng giữa Hội đồng quận và các đô thị.
12
4.4.7.Chăm sóc dài hạn
Ngay từ những năm 1980 trong luật về các dịch vụ xã hội đã quy định rằng
người già có quyền nhận các dịch vụ công cộng và giúp đỡ ở tất cả các giai đoạn
trong cuộc sống. Ngoài ra, người già và người khuyết tật thường được trợ cấp cơ
sở vật chất để chăm sóc sức khỏe
Thụy Điển là một trong những nước có dân số già nhất trên thế giới. Chăm
sóc người già ở Thụy Điển là gần như hoàn toàn tài trợ bởi các khoản thuế. Người
cao tuổi ở Thụy Điển được cung cấp miễn phí các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và có
thể đến ở miễn phí tại các nhà dưỡng lão.
Đối với chăm sóc người tàn tật, nguyên tắc là tất cả mọi người có quyền bình
đẳng đối trong việc tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc y tế. Trong Năm 1994, Luật
người tàn tật cải cách đã mở rộng các quyền lợi của người khuyết tật. Người khuyết
tật được hỗ trợ các dịch vụ xã hội theo các điều khoản của Luật và dưới luật. Theo
đó người khuyết tật sẽ được mở rộng một số các quyền lợi sau: hộ trợ các dịch vụ
cá nhân cho sinh hoạt hang ngày…
Các đô thị và các hội đồng quận chịu trách nhiệm về các dịch vụ xã hội để
chăm sóc sức khỏe. Việc giám sát thực hiện các dịch vụ xã hội cho người tàn tật
thuộc về các hội đồng địa phương. Bên cạnh đó Hội đồng Y tế và Phúc lợi Quốc
gia có trách nhiệm hỗ trợ, giúp đỡ gia đình những người tàn tật.

4.4.8. Chăm sóc sức khỏe răng miệng.
Sức khỏe răng miệng cũng đóng vai trò không nhỏ tạo nên hình ảnh đẹp
trong giao tiếp và quan trọng hơn là ảnh hưởng đến sức khỏe toàn thân của mỗi
người.
Thụy Điển là một trong những nước có hệ thống chăm sóc sức khỏe răng
miệng cho người dân tôt nhất. Họ đã nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của sức
khỏe răng miệng cũng như giáo dục cho người dân ý thức chăm sóc răng miệng
ngay từ khi còn nhỏ.
13
Nội dung của hệ thống chăm sóc sức khỏe răng miệng ở Thụy Diển được
thực hiện trên 2 mạng lưới:
Thứ nhất, Mạng lưới dự phòng bệnh răng miệng:
Là nội dung quan trọng nhất nhằm hạn chế tối đa bệnh răng miệng xảy ra,
các dịch vụ dự phòng sức khỏe răng miệng có mục đích loại trừ hoặc giảm thiểu
bệnh răng miệng trong cộng đồng.
Thứ hai, mạng lưới điều trị bệnh răng miệng: Giảm đau; ngăn chặn nhiễm
trùng và chuyển tuyến trên khi cần thiết; cấp cứu chấn thương hàm mặt…Việc
khám răng được thực hiện định kỳ 6 tháng/lần
4.4.9. Chăm sóc giảm nhẹ
Chăm sóc giảm nhẹ là các biện pháp nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống
của người mắc bệnh đe doạ cuộc sống và gia đình họ bằng cách phòng ngừa, phát
hiện sớm, điều trị đau và các triệu chứng thực thể, các vấn đề tâm lý và tinh thần
mà bệnh nhân và gia đình họ phải chịu đựng.
Chăm sóc giảm nhẹ chịu sự quản lý của Hội đồng quận và thành phố. Các
đơn vị chăm sóc giảm nhẹ được đặt tại bệnh viện và trung tâm cấp cứu.
Thụy Điển đã xây dựng một chương trình chăm sóc giảm nhẹ quốc gia một
cách hoàn hảo bao gồm cả việc đào tạo cán bộ chuyên môn, đưa ra những chuẩn
mực trong việc thực hành chăm sóc giảm nhẹ cho những người đang mắc các bệnh
đe doạ cuộc sống, bao gồm cả người lớn và trẻ em nhiễm HIV và bị ung thư, các
yếu tố thiết yếu trong chăm sóc giảm nhẹ, kể cả chẩn đoán và xử trí đau hoặc các

