Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

SKKN Một vài suy nghĩ nhỏ khi dạy bài Ông đồ của Vũ Đình Liên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 38 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"MỘT VÀI SUY NGHĨ NHỎ KHI DẠY BÀI ÔNG ĐỒ CỦA VŨ
ĐÌNH LIÊN"
A. MỞ ĐẦU
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong chương trình ngữ văn ở bậc THCS, học sinh được tiếp cận nhiều tác phẩm
thơ (Dân gian, Trung đại, Hiện đại). Chúng ta biết rằng phương thức chủ yếu của
thơ là phương trữ tình, nếu văn xuôi phản ánh cuộc sống qua cốt truyện và nhân
vật, thì thơ phản ánh những vấn đề xã hội thông qua đời sống tâm thế của người
nghệ sỹ - qua cảm xúc của nhà thơ. Vậy, giảng dạy một tác phẩm thơ, giáo viên
không có con đường nào khác là phải tiếp cận với cách cảm, cách nghĩ, cách giải
quyết cuộc sống thông qua cảm hứng chủ đạo của nhà thơ thể hiện một cách sáng
tạo trong từng tác phẩm. Rõ ràng, trách nhiệm của giáo viên Ngữ văn từ cách cảm,
cách nghĩ của mình mà định hướng giúp học sinh vừa thẩm nhận giá trị thẩm mỹ
vừa thu hoạch lí tưởng nhân văn của tác giả. Qua đó giúp các em đồng sáng tạo với
người nghệ sỹ để các em trải qua một qui trình tự nhận thức để hướng thiện, hướng
mỹ trong quá trình thu gom hành trang cuộc sống.
Nhà thơ Vũ Đình Liên xuất hiện trong thời kì đầu của phong trào Thơ mới bên
cạnh những tác giả có tên tuổi khai sáng như: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông,
Nguyễn Nhược Pháp…. Bài thơ “Ông đồ” là tác phẩm đặc sắc nhất trong sự nghiệp
sáng tạo thi ca của Vũ Đình Liên. Ngay từ khi ra đời tác phẩm được hai nhà nghiên
cứu phê bình Hoài Thanh, Hoài Chân đánh giá là “bài thơ kiệt tác”.
Trong chương trình Ngữ văn 8 cả cũ và mới đều đưa bài thơ “Ông đồ” vào
chương trình chính khóa vừa thấy được vai trò cũng như giá trị giáo dục, giáo
dưỡng của bài thơ trong chương trình cấp học. Trong bài thơ với một tấm lòng giàu
trắc ẩn, nhà thơ đã nhận ra một sự thật là phần đông các nhà nho còn sót lại chỉ
đáng thương (Nhà thơ từng tâm sự khi viết về bài thơ này: hình tượng ông đồ
“chính là cái di tích tiều tụy của một thời tàn”) và gián tiếp Vũ Đình Liên chỉ cho ta
thái độ hợp lí hơn đối với một lớp người trí thức đi trước. Bài thơ được xem là một
nghĩa cử. Đưa bài thơ vào chương trình cấp học có ý nghĩa giáo dục sâu sắc: thông


qua hình tượng ông đồ nhắc nhủ học sinh có thái độ ứng xử đúng đắn với nhà nho,
đạo Nho và rộng hơn là với nền văn hóa của dân tộc đồng thời bồi dưỡng tâm hồn
các em về tình nhân ái cao đẹp.
Điều đáng quan tâm bài thơ “Ông đồ” là một bài thơ trữ tình sâu sắc, giàu sức
ám ảnh nhưng lại là một bài dạy khó. Bởi, những vấn đề trong bài thơ không gần
gũi, thậm chí xa lạ với học sinh thời nay. Hơn thế, bài thơ có sự dồn nén về ngôn
từ, lẫn tứ thơ, có rất nhiều khoảng lặng, gợi ra nhiều cách hiểu. Nên khi giáo viên
tiếp cận với bài thơ để tìm một mạch đi đúng quả là một thách thức.
Từ cơ sở lí luận và thực tiễn đó, tôi nghiên cứu về tác giả, tác phẩm, đặt tác
phẩm trong quá trình sáng tác của tác giả, đặt tác giả trong thi pháp chung của trào
lưu lãng mạn mà cụ thể là của phong trào Thơ mới để thể nghiệm trong quá trình
định hướng khai thác bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên.
B.NỘI DUNG:
I. THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY
1. Khảo sát yêu cầu và định hướng của sách giáo khoa và sách giáo viên của
lớp 8 cũ và mới:
Sự gợi ý và định hướng của sách giáo khoa và sách giáo viên cũ và mới đều có
chung một quan điểm:
+ 4 khổ thơ đầu của bài thơ đều miêu tả hình ảnh ông đồ ngồi viết câu đối bán
trên hè phố ngày Tết qua cảm nhận của nhà thơ, nhưng ông đồ ở 2 khổ đầu và hình
ảnh ông đồ ở 2 khổ sau là hai số phận, hai tâm trạng hoàn toàn khác nhau:
- Hai khổ thơ đầu là hình ảnh ông đồ trong thời đắc ý của mình. Tết đến hoa
đào nở lại thấy ông đồ cùng mực tàu, giấy đỏ bên hè phố, góp mặt vào sự đông vui,
náo nhiệt của phố phường. Ông trở thành trung tâm của mọi sự chú ý, là đối tượng
của sự ngưỡng mộ của mọi người.
- Hai khổ thơ tiếp theo: hình ảnh ông đồ thời tàn. Vẫn là hình ảnh ông đồ
với mực tàu giấy đỏ bên hè phố ngày Tết, nhưng tất cả đã khác xưa. Đường phố vẫn
đông người qua nhưng không ai biết đến sự có mặt của ông. Ông vẫn cố bám lấy sự
sống, vẫn muốn có mặt với cuộc đời nhưng cuộc đời thì đã quên hẳn ông.
+ Qua sự tương phản giữa hai cảnh tượng cùng miêu tả ông đồ ngồi viết câu đối

