Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

SKKN môn Ngữ văn 6 Một vài suy nghĩ khi dạy văn bản Bài học đường đời đầu tiên- Ngữ văn 6 Tập 2 theo quan điểm tích hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.65 KB, 34 trang )










SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


ĐỀ TÀI:
"MỘT VÀI SUY NGHĨ KHI DẠY VĂN BẢN BÀI HỌC ĐƯỜNG
ĐỜI ĐẦU TIÊN NGỮ VĂN 6 TẬP 2 THEO QUAN ĐIỂM TÍCH
HỢP"


PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ

I- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Như chúng ta đã biết việc "Đổi mới phương pháp dạy học" được thực hiện hơn
mười năm qua. Với mục tiêu tổng quát của chương trình Ngữ văn THCS được cụ thể
hoá trong việc dạy của thầy, việc học của trò trên ba phương diện: kiến thức, kĩ năng
và thái độ, tình cảm. Về kĩ năng, chương trình nhấn mạnh: Trọng tâm rèn luyện kĩ
năng Ngữ văn cho học sinh là làm cho học sinh có kĩ năng nghe, đọc, nói , viết Tiếng
Việt thành thạo theo các kiểu văn bản và có kĩ năng sơ giản về phân tích tác phẩm văn
học, bứơc đầu có năng lực cảm nhận và bình giá văn học.
Để thực hiện mục tiêu rèn luyện kĩ năng nói trên, việc dạy học Ngữ văn được tiến
hành theo phương pháp tích hợp. Phương pháp tích hợp đòi hỏi học sinh học tập một
cách sáng tạo, vừa kết hợp các yếu tố đồng qui giữa ba phân môn: Văn học, Tiếng


Việt, Tập làm văn, vừa tích cực chủ động học tập ở từng phân môn.
Như vậy, đổi mới phương pháp dạy học theo quan điểm tích hợp, tất nhiên sẽ kéo
theo đổi mới qui trình dạy học. Ở đó hình tượng văn học vẫn được tiến hành trong sự
cảm thụ của người học nhưng không còn độc lập riêng rẽ. Nó tiến hành trong sự đồng
bộ cả Tiếng Việt và Tập làm văn để tiến tới kết quả cần đạt của cả bài học Ngữ Văn.
Tuy nhiên, dạy học theo quan điểm tích hợp không phủ định các tri thức, kĩ năng riêng
của từng phân môn. Vấn đề là làm sao phối hợp các tri thức kĩ năng từng phân môn
thật nhuần nhuyễn để đạt kết quả chung chứ không phải là một sự "cưỡng duyên" như
một số ý kiến đã nhận xét.
Hiểu và thấm nhuần quan điểm trên nhưng qua mười năm thực hiện chương trình
thay sách, mười năm thực hiện phương pháp dạy học theo quan điểm dạy học tích cực
chúng tôi vẫn thấy còn nhiều băn khoăn, trăn trở cần phải trao đổi, bàn bạc - mặc dầu
giáo viên đã cố gắng rất nhiều .
Từ thực tế nêu trên tôi muốn đưa ra một vài suy nghĩ khi dạy cụ thể một văn bản
theo quan điểm tích hợp. Đó là văn bản " Bài học đường đời đầu tiên" trích tác phẩm
"Dế Mèn phiêu lưu ký" của nhà văn Tô Hoài ( Ngữ Văn 6 - Tập 2). Trên cơ sở tìm
hiểu, nghiên cứu nội dung văn bản và từ thực tế giảng dạy, tôi muốn cùng trao đổi, bàn
bạc với các đồng nghiệp để tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhất cho việc thực hiện
phương pháp dạy học theo quan điểm tích hợp thuận lợi hơn. Chính vì thế, tôi đã chọn
đề tài này trong bản sáng kiến kinh nghiệm của mình.



II- CƠ SỞ KHOA HỌC:
"Dế Mèn phiêu lưu kí" của Tô Hoài là một tác phẩm hấp dẫn, đặc sắc viết về loài
vật mà nhà văn đã cống hiến cho bạn đọc chúng ta. Truyện kể về một cuộc phiêu lưu
kì thú nhưng không ít sóng gió của chàng Dế Mèn. Ở đó, bằng tài quan sát, trí tưởng
tượng phong phú và sự am hiểu của nhà văn, ông đã dựng lên một thế giới loài vật hết
sức sinh động, trong sáng và ngộ nghĩnh. Điều đáng nói hơn là cái thế giới loài vật ấy
thật gần gũi với lứa tuổi thiếu niên. Những sự việc cụ thể, những mẩu chuyện hồn

nhiên được tái hiện đúng như cái thế giới trong trẻo, hồn nhiên, ngộ nghĩnh của tuổi
thơ. Không chỉ thế, thế giới ấy cũng mở ra cho người lớn những liên tưởng phong phú,
những ngẫm nghĩ không cùng về những mặt nào đó trong cuộc sống xã hội.
"Bài học đường đời đầu tiên" là đoạn trích trong chương đầu của tác phẩm, được
coi như màn tự giới thiệu của nhân vật trung tâm Dế Mèn. Tài năng và lòng yêu mến
trẻ thơ đã giúp Tô Hoài sáng tạo một câu chuyện có ý nghĩa thật sâu sắc. Chỉ đọc một
đoạn này thôi ta cũng hiểu rõ điều đó. Bài học đầu đời của của Dế Mèn là một bài học
có tính luân lý, đạo đức nhưng nó không hề khô khan, trìu tượng như một bài học đạo
đức mà rất sinh động. Nó có tác động mạnh mẽ sâu xa vào tâm hồn bạn đọc nhỏ tuổi
qua hình tượng Dế Mèn với biệt tài liên tưởng, dẫn dắt chuyện hết sức sinh động và
hấp dẫn của nhà văn.
Chúng ta vẫn còn nhớ, trong chương trình cải cách giáo dục năm 1985, tác phẩm
"Dế Mèn phiêu lưu kí" cũng đã được đưa vào trong chương trình Văn học lớp 6 - Tập
I, gồm 6 tiết với các đoạn trích: "Tôi sống độc từ thuở bé - một sự ngỗ nghịch đáng ân
hận suốt đời" (Trích chương I); "Tranh hùng với võ sỹ bọ ngựa - Chánh phó thủ lĩnh
tổng châu chấu - thề rằng sinh tử có nhau " (Trích chương VI); "Lại một chuyện rủi
ro với các bạn kiến - Sự tức giận của mấy cô bé học trò - Ai có công nhất" (Trích
chương IX). Với ba đoạn trích trên, chúng tôi thiết nghĩ rằng người chủ biên chương
trình muốn cho học trò biết được sự phát triển nhân cách của nhân vật Dế Mèn. Từ
một kẻ tự cao, tự đại, cho rằng trong thiên hạ không ai bằng mình cho nên đã gây nên
cái chết thương tâm cho Dế Choắt, từ đó mới rút ra bài học đường đời đầu tiên cho bản
thân. Đến việc "Tranh hùng với võ sỹ bọ ngựa" tính nết của Dế Mèn đã hoàn toàn thay
đổi: Qua cuộc đấu võ, Dế Mèn đã tỏ ra là một võ sỹ tài ba, có mưu lược và biết ứng
phó kịp thời nhưng rất khiêm tốn và không màng danh vọng ( mặc dầu khi đánh thắng
xứ này họ yêu cầu làm thủ lĩnh). Đến đoạn trích thứ 3 "Lại một chuyện rủi ro với các
bạn kiến - Sự tức giận của mấy cô bé học trò - Ai có công nhất" thì Dế Mèn không còn
là một gã dế hung hăng, thích gây gổ nữa mà nó đã thực sự đã trở thành môt chàng dế
khôn ngoan, lịch lãm. Như vậy, việc trích học này cũng mới chỉ nhằm cung cấp cho
học sinh hiểu về nội dung ý nghĩa văn chương chứ chưa quan tâm gì đến các vấn đề
khác liên quan. Điều này thể hiện rõ ràng trong quan điểm viết sách lúc bấy giờ là tách

riêng 3 phân môn: Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn thành 3 quyển khác nhau với một
ranh giới khá rạch rời.