triệu chứng khác. Hỗ trợ về tâm lý, chăm sóc về tinh thần và chăm sóc cuối đời, tư
vấn và chăm sóc cho người nhà bệnh nhân.
Thụy Điển đã hướng dẫn chi tiết về thực hành chăm sóc giảm nhẹ với tiêu
chuẩn chất lượng, có danh mục kiểm tra và hướng dẫn giám sát đảm bảo cung cấp
một dịch vụ chăm sóc giảm nhẹ theo tiêu chuẩn, nhằm hỗ trợ cho việc mở rộng các
dịch vụ chăm sóc giảm nhẹ tại nhà, cộng đồng và các bệnh viện. Cung cấp các dịch
14
vụ chăm sóc giảm nhẹ và tiếp cận thuốc giảm đau với mức phí thấp cho những
bệnh nhân đang mắc căn bệnh đe doạ cuộc sống.
4.4.10. Chăm sóc sức khỏe tâm thần
Trước đây, ở Thụy Điển tâm thần học gần như có sự tách biệt với những
chuyên ngành khác của y học thì ngày nay khoảng cách đó đã thu hẹp dần và bệnh
lý tâm thần có thể thấy và được nhận ra ở người bệnh có những bệnh lý khác nhau,
được điều trị kết hợp làm cho tình trạng sức khỏe của người bệnh ngày một tốt hơn.
Việc ứng dụng nhiều loại thuốc mới trong điều trị đã giúp bệnh nhân tâm
thần mạn tính cải thiện tốt về hiệu quả điều trị, tuân thủ điều trị và hạn chế được
những tác dụng không mong muốn của thuốc.
Hiện nay Thụy Điển đã xây dựng chiến lược chăm sóc sức khỏe tâm thần
bao gồm các nội dung: cải thiện sức khỏe tâm thần cho cộng đồng, Đảm bảo tiếp
cận được các dịch vụ y tế phù hợp và hiệu quả về gía cả bao gồm cả phương diện
tăng cường sức khỏe tâm thần, các dịch vụ dự phòng; Đảm bảo chăm sóc phù hợp
và bảo vệ quyền con người đối với những bệnh nhân bị rối loạn tâm thần nặng đang
sống ở những cơ sở từ thiện; Đánh giá và quản lý vấn đề SKTT tại cộng đồng, kể
cả những đối tượng dễ bị tổn thương như trẻ em, phụ nữ và người già; Tăng cường
lối sống lành mạnh và giảm các yếu tố có nguy cơ đối với các rối loạn SKTT và
hành vi như môi trường gia đình không bền vững; Hỗ trợ cho cuộc sống gia đình
ổn định, gắn kết xã hội và phát triển nhân văn; Tăng cường các nghiên cứu nguyên
nhân của các rối loạn tâm thần và hành vi, phát triển các liệu pháp điều trị hiệu quả,
đồng thời giám sát và đánh giá hệ thống SKTT
4.4.11. Chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em

Thụy Điển là nơi lý tưởng nhất cho những phụ nữ muốn làm mẹ. Tại Thụy
Điển, tất cả các bà mẹ mang thai đều được nhân viên y tế theo dõi và chăm sóc cho
tới khi sinh nở. Với sự chăm sóc tốt nhất, nhiều đôi vợ chồng đã chọn trung tâm y
tế của Thụy Điển là nơi chào đời cho đứa con của họ và bắt đầu một cuộc sống gia
đình mới.
15
Ở Thụy Điển đã có nhiều trung tâm chăm sóc sức khỏe trẻ em, các trung tâm
này đã hợp tác thực hiện các dự án với các tổ chức trong nước cũng như quốc nhằm
mục đích: phòng ngừa bỏ rơi trẻ em, tìm gia đình thay thế cho trẻ bị bỏ rơi, giáo
dục trẻ em hiểu các quyền của trẻ em, hỗ trợ trẻ em; Giúp trẻ em mồ côi tìm được
cội nguồn khi trưởng thành như tổ chức các chuyến đi về đất nước sinh ra trẻ; Tổ
chức các hoạt động cho các gia đình nhận con nuôi (kiến thức về nhận con nuôi,
giáo dục kĩ năng và chia sẻ kinh nghiệm…
4.4.12. Chăm sóc dân cư cụ thể.
Theo pháp luật Thụy Điển, tất cả các công dân có quyền được điều trị thích
hợp trong trường hợp bệnh tật hoặc chấn thương. Tất cả các nhóm xã hội được
hưởng các lợi ích tương tự trong hệ thống y tế chính
4.5. Những cải cách chính của hệ thống chăm sóc sức khỏe của Thụy Điển
Luật dịch vụ Y Tế năm 1982 nội dung của luật nói rằng hội đồng tỉnh chịu
trách nhiệm đối với các dịch vụ y tế và trách nhiệm tài chính được phân cấp cho
các hội đồng quận. Luật nhấn mạnh tới mục tiêu là chăm sóc sức khỏe bình đẳng
cho mọi công dân. Và đặc biệt chú ý tới các nhóm dân cư dễ bị tổn thương, ví dụ:
người già, người nhập cư và người về hưu sớm. Luật cũng nhấn mạnh rằng các cơ
quan địa phương phải tạo điều kiện cho người khuyết tật làm việc phù hợp với tình
trạng sức khỏe của họ. Ngoài ra Luật năm 1982 cũng đưa ra những quy định về
việc phân cấp trách nhiệm tài chính.
Cải cách Dagmar năm 1985. Trước năm 1985 cơ quan bảo hiểm xã hội khu
vực hoàn trả các dịch vụ chăm sóc ban đầu theo một lệ phí thống dựa trên số lượng
tham vấn. Sau cải cách Dagmar Cơ quan Bảo hiểm xã hội Thụy Điển chịu trách
nhiệm tổ chức giải ngân khoản tài trợ chăm sóc sức khỏe nói chung cho các hội

