Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

bai van so 6 lop 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.95 KB, 17 trang )

NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH
ĐỖ KIM HỒI
Đã có một lần nào, tôi thử điểm lại trong trí nhớ của mình tên những
tác phẩm chính của Nguyễn Thi: Người mẹ cầm súng, Mẹ vắng nhà,
Những đứa con trong gia đình, Những sự tích ở đất thép, Ước mơ của
đất, Chuyện xóm tôi, Ở xã Trung Nghĩa… Để rồi sực nghĩ ra rằng: hình
như làm nên một Nguyễn Thi trong nền văn học của chúng ta không
phải là cảm hứng về những gì lạ lẫm, xa vời, bay bổng, mà là Mẹ, là
Đất, là Quê hương, làng xóm, những cái gắn bó ruột rà, thân thiết với
đời sống thuần hậu và còn rất nhiều cực khổ của con người. Đọc
Nguyễn Thi, thấy tác phẩm của ông nồng nàn hơi thở thô phác, ấm áp
và mạnh mẽ của đất đai, những nhân vật của ông cắm chắc vào đời
sống, luôn luôn lăn lộn trong gian nguy vất vả, da dẻ cứ đỏ au lên vì
nắng gió, khẩu súng lúc nào cũng ấm tay người và áo quần dường như
vẫn đẫm chất mồ hôi mặn mòi, khét cháy.
Có thể bởi vậy mà khi nghĩ đến Nguyễn Thi, trong óc tôi thường cứ hay
hiện về một ý thơ của Nadim Hikmet:
Làm đám mây rất thích
Làm con chim lại càng thích hơn.
Nhưng tôi vui sướng được làm con người,
Và cái yêu thích nhất của tôi là đất,
… Hễ cứ rời xa mặt đất là một nỗi buồn xâm chiếm lấy tôi …
Nguyễn Thi hay viết về người anh hùng. Phẩm chất anh hùng, có thể
nói, luôn có mặt ở các mức độ khác nhau trong hầu như tất cả các
nhân vật chính diện trong tác phẩm của ông. Nhưng đó là kiểu người
anh hùng – con đẻ của đất cày và sông nước; ở đó, cái anh hùng hòa
lẫn với cái bình dị, sự cao cả hiện ra dưới vẻ thân thuộc, gần gũi, chất
phác tự nhiên, và rất lắm khi chất anh hùng lại bộc lộ ra qua những
biểu hiện đến là thơ ngây, ngộ nghĩnh.
Có cảm giác như, khi tìm cách lí giải, cắt nghĩa phẩm chất anh hùng
của con người, Nguyễn Thi đã rất tâm đắc với ý tưởng nghệ thuật này:


người anh hùng đó là sản phẩm sinh ra từ thời đại. Nhưng người anh
hùng lại không chỉ là sản phẩm của thời đại mà thôi. Đọc Nguyễn
Thi, ta thấy rõ: phẩm chất anh hùng của họ còn phải
được hiểu như sự tiếp nối một nguồn cội, một nếp
nhà, còn phải được xem như là truyền thống, là di
sản, một di sản thiêng liêng mà các thế hệ cha anh
đã truyền lại, đã bàn giao lại cho lớp cháu con. Tôi thấy
Nguyễn Thi hình như không muốn chia sẻ với loại cảm hứng thiên về
khai thác những xung đột lí tưởng giữa những con người trong một gia
đình hay dòng họ. Hứng thú nghệ thuật của ông dồn cả cho kiểu gia
đình như gia đình chị Út trong Người mẹ cầm súng và nhất là trong Mẹ
vắng nhà, ở đó, người mẹ đã đem lại cho đứa con không chỉ một hình
hài mà còn là một tấm gương về cách sống.
Nhưng ở vị trí trung tâm của Mẹ vắng nhà đang là những đứa trẻ còn
rất nhỏ và còn chưa rời khởi mái nhà của cha mẹ. Vấn đề sẽ có ý nghĩa
nhiều hơn trong một truyện ngắn khác, cái truyện ngắn mà giờ đây ta
bàn tới, truyện Những đứa con của gia đình.
Nhân vật chính trong thiên truyện là những thanh niên đã bước sang
lứa tuổi mười tám đôi mươi, đã trở thành những chiến sĩ xông pha trận
mạc, và đã lập chiến công. Hai chị em Chiến, Việt – tên những thanh
niên ấy – đã từng bắn giặc trên sông Định Thủy. Riêng Việt, cậu em
trai, còn “diệt được một xe đầy Mĩ với sáu thằng Mĩ lẻ” trong một trận
đọ lê đẫm máu. Vậy mà trong tác phẩm, Nguyễn Thi vẫn thể hiện họ
trong tư cách những đứa con. Họ quả có được miêu tả trong quan hệ
với anh em đồng đội: anh Tánh, anh Công… Thế nhưng họ vẫn được
miêu tả nhiều hơn trong quan hệ với gia đình.
Còn một điểm khác nữa giữa truyện ngắn này với truyện Mẹ vắng nhà
mà ta vừa nhắc đến: ở đây, được nói tới như những đứa
con trong gia đình lại là Chiến, Việt, những người mà
gia đình thực đã không còn nữa: cha mẹ đều đã hi