ngày Tết và khổ cuối để thấy rõ tâm tư của nhà thơ: Tâm tư ấy được bộc lộ kín đáo
qua những chi tiết miêu tả, nhưng có khi được nhà thơ trực tiếp phát biểu ( 2 câu
thơ kết). Đó là niềm thương cảm chân thành đối với hoàn cảnh ông đồ đang tàn tạ
trước sự thay đổi của thời cuộc, đồng thời đó còn là niềm nhớ nhung luyến tiếc
trước những cảnh cũ người nay đã vắng bóng của nhà thơ.
Như vậy, theo định hướng của sách giáo viên văn 8 (cũ và mới) đều tập trung
phân tích hình tượng ông đồ qua cảm nhận của nhà thơ để từ đó thấy rõ tâm tư, tình
cảm của Vũ Đình Liên trước thân phận con người và sự đổi thay của thời cuộc. Đó
là một định hướng đúng.
Song, cách hiểu hình ảnh ông đồ trong hai khổ đầu là thời kì đắc ý của ông đồ e
là chưa thỏa đáng. Bởi, hình tượng ông đồ trong bài thơ ngay từ đầu đã là “di tích
của một thời tàn”. Sự xuất hiện của ông đồ đã gắn với một thời điểm: thời điểm ông
đi viết thuê, những nét chữ “phượng múa rồng bay” kia là để bày bán trên hè phố.
Và qua hình tượng ông đồ trong bài thơ, nhà thơ không chỉ thể hiện niềm thương
cảm cho số phận bất hạnh của một kiếp người mà còn là nỗi niềm hoài cổ lắng sâu.
Trong những vui buồn, được mất của đời sống dân tộc, niềm tiếc thương cho những
giá trị tinh thần của một thời vẫn là những ám ảnh day dứt với tất cả những tấm
lòng biết trân trọng nhữnh giá trị tinh hoa của dân tộc. Do vậy, bài thơ “ Ông đồ”
rung cảm sâu xa tâm hồn bao bạn đọc bởi nó gắn liền với một lớp người đáng kính,
với một nét văn hóa đã ăn sâu vào tiềm thức nhiều thế hệ người Việt. Như vậy, khi
nhắc đến hình ảnh ông đồ là “đánh động trong chúng ta nỗi buồn hoài cổ, sự tiếc
nuối quá khứ vàng son, lòng thương xót số phận hẩm hiu của những nhà nho…Nó
chứa đựng cả một hệ vấn đề: bi kịch của sự gặp gỡ Đông-Tây, sự suy vong và cáo
chung của một thời đại, sự biến mất vĩnh viễn của một lớp người”.
Như vậy, định hướng khai thác bài thơ “Ông đồ” của sách giáo viên chưa thể
hiện rõ mạch cảm xúc của chủ thể trữ tình và dường như là giảm đi sức ngân vang
của thi phẩm trong lòng người đọc.
2. Thực tiễn dạy học của giáo viên
Tuy định hướng chưa thật thỏa đáng như đã nói ở trên, nhưng trong cách trình
bày của sách giáo viên đã có sự gợi ý khá chi tiết, đầy đủ, tạo hệ thống mạch đi rõ,

cộng với quan niệm của đa số giáo viên: sách giáo viên bao giờ cũng đúng và chuẩn
do vậy giáo viên chủ yếu dựa vào định hướng khai thác và sự gợi ý ấy để tìm hiểu
tác phẩm mà chưa có sự trăn trở nhiều để tìm ra một hướng đi thích hợp cho bài dạy
của mình. Chính vì lệ thuộc vào những gợi ý và định hướng khai thác của sách giáo
viên nên giáo viên trực tiếp giảng dạy chưa chủ động đặt ra nhiều suy nghĩ: ông đồ
trong bài thơ biểu tượng cho điều gì? Sự thất thế tàn lụi của ông đồ nêu vấn đề gì?
Để từ đó thẩm thấu sâu sắc tình cảm và nỗi lòng của Vũ Đình Liên kí thác trong bài
thơ. Hơn nữa, điều đáng chú ý là bài thơ là tiếng lòng của một người thuộc thế hệ
trí thức Tây học trẻ tuổi ( Vũ Đình Liên sinh năm 1913, làm bài thơ này khi mới 23
tuổi – khi đang còn rất trẻ, chưa có nhiều trải nghiệm) đang lặng lẽ xót xa để viết,
để ngậm ngùi, thương cảm trước “cái cảnh thương tâm của một nền nho học lúc
mạt vận”.
II.TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY BÀI THƠ “ÔNG ĐỒ”
1. Phần chuẩn bị
a. Một số yếu tố ngoài văn bản giáo viên cần nghiên cứu để hỗ trợ cho bài
giảng
* Vài nét về phong trào thơ mới:
(1) Thơ mới thuộc trào lưu văn học lãng mạn 30 -45 (Ở giao đoạn này có sự phát
triển của nhóm Tự lực văn đoàn chuyên viết văn xuôi và phong trào thơ mới)
(2) Về khái niệm thơ mới:
+ Đây là khái niệm có tính chất qui ước do Phan Khôi dùng đầu tiên trong bài viết
“Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” (năm 1932). Trong bài viết này Phan
Khôi dùng khái niệm thơ mới để đối lập với thơ cũ.
+ Khái niệm thơ mới gắn với phong trào thơ mới – buổi bình minh của thơ ca Việt
Nam hiện đại.
+ Thơ mới là cuộc cách mạng về thơ ca. Cuộc cách mạng này không chỉ là nội dung
hay hình thức mà gồm cả hai gắn bó mật thiết với nhau “Thơ ta phải mới, mới về
văn thể, về ý tưởng”.
+ Thơ mới là một bước phát triển quan trọng thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nền
văn học Việt Nam.