đồng quận/ đầu người. Cải cách Dagmar đã tăng cường trách nhiệm của hội đồng
quận trong việc “cung cấp dịch vụ y tế, cũng như định hướng dựa theo nhu cầu của
quy hoạch”.
16
Cải cách Adel năm 1992 là cải cách cơ cấu lớn nhất của những năm 1990.
Nó chuyển giao trách nhiệm cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe dài hạn cho
người già và người tàn tật từ các hội đồng quận đến các đô thị của từng địa phương.
Lý do chính thực hiện cải cách Adel là để sắp xếp kế hoạch tài chính và nâng cao
hiệu quả thực hiện các dịch vụ cho người cao tuổi (bao gồm dịch vụ tại nhà riêng,
dịch vụ tại các nhà dưỡng lão) ở các đô thị.Các mục tiêu chính của cải cách này là
để tạo điều kiện sống tốt nhất cho người già. Những cải cách đó có ảnh hưởng đáng
kể đến cơ cấu của hệ thống chăm sóc sức khỏe. Nhờ vậy mà những người cao tuổi
không nhất thiết phải điều trị ở bệnh viện mà có thể điều trị tại nhà hoặc các nhà
dưỡng lão.
Năm 1993, Mở rộng phạm vi các đối tượng được hưởng ưu tiên trong y tế
bao gồm: người cao tuổi, người mắc bệnh tâm thần và người tàn tật. Có thể nói đây
là một sự bổ sung cho các cải cách Adel.
Năm 1994,1995,2003 đã có thêm cải cách nhằm bổ sung thêm quyền lợi cho
những đối tượng là bệnh nhân tâm thần và người khuyết.
Năm 1997 đã sửa đổi, bổ sung những quy định về Bảo lãnh quốc gia về y tế
điều trị năm 1992. Trong phiên bản sửa đổi, khả năng tiếp cận chăm sóc y tế tìm
kiếm trong các chính và chăm sóc chuyên gia đã được quy định. Bệnh nhân cần
được chăm sóc từ y tá học viên tại trung tâm y tế trong cùng một ngày. Một cuộc
hẹn để xem bác sĩ phải được cung cấp trong vòng 7 ngày. Khi bệnh nhân được giới
thiệu chuyên gia chăm sóc, bổ nhiệm một nên được cung cấp trong vòng 3 tháng,
và khi chẩn đoán không rõ ràng, một cuộc hẹn để xem một chuyên gia phải được
cung cấp trong vòng một tháng. Trong trường hợp chuyên gia chăm sóc có thể
không được cung cấp trong khung thời gian này, bệnh nhân được tự do để tìm sự
chăm sóc trong một hội đồng quận.Ngoài việc thực hiện bảo lãnh quốc gia, hội
đồng quận cũng có thể xây dựng đảm bảo điều trị riêng của họ.