sinh, ngôi nhà cũ đã nhường để làm trường học, bàn
thờ má phải gửi sang nhà khác, và bản thân thì đang
chiến đấu ở nơi xa… Nhưng ngay cả với những người
như thế, hình ảnh của gia đình, những kí ức về gia
đình, những tình cảm với gia đình và những truyền
thống mà họ là lớp người kế tục… tất cả vẫn sống
như là một thực thể, một nguồn sinh lực nuôi dưỡng
tinh thần, một nguồn sáng soi đường cho con người
cảm xúc, nghĩ suy, hành động.
*
* *
Những đứa con trong gia đình có một lối tự sự mang khá nhiều nét
riêng. Câu chuyện được thuật lại không hoàn toàn theo trật tự thời
gian mà chủ yếu là nhịp theo dòng hồi tưởng miên man đứt nối của
Việt, vào lúc người chiến sĩ trẻ ấy bị thương sau cuộc đọ lê, cứ liên tục
ngất đi rồi tỉnh lại trong hoàn cảnh chỉ có mình với mình giữa một
chiến trường mênh mông đầy bóng tối – bóng tối của màn đêm và
bóng tối do mắt Việt bị thương nên không thể nhìn thấy gì ở bên
ngoài.
Khi chọn kiểu kể chuyện này không rõ tác giả có nghĩ đến và có chịu
ảnh hưởng gì của lối viết theo “dòng ý thức” của tác giả bộ Đi tìm thời
gian đã mất hay không. Nhưng lối thuật chuyện mà Nguyễn Thi đã
chọn quả có giúp tác giả dễ dàng cất bỏ những tấm vách ngăn giữa
quá khứ và hiện tại, giữa cái đang ở trước mặt và cái đã thành kỉ niệm
xa xưa, giữa những chi tiết thoáng đến thoáng đi, tưởng chứng như
bâng quơ, như ngẫu nhiên, với những tư tưởng tình cảm lớn lao, trọng
đại.
Hãy dõi theo một đoạn văn nào đó, chẳng hạn như cái đoạn bắt đầu từ
câu: “Việt tỉnh dậy lần thứ hai lúc trời lất phất mưa”. Tiếng máy bay,
tiếng động duy nhất mà Việt nghe thấy trên một bãi chiến trường đã