(3) Đặc điểm của thơ mới:
(a) Về nội dung cảm hứng:
+ Thơ mới là tiếng nói khẳng định của cái tôi cá nhân, cá thể. Cái tôi được đưa
lên bình diện đầu tiên – Cái tôi giàu khát vọng: khát vọng khẳng định bản thân trong
đời sống, khát vọng về một thế giới ước mơ lí tưởng.
Trước hết trong những bài thơ của thơ mới đã bộc lộ khát vọng được sống là
mình – một khát vọng rất nhân bản. Thơ mới là một cuộc đi tìm mình do vậy trong
những bài thơ mới xuất hiện nhiều định nghĩa về cái tôi “Tôi là người bộ hành phiêu
lãng/ đường trần gian xuôi ngược để vui chơi”, “Ta là một là riêng là thứ nhất/Chẳng
có ai bè bạn nổi cùng ta”…Chính lúc cái tôi được giải phóng, nó có quyền lựa chọn và
tự lựa chọn. Lúc ấy con người được tự do phơi trải lòng mình, nói cho hết nói cho
nhiều mong một sự cảm thông bù đắp Do vậy âm điệu buồn tràn ngập các bài thơ. Đó
là cái buồn của thế hệ trí thức tiểu tư sản lúc bấy giờ đang loay hoay với cái tôi bản
ngã, thấy mình cô đơn, buồn đau, bất lực. Với những thất vọng cô đơn buồn đau ấy,
cái tôi thoát li thực tại tìm đến thế giới ước mơ của cái đẹp. Những tâm hồn lãng mạn
chạy trốn cuộc đời đã tìm vào cõi tiên , thoát li vào tình yêu, thiên nhiên hay vào tôn
giáo. Giấc mộng thoát li ấy vừa cho ta thấy được vẻ đẹp của tâm hồn lãng mạn vừa
hiểu hơn về tâm sự nỗi lòng của những trí thức tiểu tư sản trong cảnh nước mất nhà
tan.
Chính sự xuất hiện của cái tôi cá nhân đã làm nên cái mới của thơ ca lãng
mạn“với dáng dấp mới, nhịp đập mới, sinh khí mới, thơ mới đã trả lại linh hồn và sức
sống cho thơ ca”.
+ Như vậy, với sự khẳng định của cái tôi cá nhân thơ mới đã thể hiện được khát
khao dân chủ của thời đại
Bên cạnh đó Thơ mới còn thể hiện tinh thần dân tộc kín đáo nhưng sâu sắc (Yêu
Tiếng Việt, yêu quê hương đất nước, yêu những phong tục tập quán, nhớ tiếc thời vàng
son của dân tộc…)
Thơ mới còn bày tỏ lòng yêu thương những số phận vất vả, tình cảm xót xa
trước những biến đổi của cuộc đời… để rồi tự cảm thương mình. Và thể hiện tình yêu
cuộc sống, gắn bó với cuộc đời.

(b) Về hình thức nghệ thuật:
+ Phương thức trữ tình: trong thơ mới là cái tôi trực tiếp xưng danh. Cái tôi nhà
thơ là chủ thể do vậy cái nhìn nghệ thuật có dấu ấn cá thể hóa rất cao. Nó chi phối toàn
bộ cách sử dụng ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, nhịp điệu trong việc xây dựng hình
tượng thơ.
+ Cũng chính vì vậy, thơ mới đã cởi bỏ những ràng buộc có tính qui phạm của
thơ cũ: vần, luật, số câu, số chữ, nhịp, giọng điệu… Thơ mới đã căn bản cải tạo thơ trữ
tình Tiếng Việt từ điệu ngâm sang điệu nói.
+ Thơ mới là một cuộc cách tân về thể loại. Thơ mới sử dụng thể thơ truyền
thống với những đổi mới về vần, nhịp và sáng tạo thể thơ mới (Thể thơ 8 chữ)
Thơ mới vừa biết cách tân, đổi mới vừa biết giữ gìn, khai thác những tinh hoa
của thơ truyền thống. “Thơ mới thực sự đã trả lại linh hồn và sức sống cho thơ ca”.
* Tác giả: Vũ Đình Liên sinh ngày 12 tháng 11 năm 1913- mất ngày 18 tháng 1
năm 1996 Ông sinh tại Hà Nội, quê gốc ở thôn Châu Khê, xã Thúc Kháng, huyện
Bình Giang, tỉnh Hải Dương, đỗ tú tài trường Bưởi năm 1932.
Ông là một nhà thơ, nhà giáo nhân dân Việt nam
Ông từng dạy học ở các trường tư thục Thăng Long, Gia Long, Trường nữ sinh
Hoài Đức để kiếm sống, ông học thêm trường Luật. Ông tham gia giảng dạy nhiều
năm và từng là chủ nhiệm khoa tiếng Pháp trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Ông
được nhân danh hiệu nhà giáo nhân dân năm 1990.
Như đã nói ở phần mở đầu,Vũ Đình Liên tham gia phong trào thơ mới ngay từ
ngày đầu. Năm 1936 ông được biết đến với bài thơ "Ông đồ" đăng trên báo Tinh
Hoa Ông rất say mê thơ Bôđơle, chịu ảnh hưởng sâu sắc của Bôđơle. Mọi người
gọi ông thân mến là “Bô đơ Liên”, “Bô đơ le Việt Nam”. Hai nguồn thi cảm chính
là của ông là lòng thương người và tình hoài cổ. Mặc dù được biết đến trong phong
trào Thơ mới nhưng Vũ Đình Liên chưa xuất bản một tập thơ nào. Những bài thơ
hiếm hoi được biết đến của ông đều mang nặng nỗi niềm hoài cổ, về luỹ tre xưa, về
thành quách cũ và "những người muôn năm cũ". Hoài niệm của ông cũng là nỗi
niềm của nhiều người và bức tranh bằng thơ về Ông Đồ vẫn sẽ còn tồn tại với thời
gian.

Ngoài thơ ông còn hoạt động trong lĩnh vực lý luận, phê bình văn học và dịch
thuật. Ông là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt nam.
* Những tác phẩm chính
Một số bài thơ: Ông đồ, Lòng ta là những hàng thành quách cũ, Luỹ tre xanh,
Người đàn bà điên ga Lưu xá
- Đôi mắt (1957)
- Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (cùng Nhóm Lê Quý Đôn-1957)
- Nguyễn Đình Chiểu (1957)
- Thơ Baudelaire (dịch-1995)
b. Phần nghiên cứu văn bản
*) “Ông đồ” là bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ giàu thương cảm của Vũ Đình
Liên. Hội tụ hai nguồn thi cảm chính trong thơ Vũ Đình Liên “lòng thương người
và tình hoài cổ”. Và bài thơ “Ông đồ” đã có vị trí xứng đáng trong phong trào Thơ
mới. Được đánh giá là một kiệt tác.
*) Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ ra đời vào năm 1936 – được đăng trên báo Tinh
hoa
+ Hoàn cảnh xã hội:
Những năm đầu của thế kỉ XX, với luồng gió mới ào ạt của văn hóa phương
Tây, với sự thay đổi của rường cột xã hội, nền Hán học và chữ Nho ngày càng mất
vị thế quan trọng trong đời sống văn hóa xã hội Việt Nam. Chế độ khoa cử phong
kiến bị bãi bỏ (khoa thi hưong cuối cùng ở Bắc kì là vào năm 1915), cả thành trì
văn hóa cũ hầu như sụp đổ. Và các nhà nho từ chỗ là nhân vật trung tâm của đời
sống văn hóa dân tộc, được xã hội tôn vinh, bỗng trở nên lạc bước trong thời đại
mới, bị cuộc đời bỏ quên và cuối cùng là vắng bóng.
+ Hoàn cảnh tâm thế của nhà thơ:
Nhà thơ là một trí thức Tây học trẻ tuổi, có mặt ngay từ đầu trong phong trào
Thơ mới. Vũ Đình Liên với hồn thơ hồn hậu luôn sẵn có tấm lòng cảm thương, trắc
ẩn chân thành với những số phận con người bất hạnh. Ông tự nhận mình là “thi sỹ
của những thân tàn ma dại”.
*) Thể thơ: năm chữ ( ngũ ngôn) gồm nhiều khổ, mỗi khổ 4 câu ( khác với ngũ