Vào cuối những năm 1990, cải cách ma túy đã được triển khai trong hai giai
đoạn. Giai đoạn đầu tiên được giới thiệu vào tháng Sáu năm 1997. Đã quy định về
17
việc đồng thanh toán dược phẩm đối với bệnh nhân. Và các thanh toán đó được
tách từ mức giới hạn cao nhất về chi phí trong việc sử dụng các phương pháp điều
trị y tế. Giai đoạn thứ hai đã diễn ra vào năm 1998. Các Hội đồng quận đã được
trao trách nhiệm hoàn toàn về các chi phí điều trị thuốc.
Từ tháng 1 năm 1999, Luật dịch vụ y tế năm 1982 đã được bổ xung thêm
một số điều khoản nhằm tăng thêm nghĩa vụ cuar hội đồng quận đối với bệnh nhân.
Theo đó một số quyền lợi của bệnh nhân được tăng lên cụ thể như họ có quyền
được lựa chọn bác sĩ chăm sóc – quyền này không bị hạn chế bởi khu vực địa lý
nhất định. Bệnh nhân cũng có quyền nhận được những điều kiện về khám chữa
bệnh chăm sóc súc khỏe của bản thân mình.
Cũng năm 1999 đã triển khai cải cách về răng miệng. Cải cách này đã cố
định mức trợ cấp cho các loại hình dịch vụ cùng với một số các dịch vụ miễn phí từ
nhà cung cấp.
Vào tháng 7 năm 2002, đã bổ sung thêm một số điều khoản mới về cải cách
răng miệng năm 1999. Thực hiện đề án chăm sóc răng miệng nâng cao cho người
trên 64 tuổi. Tuy nhiên, chi phí cho việc chăm sóc nha khoa vẫn còn chưa được
cao. Khoảng 60% tổng chi tiêu cho việc chăm sóc nha khoa được trả trực tiếp cho
bệnh nhân.
Trong tháng 10 năm 2002, những điều khoản mới về cải cách dược phẩm có
hiệu lực.Kể từ đó, một cơ quan mới – hội đồng quản trị lợi ích dược phẩm , đã
quyết định nếu một loại thuốc hoặc sản phẩm cụ thể cần được trợ giá, và sau đó thì
phải được thông qua trong các cuộc đàm phán với các nhà sản xuât để quy định
một mức giá.
V. Kết quả
5.1. Những mặt đạt được
Hệ thống chăm sóc y tế của Thụy Điển đã được xã hội hóa. Hầu hết mọi
người dân trên đất nước đã được tiếp cận với chương trình chăm sóc sức khỏe một

cách phổ biến. Hệ thống chăm sóc y tế đã có sự phân cấp rõ ràng và được hỗ trợ
18
chủ yếu thông qua các khoản thuế. Trong những năm qua hệ thống chăm sốc y tế
của Thụy Điển đã đạt được những kết quả to lớn. Cụ thể trong một số lĩnh vực sau:
Hệ thống chăm sóc sức khỏe được phân công phân cấp rõ ràng với cơ cấu tổ
chức theo ba cấp: quốc gia, vùng và địa phương như vậy sẽ đảm bảo thực hiện tốt
hơn các chương trình chăm sóc y tế của nhà nước.
Việc thực hiện phương thức thanh toán đồng chi trả và áp dụng mức giá trần
đối với việc thanh toán của bênh nhân khi sử dụng các dịch vụ y tế đảm bảo cho
người dân chỉ phải trả một mức giá thấp đối với việc sử dụng dịch vụ chăm sóc y
tế.
Nguồn thu của hệ thống chăm sóc sức khỏe được lấy chủ yếu từ thuế đảm
bảo cho nguồn tài chính ổn định. Kết quả thu được từ các nguồn được thể hiện qua
bảng số liệu sau:
Bảng 1. Bảng số liệu về tỷ lệ thu của các nguồn vào nguồn tài chính của
hệ thống chăm sóc sức khỏe của Thụy Điển.
( Đơn vị: %)
STT Nguồn đóng góp Tỷ lệ đóng góp
1 Nhà nước 5,0
2 Người sử dụng lao động 3,0
3 Tiền lương 6,0
4 Các khoản trợ cấp 13,0
5 Nguồn khác 1,0
19
Biểu đồ thể hiện tỷ lệ từ các nguồn vào quỹ tài chính của hệ thống chăm
sóc sức khỏe của Thụy Điển
Các dịch vụ chăm sóc sức khỏe của Thụy Điển rất toàn diện đã bao quát hết
các mặt của sức khỏe con người. Thông qua cải cách của hệ thống chăm sóc sức
khỏe Thụy Điển trong các năm thì các dịch vụ đã đạt được những thành tựu đáng
kể. Có thể kể đến một số thành tựu sau.