trở nên vắng lặng từ lần tỉnh đầu tiên, bây giờ đã tắt hẳn rồi. Chỉ còn
tiếng “ếch nhái kêu dậy lên”. Âm thanh ấy dẫn Việt trở lại những ngày
còn chưa đi bộ đội, những đêm trời vừa dứt mưa, hai chị em lóp ngóp
ra đồng soi đèn bắt ếch. “Cười từ lúc đi cho đến lúc về”. Mạch liên
tưởng miên man tràn đến chú Năm, vì “khi để ếch vào thùng, chú Năm
thế nào cũng sang”. Rồi ý nghĩ lại đi từ “Việt thương chú Năm…” lần
lần chuyển qua cuốn sổ gia đình mà chú vẫn ghi đều đặn, và những gì
cuốn sổ ấy gợi lên. Đến đây, dòng ý nghĩ chợt đứt, vì Việt lại ngất đi.
Đoạn văn tiếp liền sau cũng thế. Nó mở đầu đột ngột với câu: “Việt
choàng dậy”. Ta sẽ không còn gặp ở đây tiếng ếch kêu đêm. Chỉ có,
trong buổi ban ngày, tiếng chim cu rừng gù gù đâu đó. Tiếng chim gợi
nhớ chiếc ná thun. Và chiếc ná thun, đến lượt nó, thật không ngờ mà
cũng thật tất nhiên, đưa Việt về với những kỉ niệm về người mẹ, thoạt
đầu là khi mẹ mất, rồi mới ngược dần về những ngày mẹ còn sống với
đàn con, về đôi mắt mẹ “sắc ánh lên nhìn bọn lính, đôi mắt của người
đã từng vượt sông, vượt biển”. Đến đúng khúc thiêng liêng ấy, mạch
văn đột nhiên bị ngắt giữa chừng, vì Việt lại bị ngất đi lần nữa.
Cứ thế, dòng tâm tư trong truyện chảy trôi, khi đến gần bờ hiện tại,
khi lại lượn xa tắp về quá vãng, nhịp trôi khi chậm khi nhanh, khi liền
khi đứt. Tâm trạng con người hiện lên chân thật, tự nhiên, bởi nó vốn
dĩ vẫn như thế trong đời sống. Nhưng chính nhờ qua cái tổ chức lại, cải
tạo lại, những khoảng thời gian rất xa nhau bây giờ đồng hiện bên
nhau, những khối không gian rất cách biệt nhau bây giờ tồn tại cạnh
nhau; đời sống như được soi chiếu dưới một thứ ánh sáng khác, nó
hiện lên trong nhiều màu vẻ phong phú, bất ngờ.
Nhưng ưu điểm của lối thuật chuyện theo dòng kí ức vừa liên tục vừa
gián đoạn như đã nói ở trên không chỉ thể hiện ở chỗ nó làm cho kết
cấu của truyện ngắn thêm linh hoạt, thêm sống động, thêm những ngã
rẽ, những khúc quanh người đọc không dễ dự kiến ra. Không chỉ có
thế. Bởi không nên quên rằng nhà văn đã để cho nhân vật Việt của

mình hồi tưởng trong hoàn cảnh hoàn toàn đơn độc giữa một trận địa
vắng lặng đến ghê sợ, và giữa sự rình rập của hiểm nguy và của cái
chết có thể ập đến bất cứ lúc nào. Hãy đọc lại truyện để xem Nguyễn
Thi đã viết hay đến thế nào về “cái cảm giác một mình bật lên” thật rõ
ràng, giữa một cái mênh mông đầy đe dọa trong một chàng tân binh
trơ trọi, hai mắt không còn nhìn thấy gì, tay đau không thể quẹo ra
sau mà lấy bình nước trong khi người đã khô khốc đi vì đói khát, mười
ngón tay không còn ngón nào kéo nổi cơ bẩm súng, lết người đi được
một đoạn cũng là cả một kì công. Và nếu cái “bóng đêm vắng lặng và
lạnh lẽo bao tròn lấy Việt” trong cánh rừng cao su vừa trải qua trận đọ
lê dữ dội kia thỉnh thoảng có bị phá vỡ thì cái phá vỡ nó lại là “tiếng
trực thăng phàng phạch bay từng bầy trên đầu”, tiếng “pháo bầy nổ
càng gần hơn”, “tiếng xe bọc thép ào ào chạy qua hướng trước mặt”.
Vào một lúc như thế, người ta có thể nghĩ gì? Chắc
chắn người ta sẽ nhớ lại, và cũng sẽ chỉ nhớ lại
những gì gắn bó thân thiết nhất, những gì đã thực sự
làm nên đời sống của bản thân mình. Vì thế, với việc
để nhân vật Việt trong thế đối mặt với cái chết và đối
diện với bản thân, chỉ nghĩ nhiều nhất, lâu nhất đến
những người trong gia đình (chị Chiến, má, chú
Năm…), tác giả đã tìm được một cách thức nghệ
thuật hữu hiệu để chứng tỏ rằng: gia đình, đó là
phần nguồn cội thấm sâu nhất của con người ấy, và
truyền thống gia đình là thực sự thiêng liêng vì nó đã
hiện lên trong một thời khắc thiêng liêng.
Như thế, kiểu kết cấu theo dòng chảy của một quá trình hồi tưởng là
một công phu sáng tạo về hình thức. Nhưng ý nghĩa nghệ thuật của sự
sáng tạo hình thức ấy lại ở chỗ nó góp phần đắc lực nhất trong việc
biểu hiện những khám phá về mặt nội dung.
*

