Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

luận văn đại học sư phạm Hứng thú hoạt động Đoàn của sinh viên năm thứ nhất Học viện Quản lý giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.99 KB, 67 trang )



Hứng thú là một khía cạnh được các nhà nhiên cứu tâm lý học quan tâm,
đây là một vấn đề phong phú, hấp dẫn và cũng khá phức tạp.
Hứng thú là một mặt biểu hiện trong xu hướng của nhân cách, nó có vai
trò quan trọng trong hoạt động của con người nói chung và các hoạt động trong
xã hội nói riêng. Hứng thú kích thích nhu cầu, tình cảm, mong muốn, nó lôi
cuốn con người tham gia hoạt động với tinh thần trách nhiệm cao và khả năng
hoàn thành nhiệm vụ tốt. Đối với các bạn sinh viên, hứng thú không chỉ quan
trọng trong học tập mà còn có vai trò lớn khi các bạn tham gia vào hoạt động do
Đoàn trường tổ chức. Hứng thú giúp các bạn sinh viên say mê trong hoạt động,
khả năng tập trung chú ý cao, có nhiều ý tưởng độc đáo, sáng tạo, có cách tổ
chức hoạt động khoa học, logic, hợp lý, có khả năng điều chỉnh tốt cho hoạt
động phù hợp với tình hình thực tế.
Ở sinh viên nói chung và sinh viên năm thứ nhất – K4, Học viện Quản lý
giáo dục nói riêng, việc tham gia vào hoạt động Đoàn có ý nghĩa quan trọng đối
với sự phát triển nhân cách của các bạn Hoạt động Đoàn là cơ hội để các bạn
được giao lưu, học hỏi được thể hiện tài năng, bản lĩnh của mình, mối quan hệ
xã hội không chỉ giới hạn trong khoa, trong trường mà được mở rộng, được giao
lưu với nhiều trường cũng như các tổ chức chính trị xã hội. Qua hoạt động Đoàn
sinh viên được rèn luyện nhiều kĩ năng như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng nói trước
đám đông, kĩ năng làm việc nhóm…
Khi nhận ra được điều này, sinh viên sẽ càng cố gắng, tích cực, có nhiều
sáng tạo làm cho hoạt động Đoàn của mình trở nên phong phú, hấp dẫn, độc đáo
hơn. Vì vậy mà hứng thú càng trở nên quan trọng đối với các bạn sinh viên. Chỉ
khi thật sự có hứng thú tham gia hoạt động Đoàn thì các bạn sinh viên với thấy
được điều thú vị trong từng hoạt động cũng như có cách tổ chức tốt để hoạt động
không bị nhàm chán, đơn điệu.
1
Nắm bắt được vai trò, tầm quan trọng của hoạt động Đoàn đối với sự phát
triển nhân cách của sinh viên, trong những năm vừa qua, Đoàn Thanh niên cộng


sản Hồ Chí Minh Học viện Quản lý giáo dục đã tổ chức nhiều hoạt động phong
phú, đa dang, tạo “sân chơi” lành mạnh, bổ ích và lôi cuốn được nhiều sinh viên
tham gia. Tuy nhiên đối với sinh viên năm thứ nhất (K4), cơ hội tham gia hoạt
động Đoàn của các bạn chưa nhiều, điều đó ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động
Đoàn cũng như mối quan hệ gắn bó mật thiết, sâu sắc của sinh viên với công tác
Đoàn.
Xuất phát từ lí do trên chúng tôi đã quyết định lựa chọn và nghiên cứu đề tài
Hứng thú hoạt động Đoàn của sinh viên năm thứ nhất Học viện Quản lý
giáo dục”.

Nhằm tìm hiểu hứng thú hoạt động Đoàn của sinh viên năm thứ nhất (K4)
Học viện Quản lý giáo dục, từ đó đề xuất các biện pháp thu hút sinh viên tham
gia hoạt động Đoàn.
 !"#$%
3.1 Đối tượng nghiên cứu: Hứng thú hoạt động Đoàn của sinh viên năm
thứ nhất (K4) Học viện Quản lý giáo dục.
3.2 Khách thể nghiên cứu: 172 sinh viên năm thứ nhất (K4), Học viện
Quản lý giáo dục: ( Sinh viên 3 khoa: khoa Quản lý giáo dục, khoa
Công nghệ thông tin và khoa Giáo dục).
&'()*#+
Đa số các bạn sinh viên năm thứ nhất Học viện Quản lý giáo dục đều rất
hứng thú hoạt động Đoàn. Nếu đề xuất được các biện pháp để tổ chức tốt công
tác Đoàn thì sẽ nâng cao được hứng thú tham gia của sinh viên.
,-./"
5.1 Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về: hứng thú, hứng thú hoạt động,
đặc điểm hứng thú hoạt động Đoàn của sinh viên nói chung, hứng thú hoạt động
Đoàn của sinh viên năm thứ nhất (K4) Học viện Quản lý giáo dục nói riêng.
2
5.2 Khảo sát thực trạng về hứng thú hoạt động Đoàn của sinh viên năm
thứ nhất (K4) Học viện Quản lý giáo dục, cũng như tìm hiểu về nguyên nhân