Đối với y tế công công đã hướng tới chăm sóc sức khỏe cho toàn dân với sự
bình đẳng về quyền lợi trong chăm sóc sức khỏe không phân biệt giàu nghèo, tầng
lớp xã hội, khu vực địa lý… các loại dich bệnh được phòng ngừa và đẩy lùi, tình
trạng sức khỏe của người dân Thụy Điển ngày càng được nâng cao. Hiện nay Thụy
Điển là một trong những nước có tuổi thọ dân số cao nhât thế giới và tỷ lệ tử vong
ở trẻ sơ sinh vào loại thấp nhất. Được thể hiện qua bẳng số liệu sau.
Bảng 2. Bảng số liệu thể hiện độ tuổi trung bình của người dân Thụy Điển
năm 2005.
(đơn vị:tuổi)
Năm Nam Nữ
2005 78,9 82,4
Bảng 3. BảngThống kê tình trạng tuổi thọ khuyết tật và tình trạng tuổi thọ
ước tính
(đơn vị: năm)
Chỉ tiêu 1999 2001 2003 2005
Tình trạng tuổi
thọ khuyết tật
73.1 72.4 72.8 74.5
Tình trạng tuổi
thọ ước tính
79.5 80.0 81.1 82.4
(Nguồn: Tổ chức y tế Thế giới năm 2007)
20
Bảng4.Số liệu về tình hình sức khỏe của dân số Thụy Điển
Chỉ tiêu 1970 1980 1990 1995 2000 2005
Tỷ lệ nữ
sống/sinh
77.4 79.1 80.7 81.8 82.3 83.5
Tỷ lệ nam sống/
sinh

72.4 72.9 74.9 76.3 77.5 79.1
Tỷ lệ sinh sống/
Tổng số sinh
74.8 75.9 77.8 79.1 79.9 80
Tỷ lệ nữ chết thô/
1000 dân
9.1 10 10.6 10.4 10.7 10.5
Tỷ lệ nam chết
thô/ 1000 dân
10.8 12.1 11.6 10.9 10.4 10.3
Tỷ lệ trẻ em
chết/1000 ca sinh
11.0 6.9 6.0 4.0 3.4 3.0
(Nguồn tổ chức y tế thế giới năm 2007)
Đối với việc bệnh nhân tiếp cận với bác sĩ cũng đã được khắc phục theo
hướng tốt hơn theo đó thời gian chờ đợi đã được rút ngắn cụ thể như: Năm 2003,
90% nhu cầu chăm sóc sức khỏe của bệnh nhân đã được các bác sĩ hội chẩn trong
cùng một ngày, 10% còn lại được biết trong vòng 2 ngày. Đối với việc hội chẩn tại
các bệnh viện,ở một số khu vực nhiều hơn 87% bệnh nhân đã có một cuộc hẹn
trong vòng ba tháng, nhưng tại các khu vực khác chỉ 47% đã có thể gặp một bác sĩ
trong cùng thời gian. Đối với điều trị tại bệnh viện, thời gian chờ đợi khác nhau
nhiều hơn. Trong một số chính quyền địa phương, như 94% bệnh nhân được điều
trị trong vòng 3 tháng, tương ứng con số cho một số địa phương khác là thấp, 23%.
Ca phẫu thuật ở bệnh viện có thời gian chờ đợi lâu hơn dự kiến so với các phòng
khám y tế. Các phẫu thuật sau tại bệnh viện có thời gian chờ đợi lâu hơn đó là phẫu
thuật chỉnh hình, xương , khớp, thần kinh và da liễu
Mỗi hội đồng tỉnh có một số điện thoại đường dây nóng trực 24/24 giờ để
các bệnh nhân có thể nhận được tư vấn và thông tin về chăm sóc sức khỏe khi cần
thiết
21