* *
Nếu phải chọn trong truyện ngắn này của Nguyễn
Thi một câu văn nào cô đúc được tư tưởng cơ bản
của toàn thiên truyện thì tôi sẽ xin được dẫn ra câu
nói của chú Năm: “… Chuyện gia đình ta nó cũng dài
như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc
mà ghi vào đó”. Tôi muốn hiểu câu nói này trên hai ý
nghĩa. Thứ nhất, chỉ được coi là con của gia đình
những ai đã ghi vào được, ai đã làm nên được khúc
của mình trong dòng sông truyền thống. Con, đó là
sự tiếp nối, nhưng không chỉ là sự tiếp nối một huyết
thống, mà còn là sự tiếp nối một truyền thống.
Nhưng còn một ý nghĩa thứ hai: không thể hiểu khúc
sau của một dòng sông, nếu không hiểu ngọn nguồn
đã sinh ra nó. Cũng tương tự vậy, ta chỉ có thể hiểu
về những đứa con của một truyền thống gia đình khi,
và chỉ khi ta hiểu ít nhiều về chính cái truyền thống
gia đình đã sinh thành ra những đứa con.
Trong truyện, cái truyền thống ấy không kết tinh ở
nơi đâu đấy đủ hơn là trong hình tượng Chú Năm.
Đọc truyện, tôi thấy thích ông già này trước hết vì
thứ ngôn ngữ đầy cá tính của ông. Một thứ ngôn ngữ
chỉ cần nghe thoáng qua đã nhận ra ngay cái chất
Nam Bộ không thể nào trộn lẫn. Nhưng có lẽ phải đợi
tới khi qua miệng của chú Năm thì những từ Nam Bộ
như trọng trọng, thỏn mỏn mới được dịp trở nên cực
thú. Truyện kể rằng chú Năm là người “đi đây đi đó
nhiều” và cũng “ham sông ham bến”. Nhưng đọc
Những đứa con trong gia đình, ta thấy nhân vật này
không chỉ ham sông bến mà còn ham đạo nghĩa.

Trong con người sống giữa thời chống Mĩ này, vẫn
thấy phảng phất cái tinh thần Nguyễn Đình Chiểu
thuở xa xưa. Và điều đó được nhận ra vẫn chủ yếu là
qua lời nói: “Chú Năm nói mầy với ta đi kì nầy là ra
chân trời mặt biển…” – đấy là Chiến nhắc lại lời của
chú Năm. Còn đây là lời nói trực tiếp của ông già ấy:
“Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được
rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non”. Những câu
nói như thế này đặc sắc bởi đâu, nếu không phải bởi
trong chúng ta nghe thấy âm vang của sóng nước và
của đạo lí nghìn xưa.
Nguyễn Thi đã trao cho tính cách thú vị này vai trò
của một thứ gia phả sống. Đọc truyện, ta sẽ thấy rõ
rằng nhân vật này luôn hướng về truyền thống, sống
với truyền thống, đại diện cho truyền thống và lưu
giữ truyền thống trong câu hò và cuốn sổ. Trong
toàn truyện chỉ có chú Năm là người duy nhất hay
hò. “Chú hay kể sự tích của gia đình và cuối câu
chuyện thế nào chú cũng hò lên mấy câu… những
câu nói về cuộc đời cơ cực của chú và những chiến
công của đất này”. Nhưng nhà văn muốn loại trừ
ngay trong ta mọi vấn vương, dù nhỏ, của cách hiểu
rằng cái người hay hò này ít nhiều cũng là một tài
năng nghệ thuật. Trong chú Năm, không hề có chút
bóng dáng nào của Trương Chi. “Chú già rồi, giọng
hò đã đục và tức như gà gáy”. Nhưng hãy xem con
người có cái giọng “đục và tức” nọ hò mới thật hết
mình, thật trang nghiêm, tha thiết làm sao! “Gân cổ
chú nổi đỏ lên, tay chú đặt lên vai Việt, đôi mắt chú
mở to, đọng nước, nhìn thẳng vào mắt Việt, đầu chú

