Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

ảnh hưởng của lạm phát và tỷ giá hối đoái với doanh nghiệp và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.83 KB, 23 trang )

TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1. TÌM HIỂU CHUNG VỀ TỈ GIÁ HỐI ĐOÁI.
1.1. Khái niệm.
Do có nhiều khía cạnh và mặt tiếp xúc khác nhau, nên có nhiều khái niệm về
tỉ giá hối đoái, nhưng chủ yếu có hai khái niệm sau:
Thứ nhất: Các phương tiện thanh toán quốc tế được mua và bán trên thị
trường hối đoái bằng tiền tệ quốc gia của một nước theo một giá cả nhất định. Vì
vậy, giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ
nước kia được gọi là tỷ giá hối đoái.
Ví dụ: Tỷ giá bán ra ngày 15.08.2014 của Ngân Hàng Vietcombank là:
1USD= 21230 VND
Thứ hai: Tỷ giá hối đoái còn được xem như quan hệ so sánh về giá trị giữa
hai đồng tiền của hai nước với nhau.
Còn ở Việt Nam, tỷ giá hối đoái được hiểu là giá của một đơn vị tiền tệ nước
ngoài tính bằng đơn vị tiền tệ Việt Nam.
Vậy tỷ giá thể hiện mối quan hệ giữa hai đồng tiền. Mà mỗi quốc gia đều có
đồng tiền riêng. Do đó, để tìm tỷ giá hối đoái giữa các quốc gia, ta cần tìm hiểu các
ký hiệu đơn vị tiền quốc gia đó. Và sau đây là một số ký hiệu đơn vị tiền:
Tiền Tệ Ký Hiệu Mã tiền
Đồng Việt Nam đ VND
Dollar Mỹ $ USD
Euro € EUR
Bảng Anh £ GBP
Nhân Dân Tệ ¥ CNY
Khi các quốc gia có quan hệ trao đổi, buôn bán hàng hóa với nhau, dẫn đến sự
trao đổi của các đồng tiển khác nhau. Vậy bao nhiêu đồng tiền này thì đổi được
đồng tiền kia? Làm sao để xác định tỷ giá ngoại tệ giữa các quốc gia? Có những
phương pháp xác định tỷ giá hối đoái sau:
• Xác định căn cứ vào hàm lượng vàng đảm bảo của các đồng tiền.
• Phương pháp xác định tỷ giá hối đoái nghịch đảo.
• Phương pháp xác định tỷ giá chéo.


1.2. Phân loại tỷ giá hối đoái.
Trong thực tế, tùy vào từng thời gian, trường hợp nguyên cứu, khía cạnh
nguyên cứu mà người ta phân loại tỷ giá hối đối khác nhau.
- Căn cứ vào đối tượng xác định tỷ giá, có thể chia làm tỷ giá chính thức và tỷ
giá thị trường.
- Căn cứ vào giá trị của tỷ giá, có thể chia làm tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá
thực.
- Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối, tỷ giá được chia ra làm hai loại:
tỷ giá điện hối, tỷ giá thư hối.
- Căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá hối đoái chia ra các loại: tỷ giá
chính, tỷ giá tự , tỷ giá thả, tỷ giá cố định.
- Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế, tỷ giá được chia ra các loại: tỷ
giá séc, tỷ giá hối phiếu trả tiền, tỷ giá chuyển khoản , tỷ giá tiền mặt.
- Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại hối: tỷ giá mở cửa, tỷ giá đóng cửa, tỷ
giá giao nhận ngay, tỷ giá giao nhận có kỳ hạn.
- Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của ngân hàng tỷ giá chia ra làm
hai loại: tỷ giá mua, tỷ giá bán.
BẢNG TỶ GIÁ NGÀY 14/08/2014 ( NGÂN HÀNG VIETINBANK)
Ngoại tệ
Tỷ giá mua
Tỷ giá bán
Tiền mặt
& Séc
Chuyển khoản
EUR 28197 28267 28495
GBP 34990 35237 35520
CAD 19266 19392 19548
USD 21170 21180 21230
HKD 2707 2725 2747
SGD 16841 16954 17091

1.3. Chế độ tỷ giá hối đối.
Hiện nay, trên thế giới đang tồn tại nhiều loại chế độ tỷ giá hối đoái biến
tướng từ hai hình thức cơ bản là cố định và thả nổi. Trong thế giới mà sự phụ
thuộc lẫn nhau càng tăng, việc lựa chọn một chế độ ngoại hối phù hợp với bối cảnh
quốc tế, điều kiện cụ thể từng bước và đáp ứng điều chỉnh kinh tế vĩ mô, nhất là
với các nước đang thực hiện chuyển đổi cơ chế thực sự là vấn đề nan giải.
a.Tỷ giá hối đoái cố định bản vị vàng.
Theo chế độ bản vị vàng,tỷ giá hối đoái được qui định căn cứ vào hàm
lượng vàng của các đồng tiền. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại, khi
thương mại quốc tế tăng lên cùng với hoạt động đầu cơ, chế độ bản vị vàng này
không đáp ứng được nhu cầu phát triển và các nước thôi áp dụng từ năm 1971.
b.Tỷ giá hối đoái kế hoạch bao cấp .
Loại tỷ giá hối đoái này được áp dụng tại các nước Xã hội chủ nghĩa thời kỳ
kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Tỷ giá hối đoái kế hoạch bao cấp thường chênh
lệch nhiều lần so với tỷ giá hối đoái thị trường, không có vai trò là công cụ điều
tiết vĩ mô đối với xuất nhập khẩu, loại tỷ giá hối đoái này được áp dụng tại Việt
Nam trước năm 1989.
c. Tỷ giá hối đoái thả nổi tự do.
Theo chế độ tỷ giá hối đoái này, mức tỷ giá hối đoái được quyết định hoàn
toàn bởi các lực lượng cung cấp cầu về ngoại tệ. Trong hệ thống này chính phủ giữ
thái độ thụ động, để cho thị trường ngoại tệ đánh giá giá trị của ngoại tệ - loại tỷ
giá hối đoái này ít được áp dụng vì các thị trường tiền tệ thường không hoàn hảo
và do vậy luôn cần có vai trò can thiệp của nhà nước.
d. Tỷ giá hối đoái thả nổi có điều tiết.
Theo chế độ này, chính phủ không cam kết duy trì một tỷ lệ cố định với
ngoại tệ, mà thả nổi đồng tiền của mình và có biện pháp can thiệp mỗi khi thị
trường trở nên (mất trật tự) , hoặc khi tỷ giá hối đoái đi chệch xa mức thích hợp
loại tỷ giá hối đoái này hiện đang được áp dụng tại các nước Tư Bản Chủ Nghĩa,
nơi mà lạm phát đạt thấp, các thị trường phát triển ở trình độ cao.
e. Tỷ giá hối đoái ổn định có điều tiết.