Đối với chăm sóc ban đầu cho bênh nhân trong những năm qua cũng đã dạt
được những kết quả quan trọng đảm bảo chi bệnh nhân được chăm sóc sức khỏe
ban đầu mà không càn phải đến bệnh viện
Bảng 5. Bảng số liệu về tình hình chăm sóc sức khỏe ban đầu của Thụy Điển.
Chỉ tiêu 1997 2000 2003 2005
Tổng số bệnh
nhân ngoại trú
24725 26870 27520 27322
Bình quân đầu
người.
2.8 2.9 2.9 2.8
(
Nguồn: Liên đoàn các Hội đồng Quận Thụy Điển năm 2007)
Đối với chăm sóc bệnh nhân nội trú cũng đã được chú trọng hơn số bệnh
viện và giường bệnh trong bệnh việc cũng được tăng lên cụ thể hiện nay ở Thụy
Điển có khoảng 20 trung tâm bệnh viện quận để phục vụ cho người dân trong khu
vực của họ. Trong mỗi bệnh viện có từ 15 đến 20 chuyên ngành chuyên môn và
trong năm 2001 số giường bệnh trung bình của mỗi bệnh viện là 458 giường. Để
chăm sóc chuyên môn cao, Thụy Điển có sáu khu vực chăm sóc y tế lớn trong sự
phối hợp với hội đồng quận. trên mỗi khu vục có một đến 2 bệnh viện phục vụ cho
khoảng từ 1- 2 triệu dân.
Đối với chăm sóc sức khỏe người già, người khuyết tật, người bị bệnh tâm
thần đã đạt được những thành tựu lớn qua các năm thì đều có những cải cách nhằm
bổ sung quyền lợi của họ. Chính vì vậy quyền lợi của họ không ngừng được nâng
cao.
Chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ và trẻ em cũng đạt được những thành quả cao
số liệu ở bảng thống kê ở trên.
Trong tất cả các loại hình dịch vụ mà Thụy Điển đã cung cấp đều đã đạt
được những kết quả quan trọng.
22

Đánh giá về cải cách về chăm sóc súc khỏe của Thụy Điển nhìn chung là kịp
thời và đáp ứng các nhu cầu bức thiết của nhân dân.
5.2. Một số hạn chế và giải pháp
• Nhân viên y tế ít có cơ hội tiếp cận với các thuốc cần thiết dùng trong
chăm sóc giảm nhẹ để xử trí các triệu chứng bất ngờ của bệnh nhân. Ngoài ra nhân
viên y tế tại các cơ sở y tế chăm sóc giảm nhẹ còn chưa được đào tạo đầy đủ về lý
thuyết cũng như thực hành chăm sóc giảm nhẹ.
Vì thế phải tạo điều kiện hơn nữa cho các nhân viên y tế tham gia vào các
lớp tập huấn nghiệp vụ y tế nâng cao chất lượng phục vụ. Bên cạnh đó việc đưa bác
sĩ về xã là một giải pháp rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc
sức khỏe nhân dân ở tuyến cơ sở nhưng. Ngoài ra cần phải có giải pháp để các bác
sĩ đó thường xuyên được cập nhật, nâng cao kiến thức, có trình độ chuyên môn tốt,
đặc biệt là những kiến thức và kỹ năng về chăm sóc sức khỏe ban đầu cùng với
việc gắn bó với địa phương để đạt được mục đích giúp cho mọi người dân được
tiếp cận dịch vụ y tế ngày càng có chất lượng cao hơn.
• Mặc dù hệ thống chăm sóc sức khỏe đã vươn tới cả đến những đối tượng
mắc bệnh hiểm nghèo như: ung thư, HIV,…. Nhưng sự quan tâm đến họ còn hạn
chế, nên họ vẫn phải chịu đau đớn về tinh thần.
Vì thế cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tư vấn và hỗ trợ cho những đối tượng này về
mặt tinh thần. Đó là việc rất cần thiết và nên được phát triển cũng như mở rộng các
dịch vụ này ở những trung tâm điều trị cho bệnh nhân ung thư và người có HIV.
• Mặc dù hệ thống chăm sóc sóc sức khỏe ở Thụy Điển đã được nâng cao
nhưng số người dân mắc các bệnh như: bệnh hen suyễn, ung thư phổi, khối u ác
tính, tai nạn, vẫn còn cao.
Vì vậy để chăm sóc tốt hơn nữa sức khỏe của ngươi dân, cần đầu tư hơn nữa
các trang thiết bị y tế hiện đại, nghiên cứu sản xuất thuốc hạn chế các bệnh hiểm
23
nghèo, bênh cạnh đó cũng cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền cho người
dân trong việc bảo vệ môi trường sống.
VI. Lời Cảm ơn

Nhóm em xin chân thành cảm ơn thày giáo Phạm Đức Trọng đã hướng dẫn
chúng em hoàn thành đề tài “Hệ thống chăm sóc sức khỏe ở Thụy Điển”. Do thời
gian và kiến thức có hạn nên bài của nhóm em không tránh khỏi những thiếu xót.
Chúng em rất mong nhận được sự góp ý của thày để bài làm được hoàn thiện
hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn.
Danh mục tài liệu tham khảo.
24

×