lắc lư, nhắc nhủ, làm như Việt chính là nơi cụ thể chú
gửi gắm những câu hò…”. Thì ra, những tấm áo vá
quàng, con sông dài cá lội, người nghĩa quân Trương
Định, ngọn đèn biển Gò Công… Không chỉ đơn thuần
là những câu ca réo rắt mà là ngọn nguồn, là hồn
thiêng của cha ông đang nhập vào chú Năm – người
ca công thành kính – để truyền đến đời đời con cháu.
Song tôi vẫn nhớ cho là trong toàn bộ phần viết về
chú Năm thì đoạn văn nói về cuốn sổ gia đình vẫn
hay hơn, tài hơn tất cả. Gọi là cuốn sổ, nhưng nó
thực là một thứ biên niên ấy được viết ra từ một ngòi
bút thực sự bình dân, “chữ viết lòng còng”, lời văn
mộc mạc. Một cuốn sử hay một cuốn gia phả “chính
thống” chắc sẽ không có những chi tiết “thỏn mỏn”
kiểu như: thím Năm bị bắn bể xuồng khi đi rọc lá
chuối, “chết còn mặc cái quần mới, trong túi còn hai
đồng bạc”; ông nội ra nắm giàm bò bị lính tổng
Phòng bắn vào giữa bụng… Lại càng không có cuốn
gia phả nào ghi kĩ càng đến ngày bọn lính chửi bác
Hai một câu, ngày bà nội bị chúng đánh (thậm chí
còn cặn kẽ đến mức: đánh ba roi!). Lời lẽ trong cuốn
sổ của chú Năm có vẻ đúng là những sự kể lể dài
dòng và cứ như không thèm biết thế nào là thanh
nhã và trau chuốt. Nhưng xin hãy thử tẩn mẩn và
dông dài như thế xem nó khó hơn hành văn gọn
gàng đẽo gọt gấp mấy lần? Và hãy thử bỏ những câu
chữ mà ta vẫn nông nổi tưởng như thừa, tưởng như
không đáng kể, đáng viết xem, cuốn sổ ấy sẽ còn gì?
Mất cái chất vụng về, thô mộc đó, chắc chắn những
gì chú Năm viết ra sẽ không còn giá trị của những

bằng chứng nóng hổi về nợ máu của kẻ thù và về sự
dũng cảm, kiên cường của dòng họ trong chiến đấu.
Hình tượng người mẹ cũng là một hiện thân cho
truyền thống. Đây là một hình tượng mang những
dấu ấn riêng của phong cách Nguyễn Thi. Thiết nghĩ
rằng, dù thích hay là không thích mặc lòng, chúng ta
vẫn không thể không nhận rằng Nguyễn Thi đã tạo
được cho những người phụ nữ, người mẹ trong tác
phẩm của mình một vẻ đẹp riêng biệt, không giống
ai và cũng chưa ai giống nổi. Đừng mong chờ tìm
thấy ở Nguyễn Thi một người mẹ đẹp một vẻ đẹp
mảnh mai yếu đuối. Ngược lại, họ chắc khỏe về mặt
thể chất và mạnh mẽ về mặt tinh thần. Người mẹ
của Việt trong truyện ngắn này cũng thế. Chị được
sinh ra không để hưởng sự chiều chuộng, vuốt ve,
mà để chống chọi với gian nguy, khó nhọc. Cái gáy
đo đỏ, đôi vai lực lưỡng, chiếc nón rách, tấm áo bà
ba đẫm mồ hôi đã đen lại không còn thấy bạc, dư
sức một mình rinh thúng lúa từ dưới thuyền đặt lên
giường ngủ – đó là vài nét họa trong bức chân dung
người mẹ trong truyện ngắn này. Tuy nhiên, đấy vẫn
là một con người rất phụ nữ. Phụ nữ ở sự tảo tần,
xốc vác: sáng sáng, câu dặn dò con vừa hối hả
buông khỏi miệng thì chân đã vội đẩy xuồng ra tít
giữa sông. Chiều về, cái nón rách có dễ chưa kịp
quạt cho khuôn mặt bớt đi một hai phần đỏ rực, lại
đã bơi đi, canh hai mới trở lại nhà, người sực mùi lúa
gạo và mồ hôi, thứ mùi của đồng áng, của cần cù
sương nắng.
Nhưng ấn tượng đậm đà và có sức gây cảm động