Theo chế độ này, chính phủ không để ngoại tệ trôi nổi tự do, mà can thiệp
vào thị trường ngoại tệ bằng cách mua bán ngoại tệ nhằm ổn định tỷ giá qui định.
Sau mỗi thời gian nhất định, mức tỷ giá hối đoái lại được điều chỉnh cho phù hợp
và duy trì ổn định.
* Luận cứ lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái.
Sự quản lý tối ưu của tỷ giá hối đoái phụ thuộc vào các mục tiêu kinh tế của
các nhà hoạch định chính sách, vào nguồn gốc của các cơn sốc đối với nền kinh tế
và đặc trưng cơ cấu của nền kinh tế đang xét. Vì vậy các giả thiết khác nhau về
nhân tố đó có thể dẫn đến sự thay đổi về mức độ tối ưu của chế độ tỷ giá hối đoái.
Các yêu cầu khi lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái: Một số tiêu chuẩn quy định tỷ giá
phụ thuộc vào bản chất của cơn sốc lên nền kinh tế cũng như đặc trưng cơ cấu của
nền kinh tế. Tuy vậy trong thực tế khó mà áp dụng đó cho các trường hợp cụ thể.
Các khó khăn đó không những lên quan đến các vấn đề thực tiễn, sự nhận biết
nguồn gốc các cơn sốc và các đặc trưng cơ cấu mà còn liên quan đến mâu thuẫn
tiềm tàng giữa các mục tiêu chính sách khác nhau. Tiêu chuẩn để lựa chọn một chế
độ tỷ giá hối đoái thích hợp còn phụ thuộc vào các mục tiêu chính sách do chính
phủ đặt ra.
1.4. Ý nghĩa kinh tế của tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Sự vận động của nó có tác
động sâu sắc tới mục tiêu, chính sách kinh tế vĩ mô của mỗi quốc gia:
Thứ nhất, tỷ giá là phương tiện trao đổi thương mại quốc tế, nó quy định tỷ
lệ trao đổi giữa các loại tiền.
Thứ hai, nó tác động trực tiếp tới hoạt động xuất nhập khẩu. Vì vậy nó tác
động tới cán cân thanh toán quốc tế: sự thâm hụt hoặc thận dư cán cân. Khi dồng
tiền của một nước tăng giá (so với đồng tiền khác) thì hàng hóa nước đó trở nên đắt
hơn. Ngược lại hàng hóa nước ngoài ở nước đó sẽ rẻ hơn.
Thứ ba, tỷ giá là công cụ diều tiết vĩ mô, ảnh hưởng tới tổng cầu, sản phẩm
quốc dân, thất nghiệp… Tỷ giá góp phần vào việc cải thiện cung cầu ngoại tệ, giải
quyết vấn đề nợ nước ngoài. Song, việc điều hành tỷ giá không tốt có thẻ dẫn tới
lãm phát, khủng hoảng.

2. TÌNH HÌNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA NƯỚC TA.
2.1. Sơ lược về lịch sử phát triển của tỷ giá hối đoái nước ta.
Tỷ giá hối đoái nước ta được đánh dấu mốc thay đổi quan trong vào năm
1989. Trước năm 1989, nước ta thực hiên chính sách tỉ giá cố định, giá cả ngoại tệ
do ngân hàng nhà nước quyết định và hấu như cố định theo thời gian. Đến năm
1989, cơ chế diều hành tỷ giá có sự thay đổi, chuyển sang tỷ giá được điều hành
theo yếu tố thị trường.
a. Thời kỳ trước năm 1989.
Ở nước ta tồn tại chế độ tỷ giá cố định. Trong thời gian này, nước ta phát
triển nền kinh tế hướng nội, đóng cửa, các mối quan hệ với bên ngoài dều thông
qua hệ thống độc quyền của nhà nước về ngoại thương và hối đoái. Do vậy, việc áp
dụng chế độ tỷ giá cố định do nhà nước độc quyền xác định không tính tới những
yếu tố cung cầu của thị trường.
Vì vậy, đồng tiền Việt Nam được đánh giá quá cao so với đồng tiền tự do
chuyển đổi. tỷ giá chính thức ngày càng chênh lệch xa với thị trường, làm cho hoạt
động xuất nhập khẩu gặp khó khăn, cán cân thương mại bị thâm hụt nặng, các
doanh nghiệp rơi vào tình trạng khó khăn.
b. Thời kỳ 1989 đến nay.
Sự ra đời của của hai trung tâm ngoại dịch ở hai thành phố lớn là Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh năm 1991 là biểu hiện cụ thể của sự thay đổi cơ chế tỷ
giá. Tỷ giá hối đoái dã được phản ánh tương đối, giúp thu hẹp khoảng cách giữa tỷ
giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do. Đồng thời nắm bắt dược cung – cầu
ngoại tệ trên thị trường để có những biện pháp kip thời, thích hợp trong việc ổn
định tỷ giá.
Thời kỳ này dược chia thành các giai đoạn:
o Giai đoạn 1989-1991: tỷ giá được nới lỏng để đưa yếu tố thị trường
vào cơ chế xác định giá.
o Giai đoạn 1992-1997( trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính – tiền tệ
khu vực) : tỷ giá được ấn định và điều chỉnh gần như cố dịnh để kiềm
chế lạm phát, ổn dịnh thị trường tiền tệ và đẩy mạnh thu hút đẩu tư

nước ngoài
o Giai đoạn sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực đến nay:
những điều chỉnh có tính chủ động hơn để chống đỡ tác dộng của
cuộc khủng hoảng và khắc phục tình trạng đánh giá cao VND.
2.2. Thực trạng về vấn đề tỉ giá ở Việt Nam hiện nay.
Số liệu thống kê cho thấy, từ tháng 6/2008 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã
sáu lần điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng, song mức độ điều chỉnh không
lớn như 2011, cụ thể các lần điều chỉnh như sau:
Ngày 11/6/2008, điều chỉnh lên 16.461 VND/USD (+1,99%)
Ngày 25/12/2008, điều chỉnh lên 16.989 VND/USD (+3%)
Ngày 26/12/2009, điều chỉnh lên 17.961 VND/USD (+5,44)
Ngày 11/2/2010, điều chỉnh lên 18.544 VND/USD (+3,36%)
Ngày 18/8/2010, điều chỉnh lên 18.932 VND/USD (+2,09%)
Ngày 11/2/2011, điều chỉnh lên 20.693 VND/USD (+9,3%)
Việc điều chỉnh tỷ giá trong năm 2011 có nhiều tác động tích cực đến nền
kinh tế, cụ thể đưa tỷ giá chính thức sát với tỷ giá thị trường, tổ chức kinh tế và cá
nhân sẽ bán ngoại tệ cho ngân hàng nhiều hơn, sẽ không còn cảnh tổ chức kinh tế
và ngân hàng mua bán chui ngoại tệ, gây ra nhiều hệ quả xấu cho cả các ngân hàng
và khách hàng.
Mặc dù động thái của Ngân hàng Nhà nước được nhiều chuyên gia đánh giá
cao. Tuy nhiên, việc duy trì và giữ tỷ giá chính thức sát với tỷ giá thị trường là vấn
đề rất khó cho cơ quanquanr lý, khi mà tỷ giá biến động do nhiều nguyên nhân như
lạm phát cao, thâm hụt cán cân thương mại lớn, lãi suất thay đổi lien tục và đặc
biệt là việc các tổ chức kinh tế, cá nhân đầu cơ giam giữ ngoại tệ, làm cho cân đối
cung cầu ngoại tệ bị mất cân đối nghiêm trọng, gây áp lực lớn lên tỷ giá.
3. ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG DOANH NGHIỆP
Tỷ giá hối đoái (TGHĐ) là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan
trọng của mỗi quốc gia. Diễn biến của TGHĐ giữa USD với Euro, giữa USD/JPY
cũng như sự biến động tỷ giá giữa USD/VND trong thời gian qua cho thấy, tỷ giá
luôn là vấn đề thời sự, rất nhạy cảm. Ở Việt Nam, TGHĐ không chỉ tác động đến