ngôn tứ tuyệt) có khả năng diễn tả phong phú. Nhưng thích hợp nhất với việc diễn
tả tâm tình sâu lắng. Trong bài thơ này, thể thơ năm chữ (ngũ ngôn) rất phù hợp với
việc diễn tả cảm xúc, tâm tư của nhà thơ.
*) Hình tượng nghệ thuật trung tâm của tác phẩm là hình tượng “ông đồ”. Qua hình
tượng ông đồ, tác giả kí thác nỗi ngậm ngùi day dứt trước sự tàn tạ vắng bóng của
ông đồ - con người của một thời đã qua. “Ông đồ chính là di tích tiều tụy, đáng
thương của một thời tàn” như tác giả đã nói. Chọn hình tượng ông đồ là đối tượng
trữ tình đã chứa đựng cả một vấn đề lớn: số phận của nền văn hóa dân tộc và những
bước thăng trầm của lịch sử. Tự thân hình tượng ông đồ trong bài thơ cũng đã chở
tải nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ Vũ Đình Liên.
Trước khi phân tích bài thơ, giáo viên cần dành thời gian để giới thiệu về nhân
vật ông đồ trong đời sống văn hóa xã hội của người Việt Nam xưa: Ông đồ là người
Nho học nhưng không đỗ đạt, sống thanh bần bằng nghề dạy học. Những năm 30
của thế kỉ XX thì vị trí của các thầy đồ dạy chữ nho hầu như không còn nữa. Và
người ta chỉ thấy ông khi tết đến với cái câu đối phong tục treo câu đối đỏ một năm
một lần.
2. Định hướng khai thác:
Trong bài thơ, ông đồ là hình tượng nghệ thuật đặc sắc diễn tả thân phận bị chối
từ của một lớp người nho học trong những năm biến động văn hóa lớn lao đầu thế
kỉ XX. “Ông đồ là di tích tiều tụy của một thời tàn”, là một tứ thơ chở tải niềm
thương cảm chân thành trước số phận bi kịch của một lớp người trong cảm hứng
hoài cổ tiếc nuối cảnh cũ người xưa, ngậm ngùi sám hối trước cái cảnh thương tâm
của một nền nho học lúc mạt vận. Như vậy, ông đồ là đối tượng trữ tình để nhà thơ
kí thác nỗi niềm, tâm trạng. Để thẩm nhận được sâu sắc, trọn vẹn tư tưởng tình cảm
của nhà thơ ở trong bài thơ không thể tách rời cách hiểu về vai trò của ông đồ trong
đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc gắn với nền nho học.
A. Mạch cảm xúc: Cảm nhận của tác giả về hình ảnh ông đồ qua thời gian
B. Mạch cảm xúc đó được thể hiện qua 3 tiết đoạn:
- Hai khổ thơ đầu (Khổ 1,2)
- Hai khổ thơ tiếp (Khổ 3,4)

- Khổ thơ cuối
(1). Khổ 1,2:
Ở khổ thơ 1,2 cần thấy rõ hình ảnh ông đồ được gắn với một thời điểm: ông đi viết
thuê, những nét chữ phượng múa rồng bay kia chỉ để bày bán trên hè phố. Trong
khung cảnh của dịp tết đến xuân về, hoa đào khoe sắc thắm, phố phường đông vui, tấp
nập, hình ảnh ông đồ xuất hiện bên hè phố bán chữ trên giấy điều cho những ai còn
yêu lối chữ tượng hình và âm hưởng của một thời xa đã cho ta thấy một bước suy tàn
của nền Nho học. Bởi, ông đồ từ thư phòng trang nghiêm đã phải lận đận ra tận hè
phố để kiếm sống bằng việc bán chữ. Bán chữ là cái cực của kẻ sỹ ở mọi thời.
Nhưng dẫu sao mọi người còn chuộng phong tục tết đến xuân về treo câu đối đỏ
trên vách để trang hoàng nhà cửa và ông đồ vẫn được mọi người tìm đến: “Bao nhiêu
người thuê viết / Tấm tắc ngợi khen tài”. Với mực tàu giấy đỏ, với những câu đối đỏ,
hình ảnh ông đồ gợi lại một phong tục đẹp của ngày tết cổ truyền. Người thuê viết lúc
ấy cũng còn đông đảo lắm, họ hào phóng khen ngợi tài của ông mà cụ thể là tài viết
chữ như “phượng múa rồng bay”. Những nét chữ thật sống động, dường như cái hồn
của người viết đang truyền lên từng con chữ. Lúc này người thuê viết lẫn người viết
thuê đều biết trọng cõi tinh thần, hướng đời sống vào những vẻ đẹp thanh cao. Có lẽ
ông đồ cũng tìm được cho mình một niềm vui nho nhỏ của kẻ viết thuê được công
chúng mến mộ. Nền nho học tuy đã suy tàn nhưng vẫn còn hiện diện trong một phong
tục đẹp, chữ nho vẫn còn tồn tại trong một góc của đời sống tinh thần của con người.
Như vậy, hình ảnh ông đồ gắn với phong tục đẹp chỉ là một sự an ủi cuối
cùng cho sự tàn tạ của một nền nho học. Nói một cách khác, ngay ở hai khổ thơ
đầu ông đồ cũng đã là “di tích của một thời tàn” tuy chưa lộ hết vẻ tiều tụy đáng
thương.
Hiểu như vậy về hình ảnh ông đồ trong khổ thơ 1,2 để cảm nhận được trong cái
đông vui tấp nập của phố phường, trong cái niềm vui nho nhỏ của kẻ viết thuê cứ
có điều gì đó phảng phất nỗi buồn, ngậm ngùi của nhà thơ. Điều đó nó nén chặt
trong tứ thơ “ông đồ”, nó lắng trong âm điệu trầm buồn có ngay từ những câu thơ
ngũ ngôn đầu tiên của bài thơ, lắng trong từng câu chữ : Mỗi năm hoa đào nở /
Lại thấy ông đồ già, trong hình ảnh dường như đối lập: hoa đào nở, phố phường