Năm 2002-2003 đến nay, thực hiện "Đổi mới phương pháp dạy học" theo quan
điểm tích hợp thì việc dạy học 3 phân môn trong từng bài học phải như một thể thống
nhất, làm sao kết hợp được thật tốt việc hình thành cho học sinh năng lực phân tích,
bình giá và cảm thụ Văn học với việc hình thành 4 kỹ năng: Nghe, Đọc, Viết, vốn là
hai quá trình gắn bó hữu cơ và hỗ trợ cho nhau hết sức đắc lực. Bởi vậy, trong mỗi bài
học đều được nhấn mạnh những điểm đồng qui về kiến thức kỹ năng giữa 3 phân môn
để nhằm thực hiện tích hợp trong tổ chức nội dung dạy học cũng như xác định phương
pháp dạy học. Mỗi bài học được bắt đầu bằng việc tìm hiểu văn bản, sau đó căn cứ
trên văn bản để học các kiến thức kỹ năng Tiếng Việt, Tập Làm Văn có liên quan.
Phân môn Văn học đã lựa chọn những văn bản sao cho các văn bản này phù hợp với
việc dạy các kiến thức kỹ năng Tiếng Việt và Tập làm văn. Như vậy, so với chương
trình cũ, chương trình mới Ngữ Văn lớp 6, tác phẩm "Dế Mèn phiêu lưu ký" chỉ trích
một phần của Chương I, đó là văn bản "Bài học đường đời đầu tiên". Văn bản này rất
phù hợp với quan điểm tích hợp. Ở đó, ngoài kiến thức về văn học ta có thể tích hợp
được phân môn Tập làm văn (miêu tả); có thể tích hợp được phân môn Tiếng Việt với
các kiến thức: tính từ, động từ, phó từ và các biện pháp nghệ thuật
Để thực hiện được quan điểm này không phải đơn giản, người dạy phải tìm tòi,
nghiên cứu, học tập sách vở, tài liệu để lựa chọn cách dạy thích hợp và hiệu quả nhất.
Đối với văn bản này đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, phê bình phân tích, nhận xét
đánh giá như:
- Tác giả Lê Lưu Oanh trong cuốn "Bình giảng văn học lớp 6"
- Nhóm tác giả Nguyễn Đăng Điệp, Đỗ Việt Hùng, Vũ Băng Tú trong cuốn "Ngữ
Văn 6 nâng cao".
- Nhóm tác giả Tạ Đức Hiền, Nguyễn Kim Thoa, Lê Thuận An trong cuốn "Nâng
cao Ngữ văn 6".
- Nhóm tác giả Trần Đình Sử, Nguyễn Cẩn, Văn Giá, Nguyễn Xuân Lạc trong cuốn

"Phân tích, bình giảng tác phẩm văn học văn 6.
Nói chung, các bài viết trên đã phân tích được vẻ đẹp hình thức và nội dung của
đoạn trích. Nhưng đó mới chỉ là tài liệu tham khảo để giáo viên hiểu thêm về tác giả ,
tác phẩm chứ chưa phải là những chỉ dẫn thiết thực cho giờ dạy văn theo quan điểm
tích hợp và như vậy cũng chưa thể hiện được dụng ý của người chủ biên.
Thực tế hiện nay, trên thị trường sách, ngoài những tài liệu trên đã có thêm rất
nhiều sách tham khảo nhưng đọc, nghiên cứu kỹ thì các tài liệu ấy thường có nội dung
na ná giống nhau, chưa có điểm gì mới. Do vậy, khi giảng dạy giáo viên thường dựa
vào hai tài liệu chính đó là "Sách giáo viên Ngữ văn 6 - tập II" của Bộ giáo dục và đào
tạo và sách "Thiết kế bài giảng Ngữ Văn 6 - Quyển 2" của Nhà xuất bản Đại học Quốc


gia Hà Nội. Chúng tôi đã xem hai cuốn này như một sự gợi mở hướng đi trong quá
trình giảng dạy. Nhưng ở hai cuốn này vẫn còn những vấn đề cần bàn bạc.
Đối với cuốn "Sách giáo viên Ngữ văn 6 - Tập II", khi dạy văn bản này, các hoạt
động chủ yếu bám vào câu hỏi hướng dẫn "Đọc - Hiểu văn bản" trong sách giáo khoa
mà chưa có một tiêu đề hợp lý:
- Hoạt động 1: Hướng dẫn học sinh đọc và tìm hiểu chung về bài văn (Câu 1-SGK)
- Hoạt động 2: Phân tích hình ảnh Dế Mèn trong đoạn 1 của bài văn (Câu 2 - SGK)
- Hoạt động 3: Tìm hiểu đoạn 2 của bài văn (Câu3, 4 - SGK)
- Hoạt động 4: Rút ra ý nghĩa, nội dung và đặc điểm nghệ thuật của bài văn.
- Hoạt động 5: Luyện tập.
Đối với cuốn "Sách thiết kế bài giảng Ngữ Văn 6" thì đã trình bày khá đầy đủ các
bước trong tiến trình bài giảng. Tác giả đã đưa ra phương pháp giới thiệu bài, hướng
dẫn tìm hiểu về tác giả, hướng dần kể tóm tắt văn bản, tìm hiểu chi tiết theo hệ thống
câu hỏi về "Bức chân dung tự hoạ của Dế Mèn, về bài học đường đời đầu tiên" . Song
các hỏi còn vụn vặt, sa vào liệt kê các chi tiết, dễ làm cho bài giảng nặng nề không đủ
thời gian rèn luyện về các kỹ năng khác và còn mang tính áp đặt khi phân tích diễn
biến tâm trạng của nhân vật Dế Mèn (phần 2 của đoạn trích).
Ngoài tài liệu “ Sách giáo viên ngữ văn 6 – Tập 2 “ của Bộ giáo dục đào tạo, và

sách “ Thiết kế bài giảng Ngữ văn 6 – Tâp 2 “ của nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà
nội, khi dạy văn bản này, giáo viên có thể tham khảo thêm các tài liệu khác như:
+ Cuốn “Bình giảng văn 6” của tác giả Vũ Dương Quí và Lê Bảo - NXB GD .
+ Cuốn “ Bài tập ngữ văn 6 ” của nhiều tác giả - NXB giáo dục .
Các tài liệu trên được viết theo quan điểm của mỗi nhóm tác giả nên các tài liệu
đưa ra đều có các phương hướng thực hiện khác nhau. Nếu để tham khảo một cách chi
tiết cụ thể cho các hoạt động của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học thì
không có. Giáo viên nếu không biết cách tham khảo, không có “ bản lĩnh ” trong tiếp
nhận văn bản có thể dễ bị “ Râu ông nọ cắm cằm bà kia ” một cách “ phi khoa học”
làm cho việc tiếp nhận văn bản không thống nhất và không đạt hiệu quả cao. Vì mỗi
văn bản trong chương trình được xem như một tác phẩm văn học, mà bản chất của văn
học là nghệ thuật ngôn từ - một thứ ngôn từ đa nghĩa, giàu tính hình tượng, giàu sác
thái biểu cảm. Bởi vậy, khi tìm hiểu về tác phẩm không thể không thông qua ngôn từ,
nhưng cái chính là giáo viên biết hướng học sinh chỉ ra được tính nghệ thuật, tính hiệu
quả của ngôn từ, của cách viết, cách nói trong tác phẩm chứ không giải mã nó một
cách khô cứng, máy móc. Chính vì vậy, sau khi đã tham khảo giáo viên phải tự đầu tư
suy nghĩ để lựa chọn phương pháp dạy học thích hợp nhất, làm thế nào để học sinh