xuất nhập khẩu, cán cân thương mại, nợ quốc gia, thu hút đầu tư trực tiếp, gián
tiếp, mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của dân chúng.
Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp đến giá xuất nhập khẩu và ảnh ưởng đến
lợi nhuận cũng như cung cầu và lạm phát. Khi tỷ giá hối đoái cao giữa đô la Mỹ và
đồng VN thì nhập hàng về sẽ có giá đầu vào cao, cấu tạo giá thành cao, để có lợi
thì bán hàng ra thị trường giá cũng cao hơn, nếu không thì phải chấp nhận giảm tỷ
lệ lợi nhuận xuống. Ngược lại, với tỷ lệ đồng đô la Mỹ và đồng VN cao thì xuất
khẩu có lợi do cũng chính số đô la Mỹ như thế nhưng khi qui ra đồng Việt Nam thì
được nhiều hơn, lãi nhiều hơn. Có thể suy diễn ngược lại khi tỷ giá đô la Mỹ và
đồng VN đi xuống thì nhập khẩu sẽ có lợi hơn xuất khẩu, có thể ảnh hưởng đến
sản xuất kinh doanh, kinh tế vĩ mô.
Khi TGHĐ biến động theo chiều hướng không thuận, Trong thời gian tới,
TGHĐ biến động theo hướng nào, quả thật không dễ dự đoán. Sự biến động của tỷ
giá sẽ khó lường, bởi nhiều nhân tố tác động như: nhập siêu còn lớn không chỉ
trong ngắn hạn mà cả trong trung hạn; thâm hụt ngân sách vẫn ở mức cao (trên
dưới 6%/GDP); giá vàng trong nước và thế giới luôn tăng mạnh (do khủng hoảng
chi tiêu công tại một số quốc gia Châu Âu, châu Mỹ); nhu cầu ngoại tệ nói chung,
USD nói riêng vào những tháng cuối năm sẽ tăng cao do khách hàng vay vốn đến
hạn trả nợ ngân hàng; do nhu cầu chuyển lợi nhuận về nước của các nhà đầu tư
nước ngoài; do kinh tế ngầm vẫn phát triển rất mạnh, khó có khả năng ngăn chặn,
nên đôla hóa nền kinh tế còn ở mức cao; do thực hiện chính sách đồng tiền mạnh/
hay yếu của một số quốc gia trong khu vực…
3.1. Giá hối đoái có ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu :
Thông qua tỷ giá, nhà nước tác động đến tổng kim ngạch xuất nhập khẩu và
cán cân thương mại quốc tế.
Khi đồng tiền nội tệ mất giá (tỷ giá tăng) thì giá cả hàng xuất khẩu của quốc
gia đó trở nên rẻ hơn, sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế sẽ được
nâng cao. Chẳng hạn, 1 lô hàng xuất khẩu trị giá 16.000 triệu VND. Thời điểm
1/2006 tỷ giá trên thị trường USD/VND là 16.000 thì lô hàng này được bán trên thị
trường quốc tế với giá 1 triệu USD. Thời điểm 12/2006 tỷ giá USD/VND 17.000

thì lô hàng này được bán với giá 16.000/17.000= 0,941 triệu USD, rẻ hơn ban đầu.
Khi ấy, mức cầu mở rộng và khối lượng hàng hoá xuất khẩu sẽ gia tăng. Trong khi
đó, giá hàng nhập khẩu từ nước ngoài trở nên đắt hơn, do đó hạn chế nhập khẩu.
Như vậy, sự tăng lên của tỷ giá làm nền kinh tế thu được nhiều ngoại tệ, cán cân
thương mại và cán cân thanh toán quốc tế được cải thiện.
Ngược lại, nếu giá của đồng nội tệ tăng lên so với đồng ngoại tệ (tỷ giá hối
đoái giảm) sẽ làm cho xuất khẩu giảm đi, nhập khẩu tăng lên và cán cân thanh toán
trở nên xấu hơn.
Tuy nhiên, khi xem xét tác động của tỷ giá đến sự thay đổi hoạt động thương
mại quốc tế và cán cân thanh toán cần lưu ý rằng hiệu ứng này không thể xảy ra
ngay mà phải trải qua một khoảng thời gian nhất định. Khoảng thời gian đó là thời
gian thích ứng đối với việc thay đổi giá cả hàng hoá của người tiêu dùng trong và
ngoài nước. Trong thời gian đầu, cán cân thanh toán có thể bị giảm đi, sau đó mới
đạt trạng thái cải thiện dần.
Hiệu ứng này được gọi là đường J (đường J cho biết cán cân thương mại sẽ
thay đổi theo thời gian như thế nào sau khi đồng nội tệ giảm giá). Có thể xem hình
vẽ.
3.2. Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng tới tình hình lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
Khi sức mua của đồng tiền trong nước giảm đi (có thể do nhà nước chủ
trương phá giá tiền tệ để đẩy mạnh xuất khẩu chẳng hạn), tỷ giá hối đoái tăng lên
làm giá hàng nhập khẩu đắt hơn. Nếu hàng nhập khẩu để trực tiếp tiêu dùng thì làm
tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trực tiếp. Nếu hàng nhập khẩu dùng cho sản xuất thì
làm tăng chi phí sản xuất và dẫn tới tăng giá thành sản phẩm. Kết quả cũng là sự
tăng lên của chỉ số giá tiêu dùng. Vì vậy, lạm phát có thể xảy ra. Nhưng khi tỷ giá
tăng, các ngành sản xuất hàng xuất khẩu được lợi và phát triển, kéo theo sự phát
triển của các ngành sản xuất trong nước nói chung, nhờ vậy thất nghiệp giảm và
nền kinh tế tăng trưởng.
Ngược lại khi tỷ giá hối đoái giảm (giá đồng nội tệ tăng lên), hàng nhập
khẩu từ nước ngoài trở nên rẻ hơn. Từ đó lạm phát được kiềm chế, nhưng lại dẫn
tới sản xuất thu hẹp và tăng trưởng thấp.