lòng người nhiều hơn ở cả con người ấy là khả năng
cắn răng ghìm nén đau thương để sống và duy trì sự
sống, để chở che cho đàn con và tranh đấu. Tôi cho
đó mới là phẩm chất đích thực cao quý của người
mẹ, chí ít thì cũng là của người mẹ của một đất nước
như đất nước mình, và của một thời như thời chống
Mĩ. Là người mẹ, tức là trở thành một sức mạnh mà
không một tàn bạo, đau thương nào hòng khuất
phục. Người mẹ của chị em Chiến, Việt chính là như
thế. Chồng bị giặc chặt đầu, nỗi đau ấy khác gì dao
cứa ngang tim, nhưng chị cố không để rơi nước mắt.
“Chiều hôm đó, về tới nhà má mới khóc… Bao nhiêu
năm sau đó cũng vậy, lúc nào nói đến chuyện trên
má cũng không khóc”. Và nếu lệ cứ ứa ra, thì “má
chỉ nằm khóc chứ không kể gì hết”. Đau thương ấy,
người mẹ một mình nuốt sâu vào đáy lòng, để lặng
lẽ một mình chịu đựng sức thiêu đốt của một nỗi đau
âm ỉ cháy. Đấy mới đúng là người mẹ Việt Nam, con
người vì tình yêu, sẵn sàng một mình chịu đau, một
mình chịu ướt.
Người mẹ nông dân bình dị đó, cũng như mọi người
mẹ, đúng là hiện thân của yêu thương. Nhưng cảm
hứng của Nguyễn Thi về tình yêu người mẹ thường
vẫn là cảm hứng về một tình cảm có sức khiến con
người không biết sợ, không biết chùn bước. Không
thể không cảm động khi đọc lời chị kể hồn nhiên:
“Tao dạn là nhờ ba mày. Ba mày bị Tây nó chặt đầu,
tao cứ đi theo cái thằng xách đầu mà đòi. Đi từ ấp
trong tới ấp ngòai, nó qua sông tao cũng qua, nó về
quận tao cũng tới. Một tay tao bồng em mày, một

tay tao cắp rổ”. Ai ngờ truyền thống “yêu nhau tam
tứ núi cũng trèo…” có ngày lại hiện ra dưới hình thức
đau đớn, dữ dội, bạo liệt thế này? Một người vợ bồng
con cắp rổ đi theo thằng giặc đòi đầu chồng, một
người mẹ hiên ngang đối đáp với kẻ thù mà “hai bàn
tay to bản” vẫn “phủ lên đầu đàn con đứng nép dưới
chân”…, những hình ảnh ấy đáng được coi như biểu
tượng về người mẹ ở một xứ sở mà cuộc sống quá
nhiều khốc liệt nhưng rất đỗi kiên cường, hết sức đau
thương nhưng vô cùng cao cả.
Kiên cường, cao cả vì dưới một núi khổ đau, người
mẹ ấy vẫn là sự sống: đôi mắt mở to, đôi bắp chân
tròn vo dính đầy sinh đất lội hết đồng này sang bưng
khác, “con mắt tìm việc, bàn chân dò đường”, vừa
làm công cấy công gặt vừa dò tình thế bọn lính làng.
*
* *
Một hình ảnh, một truyền thống như thế, tác giả
muốn phải là bất tử, cho dù con người cụ thể có phải
hi sinh. Người mẹ ngã xuống, nhưng trái đạn mà chị
nhặt vào rổ bưng về để tiếp sức cho cuộc đấu tranh
thì vẫn nóng nguyên. Người mẹ ngã xuống, nhưng
dòng sông truyền thống kia vẫn chảy. Và hình ảnh
chị lại hiện về trước hết trong Chiến, một trong
những đứa con của gia đình.
Người con gái trẻ ấy mang vóc dáng của mẹ mình:
“hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng…, thân
người to và chắc nịch”. Vẫn cái vẻ đẹp phụ nữ mà
Nguyễn Thi ưa thích đang tồn tại trong đứa con mà
người mẹ ấy đã sinh thành – vẻ đẹp của những con