chiếm lĩnh được kiến thức một cách dễ dàng và hiệu quả nhất theo quan điểm dạy học
như trên đã nêu.
II- CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy, được dự giờ của các đồng nghiệp tôi nhận
thấy: dạy học theo quan điểm tích hợp có rất nhiều ưu thế. Trong giờ dạy văn những
kiến thức kỹ năng của 3 phân môn không còn bi coi như những mảng kiến thức độc
lập, tách rời mà đã được dạy trong mối liên hệ hỗ trợ lẫn nhau trong từng giờ dạy. Bởi
thế nó vừa tạo nên được tính tích cực trong hoạt động của học sinh, vừa hình thành rèn
luyện được cho các em kiến thức kỹ năng một cách toàn diện hơn. Thế nhưng trong
giảng dạy vẫn bộc lộ rõ một số nhược điểm đáng kể, đó là: sự hiểu biết, vận dụng
phương pháp theo hướng tích cực vào quá trình dạy học ở một số giáo viên còn tỏ ra

quá máy móc, thô cứng và làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện mục tiêu bài
học.
Không ít giáo viên cho rằng: một giờ học sử dụng được nhiều kiến thức của các
phân môn, sự tích hợp được thực hiện trên một diện rộng xem đó là phương pháp tốt.
Song họ quên rằng, sự tích hợp ấy đã thích hợp chưa, có tác dụng gì không?
Tôi xin nêu ra đây một số ví dụ từ thực tế mà giáo viên đã thể hiện khi dạy văn
bản "Bài học đường đời đầu tiên".
Ví dụ: Khi tìm hiểu về hình ảnh Dế Mèn ( Bức chân dung tự hoạ - Phần 1 của
văn bản). Sau khi học sinh phát hiện các chi tiết và nhận xét được nghệ thuật miêu tả
trong phần một (động từ, tính từ, so sánh ), giáo viên hỏi như sau:
Hỏi: Trong các tính từ ấy, đâu là tính từ chỉ màu sắc, đâu là tính từ chỉ tính chất?
- Học sinh chỉ ra và gạch chân những từ chỉ màu sắc, những từ chỉ về tính chất.
Hoặc chi tiết "Hai cái răng đen nhức lúc nào cũng nhai ngoàm ngạp như hai cái
liềm máy làm việc". Sau khi cho học sinh phát hiện, gọi tên đó là phép tu từ so sánh,
giáo viên hỏi như sau:
Hỏi: Trong phép so sánh này, đâu là sự vật được so sánh, đâu là sự vật dùng để
so sánh?
- Học sinh chỉ ra và giáo viên ghi lên bảng như sau:
Hai cái răng đen nhức lúc nào cũng nhai ngoàm ngạp như hai cái liềm máy làm
việc.



Vế A ( SV được so sánh) (Từ S.S) Vế B (SV dùng để so sánh)
Hoặc giáo viên muốn tích hợp phân môn tập làm văn, giáo viên đã hỏi:
Hỏi: Trong văn bản, đâu là miêu tả, đâu kể chuyện.? Và rất nhiều câu hỏi vụn
vặt khác.
Tôi nghĩ rằng sự tích hợp theo kiểu như vậy sẽ không đem lại hiệu quả trong
việc cảm thụ vẻ đẹp của hình ảnh Dế Mèn trong tác phẩm mà Tô Hoài đã xây dựng.
Nên chăng, giáo viên chỉ cần cho các em chỉ ra những động từ, tính từ, phép so

sánh, và điều cần làm là giúp các em nhận ra được hiệu quả biểu đạt mà các động từ,
tính từ, phép so sánh đó đem lại trong văn bản - điều này lại bị giáo viên bỏ qua.
Ngoài ra còn có một số giờ lại sa vào kể chuyện rồi dạy đạo đức: không nên kiêu
căng ngạo mạn như Dế Mèn, phải biết yêu thương giúp đỡ những người yếu hơn mình
biến giờ Ngữ văn thành giờ giáo dục công dân.
Qua thực tế trên, kết hợp với việc tìm tòi sách vở, nghiên cứu tài liệu, bản thân
tôi xin nêu lên một vài suy nghĩ - xem như là những định hướng tối thiểu cho việc việc
thực hiện phương pháp tích hợp trong khi dạy văn bản.
Trước hết là cần xác định được lượng kiến thức cần thiết ở từng phân môn trong
bài sao cho phù hợp với việc thực hiện phương pháp tích hợp.
Có thể trong văn bản, có nhiều kiến thức liên quan đến những bài Tiếng Việt,
Tập làp văn đã học hoặc sẽ học thì giáo viên cần lựa chọn những đơn vị kiến thức nào
để góp phần soi sáng cho vẻ đẹp của tác phẩm văn chương (văn bản) giúp học sinh mà
mở ra được hướng đi có hiệu quả trong việc khám phá giá trị tác phẩm. Như vậy qua
giờ dạy có thể củng cố kiến thức cũ cho học sinh, nhưng quan trọng hơn là rèn luyện
cho các em kỹ năng vận dụng kiến thức đã học để xử lý một vấn đề mới trước mắt chứ
không phải chỉ là để học sinh nhắc lại kiến thức cũ một cách đơn thuần nhạt nhẽo.
Đồng thời việc tích hợp phải được thực hiện một cách nhuần nhuyễn, đúng lúc,
đúng chỗ.
Ở trên chúng ta đã nói chương trình SGK được xây dựng theo nguyên tắc tích
hợp nhưng không có nghĩa là phủ nhận đặc trưng riêng của từng phân môn. Nếu
chúng ta sử dụng phương pháp không đúng lúc đúng chỗ thì sẽ làm ảnh hưởng đến
quá trình tiếp nhận - khám phá vẻ đẹp của tác phẩm văn chương. Có nghĩa là làm mất
đi chất văn của văn bản, không đảm bảo được nét đặc trưng của phương pháp dạy văn.
Nhận thức rõ được những điều đó chính là điều kiện để dạy hiệu quả hơn đối với
văn bản "Bài học đường đời đầu tiên".



IV- ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI ĐỀ TÀI:

1- Đối tượng:
Là học sinh khối 6, đặc biệt là những lớp tôi đang trực tiêp giảng dạy năm học 2011
- 2012
2- Phạm vi nghiên cứu
Một số phát hiện mới về phương pháp dạy học tích cực đối với bài: "Bài học
đường đời đầu tiên"
V- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để giải quyết đề tài này, trong quá trình tìm tòi thể nghiệm, tôi đã sử dụng các
phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích nêu vấn đề .
- Phương pháp so sánh đối chiếu vấn đề.
- Phương páhp tổng hợp khái quát vấn đề.
Những phương pháp trên được thực hiện đồng thời thông qua nghiên cứu tài liệu
và thực tế giảng dạy.