Tóm lại, tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu sắc đến quan hệ kinh
tế đối ngoại, tình trạng cán cân thanh toán, tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất
nghiệp. Khi điều chỉnh tỷ giá hối đoái để thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội, Nhà
nước phải xem xét nhiều mặt, tính toán đến nhiều tác động khác nhau, trái chiều
nhau của tỷ giá. Mặt khác còn phải cảnh giác đối phó với nạn đầu cơ tiền tệ trên
thế giới có thể làm cho nội tệ bất ngờ lên giá hoặc hạ giá do tác động của sự di
chuyển các luồng vốn ngoại tệ gây ra làm cho nền kinh tế trong nước không ổn
định.
4. GIẢI PHÁP
4.1. Thành lập bộ phận theo dõi và dự báo tỷ giá hối đoái cho doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp xuất hàng đi ra nước ngoài hay là nhập hàng từ nước
ngoài về, thì bắt buộc phải có sự chuyển đổi ngoại tệ ở đây. Thì mỗi lần có sự
chuyển đổi ngoại tệ là có tìm ẩn rủi ro về biến động tỷ giá, đa số nhiều doanh
nghiệp không để ý đến vấn đề tỷ giá trong thanh toán quốc tế cũng là do đa số gần
90% doanh nghiệp luôn ấn định đồng tiền USD để thanh toán khi ký kết hợp
đồng. Mà đồng USD này được nhà nước kiềm hãm biến động so với đồng VNĐ
+/-2%/năm.
Mặc khác, nhiều doanh nghiệp cũng chưa đủ kiến thức để dự báo được tỷ giá
sẽ biến động như thế nào trong tương lai tuy là có biết nó sẽ có ảnh hưởng ít nhiều
đến lĩnh vực mà doanh nghiệp đang hoạt động.
Một minh họa cho thị trường xuất khẩu thủy sản trong tháng 02/2014, giá trị
kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp sang thị trường châu Âu ước đạt 170
triệu USD. Trong khi đó, tại thời điểm này đồng USD đang mất giá so với đồng
EUR hơn 500 điểm. Vì đa số các doanh nghiệp ấn định ký kết hợp đồng thanh toán
bằng đồng USD, thay vì nếu ấn định thanh toán bằng đồng EUR thì có nghĩa là
doanh nghiệp có thể tăng lên khoản lợi nhuận tương đương 5,5 triệu USD, khoảng
hơn 4 triệu Euro.
Chỉ qua ví dụ ở trên thì chúng ta cũng thấy được sự ảnh hưởng mạnh mẽ của
biến động tỷ giá đối với doanh nghiệp chuyên thương mại kinh doanh xuất nhập
khẩu như thế nào. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải trang bị cho mình thêm nhiều

kiến thức về dự báo biến động tỷ giá hoặc có thể xây dựng cho doanh nghiệp mình
một phòng ban chuyên phân tích biến động giá thị trường tài chính để tăng lợi
nhuận và nâng tầm cạnh tranh hơn so với quốc tế.
4.2. Lựa chọn đồng tiền tính giá và đồng tiền thanh toán.
Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cần chú ý chọn những đồng
tiền có giá trị tương đối ổn định và có khả năng chuyển đổi để làm cơ sở thanh
toán. Mặc dù chính sách tỷ giá USD/VND tương đối ổn định, tuy nhiên tỷ giá giữa
đồng USD so với các đồng tiền các quốc gia có mức độ giao thương lớn như EUR,
GBP, JPY, AUD và CNY… do đó tùy vào thị trường xuất – nhập khẩu của từng
doanh nghiệp và theo từng thời điểm, mỗi doanh nghiệp nên cần có “cơ chế” điều
hành và quản trị biến động tỷ giá cho doanh nghiệp mình, nhằm tránh rủi ro, nâng
cao lợi thế cạnh tranh và tăng lợi nhuận.
Nhưng việc lựa chọn còn phải tùy vào tập quán thương mại quốc tế và khu
vực.
4.3. Chọn lựa hình thức chuyển tiền thanh toán
Cách thức chuyển tiền thường được quyết định thông qua sự thỏa thuận của
hai bên. Bên nhập khẩu thường muốn chuyển qua thư bởi tỷ giá thư hối thấp hơn tỷ
giá điện hối.Ngược lại, bên xuất khẩu lại muốn chuyển tiền qua điện vì tốc độ
nhanh hơn. Vì vậy, hai bên sẽ tìm giải pháp tốt nhất để phù hợp cho hai doanh
nghiệp, tránh được tỷ giá đến kinh doanh của mình.
4.4. Lập quỹ dự phòng để bù đắp rủi ro hối đoái
Với phương pháp này, doanh nghiệp không cần có chiến lược phòng chống
rủi ro hối đoái mà tiến hành lập quỹ dự phòng. Qũy này được lập nhờ lợi nhuận do
chênh lệch tỷ giá khi tỷ giá biến động thuận lợi cho doanh nghiệp và đẻ bù đắp lỗ
cho doanh nghiệp khi gặp bắt lợi.
Cách này đòi hỏi phải phải theo dõi về mặt kế toán và doanh nghiệp dễ lạm
dụng vào quỹ dự phòng.
4.5. Nhập khẩu nguyên liệu khi tỷ giá giảm
Đối với những nguyên liệu có thể lưu trữ lâu dài, doanh nghiệp cần tranh thủ
nhập khẩu nguyên liệu khi tỷ giá giảm. Tránh khi tỷ giá cao, nhập nguyên liệu sẽ

làm ảnh hưởng nhiều đến nguồn vốn của doanh nghiệp.
4.6. Lựa chọn danh mục đầu tư.
Đối với các doanh nghiệp đầu tư tài chính, cần lựa chọn chính xác d
anh mục đầu tư. Để tránh "nh trạng tỷ giá biến động quá cao làm cho doanh
nghiệp thua lỗ.
Ví dụ: khi tỷ suất lợi nhuận của đồng USD lớn hơn của đồng EUR thì doanh
nghiệp đó nên lựa chọn USD cho danh mục đầu tư của mình.
4.7. Giải pháp cho quá trình sản xuất và chuẩn bị nguồn hàng cho doanh
nghiệp xuất khẩu.
Tỷ giá xuất khẩu < Tỷ giá chính thức < Tỷ giá nhập khẩu
Chỉ khi đạt được mục tiêu trên thì doanh nghiệp mới có lãi. Tỷ giá chính
thức như là thước đo bình đẳng cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.
Vì vậy, các doanh nghiệp cố gắng hạ thấp tỷ giá xuất khẩu bằng cách tiết kiệm chi
phí, làm giảm giá thành sản xuất, đồng thời năng cao chất lượng sản phẩm đẻ có
thể năng giá bán gần với mức giá quốc tế mà vẫn mở rộng được thị trường.
LẠM PHÁT
1. TÌM HIỂU CHUNG VỀ LẠM PHÁT:
1.1. Khái niệm:
Lạm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng theo thời gian.
Khi nói mức giá chung tăng lên không có nghĩa là toàn bộ mặt hàng đều tăng mà
có mặt hàng tăng nhiều , tăng ít , không đổi hoặc giảm nhưng tổng hợp lại thì tăng
lên.
− Lạm phát là khi giá trị của hàng hoá và dịch vụ tăng lên và sự suy giảm sức mua
của đồng tiền.
− Trường hợp ngược lại của lạm phát là giảm phát, diễn ra khi mức giá chung liên
tục giảm. Khi đó, sức mua của đồng tiền liên tục tăng.
− Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một lượng
hàng lớn các hàng hoá và dịch vụ trong một nền kinh tế . Các giá cả của các loại
hàng hoá và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một chỉ số giá cả để đo mức
cả trung bình, là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Tỷ lạm phát là