tấp nập, cuộc sống sinh sôi với hình ảnh ông đồ già nua, đơn lẻ…
Hiểu như vậy để thấy được những đoạn sau chỉ là sự phát triển, lộ rõ tứ thơ đã
phảng phất ở đoạn trên mà thôi. Toàn bộ bài thơ kết cấu trên một âm hưởng ngày
một mở rộng, lan xa…
(2) Khổ 3,4:
Vẫn không gian của phố phường tấp nập, vẫn vào dịp tết đến xuân về, nhân vật,
cảnh vật vẫn chừng ấy (ông đồ, giấy, mực, phố phường). Nhưng phong tục treo câu
đối đỏ ngày tết đã không còn được người ta chuộng nữa. Từ “nhưng” với điệp từ
“mỗi” đánh dấu sự thay đổi trong bước đi chầm chậm của thời gian. Người tri âm
hôm qua nay đã là khách qua đường. Niềm vui nho nhỏ của ông là được thảo những
nét “phượng múa rồng bay” đem lại chút vui cho mọi người khi tết đến xuân về nay
cũng không còn. Nỗi buồn của lòng người như lan tỏa đến những vật vô tri “Giấy
đỏ buồn không thắm/ Mực đọng trong nghiên sầu”. Giấy cũng thấm buồn mực cũng
nhuộm sầu. Biện pháp nhân hóa sử dụng thật đắc địa, nỗi đau của con người làm tái
tê cả cảnh vật. “Ông đồ vẫn ngồi đấy / Qua đường không ai hay”. Ông cô đơn, trơ
trọi, lạc lõng và hoàn toàn bị quên lãng giữa phố phường tấp nập. Xót xa thay, ông
đồ bị người đời lãng quên trong lúc còn hiện hữu. Phong tục đẹp của ngày tết cổ
truyền còn đâu nữa. Chút an ủi,vớt vát cuối cùng của nho học lúc mạt vận cũng tiêu
tan. Nho học đã hoàn toàn mất chỗ đứng trong đời sống tinh thần của con người.
Cần phân tích kĩ hai câu thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt bút để thấy rõ nỗi niềm
thương cảm sâu sắc của nhà thơ đối với ông đồ: “Lá vàng rơi trên giấy / Ngoài trời
mưa bụi bay”. Lá vàng đã trút hết trên trang giấy nhạt phai như chấm hết sự sinh
sôi. Mưa bụi bay trong không gian tê tái nhạt hòa như khóc thương, tiễn biệt một số
phận con người, một thời đại đã dần khép vào dĩ vãng. Hiện thực trong thơ là hiện
thực của nỗi lòng. Chỉ là mưa bụi bay rất nhẹ vậy sao mà ảm đạm, lạnh lẽo tới buốt
giá. Nó diễn tả lòng người trĩu nặng sầu đau, dường như nỗi đau của người trong
cuộc lẫn người chứng kiến hòa chung trong một điệu, tràn ngập cả không gian.
Chính nỗi lòng thương cảm sâu sắc của nhà thơ về số phận của ông đồ đã cất lên
những tiếng thơ nức nở nghẹn ngào. Ông đồ quả thực là “di tích của một thời tàn”.
Như vậy, ở khổ 1,2 trong tương quan với khổ 3,4 không thể là thời đắc ý, huy

hoàng của ông đồ. Có chăng hình ảnh ông đồ gắn với phong tục đẹp của văn hóa
truyền thống là một sự níu kéo cuối cùng của nho học đã bước vào thời tàn. Có
chăng chỉ là cái tình của người đời đối với ông đồ vào thời mạt vận mà thôi.
Định hướng như vậy để thấy được lòng thương cảm của Vũ Đình Liên đối với
thân phận ông đồ thấm đẫm từ đầu đến cuối bài thơ, nó càng thấm sâu với bao xót
xa, day dứt ám ảnh. Khổ 3,4 chỉ để làm rõ hơn những điều đã hé lộ ở 2 khổ thơ
đầu. Và cũng để thấy rõ hơn cho tứ thơ “ông đồ” : thương cảm cho một kiếp người
cũng là bộc lộ nỗi niềm hoài cổ, nhớ tiếc cho một thời đã qua, gắn với những giá
trị văn hóa truyền thống tốt đẹp.
(3) Khổ thơ cuối:
Với kết cấu đầu cuối tương ứng (mở đầu: “Mỗi năm hoa đào nở / Lại thấy ông
đồ già” và kết thúc “Năm nay đào lại nở / Không thấy ông đồ xưa”) đã làm rõ cái
mâu thuẫn giữa cái vô hạn của thời gian, cứ luân chuyển theo chu kì bất biến và cái
hữu hạn của đời người, một đi không trở lại để bật ra cái bi kịch của một kiếp người
trong nỗi thương cảm da diết của nhà thơ. Đồng thời đó cũng là cái tứ cảnh cũ
người đâu thuờng gặp trong thơ xưa đầy gợi cảm: năm nay đào lại nở, tết đến, mùa
xuân lại về, nhưng ông đồ già đã thành “ông đồ xưa”, thành “người muôn năm cũ”.
Cách dùng từ đầy dụng ý và giàu sức gợi đã xoáy vào lòng người bao nỗi xót
thương trắc ẩn về hình bóng ông đồ già đã khuất nẻo dương gian, xót thương cho
bao danh nho vang bóng một thời nay đã hoàn toàn vắng bóng.
Hai câu thơ cuối là lời tự vấn của nhà thơ: “Những người muôn năm cũ / Hồn ở
đâu bây giờ?”. Nhà thơ tự hỏi mình, hỏi mọi người, hỏi vọng về quá khứ với bao
nỗi xót xa, thương tiếc ngậm ngùi…Ông đồ vắng bóng không chỉ là khép lại thân
phận của một kiếp người mà là sự biến mất vĩnh viễn của của một lớp người, sự suy
vong cáo chung của một thời đại, sự mai một, phôi pha của những nét đẹp văn hóa
truyền thống. Nỗi buồn về thân thế đã trở thành nỗi buồn cảm hoài về thời thế.
“Những người muôn năm cũ” không còn nữa nhưng linh hồn họ, những giá trị mà
họ đã đóng góp vào cuộc sống tinh thần của quê hương, đất nước này, giờ ở đâu?
“Câu thơ dùng chữ “hồn” – một cách nói rất Việt Nam đã chạm đến những rung
cảm sâu xa nhất trong tâm linh giống nòi, nó khắc khoải mãi, da diết mãi”.