PHẦN II: NỘI DUNG
Tìm hiểu văn bản "Bài học đường đời đầu tiên" ta sẽ thấy có 2 phần nội dung
tương ứng với hai kiểu văn bản là miêu tả và tự sự. Phần nội dung tả hình dáng, tính
cách của Dế Mèn thuộc kiểu văn bản miêu tả sẽ được phần Tập làm văn giải quyết bắt
đầu từ bài học Ngữ văn này. Phần nội dung về "Bài học đường đời đầu tiên" của Dế
Mèn bao gồm các chuỗi sự việc liên quan đến nhân vật Dế Mèn thuộc kiểu văn bản tự
sự đã được phần Tập làm văn giải quyết từ các bài học trước đó (Học kỳ I). Do đó, bài
học này "có vùng đất chung" để tiến hành tích hợp Văn - Tập làm văn trong hoạt động
dạy học. Vậy nên, trong khi ưu tiên khai thác các yếu tố văn chương, cần chú ý đúng
mức đến việc khai thác các yếu tố liên quan này. Trong khi hướng vào phân tích đánh
giá diện mạo, tính cách của Dế Mèn nên chú ý đến phát hiện và liệt kê các chi tiết
miêu tả ngoại hình và hành động của Dế Mèn, chuẩn bị cho bài Tập làm văn miêu tả ở
tiết học sau cùng một bài học Ngữ văn số 18. Việc xác định các đoạn, các sự việc,
ngôi kể, sau đó đi sâu tìm hiểu văn bản thông qua các đoạn, sự việc, nhân vật giúp
khám phá các giá trị của văn bản nghệ thuật, mặt khác còn giúp học sinh nhớ lại kiến

thức về văn bản tự sự đã được học trước đó ở phần Tập làm văn. Giáo viên cần thực
hiện một cách đúng mức, khéo léo, nhuần nhuyễn thì mới mang lại hiệu quả cao cho
giờ dạy.


I- MỘT SỐ LƯU Ý KHI DẠY VĂN BẢN "BÀI HỌC ĐƯỜNG ĐỜI ĐẦU
TIÊN"
Theo phân phối chương trình thì văn bản này được học trong 2 tiết:
Tiết 1: Dành cho giới thiệu bài, tìm hiểu chung và tìm hiểu phần I của văn bản.
Tiết 2: Các nội dung còn lại, có thể đọc thêm tại lớp một vài đoạn khác trong
truyện "Dế Mèn phiêu lưu ký". Trong phần này, tôi xin nêu lên một số vấn đề có tính
chất bổ sung mà theo tôi là cần thiết trong khi dạy bài này.
1- Vấn đề giới thiệu tác giả, tác phẩm:
Do thời gian có hạn, chỉ được dạy trong 2 tiết mà đây là một tác phẩm lớn, nổi
tiếng của nhà văn Tô Hoài viết cho thiếu nhi, vậy giáo viên nên tạo điều kiện và
khuyến khích học sinh tìm đọc truyện "Dế Mèn phiêu lưu ký" ở nhà, đến lớp cho học
sinh kể lại rồi giáo viên bổ sung trong phần giới thiệu chung về tác phẩm. Có như thế
học sinh mới nắm bắt được cả tác phẩm chứ không phải chỉ là đoạn trích này.
Trước khi vào bài giảng, cần dành 10 phút giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm.
Giáo viên dựa vào phần chú thích (*) của Sách giáo khoa . Cần lưu ý một số điểm:
- Truyện "Dế Mèn phiêu lưu ký": Ghi lại những cuộc phiêu lưu của Dế Mèn (kí là
thể văn ghi chép, thuật lại những việc, câu chuyện đã xẩy ra). Trong tác phẩm, Tô
Hoài tưởng tượng ra lời của một con dế tự kể về mình, về những cuộc phiêu lưu và
những điều mắt thấy tai nghe, những sự việc đã xẩy ra trong những cuộc phiêu lưu ấy.
Làm như thế sẽ có nhiều cái lợi. Thứ nhất, nó tạo cho câu chuyện có vẻ khách quan và
tự nhiên hơn. Thứ hai, khi tự kể về mình dưới hình thức tự truyện, chú Dế Mèn cũng
có dịp giãi bày tường tận với bạn đọc những tâm sự sâu kín, những xúc cảm chân
thành trên đường đời và cả những nỗi ân hận mà chú đã phải trải qua.
- Truyện "Dế Mèn phiêu lưu ký" viết về thế giới loài vật nhỏ bé ở đồng quê rất
sinh động, hóm hỉnh, đồng thời cũng gợi ra những hình ảnh của xã hội con người và

thể hiện những khát vọng đẹp đẽ của tuổi trẻ. Tô Hoài đã thành công khi dựng lên cả
một thế giới loài vật trong trắng, ngây thơ, ngộ nghĩnh, khao khát say mê lý tưởng rất
phù hợp với tâm lý của tuổi thơ. Chính vì vậy, nó đã trở thành tác phẩm nổi tiếng nhất
của Tô Hoài viết về loài vật dành cho thiếu nhi. Cho nên tác phẩm của ông đã được
dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới (Nga, Pháp, Đức, Ba Lan, Nhật Bản )
- Văn bản "Bài học đường đời đầu tiên" được trích từ chương I của tác phẩm gồm
hai đoạn chính:
+ Đoạn 1: Miêu tả hình ảnh Dế Mèn - Một chàng dế thanh niên cường tráng.
+ Đoạn 2: Câu chuyện về trò đùa ngỗ nghịch của Dế Mèn trêu chị Cốc gây ra cái
chết thảm thương cho Dế Choắt.


Văn bản đã thể hiện được nét đặc sắc của ngòi bút Tô Hoài cả 2 phương thức
miêu tả và kể chuyện.
2- Cách sử dụng thành ngữ, quán ngữ trong đoạn trích (Tích hợp phần Tiếng
Việt),
Sang lớp 7 học sinh mới được tìm hiểu về Thành ngữ, thế nhưng trong văn bản
này tác giả đã sử dụng rất nhiều thành ngữ, quán ngữ. Đây cũng là cơ hội để giáo viên
cung cấp thêm cho học sinh một số thành ngữ, quán ngữ như: ăn xổi ở thì; tắt lửa tối
đèn; hôi như cú mèo; không dám ho he; bắt chân chữ ngũ; chết ngay đuôi; nói thẳng
thừng là lời ăn tiếng nói hàng ngày vừa quen thuộc, vừa giàu sức gợi cảm, gợi tả. Nó
làm cho tác phẩm trở nên gần gũi, sinh động phù hợp với tâm lý trẻ thơ nói riêng và
người Việt nam nói chung. Đây là một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn cho tác
phẩm "Dế Mèn phiêu lưu kí".
3- Nghệ thuật so sánh, nhân hoá, sử dụng động từ, tính từ (Tích hợp với phần
Tiếng Việt đã học và chuẩn bị được học):
Giáo viên củng cố cho học sinh kiến thức về tính từ, động từ và chức năng cũng
như hiệu quả của việc sử dụng đúng chỗ những loại từ này. Nhờ sử dụng tính từ miêu
tả hình dáng và tính cách của Dế Mèn sát hợp, độc đáo cho ta thấy hai phương diện:
Dế Mèn rất đẹp, rất cường tráng và cũng rất kiêu căng tự phụ về vẻ đẹp và sức mạnh