tỷ lệ phẩn trăm của mức tăng của chỉ số này .
− Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất của chỉ số lạm phát, vì giá trị của
chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hoá
trong chỉ số cũng như sự phụ thuộc của nó vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó
được thực hiện. Các phép đo chỉ số lạm phát phổ biến là :
• Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) (là chỉ số đo lưởng thong dụng và cơ bản nhất ):
đo giá cả của sự lựa chọn hàng hoá hay được mua bở người tiêu dùng thông
thường. Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự thay đổi theo phần
trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát thong thường và được
nhắc tới.
• Chỉ số giá sinh hoạt (CLI) : là sự tăng lên trên lý thuyết theo giá cả sinh
hoạt một cá nhân, trong đó các chỉ số tiêu dùng (CPI) được giả định một
cách xấp sỉ CLI có thể được điểu chỉnh bởi sự ngang giá sức mua để phán
ánh những khác biệt trong giá cả đất đai hay hàng hoá khác trong khu vực.
• Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo lường sự thay đổi trung bình trong giá nhà sản
xuất trong nước nhận được cho đầu ra của họ. Điều này khác với chỉ số CPI
trong đó trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể làm cho số tiền nhận của nhà
sản xuất khác với những gì người tiêu dùng trả. Ngoài ra còn thường có một
sự chậm trễ giữa sự gia tăng chỉ số PPI và bất kỳ sự gia tăng cuối cùng nào
trong chỉ số CPI. Chỉ số giá sản xuất đo áp lực được đưa vào sản xuất do
chi phí nguyên liệu của họ. Điều này có thể được "truyền" cho người tiêu
dùng, hoặc nó có thể được hấp thụ bởi lợi nhuận, hoặc được bù đắp bởi
năng suất ngày càng tăng.
• Chỉ số giá hàng hóa: đo lường giá của một lựa chọn các mặt hàng. Hiện
nay chỉ số giá hàng hóa được gia quyển bằng tầm quan trọng tương đối của
các thành phần đối với chi phí "tất cả trong" một nhân công.
• Chỉ số giá cơ bản: vì giá thực phẩm và dầu có thể thay đổi nhanh chóng do
sự thay đổi trong điều kiện cung và cầu trong thị trường thực phẩm và dầu,
nó có thể khó phát hiện các xu hướng dài hạn trong mức giá khi những giá
này được bao gồm. Vì vậy hầu hết cơ quan thống kê cũng báo cáo một đo

lường 'lạm phát cơ bản', trong đó loại bỏ các thành phần dễ bay hơi nhất
(như thực phẩm và dầu) khỏi một chỉ số giá rộng như chỉ số CPI. Vì lạm
phát cơ bản là ít bị ảnh hưởng bởi nguồn cung ngắn hạn và điều kiện nhu
cầu tại các thị trường cụ thể, các ngân hàng trung ương dựa vào nó để đo
lường tốt hơn các tác động lạm phát của chính sách tiền tệ hiện tại.
Các đo lường lạm phát phổ biến khác là:
• Số giảm phát GDP là thước đo giá của tất cả các hàng hóa và dịch vụ bao
gồm trong Tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Bộ Thương mại Mỹ công bố
một loạt số giảm phát GDP của Mỹ, được định nghĩa là số đo GDP danh
nghĩa chia cho số đo GDP thực tế của nó.
1.2. Phân loại lạm phát:
Lạm phát thường được phân loại theo tính chất hoặc theo mức độ của tỷ lệ
lạm phát . Thường thì người ta sẽ phân loại lạm phát theo mức độ của tỷ lệ lạm
phát .
• Lạm phát vừa phải :hay còn gọi là lạm phát một số khi tỷ lệ lạm phát
dưới 10% của thời kì t . Ở các nưới phát triển lạm phát vừa phải dưới mức
2%.
• Lạm phát phi mã : hay còn gọi là lạm phát trong phạm vi hai hoặc ba con
số nghĩa là mức giá chung từ 10% đến 1000% trong thời kì t .
• Siêu lạm phát : là trường hợp lạm phát đặc biệt cao hay là lạm phát bốn
số trở lên lớn hơn 1000% trong thời kì t .
2. Tình hình lạm phát ở Việt Nam.
Năm 2008 là năm có chỉ tiêu lạm phát cao. Gía tiêu dùng năm 2008 nhìn
chung tăng khá cao và có diễn biến phức tạp, khác thường với xu hướng giá tiêu
dùng năm trước. Gía tăng cao ngay từ quý I và lien tục tăng lên trong quý II, quý
III nhưng các tháng quý IV lien tục giảm (so với tháng trước, tháng 10 giảm
0.19%, tháng 11 giảm 0.76%, tháng 12 giảm 0.68%) nên giá tiêu dùng tháng 12
năm 2008 so với giá tiêu dùng tháng 12 năm 2008 tăng 19,89% và chỉ sô giá tiêu
dùng bình quân năm tăng 22,97%
Năm 2008 là năm chứng kiến tốc độ lạm phát cao kỷ lục trong một thập kỷ

qua thì năm 2009 lại chứng kiến mức độ lạm phát ở dưới mức hai con số. Chỉ số
giá tiêu dùng (CPI) cả nước qua 10 tháng đầu năm chỉ tăng 4,49% so với tháng
12/2008. Đây là mức tăng chỉ giá tiêu dùng khá thấp so với những năm gần đây và
là mức tăng hợp lý.
Duy trì tốc độ tăng lạm phát và giá cả năm 2009 ở một con số là một điểm
sáng của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh thế giới chưa thoát khỏi suy thoái
kinh tế.
Năm 2010 lạm phát cả nước ở mức 11,75%: Chỉ số tiêu dùng (CPI) tháng
12/2010 của cả nước tăng 1,98% qua đó đẩy mức lạm phát năm 2010 của cả nước
lên 11,75% so với năm 2009. Trong khi đó, nếu tính bình quân theo từng tháng thì
lạm phát năm 2010 tăng 9,19% so với năm 2009.
Bước sang năm 2011, Chỉ số giá tiêu dùng tuy vẫn ở mức cao nhưng đã có
xu hướng giảm. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2011 tăng 0,53% so với tháng trước,
thấp hơn nhiều so với mức tăng 1,38% và 1,98% của cùng kỳ năm 2009 và 2010.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2011 so với tháng 12/2010 tăng 18,13%. Chỉ số giá
tiêu dùng bình quân năm 2011 tăng 18,58% so với bình quân năm 2010.
Năm 2012 chỉ số giá tiêu dùng tháng 12( tăng 6,81% so vời cùng kỳ năm
2011) xấp xỉ mức tăng 6,52% của 2009, thấp hơn nhiều so với mức tăng 11,75%
năm 2010 à mức tăng 18,13% năm 2011, nhưng lại là năm có nhiều biến động thất
thường.
Với mức tăng chỉ số tiêu dùng 6,04% so với cuối năm 2012, lạm phát trong
năm 2013 được ghi nhận là mức tăng thấp nhất trong suốt 10 năm qua.
3. ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG DOANH NGHIỆP
Ngoài trường hợp lạm phát nhỏ, lạm phát vừa phải (lạm phát một con
số) có tác động tích cực tới sự phát triển của nền kinh tế, xã hội, còn lại nói
chung lạm phát đều gây ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển đi lên của
nền kinh tế xã hội:
• Làm cho tiền tệ không còn giữ được chức năng thước đo giá trị hay nói
đúng hơn là thước đo này co dãn thất thường, do đó không thể tính toán
hiệu quả, điều chỉnh các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