người sinh ra ở đời để gánh vác, để chống chọi, để
chịu đựng và để chiến thắng. Nhưng nói đến giống
mẹ thì chưa bao giờ Chiến giống mẹ hơn cái đêm sắp
xa nhà đi bộ đội. Phải đến đêm ấy, người ta mới thấy
một cô Chiến biết lo liệu, toan tính việc nhà thật trọn
vẹn trước sau, từ em út, nhà cửa, giường ván, ruộng
nương đến nơi gửi bàn thờ má. Chiến liệu việc y hệt
má, “nói nghe in như má vậy”. Hình ảnh người mẹ
như bao bọc lấy Chiến, từ cái lối nằm với thằng Út
em trên giường ở trong buồng nói với ra đến lối hứ
một cái “cóc” rồi trở mình. Đến nỗi chỉ trong một
khoảng thời gian ngắn ngủi trong đêm, Việt đã
không dưới ba lần thấy chị mình giống in người mẹ,
có sai khác thì cũng chỉ ở chỗ chị “không bẻ tay rồi
đập vào bắp vế chân mỏi” mà thôi. Chính Chiến cũng
thấy mình trong đêm ấy đang hòa vào trong mẹ:
“Tao cũng lựa ý nếu má còn sống chắc má tính vậy,
nên tao cũng tính vậy”. Nguyễn Thi muốn cho ta
hiểu: trong cái thời điểm thiêng liêng ấy, người mẹ
sống hơn bao giờ hết trong những đứa con. “Cả chị
cả em cùng nhớ đến má. Hình như má cũng đã về
đâu đây. Má biến theo ánh đom đóm trên nóc nhà
hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón
quạt? Đêm nay, dễ gì má vắng mặt…”. “Thác là thể
phách…”, người mẹ ấy chỉ thác trong thể phách.
Ta hãy trở về với Chiến. Hơn em chỉ chừng hơn một
tuổi nhưng Chiến người lớn hơn hẳn so với Việt. Mà
cũng gắn bó với lớp người đi trước hơn. Chiến có thể
bỏ ăn để gánh vần cuốn sổ gia đình. Chiến không chỉ
“nói in như má” mà còn học được cách nói “trọng

trọng” của chú Năm. Nhưng so với thế hệ mẹ thì
người con gái ấy là khúc sông sau. Khúc sông sau
bao giờ cũng chảy được xa hơn khúc sông trước đó.
Cho nên cũng dễ tìm ra những nét khiến cho Chiến
khác mẹ mình. Cái khác ấy không chỉ ở chiếc gương
trong túi mà Việt tưởng tượng có thể theo Chiến ra
tận ngoài mặt trận, cũng không chỉ ở cái dáng trẻ
trung “kẹp một nhúm tóc mai vào miệng” hay là tính
hay cười. Người mẹ, trước nỗi đau mất chồng, đã
không có dịp nào cầm súng. Còn Chiến, Chiến đi bộ
đội để trả thù nhà, với quyết tâm như dao chém đá:
“Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái
ra đi thì tao chỉ có một câu: nếu giặc còn thì tao
mất, vậy à”. “Đã làm thân con gái…”, ra ở đời này
không chỉ có “chí làm trai”.
Ở trên, ta đã nhiều lần nhắc đến nhân vật Việt, hình
tượng xuất hiện nhiều nhất trên những trang văn.
Việt được bạn đọc yêu thích trước nhất là ở cái vẻ lộc
ngộc, vô tư của một câu con trai đang tuổi ăn tuổi
lớn. Chiến nhường nhịn em bao nhiêu thì Việt hay
tranh giành với chị bấy nhiêu. Đêm trước ngày ra đi,
Chiến nói với em những lời nghiêm trang thì Việt lúc
“lăn kềnh ra ván cười khì khì”, lúc lại rình “chụp một
con đom đóm úp trong lòng tay”. Vào bộ đội, Chiến
đem theo tấm gương soi – cái vật tùy thân của một
cô gái lớn – còn Việt, anh chàng đem đi… một chiếc
súng cao su! Tôi đã đọc đi đọc lại mấy lần đoạn đối
thoại dài nhất và xuất sắc nhất trong toàn thiên
truyện, và càng đọc càng thấy chịu tài tác giả. Sao
mà ông có thể tái hiện lại sống đến thế lời ăn tiếng