Hơn nữa, bài thơ là tiếng lòng của một trí thức Tây học trẻ tuổi nhìn về quá khứ,
khi Nho học đã đi đến hồi kết. Đó là nỗi cảm thương, ngậm ngùi, tiếc nuối thoáng
chút ân hận của lớp người đương đại khi lòng mình không dủ thương đủ quí để níu
giữ những nét đẹp của văn hóa truyền thống, dẫu nhà thơ ý thức sâu sắc qui luật
vận động của cuộc đời và xã hội. Bởi thế, trong nỗi niềm hoài cổ của Vũ Đình Liên
còn là cái nhìn nhân hậu với quá khứ và với những gì đang trở thành quá khứ.
Tiếng lòng ấy dễ dàng tìm được tiếng nói tri âm.
3.Thực hành soạn giáo án:
Từ định hướng và lưu ý trên, kết hợp với thực tiễn giảng dạy, tôi xin đề xuất
giáo án bài dạy như sau:
Tiết 65,66:
ÔNG ĐỒ
(Vũ Đình Liên)
A. Mục tiêu cần đạt:
Giúp học sinh:
1. -Cảm nhận được hình ảnh tàn tạ của ông đồ - một con người đã và đang trở
nên lạc lõng và bị gạt ra ngoài lề cuộc sống lúc ấy – được thể hiện đầy ám
ảnh trong toàn bộ bài thơ
- Qua đó thấy được niềm cảm thương chân thành và nỗi nhớ tiếc ngậm ngùi của
tác giả đối với cảnh cũ người xưa gắn liền với một nét đẹp văn hóa cổ truyền.
- Hiểu và đánh giá được giá trị nghệ thuật đặc sắc của bài thơ
2. Giáo dục sự trân trọng đối với những nét đẹp văn hóa truyền thống
3. Rèn luyện kĩ măng phân tích, cảm thụ thơ ngũ ngôn.
B. Tiến trình thực hiện các bước lên lớp:
1. Bài cũ:
Cảm nhận về tâm sự của nhà thơ Tản Đà trong bài thơ “Muốn làm thằng Cuội”
2. Bài mới:
Theo dõi chú thích * và cho
biết những nét chính về tác giả?
I. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả:
- Vũ Đình Liên (1913 - 1996)
- Tham gia phong trào thơ mới ngay từ
những ngày đầu
- Cảm hứng thơ Vũ Đình Liên tập trung vào
hai nội dung chính: Lòng thương người và
Những hiểu biết của em về bài
thơ “Ông đồ”?
Baì thơ này nên đọc như thế
nào?
Bài thơ viết theo thể thơ gì?Nêu
phương thức biểu đạt của bài
thơ?
tình hoài cổ
- Ngoài sáng tác thơ ông còn nghiên cứu,
dịch thuật, giảng dạy văn học. Năm 1990
ông được phong là nhà giáo nhân dân.
2. Tác phẩm:
- Bài thơ Ông đồ là bài thơ tiêu biểu cho hồn
thơ giàu thương cảm của Vũ Đình Liên.
- Bài thơ được đánh giá là một kiệt tác
(Hoài Thanh-> Vũ Đình Liên có vị trí
xứng đáng trong phong trào thơ mới.
II. Đọc và tìm hiểu chung :
1. Đọc: Bài thơ nên đọc với giọng chậm rãi,
trầm lắng để diễn tả nỗi lòng của nhà thơ.
2. Tìm hiểu chung :
a.Thể thơ: Ngũ ngôn
-> Rất quen thuộc rất phù hợp với việc diễn tả
cảm xúc, tâm tư của nhà thơ. Ngôn ngữ cô đọng,

nhiều ý nghĩa dư vang
b. Phương thức biểu đạt: Biểu cảm là chính xen
tự sự, miêu tả
c. Nhân vật trữ tình:
- Chủ thể trữ tình: tác giả
Nhân vật trữ tình trong bài thơ?
Dựa vào sự giải thích của SGK
em hiểu như thế nào về hình
ảnh ông đồ trong đời sống văn
hóa xã hội của người Việt nam
xưa?
Tìm hiểu mạch cảm xúc? Mạch
cảm ấy được thể hiện như thế
nào trong bài thơ?
- Đối tượng trữ tình: Ông đồ
- Ông đồ: là người Nho học nhưng không đỗ đạt,
sống thanh bần bằng nghề dạy học. Những năm
30 thì vị trí của các thầy đồ dạy chữ nho hầu như
không còn nữa. Và người ta chỉ thấy khi ông khi
tết đến với cái câu đối phong tục treo câu đối đỏ
một năm một lần.
-> ông đồ trở thành một tứ thơ giàu sức nén của
bài thơ. Qua hình tượng ông đồ tác giả khái quát
được những bước thăng trầm của thời đại và số
phận của nền Nho học.
d. Mạch cảm xúc: Cảm nhận của tác giả về hình
ảnh ông đồ qua thời gian
- Triển khai qua 3 tiết đoạn:
- Khổ thơ 1,2
- Khổ thơ 3,4