của mình, nên đã xem thường mọi người.
Hàng loạt những tính từ đặc tả (đen nhánh, mẫm bóng, nhọn hoắt, hủn hoẳn,
ngoàm ngoạp, khoan thai ) được kết hợp với những động từ chỉ về hoạt động khiến
cho Dế Mèn trở nên mạnh mẽ dứt khoát (đạp phanh phách; vũ phành phạch, nhai
ngoàm ngoạp ) khiến người đọc người nghe hình dung rất rõ, rất sinh động về Dế
Mèn, cảm nhận được tính cách và cả những hậu quả do tính cách tự mãn , tính khoe
khoang của nó gây nên.
Tác giả rất tài tình khi sử dụng nghệ thuật nhân hoá. Tô Hoài đã để cho Dế Mèn tự
hoạ về chân dung của mình vô cùng sống động. Loài vật ở đây cũng biết nói năng, suy
nghĩ, cũng có tình cảm, tâm lý và các quan hệ như ở con người. Nhưng chúng không
bị biến thành những biểu tượng thuần tuý nhằm nêu lên những bài học luân lý, đạo
đức như trong truyện ngụ ngôn mà vẫn là hình tượng sinh động, đúng với hình ảnh
của loài vật trong thế giới tự nhiên. Mỗi lời đối thoại của Dế Mèn cùng Dế Choắt và
các loài khác trong tác phẩm chẳng khác nào những lời đối thoại của thế giới loài
người. Những giây phút kiêu căng, những hành động thiếu suy nghĩ, những giọt nước
mắt muộn màng và những suy tư, ăn năn hối hận tạo nên sự sinh động trong tính
cách Dế Mèn, nó chẳng khác gì tính cách của một con người.



4- Nghệ thuật miêu tả loài vật: (Tích hợp với phần Tập làm văn)
Sản phẩm của những trang viết miêu tả thành công là phải làm cho người đọc
hình dung rõ mồn một trước mắt mình về cảnh vật, con người được miêu tả. Lấy
chuẩn đó để đo và kết luận thì không ai dám nghi ngờ về tài năng của Tô Hoài trong
"Dế Mèn phiêu lưu ký". Nhờ óc quan sát tinh tế, tỷ mỷ, trí tưởng tượng phong phú và
nghệ thật miêu tả bậc thầy, đoạn văn miêu tả (chàng dế thanh niên cường tráng) có thể
xem là đoạn văn mẫu mực về tả loài vật mà Tô Hoài đem đến cho người đọc. Nhà văn
Tô Hoài đã dựng lên trước mắt chúng ta bức chân dung Dế Mèn hấp dẫn đến từng chi
tiết: Đôi càng mẫm bóng, những cái vuốt, ở khoeo cứng dần và nhọn hoắt; đầu to và
nổi từng tảng, rất bướng; sợi râu dài uốn cong rất đỗi hùng dũng Đặc biệt khi tác giả

miêu tả sự hoạt động của những bộ phận trên cơ thể chàng dế: mỗi khi tôi vũ lên đã
nghe tiếng phành phạch giòn giã; lúc đi bộ thì cả người tôi rung rinh một màu nâu
bóng mỡ soi gương được và rất ưa nhìn. "Ta thấy Dế Mèn như một đô vật thể hình
đang biểu diễn các động tác gân bắp của mình trước khán giả với một vẻ kiêu hãnh
ngầm tự hào" - (Chu Huy - Bình giảng tác phẩm Văn học 6). Cùng với sự phát triển về
thể chất, vẻ kiêu kỳ ngầm ấy cho ta thấy một sự thay đổi về tính cách: Dế Mèn đã trở
thành một võ sỹ "đi đứng oai vệ; tợn lắm; dám cà khịa với tất cả bà con trong xóm".
Và khi thấy ai cũng phải nhịn, Dế Mèn cho mình là giỏi nhất rồi. Ngông cuồng hơn,
Dế Mèn còn quát cả cả mấy chị Cào Cào, đá ghẹo anh Gọng Vó. Thế là từ chỗ một
chàng dế đáng yêu đã biến thành một kẻ kiêu căng hống hách, dẫn đến những hành
động ngu dại mà đỉnh điểm là chuyện trêu chị Cốc dẫn đến cái chết thê thảm của Dế
Choắt. Cái chết của Dế Choắt làm cho Dế Mèn bừng tỉnh và vô cùng ân hận. Dế Mèn
đã hiểu ra lẽ đời, đã phân biệt được phải trái, thiệt hơn. Quan trọng hơn nữa, tai hoạ
đối với Dế Choắt đã khiến cho Dế Mèn nhận ra chính mình, biết rằng huênh hoang
khoác loác đã làm hại người khác. Tâm lý Dế Mèn được phát triển lô gic qua chính lời
tự thuật của nhân vật nên càng hồn nhiên chân thật, hấp dẫn người đọc.

II - GIÁO ÁN CỤ THỂ:
Từ những điều lưu ý trên, kết hợp với các phương pháp dạy học, đặc biệt là
phương pháp dạy học tích cực, tôi xin trình bày giáo án chuẩn bị cho tiết dạy trên lớp
như sau:




Bài 18: Tiết 73 - 74
Văn bản: BÀI HỌC ĐƯỜNG ĐỜI ĐẦU TIÊN
(Trích "Dế Mèn phiêu lưu ký" - Tô Hoài)

A- Mục đích cần đạt:

Giúp học sinh:
- Hiểu được nội dung ý nghĩa của "Bài học đường đời đâu tiên" đối với Dế Mèn.
Một chàng dế có vẻ đẹp khoẻ mạnh cường tráng nhưng tính nết lại kiêu căng, xốc nổi
đã gây nên cái chết thảm thương cho người bạn hàng xóm, từ đó hối hận và rút ra bài
học đường đời đầu tiên cho mình.
- Nắm được những đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả loài vật, cách kể chuyện theo
ngôi kể thứ nhất tự nhiên, hấp dẫn. Cách sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hoá so
sánh phù hợp khéo léo, từ ngữ chính xác, giàu tính tạo hình.
- Rèn luyện được kỹ năng đọc, kể : lời đối thoại phù hợp với tính cách các nhân vật,
tả loài vật.
B- Tiến trình tổ chức các hoạt động:
Hoạt động 1: Ổn định tổ chức lớp.
Hoạt động 2: Kiểm tra vở soạn của học sinh.
(Đây là tiết học đầu tiên của chương trình học kỳ II nên giáo viên chỉ kiểm tra vở
soạn của học sinh để nắm được tình hình chuẩn bị của các em ở nhà như thế nào, cách
soạn, cách làm đã đúng với yêu cầu chưa. Từ đó, kịp thời nhắc nhở, uốn nắn tạo kỹ
năng thành thạo cho việc soạn bài ở nhà).
Hoạt động 3: Bài mới

Tiêt 1:
Giới thiệu bài mới: Cho học sinh xem chân dung Tô Hoài, xem cuốn truyện "Dế
Mèn phiêu lưu ký" và giới thiệu nội dung bài học:
Trên thế giới và ở nước ta có những nhà văn nổi tiếng gắn bó cả đời viết của mình
cho đề tài trẻ em - một trong những đề tài khó khăn và thú vị bậc nhất. Tô Hoài là một
tác giả như thế. Truyện "Dế Mèn phiêu lưu ký" là một truyện đã và đang được được
nhiều người hâm mộ với nhiều lứa tuổi khác nhau - đặc biệt là lứa tuổi thiếu niên
chúng ta. Nhưng Dế Mèn là ai? Chân dung và tính nết như thế nào? Bài học cuộc đời
đầu tiên mà anh ta nếm trải ra sao? Đó chính là nội dung bài học đầu tiên của học kỳ
II này.