nói của một anh chàng tồ tồ, vô lo vô nghĩ. Những lời
đối thoại ấy không câu nào giống câu nào mà sao
câu nào cũng trúng phóc cái thần hồn thần tính của
anh chàng Việt.
Nhưng sự vô tư không ngăn cản Việt trở nên một
anh hùng. Ngược lại, nó cho cái chất anh hùng của
Việt thêm đẹp, thêm độc đáo. Đọc truyện, ta cảm
thấy hình như chưa lúc nào Việt hết thơ ngây của
một con người không biết thế nào là khuất phục. Nên
từ lúc còn bé tí, Việt đã dám xông vào đá cái thằng
đã giết cha mình. Và vẫn dòng máy đỏ chảy trong
anh tân binh Việt chỉ khi một mình, với đôi mắt
không còn nhìn thấy gì, với hai bàn tay đau đớn vẫn
quyết tâm ăn thua sống mái với quân thù: “Trên trời
có mày, dưới đất có mày, khu rừng này còn có mình
tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày”. Cứ
vậy, người trai giản dị ấy thấy việc đi đánh giặc nó
cũng tự nhiên như đi bắt ếch hay bắn ná thun, việc
đánh giặc cho kỳ đến lúc trả xong thù nhà nợ nước
nó là chuyện dĩ nhiên như thế, có gì đâu để mà bàn,
để mà nghĩ ngợi…? Ấy thế mà xem ra Việt lại là
người đi xa hơn cả trong dòng sông truyền thống.
Không chỉ vì Việt là người lập chiến công lớn nhất.
Mà còn vì thế hệ cha chú Việt đánh giặc đấy, nhưng
vẫn lo tránh giặc. Còn Việt, ngay khi chỉ có một tấm
thân trơ trọi và đầy thương tích, Việt vẫn là người đi
tìm giặc. “Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với
tao thì mày là thằng chạy”. Hồi bấy giờ, người ta
thường nói đến khí thế tiến công cách mạng của thời
đại. Việt chính là hiện thân của sức trẻ tiến công.

Tôi sẽ không nói nhiều về đoạn văn vẫn được nhiều
người cho là hay nhất truyện: đoạn tả chị em Chiến,
Việt khiêng bàn thờ mẹ, sang nhà chú. Chỗ hay nhất
của đoạn văn hay nhất ấy có lẽ là cái không khí
thiêng liêng nó hoán cải cả cảnh vật lẫn con người.
Con đường quen thuộc bỗng thấy có thêm mùi hoa
cam thoảng lại tự chân vườn. Còn Việt, cái không khí
ấy biến anh thành con người khôn lớn. Lần đầu tiên
Việt hiểu rõ lòng mình để thấy “thương chị lạ” và để
thấy “mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó
đang đè nặng ở trên vai”. Nhưng tôi muốn được để ý
thêm đến chi tiết: chị em Chiến, dáng vóc khỏe, to,
giang cả thân người lên nhấc bổng bàn thờ. Nghĩa là
thế hệ sau đã cứng cáp, trưởng thành. Những đứa
con trong gia đình đã đủ sức để bay xa, xa hơn cha
mẹ.
*
* *
Nhân vật chú Năm trong truyện sau khi ví chuyện
gia đình dài như dòng sông, còn nói tiếp: “Trăm sông
đổ về một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy
về biển, mà biển thì rộng lắm…, rộng bằng cả nước
ta và ra ngoài cả nước ta”.
Điều đó có nghĩa là Nguyễn Thi, ở truyện ngắn này,
chỉ nói về một con sông, nhưng chúng ta không thể
chỉ thấy có một dòng sông. Nhà văn muốn ta phải
nghĩ đến biển cả, đến đại dương của nhân dân, và
nhân loại. Nhà văn muốn ta phải nghĩ đến không chỉ
một gia đình, mà cả một Tổ quốc đang hào hùng
chiến đấu bằng sức mạnh sinh ra từ nỗi thương đau.

Chỉ có điều ở Nguyễn Thi, sự khái quát lớn lao trên
sẽ không bay bổng trên đôi cánh của cảm hứng thi
ca. Nhà văn muốn đứng trên hai bàn chân bấm chắc
vào đất, vào hiện thực. Từ bỏ mọi sự khoa trương,
nhà văn hết sức cố gắng để chi tiết, hình ảnh, ngôn
từ… tất cả phải giống như nó vốn có ở đời, dẫu cho
sự thực ở đời lắm khi tàn nhẫn. Bởi vậy, tôi sẽ không
hùa theo ai đó trách Nguyễn Thi đã dựng lên những
chi tiết ghê khiếp quá, như cảnh đòi đầu, với hình
ảnh thằng bé Việt để “đầu ba dưới đất không lượm,
cứ nhè cái thằng vừa liệng đầu mà đá”. Một hình ảnh
như thế quả đáng để cho ta suy nghĩ, nhưng tuyệt
nhiên không phải vì nó dữ dội, kinh khủng nếu đấy
đúng là thực tại? Chỉ có là hình ảnh ấy hình như gợi
lên một cái gì bất nhẫn. Nhưng đó lại là câu chuyện
khác rồi…
Giảng văn văn học Việt Nam, Nxb GD, 1997.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×