• Phân phối lại thu nhập, làm cho một số doanh nghiệp nắm giữ các hàng
hóa có giá trị tăng đột biến giàu lên nhanh chóng và những doanh nghiệp có
các hàng hóa mà giá cả của chúng không tăng hoặc tăng chậm và người giữ
tiền bị nghèo đi.
• Kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hóa, bất động sản, vàng
bạc gây ra tình trạng khan hiếm hàng hóa không bình thường và lãng
phí.
• Xuyên tạc bóp méo các yếu tố của thị trường làm cho các điều kiện của
thị trường bị biến dạng. Hầu hết các thông tin kinh tế đều thể hiện trên giá
cả hàng hóa, giá cả tiền tệ, giá cả lao động Một khi những giá cả này tăng
hay giảm đột biến và liên tục thì các yếu tố của thị trường không thể tránh
khỏi bị thổi phồng hoặc bóp méo, gây trở ngại cho các doanh nghiệp
trong việc tìm hiểu thông tin cho kế hoạch sản xuất và bán hàng. -Các
doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam đang phải vật lộn với tình trạng leo thang của
giá nhiên liệu, chi phí sản xuất hàng hoá, giá hàng hóa, dịch vụ, giá cước vận
chuyển hàng hoá từ trung tâm phân phối đến cửa hàng. Bên cạnh đó, doanh
nghiệp bán lẻ chủ yếu là doanh nghiệp vừa, nhỏ và rất nhỏ nên gặp nhiều
khó khăn trong tiếp cận vốn, nhất là khi Chính phủ chủ trương thắt chặt tiền
tệ.
• Sản xuất phát triển không đều, vốn chạy vào những ngành nào có lợi
nhuận cao. Do đó diễn ra tình trạng thiếu vốn cho các doanh nghiệp,
doanh nghiệp dễ bị phá sản, ngừng sản xuất.
• Đối với ngân hàng, lạm phát làm cho hoạt động bình thường của ngân
hàng bị phá vỡ, ngân hàng không thu hút được các khoản tiền nhàn rỗi
trong xã hội.
• Đối với tiêu dùng: làm giảm sức mua thực tế của nhân dân về hàng tiêu
dùng và buộc nhân dân phải giảm khối lượng hàng tiêu dùng, đặc biệt là
đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng khó khăn. Mặt khác lạm phát
cũng làm thay đổi nhu cầu tiêu dùng, khi lạm phát gay gắt sẽ gây nên hiện
tượng là tìm cách tháo chạy ra khỏi đồng tiền và tìm mua bất cứ hàng hóa dù

không có nhu cầu. Do đó doanh thu giảm, hàng tồn kho nhiều,dẫn tới
thua lỗ.
Tóm lại, hậu quả của lạm phát rất nặng nề và nghiêm trọng. Lạm phát gây ra
hậu quả đến toàn bộ đời sống kinh tế xã hội, hoạt động của doanh nghiệp. Lạm
phát làm cho việc phân phối lại sản phẩm xã hội và thu nhập trong nền kinh
tế qua giá cả đều khiến quá trình phân hóa giàu nghèo nghiêm trọng hơn.
Lạm phát làm cho một nhóm này nhiều lợi nhuận trong khi các nhóm khác bị
thiệt hại nặng nề. Các doanh nghiệp không kịp thời có biện pháp điều chỉnh
dễ đối mặt với “đóng cửa”.
Ảnh hưởng của lạm phát đến hoạt động của các doanh nghiệp ngân hàng :
Đối với hoạt động huy động vốn: do lạm phát tăng cao, việc huy động
vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc
không muốn vốn từ ngân hàng chạy sang ngân hàng khác,thì phải nâng lãi
suất huy động sát với diễn biến thị trường vốn. Nhưng nâng lên bao nhiêu là
hợp lý luôn là bài toán khó đối với mỗi ngân hàng. Một cuộc chạy đua lãi suất huy
động ngoài mong đợi tại hầu hết các ngân hàng (17%-18%/năm cho kỳ hạng tuần
hoặc tháng), luôn tạo ra mặt bằng lãi suất mới, rồi lại tiếp tục cạnh tranh đẩy lãi
suất huy động lên cao, có ngân hàng đưa lãi suất huy động gần sát lãi suất tin dụng,
kinh doanh ngân hàng lỗ lớn nhưng vẫn thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ
thống Ngân hàng Thương mại(NHTM).
Lạm phát tăng cao, Ngân hàng Nhà nước(NHNN) phải thực hiện thắt
chặt tiền tệ để giảm khối lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn
của các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ
có thể đáp ứng cho một số ít khách hàng với những hợp đồng đã ký hoặc
những dự án thực sự có hiệu quả, với mức độ rủi ro cho phép. Mặt khác,do lãi
suất huy động tăng cao, thì lãi suất cho vai cũng cao, điều này đã làm xấu đi về
môi trường đầu tư của ngân hàng, rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện. Do sức mua của
đồng Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc huy động vốn có kỳ hạng
từ 6 tháng trở lên thật sự khó khăn đối với mỗi ngân hàng, trong khi nhu cầu vai
vốn trung và dài hạn đối với các khách hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn

để cho vay trung và dài hạn trong thời gian qua tại mỗi ngân hàng là không nhỏ.
Điều này ảnh hưởng lớn đến tính thanh khoản của các ngân hàng, nên rủi ro
kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xảy ra là điều khó tránh khỏi.
Lạm phát cao, không ít doanh nghiệp cũng như người dân giao dịch hàng
hóa, thanh toán trực tiếp cho nhau bằng tiền mặt, đặc biệt trong điều kiện lạm phát,
nhưng lại khan hiếm tiền mặt. Khối lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng lớn,
NHNN thực sự khó khăn trong việc kiểm soát chu chuyển của luồng tiền này, các
NHTM cũng khó khăn trong việc phát triển các dịch vụ phi tính dụng, đặc biệt là
dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Vốn tiền thiếu, nhiều doanh nghiệp thực hiện
mua chịu, bán chịu, công nợ thanh toán tăng, thoát ly ngoài hoạt động.
Trong điều kiện lãi suất vay cao, chắc chắn các doanh nghiệp - đặc biệt là
doanh nghiệp nhỏ và vừa - sẽ phải đối mặt với áp lực ngày càng căng thẳng về trả
lãi, cũng như thanh toán các khoản nợ đến hạn, duy trì hoạt động, lợi nhuận và cả
bộ máy sản xuất. Nguy cơ thu hẹp quy mô hoạt động và giãn nợ có thể đậm
hơn, nếu sự căng thẳng và lãi suất cao kéo dài quá lâu, quá sức chịu đựng của
doanh nghiệp.
Như vậy lạm phát tăng cao đã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường
vốn, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các NHTM. Sự không ổn định của giá
cả, bao gồm giá vốn, đã làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư và dân
chúng, gây khó khăn cho sự lựa chọn các quyết định của các khách hàng cũng
như các thể chế tài chính- tín dụng. Vì vậy xét ở góc độ các NHTM cần có
những biện pháp kiềm chế lạm phát.
4. GIẢI PHÁP CỦA DOANH NGHIỆP.
Trước khi “kêu” nhà nước, các doanh nghiệp cần phải tìm cách để cứu
mình thoát khỏi khó khăn vì lạm phát như tiết kiệm, linh hoạt, thay đổi
phương thức kinh doanh….
4.1. Doanh nghiệp bán lẻ tìm cách giữ sức mua
Lạm phát chính là “lửa thử vàng” cho nên, việc đầu tiên, doanh nghiệp cần
xác định, đánh giá các tác động của lạm phát đến doanh nghiệp và ngành
công nghiệp bán lẻ từ nhiều góc độ. Trên cơ sở đó, xây dựng kế hoạch ứng

phó và hành động, thiết lập một đội ngũ bán hàng chuyên nghiệp.
Một số biện pháp đang được các doanh nghiệp bán lẻ thực hiện để ứng phó
với lạm phát là thu hẹp hoạt động, thận trọng trong đầu tư mới, tiết kiệm năng
lượng, tiết kiệm tối đa chi phí, có kế hoạch thu mua và lưu kho hàng hoá linh
hoạt, đồng thời đưa ra nhiều ưu đãi, chương trình khuyến mãi thu hút khách
hàng. Bởi mục tiêu lớn nhất của các nhà bán lẻ là giữ sức mua bình ổn.
Cho nên, cần phải có sự phối hợp giữa các nhà phân phối-bán lẻ và sản xuất trong
các chương trình hợp tác khuyến mãi, cũng như cần có sự chia sẻ khó khăn giữa
người sản xuất-nhà bán lẻ-người tiêu dùng.
Với người tiêu dùng, doanh nghiệp cần phải giải thích bằng cách nào
mà nhà bán lẻ đang cố gắng giữ cho giá cả xuống thấp (ví dụ về đàm phán với
nhà cung cấp ) và tại sao giá cả lại chưa thể kiểm soát được".
4.2. Nên bán hàng theo phương thức chủ động
Gần đây, một số doanh nghiệp nhỏ và vừa đã mạnh dạn chuyển sang phương
thức bán hàng chủ động - bán hàng qua hệ thống nhà phân phối. Đây là một
phương thức bán hàng hiện đại với tâm điểm là ở mỗi vùng (thường là mỗi tỉnh) có
một (hoặc 2-3) nhà phân phối là đối tác bình đẳng của nhà sản xuất, cùng bỏ tiền ra
đầu tư để chia sẻ lợi nhuận với nhà sản xuất.
Tất nhiên, để phương thức này mang lại thành công, nhà phân phối phải
kiên quyết đoạn tuyệt với phương thức bán hàng thụ động, tương đối có tiềm
lực tài chính để thanh toán trước mỗi khi lấy hàng của nhà sản xuất, có kho để
chứa hàng cho một chu kỳ lấy hàng, có phương tiện thích hợp để vận chuyển hàng
tới các nhà bán lẻ, có sổ sách và máy tính để hàng ngày cập nhật tình hình bán
hàng và hàng tháng kiểm kê hàng hoá tồn kho
Với phương thức bán hàng chủ động, từ nhà phân phối đến các nhà bán
lẻ đều không được tự ý định đoạt giá bán. Giá bán là do nhà sản xuất đưa ra.
Nhà phân phối và các đại lý chỉ hưởng một tỷ lệ % nhất định cho mỗi khâu và cũng
có một tỷ lệ % nhất định cho những phần công việc cần khuyến khích tuỳ theo
tương quan cung cầu và cạnh tranh ở từng thời kỳ.
Vì nhà phân phối và các nhà bán lẻ đều đã trả tiền trước nên không có

chuyện bán cầm chừng, được sao hay vậy, càng không có chuyện họ găm hàng của
nhà sản xuất lại để bán hàng của đối thủ cạnh tranh. Đây là phương thức đã được
các hãng Coca-Cola, Pepsi-Cola, Orion, Vinamilk áp dụng từ lâu.
Trong cơn lạm phát phi mã hiện nay, các doanh nghiệp nhỏ và vừa càng nên
tranh thủ áp dụng phương thức bán hàng chủ động với tư cách là một phương
thức cơ cấu lại doanh nghiệp, để góp phần hạn chế ảnh hưởng của tình trạng
thiếu vốn.
4.3. Nên tái cấu trúc để nâng hiệu quả
Ông Nguyễn Thanh Hoàn, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Xây dựng công
trình ngầm (Vinavico:"Lạm phát cao dẫn đến những triệu chứng bên ngoài của
doanh nghiệp là doanh thu giảm sút, lúng túng mỗi khi có sự thay đổi, chất lượng
sản phẩm dịch vụ không ổn định, khách hàng phàn nàn
Còn triệu chứng bên trong liên quan đến quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp như hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả (tồn kho cao,
tồn nhiều công nợ ), chi phí sản xuất kinh doanh cao, nhiều điểm chốt trong
quá trình sản xuất kinh doanh, mất kiểm soát, sự phối hợp giữa các bộ phận
trong chuỗi sản xuất yếu kém, lệch lạc.
Kèm theo đó là các triệu chứng liên quan đến con người và các mối quan
hệ, chẳng hạn như cán bộ công nhân viên làm việc thụ động, chậm đổi mới và
kém sáng tạo, không có mục tiêu rõ ràng, thiếu chia sẻ thông tin và các nguồn
tài nguyên, làm việc không kế hoạch, thiếu đồng bộ, chặt chẽ trong công việc,
luôn sa vào giải quyết sự vụ, các cá nhân tụ tập thành nhóm có những mục
tiêu và lợi ích riêng, tỷ lệ nhân sự ra vào tăng.
Do đó, cần đánh giá tổng thể và phát hiện ra những yếu kém hoặc rủi ro
trong quản lý và điều hành doanh nghiệp. Đó là những hoạt động cần thiết cho
mỗi doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay.
Từ đó, doanh nghiệp đưa ra một chương trình tái cấu trúc toàn diện bao
trùm các lĩnh vực cơ cấu tổ chức, nguồn nhân lực, cơ chế quản lý, điều hành;
các hoạt động và các quá trình các nguồn lực khác của doanh nghiệp nhằm
đạt mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động của các bộ phận.