- Khổ thơ cuối
III. Tìm hiểu chi tiết:
(+) Khổ 1,2:
- Khung cảnh: - Hoa đào nở
- Phố đông người qua
-> Gợi khung cảnh tết đến xuân về. hoa đào khoe
sắc thắm, phố phường tấp nập đông vui…
-> Cảnh đẹp tràn đầy sức sống, mọi vật dường
Hình ảnh ông đồ được tác giả
cảm nhận trong khung cảnh
như thế nào? Thể hiện qua hình
ảnh từ
ngữ nào? Nhận xét về khung
cảnh đó?
Trong khung cảnh đó ông đồ
hiện lên qua những từ ngữ nào?
Nhận xét cách dùng từ? Qua đó
gợi lên điều gì?
Hãy nhớ lại phần tìm hiểu
chung đã cho ta biết ông đồ là
ai. Vậy hình ảnh ông đồ trong
bài thơ xuất hiện trong vị thế
nào?Có còn là thầy đồ dạy chữ?
Hình ảnh ông đồ viết thuê giúp
em nhận ra điều gì?
như tươi trẻ lại.
- Ông đồ: - Lại thấy
- mực tàu, giấy đỏ
Lại: phó từ chỉ sự tiếp diễn, lặp đi lặp lại.
- Tác dụng: - hình ảnh ông đồ xuất hiện nơi nơi

phố phường vào ngày tết đã trở nên quen thuộc
- Gợi một phong tục đẹp, một thú
vui tao nhã vào ngày tết cổ truyền với bánh
chưng xanh câu đối đỏ.
-Vị thế ông đồ không còn như xưa: Ông đồ đã
phải rời bỏ thư phòng trang nghiêm để lận đận ra
hè phố bán chữ.
-> Nền nho học đã bước vào thời tàn.
- Thái độ mọi người: - Bao nhiêu người thuê
- Tấm tắc ngợi khen
- Đại từ phiếm chỉ, chỉ số nhiều
->Khách tìm đến mua chữ nhiều không sao kể
xiết luôn miệng tấm tắc ngợi ca tài viết chữ của
ông đồ
Thế nhưng, thái độ của mọi
người đối với nghề viết chữ của
ông lúc ấy ra sao? Nhận xét
cách dùng từ? Qua đó em hiểu
gì về thái độ của mọi người?
Cảm nhận của tác giả về nét
chữ của ông đồ lúc ấy ra sao?
Từ đó, hình dung tâm trạng của
ông đồ lúc này?
Trong cảnh kẻ thuê người viết
mỗi độ xuân về ấy giúp em cảm
nhận rõ nét điều gì?
Hình dung về tâm trạng nhà thơ
lúc ấy?
Qua cách miêu tả hình ảnh ông
đồ trong khổ 1 và 2 em còn

- Nét chữ: như phượng múa rồng bay -> sử dụng
so sánh + thành ngữ
-> Gợi nên nét chữ đẹp, sống động như có linh
hồn. Hồn của người vết chữ như truyền sang
từng con chữ. Người viết thuê trong cái thú chơi
tao nhã như một nhu cầu giao cảm với con
người, đất trời mỗi độ xuân về.
- Ông đồ vui khi còn được thể hiện vốn chữ tài
hoa của mình. Dường như lúc này ông đã tạm
quên đi nỗi buồn thân phận để kiếm tìm một chút
tri âm, một niềm an ủi cuối cùng cho nền nho
học…
- Dẫu nền Nho học đã bước vào thời tàn, song
vẫn còn hiện diện trong một phong tục đẹp. Chữ
nho còn là thú vui tao nhã và vẫn còn tồn tại
trong một góc của đời sống tinh thần của con
người.
+ Tâm trạng của nhà thơ:
- Yêu mến trân trọng, tự hào đối với ông đồ
và phong tục đẹp của dân tộc
- Giọng thơ cất lên trầm buồn ngay từ câu
thơ ngũ ngôn đầu tiên của bài thơ.
- Từ ngữ: Lại thấy
Ông đồ già
cảm nhận được gì về nỗi lòng
của nhà thơ đối với ông đồ?
(Gợi: hai khổ thơ cất lên với
giọng điệu như thế nào? Tâm
trạng ấy còn chất chứa ở đâu
nữa? )

Vậy ở đây t/giả sử dụng cách
biểu cảm gì?
Cùng với sự tuần hoàn của thời
gian nhà thơ đã nhận ra sự thay
đổi trong số phận ông đồ như
thế nào? Thể hiện qua những từ
ngữ, biện pháp nghệ thuật nào?
Hãy phân tích?
Trước sự đổi thay của số phận
ông đồ, tác giả đã bày tỏ thái độ
qua câu thơ nào? Nhận xét về
nghệ thuật? Qua đó em hiểu
thái độ gì?
- Hình ảnh thơ: Hoa đào nở, phố phường tấp
nập >< ông đồ già nua, đơn lẻ
-> cảm nhận được trong cái đông vui tấp nập của
phố phường, trong cái niềm vui nho nhỏ của kẻ
viết thuê cứ có điều gì đó phảng phất nỗi buồn,
ngậm ngùi của nhà thơ.
-> Cách biểu cảm gián tiếp qua miêu tả, tự sự
(+). Khổ 3,4:
+ Sự đổi thay của số phận ông đồ qua thái độ của
mọi người:
-Từ “nhưng” mở đầu khổ 3: chỉ ý đối
lập, bước ngoặt của thời gian, đánh dấu sự đổi
thay.
- Điệp từ mỗi: diễn tả bước đi chầm
chậm của của thời gian, nhịp độ khách thưa vắng
dần. Người tri âm hôm qua nay đã là khách qua
đường.

+ Thái độ của tác giả: Thốt lên “Người thuê viết
nay đâu”?-> câu hỏi tu từ
-> Tâm trạng bàng hoàng thoảng thốt trước cảnh
vắng người vắng khách
+ Nỗi lòng của ông đồ: “ Giấy đỏ buồn / nghiên
sầu -> Hình ảnh nhân hóa
-> Làm cho cảnh vật vô tri trở nên có linh hồn,
Nhà thơ đã diễn tả nỗi lòng của
ông đồ qua hình ảnh nào? Phân
tích giá trị biểu đạt?
Trong tình cảnh đó hình ảnh
ông đồ hiện lên như thế nào?
Từ hình ảnh đó của ông đồ em
cảm nhận được điều gì xót xa?
Hai câu thơ cuối của khổ 3 đã
diễn tả sâu sắc tình cảnh của
ông đồ cũng như nỗi lòng của
nhà thơ. Em hãy phân tích làm
trĩu nặng sầu đau.
-> Trang giấy có phải thấm nỗi buồn đau khôn tả
của lòng người mà không còn thắm đỏ. Mực tàu
trong nghiên bao ngày không được dùng đến nên
đặc quánh lại trong nỗi sầu đau.
-> Nỗi đau của lòng người làm tái tê cả cảnh vật.
+ Ông đồ vẫn ngồi đấy/ không ai hay…
- Phó từ “vẫn” -> ông đồ vẫn ngồi đấy giữa phố
phường tấp nập, trong khung cảnh tết đến xuân
về kiên nhẫn đợi chờ khách qua đường mà cô
đơn,trơ trọi, lạc lõng giữa dòng người xa lạ.
-> Ông đồ bị lãng quên ngay khi còn hiện hữu.