Hệ thống câu hỏi định
hướng cho hoạt động dạy học
Định hướng cho hoạt động học

- Học sinh đọc phần chú thích
(*)SGK.
Hỏi (H): Dựa vào chú thích trong
sách giáo khoa trình bày những hiểu
biết của em về nhà văn Tô Hoài?















H: Trình bày những điểm cơ bản lớn
nhất về tác phẩm "Dế Mèn phiêu lưu
ký"?
* GV giải thích tên của tác phẩm
"Dế Mèn phiêu lưu ký": Ghi lại

những cuộc phiêu lưu của Dế Mèn.
(Ký là thể văn ghi chép, thuật lại
những sự việc, câu chuyện đã xẩy
ra). Trong tác phẩm, Tô Hoài đã
1- Vài nét về tác giả, tác phẩm:
a- Tác giả:
- Tên thật : Nguyễn Sen (1920) - Quê ở
Hà nội.
- Viết văn từ trước Cách mạng tháng
8/1945, có khối lượng tác phẩm phong
phú, đa dạng, gồm thể loại.
* Giáo viên bổ sung:
- Ông có rất nhiều tác phẩm viết cho
thiếu nhi, được mệnh danh là nhà văn
của tuổi thơ, thể hiện tình yêu thương,
sự trân trọng đối với những mầm tươi
mới đang cần được bồi đắp để bước
vào đời .
- Bút danh Tô Hoài thể hiện tình yêu
quê hương, đặc biệt là quê ngoại, nơi
có con sông Tô Lịch chảy qua phủ Hoài
Đức. Tác giả đã ghép tên địa danh quê
hương thành bút danh của mình.
- Trước Cách mạng tháng 8/1945 ông
đã hoạt động xã hội và viết văn. Ông
đã từng giữ chức Phó tổng thư ký Hội
nhà văn Việt Nam, có nhiều tác phẩm
đạt giải thưởng lớn.
b- Tác phẩm:
- Được in lần đầu năm 1941. Là tác

phẩm đặc sắc nổi tiếng nhất của Tô
Hoài viết về loài vật dành cho thiếu nhi.

- Tác phẩm được dịch ra nhiều thứ
tiếng trên thế giới.
- Gồm mười chương, kể về những cuộc
phiêu lưu đầy sóng gió và đầy lý thú
của chàng Dế Mèn.


tưởng tượng ra lời của một con dế tự
kể về mình và những cuộc phiêu lưu,
những điều mắt thấy tai nghe những
sự việc đã trải qua trong các cuộc
phiêu lưu ấy.
H: Nêu vị trí của đoạn trích "Bài học
đường đời đầu tiên"








- GV đọc mẫu 1 đoạn.
- Gọi 2 học sinh đọc tiếp.
- Học sinh nhận xét, giáo viên bổ
sung.






- Cho học sinh kể tóm tắt đoạn trích.
- Cho học sinh tìm hiểu các chú thích
(3, 12, 30)









c- Vị trí của đoạn trích:
Trích từ chương I của tác phẩm. Ở
chương này Dế Mèn tự giới thiệu về
mình, đặc biệt kể về một câu chuyện
đáng ân hận - một bài học đường đời
đầu tiên của mình.
2- Đọc - Tìm hiểu chung:
a- Đọc: GV nêu hướng dẫn đọc: Đoạn
Dế Mèn tự tả về chân dung đọc: to,
vang, giọng tự hào, kiêu hãnh, chú ý
đến những tính từ, động từ miêu tả.
Đoạn trêu chị Cốc:đọc giọng trịch
thượng của Dế Mèn; giọng Dế Choắt
thì yếu ớt rên rỉ; giọng chị Cốc thì đáo

để, tức giận. Đoạn Dế Mèn hối hận thì
đọc giọng chậm, buồn, sâu lắng và có
phần bi thương.
b- Kể tóm tắt đoạn trích:
c- Tìm hiểu chú thích:
- Vũ: Vỗ cánh.
- Trịch thượng: Ra vẻ bề trên, khinh
thường người khác.
- Cạnh khoé: Không nói thẳng mà nói
ám chỉ , vòng vo nhằm châm chọc, xoi
mói.
- Thành ngữ: ăn xổi ở thì; tắt lửa tối
đèn; hôi như cú mèo


> Việc sử dụng một số thành ngữ và









Hỏi: Trong đoạn trích có một số
thành ngữ. Theo em đó là những
thành ngữ nào?
Hỏi: Việc sử dụng một số thành ngữ
và một số quán ngữ (chết ngay đuôi,

nói thẳng thừng, không dám ho he,
bắt chân chữ ngũ ) tạo nên cho em
những ấn tượng gì?






Hỏi: Văn bản được viết theo phương
thức biểu đạt nào?

Hỏi: Đoạn trích được kể bằng lời
nhân vật nào? Cách lựa chọn ngôi kể
như vậy có tác dụng gì?

Hỏi: Đoạn trích có thể phân thành
mấy đoạn? Ý mỗi đoạn?


một số quán ngữ (chết ngay đuôi, nói
thẳng thừng, không dám ho he, bắt
chân chữ ngũ ): Là lời ăn tiếng nói
hàng ngày của nhân dân ta vừa gần gũi,
vừa gợi tả làm cho tác phẩm trở nên
gần gũi, sinh động, phù hợp với tâm lý
trẻ thơ nói riêng và người Việt Nam nói
chung. Đây là một trong những yếu tố
tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm.
d- Phương thức biểu đạt, ngôi kể:

* Phương thức biểu đạt: Miêu tả, tự sự,
biểu cảm.

* Ngôi kể: Ngôi thứ nhất. Dế Mèn tự
xưng "tôi".
- Cách kể như vậy tạo nên sự thân
mật, gần gũi đáng tin cậy đối với
người đọc.
e- Bố cục: 2 phần.
* Từ đầu > đứng đầu thiên hạ rồi:
Chân dung của Dế Mèn.
* Còn lại: Kể về bài học đường đời đầu
tiên của Dế Mèn.
3- Tìm hiểu chi tiết:

a- Bức chân dung tự hoạ của Dế
Mèn.

* Hình dáng:
- [ ] Tôi đã trở thành một chàng dế
thanh niên cường tráng .`
- Đôi càng: mẫm bóng.
- Vuốt: cứng, nhọn hoắt
- Đôi cánh: thành áo dài kín chấm đuôi.








- Cho học sinh đọc lại từ đầu đến
"đứng đầu thiên hạ rồi"

H: Đoạn truyện trên giới thiêu về ai ?
Và về việc gì?

H: Dế Mèn đã giới thiệu về mình qua
những chi tiết, hình ảnh nào về ngoại
hình?








H: Khi miêu tả về hình dáng của Dế
Mèn, tác giả đã tập trung miêu tả bộ
phận nào trước triên? Vì sao?