Nội dung việc tái cấu trúc bao gồm: thay đổi tư duy lãnh đạo và quản lý;
xây dựng một hệ thống xuyên suốt từ tầm nhìn - sứ mệnh - chiến lược - mục
tiêu dài hạn, ngắn hạn; kế hoạch thực hiện và đánh giá việc thực hiện mục
tiêu đã định.
Đồng thời, tái cấu trúc lại toàn bộ quá trình kinh doanh nhằm hợp lý hóa các
công việc, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả làm việc của từng bộ phận phù hợp
với định hướng kinh doanh của doanh nghiệp.
Song song với đó là xây dựng hệ thống các chỉ số đánh giá các hoạt động
của doanh nghiệp, nhằm kịp thời theo dõi tình trạng "sức khỏe", phát hiện những
nút thắt để giải quyết kịp thời; xây dựng hệ thống quản lý nhân sự, xác định rõ
trách nhiệm, quyền hạn, yêu cầu, năng lực vị trí, định kỳ đánh giá trên cơ sở
mục tiêu được giao, qua đó xây dựng các chương trình đào tạo nâng cao năng
lực cho mỗi vị trí này.
Một công việc cần thiết nữa là xây dựng hệ thống thông tin quản lý giúp
lãnh đạo luôn có đầy đủ thông tin về tính hiệu lực cũng như hiệu quả của các
hoạt động trong doanh nghiệp nhằm đưa ra những quyết định kịp thời chính
xác.
Trên thực tế, giải pháp này cũng được rất nhiều tập đoàn đa quốc gia lớn
như Sony, Microsoft, Apple, Huyndai áp dụng trong từng giai đoạn để đổi mới,
phục hồi hay phát triển. Các doanh nghiệp Việt Nam không phải là một ngoại lệ,
nên việc học hỏi kinh nghiệm của các tập đoàn lớn đi trước là một cách rút ngắn
con đường dẫn đến thành công".
4.4. Doanh nghiệp phải làm gì để giải bài toán về vốn?
Việc tạo vốn cho sản xuất, kinh doanh không nhất thiết chỉ nhìn duy
nhất vào các Ngân hàng thương mại (NHTM).
Vốn còn được hình thành từ nhiều kênh khác nhau. Lợi dụng sự lệch pha
vốn và chống lại sự lãng phí các nguồn vốn thừa, thiếu cục bộ của chính các DN
cũng như hữu dụng hoá các nguồn vốn tiềm tàng đang hiện hữu trong nền kinh tế
ngoài kênh NHTM cũng khá đa dạng và rất cần được thể chế hoá, nhận diện để tư
vấn cho DN về các kênh tạo vốn phi truyền thống hoặc không phổ biến ở nước ta.

Các DN có quan hệ đầu vào, đầu ra ổn định và/hoặc có chung Hiệp hội
hay Hội nghề nghiệp có đủ tín nhiệm với nhau, cần liên kết cam kết tiến hành
các nghiệp vụ mua bán chịu bằng cách phát hành cho nhau các giấy nhận nợ
hoặc quyền đòi nợ trong phạm vi thời hạn thoả thuận để hữu dụng hoá nguồn
vốn “gối đầu” tạm thời nhàn rỗi của từng bên để duy trì sản xuất và tiêu thụ.
4.5. Về các giải pháp trong quan hệ tín dụng giữa DN và ngân hàng:
Ngoài các nỗ lực giảm lãi suất của NHTM khi điều kiện khách quan cho
phép, các NHTM rất nên tạo dựng uy tín chia sẻ khó khăn với các DN bằng các
cách sau đây:
Một là: Ngân hàng có thể tư vấn cho DN miễn phí về các lĩnh vực đầu tư
sản xuất có hiệu quả, đồng thời liên doanh với DN để tham gia tài trợ, đồng
tài trợ cho DN thực hiện các dự án sản xuất, dịch vụ khả thi.
Hai là: Các NHTM nên có chính sách ưu đãi lãi suất với các khách hàng
thường xuyên có tiền gửi thanh toán và tiền gửi có kỳ hạn với số lượng tương đối
lớn tại ngân hàng của mình, theo hướng tổng chênh lệch lãi suất ròng của NHTM
với khách hàng đích danh đó không lớn hơn một tỷ lệ % nào đó so với tổng tiền
gửi bình quân của doanh nghiệp đó tại ngân hàng. Giải pháp này vừa cứu được
doanh nghiệp, vừa hút được khách hàng đối với NHTM
4.6. Tăng lương giữ người trong bối cảnh lạm phát
Một số doanh nghiệp tại Việt Nam đã tăng lương và tăng thêm phụ cấp cho
nhân viên nhằm đối phó với tình hình giá cả tăng cao và xem đây là một giải pháp
đối với công tác nhân sự trong bối cảnh khó khăn do lạm phát
Lý do là các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc phải đối mặt với lạm
phát, và họ chọn tăng lương cho nhân viên để giúp nhân viên phần nào cân
bằng được cuộc sống. Ngoài tăng lương bổ sung, có gần một phần ba số doanh
nghiệp chọn cung cấp thêm phụ cấp.
Các công ty trong lĩnh vực sản xuất, do có số lượng nhân viên đông nên
chọn giải pháp tăng lương cho các công nhân trực tiếp sản xuất, một phần do lương
họ thấp và là những người chịu ảnh hưởng mạnh nhất từ lạm phát. Tuy nhiên, tỷ lệ
các công ty chấp nhận tăng lương bổ sung cho các công nhân trực tiếp là rất thấp.

Vì bản thân các doanh nghiệp là người chịu ảnh hưởng nhiều nhất và trực tiếp do
lạm phát tăng, chi phí hoạt động tăng cao làm giảm lợi nhuận. Tuy nhiên, bản thân
các doanh nghiệp cũng hiểu rõ nhân viên của họ cũng bị ảnh hưởng, do vậy các
doanh nghiệp đã suy nghĩ đến việc giúp đỡ phần nào cho cuộc sống của họ. Mặc
dù lợi nhuận của họ có thể bị giảm nhưng các doanh nghiệp cho biết quan
trọng nhất đối với họ chính là việc giữ người. Do vậy, nhiều doanh nghiệp đã
chấp nhận tăng lương bổ sung và thêm phụ cấp.
4.7. Điều quan trọng nhất để ứng phó với tình hình là phải phân tích, dự báo,
nhận dạng đúng và đưa ra các giải pháp linh hoạt.
Thành lập một hội đồng “phản ứng nhanh”, gồm các cán bộ quản lý được
trang bị kiến thức và kỹ năng quản trị rủi ro để ứng phó linh hoạt với những
biến động của thị trường.
Doanh nghiệp phải xây dựng hệ thống quản lý rủi ro để có thể chủ động ứng
phó với các nguy cơ tiềm ẩn do lạm phát cao mang lại trong thời gian tới, kiểm
soát chặt chẽ chi phí và phát động phong trào tiết kiệm tại doanh nghiệp; thực hiện
nghiêm ngặt chính sách quản lý các khoản nợ phải thu và chủ động tìm kiếm
các nguồn cung ứng nguyên vật liệu hàng hoá dự phòng

×