Phong tục đẹp của ngày tết cổ truyền còn đâu
nữa. Chút an ủi,vớt vát cuối cùng của nho học
lúc mạt vận cũng tiêu tan. Nho học đã hoàn toàn
mất chỗ đứng trong đời sống tinh thần của người
Việt.
+ “Lá vàng rơi trên giấy/ ngoài trời mưa bụi
bay”
-> Hai câu thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc
=> Lá vàng đã trút hết trên trang giấy nhạt phai
như chấm hết sự sinh sôi. Mưa bụi bay trong
không gian tê tái nhạt nhòa như khóc thương,
tiễn biệt một số phận con người, một thời đại đã
dần khép vào dĩ vãng. Dường như nỗi đau của
rõ cái hay của hai câu thơ đó?
Câu hỏi thảo luận nhóm để
củng cố kiến thức vừa học qua
4 khổ thơ: Theo em từ sự thay
đổi của số phận ông đồ ở khổ
3,4 có thể khẳng định có sự
thay đổi trong tình cảm của tác
giả không? Vì sao?
So sánh hai câu thơ mở đầu bài
thơ với 2 câu thơ của khổ cuối
để phát hiện nét nghệ thuật đặc
sắc gì? Tác dụng?
người trong cuộc lẫn người chứng kiến hòa
chung trong một điệu, tràn ngập cả không gian.
=>Chính nỗi lòng thương cảm sâu sắc của nhà
thơ về số phận của ông đồ đã cất lên những
tiếng thơ trĩu nặng sầu đau. Ông đồ quả thực là

“di tích của một thời tàn”.
-> Củng cố qua thảo luận nhóm: Toàn bộ bài
thơ kết cấu trên một âm hưởng ngày một mở
rộng, lan xa… lòng thương cảm của Vũ Đình
Liên đối với thân phận ông đồ thấm đẫm từ đầu
đến cuối bài thơ, nó càng lúc càng thấm sâu với
bao xót xa, day dứt ám ảnh.
(+). Khổ thơ cuối
-Nghệ thuật đối lập: -Mở đầu: Mỗi năm hoa đào
nở /Lại thấy ông đồ già
- Kết thúc: Năm nay đào lại nở/
Không thấy ông đồ xưa
-> kết cấu đầu cuối tương ứng
-> thời gian luân chuyển theo chu kì bất biến đặt
bên cạnh cái hữu hạn của đời người, một đi
không trở lại
- Tác dụng: để bật ra cái bi kịch của một kiếp
người trong nỗi thương cảm da diết của nhà thơ.
Cách dùng từ lại trong câu thơ
còn gợi ra điều gì?
Trong sự mất mát đó tác giả
thốt lên như thế nào? Nhận xét
cách diễn đạt? Tác giả hỏi ai?
Hỏi về điều gì?
- Từ lại: diễn tả vòng tuần hoàn của thời gian
đồng thời đó cũng là cái tứ “cảnh cũ người đâu”
thuờng gặp trong thơ xưa đầy gợi cảm: năm nay
đào lại nở, tết đến, mùa xuân lại về, nhưng ông
đồ già đã thành “ông đồ xưa”
-> Sự ra đi không tiễn biệt của một kiếp người,

một nền văn hóa.
+ “Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây
giờ”?
- Câu hỏi tu từ: Hỏi mình, hỏi người, hỏi cả
thời đại, hỏi vọng về quá khứ
- Hồn của người muôn năm cũ:
- Hồn của ông đồ
-Hồn của lớp người
đã đóng góp vào cuộc sống tinh thần của quê
hương, đất nước này
- Hồn của một nét đẹp
văn hóa truyền thống
- Câu thơ dùng chữ “hồn” – một cách nói rất
Việt Nam đã chạm đến những rung cảm sâu xa
nhất trong tâm linh giống nòi, nó khắc khoải
mãi, da diết mãi.
=>Bộc lộ bao nỗi xót xa, thương tiếc, ngậm ngùi
của nhà thơ trước sự ra đi lặng lẽ của ông đồ, của
Qua đó em hiểu được tâm trạng
gì của tác giả?
Đánh giá chung về giá trị nghệ
thuật của bài thơ?
các bậc tiền nhân cùng với sự đổi thay giá trị của
những nét đẹp văn hóa truyền thống. -> Nỗi
buồn về thân thế đã trở thành nỗi buồn cảm hoài
về thời thế.
=>GV: Hơn nữa, bài thơ là tiếng lòng của một
trí thức Tây học trẻ tuổi nhìn về quá khứ, khi
Nho học đã đi đến hồi kết. Đó là nỗi cảm
thương, ngậm ngùi, tiếc nuối thoáng chút ân hận

của lớp người đương đại khi lòng mình không dủ
thương đủ quí để níu giữ những nét đẹp của văn
hóa truyền thống, dẫu nhà thơ ý thức sâu sắc qui
luật vận động của cuộc đời và xã hội. Bởi thế,
trong nỗi niềm hoài cổ của Vũ Đình Liên còn là
cái nhìn nhân hậu với quá khứ và với những gì
đang trở thành quá khứ.
IV. Tổng kết:
1.Nghệ thuật:
- Thể thơ ngũ ngôn hàm súc cô đọng
- Giọng điệu chủ đạo của bài thơ là trầm lắng
ngậm ngùi, phù hợp với việc diễn tả tâm tư, cảm
xúc của nhà thơ
- Kết cấu bài thơ giản dị mà chặt chẽ: theo trình
tự thời gian bằng cái nhìn hướng ngoại từ tâm
thức nhà thơ; kết cấu đầu cuối tương ứng với
những cảnh tượng đối lập để thể hiện đầy ám

×