- Đầu: to và nổi từng tảng, rất bướng.
- Răng: đen nhánh
- Râu dài, uốn cong

> Miêu tả đôi càng. Vì đôi càng vừa
thể hiện sức mạnh vừa là vũ khí lợi hại
của riêng nhà Dế.
GV: Trong văn miêu tả thường có một
trình tự nhất định, nhưng đây chính là
chủ ý của tác giả nhằm nhấn mạnhđặc
điểm nổi bật nhất của nhân vật nên đã
sắp xếp như thế. Điều đó thể hiện về tài
năng quan sát tinh tế, sự am hiểu tường
tận về thế giới loài vật của tác giả Tô
Hoài.
* Hành động:
- Đạp phanh phách
- Vũ phành phạch
- Nhai ngoàm ngoạp như hai lưỡi liềm
máy
- Đi đứng oai vệ [ ] mỗi bước đi, tôi
làm điệu dún dẩy [ ] cho ra kiểu nhà
võ.
> Từ ngữ chọn lọc tiêu biểu đặc sắc,
dùng nhiều tính từ, động từ gợi tả, gợi
hình ; sử dụng biện pháp nghệ thuật
nhân hoá, so sánh độc đáo, sinh động.
>Dế Mèn là một chàng Dế đẹp đẽ,
khoẻ khỏe mạnh, hùng dũng cường
tráng tràn đầy sức sống, tự tin yêu đời
và rất hấp dẫn.
*Với mọi người trong xóm:
- Dám cà khịa tất cả bà con trong xóm
- Quát mấy chị Cào Cào

- Đá ghẹo anh Gọng Vó



H: Và những chi tiết nào miêu tả về
hành động của Dế Mèn?












H: Em có nhận xét gì về cách dùng từ
và sử dụng các biện pháp nghệ của
tác giả khi miêu tả về hình dáng và
hành động của Dế Mèn?
H: Qua đó, bước đầu em cảm nhận gì
về Dế Mèn?


H: Tự hào về vẻ đẹp về hình dáng và
sức mạnh của mình, Dế Mèn đã cư
xử với mọi người trong xóm của
mình như thế nào?



H: Em có nhận xét gì về cách cư xử
ấy?

> Qua cách cư xử ấy Dế Mèn đã bộc
lộ tính cách của mình, đó là: hung
hăng, hống hách, coi thường mọi
người, cậy mình có sức mạnh đã bắt
nạt kẻ yếu.
> Vì Dế mèn mới lớn, sống trong một
thế giới nhỏ bé, xung quanh toàn là
những người hiền lành, quen thuộc nên
lầm tưởng sự ngông nghênh của mình
là tài ba, giỏi giang.
==>Học sinh trình bày, giáo viên nh
ận
xét, bổ sung:
+ Miêu tả cụ thể, tỷ mỷ, với những tính
từ, động từ chọn lọc, gợi tả, gợi hình
tượng.
+ Sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân
hoá, so sánh độc đáo, sinh động.
+ Miêu tả đặc điểm chung, vừa miêu tả
những nét riêng của nhân vật, vừa miêu
tả hình dáng, đường nét màu sắc, vừa
miêu tả cử chỉ hành động của nhân vật.
GV: Như vậy, với trí tưởng tượng tài
tình phong phú, sự quan sát tinh tế và
sự am hiểu tường tận về thế giới loài

vật, tác giả Tô Hoài đã miêu tả cặn kẽ,
chi tiết bức chân dung của Dế Mèn -
Một võ sỹ kỳ thú, hấp dẫn như một đô
vật hình thể đang biểu diễn các động
tác của mình trước khán giả với vẻ kiêu
hãnh, đầy tự hào.
Học sinh trình bày, giáo viên nhận

xét, khái quát và chốt nội dung:
Dế Mèn là một chàng dế ở tuổi
trưởng thành có vẻ đẹp cường tráng, trẻ
trung, tràn đầy sức sống, tự tin , yêu đời
nhưng còn xốc nổi, kiêu căng, tự phụ,
xem thường mọi người.





H: Vì sao Dế Mèn lại có thái độ đó?



H: Qua đó, em có nhận xét gì về nghệ
thuật miêu tả của nhà văn Tô Hoài?

















H: Qua sự tìm hiểu trên, em hiểu gì
về Dế Mèn?



- Định hướng thảo luận: Hiểu để tự tin
vào sức mạnh của mình là phẩm chất
tốt nhưng quá kiêu ngạo về sức mạnh
đó và dùng nó làm vũ khí (cà khịa, bắt
nạt, quát mắng ) là đáng ghét, đáng
lên án. Bởi đó là thái độ hung hăng, tự
cao, tự đại, không khiêm tốn.
* Luyện tập,củng cố (Hết tiết 1)
- Quan sát tỷ mỷ, tinh tế , miêu tả theo
trình tự nhất định ( từ bên ngoài >
bên trong; từ khái quát > cụ thể; đồng
thời cũng không máy móc mà biết chọn
những chi tiết tiêu biểu quan trọng để
miêu tả trước nhằm làm nổi bật nét đặc

sắc của nhân vật).
- Miêu tả ngoại hình để bộc lộ tính nết
và thái độ của nhân vật, chọn lọc từ ngữ
đặc sắc kết hợp với các biện pháp tu từ
làm cho nhân vật hiện lên sinh động,
hấp dẫn
- Vì thế, Tô Hoài đã cho chúng ta thấy
một bức chân dung tự hoạ của Dế Mèn

vô cùng sống động và độc đáo.










H: Trong những nét tính cách trên,
em thấy điểm nào đáng quý, điểm
nào đáng chê? Thái độ của em trước
những nét tính cách của Dế Mèn?
(Cho học sinh thảo luận theo nhóm).



H: Qua đoạn trích trên, em học tập
được những gì về nghệ thuật miêu tả


của nhà văn Tô Hoài?









Hết tiết 1 chuyểng sang tiết 2:
GV: Đoạn đầu là lời tự bạch của Dế Mèn về vẻ đẹp hình dáng và những nét xấu
trong tính cách của mình. Đó là lời tự bạch chân thật vừa thể hiện niềm tự hào về mình
vừa tự nhận thức được tính tự đắc, kiêu căng của mình từ vẻ bên ngoài đẹp mã, ưa
nhìn. Nhưng để nhận ra được đó là tính xấu, Mèn đã phải trải qua một bài học xót xa,
thấm thía. Đấy chính là bài học đường đời đầu tiên của Dế Mèn.


Cho HS đọc đoạn "Chao ôi không
thể làm lại được"












H: Bài học ấy liên quan trực tiếp đến
người bạn hàng xóm Dế Choắt. Qua
lời kể của Mèn cho ta biết những gì về
Dế Choắt?







b- Bài học đường đời đầu tiên của
Dế Mèn:

* Dế Choắt:
- Choắt là tên tôi đặt cho[ ]
- Choắt nọ [ ] trạc tuổi tôi.
- [ ] gầy gò và dài lêu nghêu như một
gã thuóc phiện.
-[ ] cánh ngắn hủn hoẳn đến giữa
lưng hở cả mạng sườn như người cởi
trần mặc áo gi-lê
- Đôi càng bè bè, nặng nề
- Râu ria gì mà cụt có một mẩu và mặt
mũi thì lúc nào cũng ngẩn ngẩn ngơ
ngơ
> Cách kể rất ấn tượng, với khả năng
quan sát tỷ mỷ kết hợp với việc sử

dụng các thành ngữ gần gũi quen thuộc
giàu sức gợi cảm, gợi tả như: ăn xổi ở
thì, tắt lửa tối đèn, hôi như cú mèo và
biện nghệ thuật so sánh tài tình tác giả
đã vẽ lên một hình ảnh Dế Choắt hoàn
toàn đối lập với Dế Mèn, đó là một
chú Dế gầy gò, ốm yếu, bệnh tật, xấu
xí .
> Dế Mèn coi thường Dế Choắt: việc
đặt tên cho anh bạn hàng xóm là
"Choắt" còn tả Choắt rất xấu (gầy gò,
dài lêu nghêu ) thể hiện cách nhìn















H: Em có nhận xét gì về cách kể tr
ên?
Qua đó em hình dung Dế Choắt là

người như thế nào?







H: Em có suy nghĩ gì về thái độ của Dế
Mèn đối với Dế choắt thông qua việc
kể và miêu tả trên?





chê bai, diễu cợt. Choắt bằng tuổi Dế
Mèn mà gọi Choắt là "Chú mày", cách
xưng hô ấy tỏ vẻ ngông nghênh, tự
phụ, không coi Choắt ra gì. Đó là thái
độ trịch thượng, ra vẻ đàn anh kẻ cả.
Còn len giọng chế diễu, khinh thường

khi Choắt đề nghị giúp đỡ: "Hức!
Thông ngách sang nhà ta? Dễ nghe
nhỉ! Chú mày hôi như cú mèo thế này
ai mà chịu đươc[ ] Đào tổ nông thì
cho chết!"
> Với lời nghề nghị của Dế Choắt,
Dế Mèn không thông cảm giúp đỡ mà

còn quát mắng thậm tệ, tỏ vẻ khinh
khỉnh rồi bỏ đi. Điêu đó chứng tỏ rằng:
Dế Mèn là một kẻ ích kỷ , hẹp hòi ,
sống chỉ biết mình không có lòng bao
dung và lòng thương đồng loại .
==>GV nhận xét, bổ sung, chốt nội
dung :
Thái độ của Dế Mèn đối với Dế choắt:
Trịnh thượng, khinh thường, không
quan tâm,giúp đỡ kẻ yếu .
GV: Có thể xem câu chuyện giữa Dế
Mèn và Dế Choắt là một tình huống
đáng nhớ mà ở đó nhân vật Dế Mèn đã
bộc lộ khá rõ phần tính cách của mình.
Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, câu
chuyện tiếp tục được đẩy lên cao độ,
đỉnh điểm qua một tình huống khác.
Đó là tình huống nào?

* Dế Mèn trêu chị Cốc:










































- Trước khi trêu:
+ "Sợ gì? Mày bảo tao sợ cái gì? Mày
còn tao biết sợ hơn tao nữa! Gương
mắt ra mà xem tao trêu con mụ Cốc
đây này!"
> Thái độ tự cao, tự đại. không coi ai
ra gì, huyênh hoang trước dế Choắt,

- Trong quá trình trêu:
+ Tôi cấtt giọng véo von [ ]
+ [ ] Tôi chui tọt ngay vào hang [ ]
Bụng nghĩ thú vị [ ]
- Khi chị Cốc trừng phạt Dế Choắt:
+ [ ] Núp tận đáy mà tôi cũng khiếp,
nằm im thin thít.[ ] Biết chị Cốc đi
rồi, tôi mới mon men bò lên.
- Kết cục của việc trêu đùa:
+ Choắt không dậy được nữa, nằm thoi
thóp.
+ Thế rồi Choắt tắt thở. Tôi thương
lắm. Vừa thương vừa ăn năn tội của
mình [ ] Tôi đứng lặng giờ lâu, nghĩ
về bài học đường đời đầu tiên.
> Diễn biến tâm lý và thái độ của Dế
Mèn được thể hiện qua các sự việc, các
hành động và ngôn ngữ của nhân vật.
Lúc đầu Mèn còn hênh hoang trước Dế
Choắt, sau đó chui tọt vào hang yên
chí về sự yên ổn, kiên cố nơi ở của


















H: Hãy bàn luận về hành động này của
Dế Mèn?










.



mình. Nhưng khi biết chị Cốc mổ Dế
Choắt thì khiếp sợ, nằm im thin thít.

Hốt hoảng, lo sợ, đau đớn xót thương
bạn bất vì cái chết bất ngờ và lời
khuyên của Dế Choắt. Ân hận, sám hối
chân thành về những lỗi của mình và
thấm thía về bài học đường đời đầu
tiên.













GV nhận xét, bổ sung và bình:
Tác giả đã hoá thân vào nhân vật (kể
theo ngôi thứ nhất) nên rất tự nhiên,
chân thật, hấp dẫn và cách miêu tả
diễn biến tâm lý của nhân vật rất tinh
tế, hợp lý, sinh động, làm cho người
đọc hiểu được đây là một đứa trẻ mới

lớn nông nổi, hiếu động, ngỗ ngược.
Huyênh hoang đối với những kẻ yếu dễ
bắt nạt nhưng lại run sợ, hoảng hốt
trước kẻ mạnh. Để rồi từ đó rút ra một
bài học nhân sinh và đạo lý thấm thía.































H: Hãy thuật lại và nhận xét diễn biến
và tâm trạng của Dế Mèn trong đoạn
kể về việc Dế Mèn trêu chị Cốc?
"Ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ,
có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn
rồi cũng mang vạ vào mình đấy."

==> Bài hoc về:
- Thói kiêu căng: kẻ kiêu căng, tự phụ
có thể làm hại người khác khiến phải
ân hận suốt đời.
- Tình thân ái: Nên sống đoàn kết,
nhân ái, mình vì mọi người. Đặc biệt là
phải yêu thương giúp đỡ những người
khó khăn, hoạn nạn.








GV: Bài học của Dế Mèn cũng là bài
học bổ ích đối với lớp trẻ chúng ta

Nhà văn Tô Hoài đã cài vào trong
câu chuyện về bài học nhân sinh và
đạo lý nhưng không khô khan, trừu
tượng mà rất sâu sắc và thấm thía.



-





H: Trước khi trêu chị Cốc, Mèn đã nói
gì?












H: Lời nói đó thể hiện thái độ như thế
nào










H: Tìm những chi tiết miêu tả hành
động và thái độ của Dế Mèn trong quá
trình trêu chị Cốc?






4-Tổng kết - Ghi nhớ:


* Nghệ thuật:
- Nghệ thuật miêu tả loài vật rất sinh
động
- Cách kể chuyện theo ngôi thứ nhất tự
nhiên, hấp dẫn.
- Ngôn ngữ chính xác, gợi hình, gợi
cảm kết hợp với các biện pháp tu từ
nhân hoá và so sánh đã bộc lộ được
chủ đề tư tưởng mọt cách tự nhiên, dễ
thuyết phục.

* Nội dung: Miêu tả vẻ đẹp cường
tráng của Dế Mèn nhưng tính tình còn
kiêu căng tự phụ, xốc nổi đã gây hậu
quả thảm thương và rút ra bài học
đường đầu tiên cho bản thân.

5 - Luyện tập :
- GV nhận xét, bổ sung và định hướng:
+ Cay đắng vì lỗi lầm của mình.
+ Xót thương Choắt (mong cho Choắt
sống lại).
+ Nghĩ đến việc từ nay sẽ thay đổi
cách sống của mình.
- HS tự do phát biểu:
+ Có thể tha thứ: vì biết lỗi sẽ sửa chữa
và tránh được lỗi. Hơn nữa tình cảm
của Mèn lúc này cũng rất chân thành.

×