của những hứng thú đó.
5.3 Đề xuất biện pháp nhằm thu hút sinh viên năm thứ nhất (K4) Học viện
Quản lý giáo dục tham gia hoạt động Đoàn nhằm tiếp tục phát triển phong trào
Đoàn của Học viện trong những năm tới.
0'12"32/"
- Chỉ nghiên cứu hứng thú tham gia hoạt động Đoàn của sinh viên năm thứ
nhất (K4) Học viện Quản lý giáo dục.
- Sinh viên năm thứ nhất (K4) ở 3 khoa: khoa Công nghệ thông tin, khoa
Giáo dục, khoa Quản lý.
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1 đến tháng 5/ 2011.
45 63$3
7Phương pháp nghiên cứu lí luận: Kham khảo các công trình nghiên cứu,
sách báo, tạp chí về các vấn đề liên quan như: hứng thú, hoạt động Đoàn của
sinh viên…Từ đó hệ thống và khái quát hóa các khái niệm công cụ làm cơ sở lí
luận cho đề tài.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi về các vấn đề:
• Nhận thức về tầm quan trọng của việc tham gia hoạt động Đoàn đối
với sinh viên.
• Thái độ của sinh viên đối với việc tham gia hoạt động Đoàn.
• Mức độ biểu hiện hứng thú tham gia hoạt động Đoàn của sinh viên.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp trò chuyện.
- Phương pháp chuyên gia.
- Phương pháp xử lí số liệu bằng toán thống kê.
3
8993:+
8.1Về mặt lý luận: Bổ sung thêm tri thức về khái niệm hứng thú và hứng
thú hoạt động Đoàn của sinh viên, làm phong phú nguồn tài liệu về xu hướng
nhân cách của sinh viên.
8.2 Về mặt thực tiễn:

- Đánh giá được thực trạng hứng thú hoạt động Đoàn của sinh viên năm
thứ nhất (K4) Học viện Quản lý giáo dục.
- Phân tích một số yếu tố tác động tích cực và tiêu cực đến hứng thú hoạt
động Đoàn của sinh viên năm thứ nhất (K4) Học viện Quản lý giáo dục, từ đó đề
xuất biện pháp nhằm thu hút sinh viên tham gia hoạt động Đoàn.
4
; 6
;<=>?-;@ABC-D-'EFG-;H
IJK"LM
 1
Những công trình nghiên cứu hứng thú trên thế giới xuất hiện tương đối sớm và
ngày càng được phát triển.
Herbart (1776-1841), nhà tâm lý học, nhà triết học, nhà giáo dục học
người Đức đã sáng lập ra trường phái giáo dục hiện đại ở Đức thế kỉ XIX. Đã
đưa ra bốn mức độ của dạy học: tính sáng tỏ, tính liên tưởng, tính hệ thống, tính
phong phú, đặc biệt là hứng thú là yếu tố quyết định kết quả học tập nói riêng và
kết quả hoạt động của con người nói chung.
Ovide Decroly (1871 – 1932), bác sĩ và nhà tâm lý học người Bỉ khi
nghiên cứu về khả năng tập đọc và tập làm tính của trẻ đã xây dựng học thuyết
về trung tâm hứng thú và về lao động tích cực.
I.K.Strong đã nghiên cứu “Sự thay đổi hứng thú cùng lứa tuổi”. Từ
những năm 1931 ông đã đưa ra quan điểm và phương pháp nghiên cứu hứng thú
bằng bảng hỏi.
Năm 1938 Ch.Buher trong công trình “Phát triển hứng thú ở trẻ em” đã
tìm hiểu khái niệm hứng thú.
Đến năm 1946 E.Clapade với vấn đề “Tâm lý trẻ em và thực nghiệm sư
phạm” đã đưa ra khái niệm hứng thú dựa trên bản chất sinh học. Trong giáo dục
chức năng, Clapade đã nhấn mạnh tầm quan trọng của hứng thú trong hoạt động
của con người và cho rằng hứng thú là cái trục duy nhất mà tất cả cái trục phải
xoay quanh nó.

Từ những năm 1940 của thế kỷ XX: A.F.Bêliep đã bảo vệ thành công
luận án tiến sĩ về “Tâm lý học hứng thú”. Các nhà tâm lý học như
S.LRubinstein, N.G.Morodov đã quan tâm nghiên cứu khái niệm hứng thú,
5
con đường hình thành hứng thú, và cho rằng hứng thú là biểu hiện của ý chí,
tình cảm.
John Dewey (1859 – 1952) nhà giáo dục học, nhà tâm lý học người Mỹ
năm 1896 sáng lập nên trường thực nghiệm trong đó ưu tiên phát triển hứng thú
của học sinh và nhu cầu của học sinh trong từng lứa tuổi. Ông cho rằng, hứng
thú thực sự xuất hiện khi cái tôi đồng nhất với một ý tưởng hoặc một vật thể
đồng thời tìm thấy ở chúng phương tiện biểu lộ.
Năm 1955 A.P.Ackhadop có công trình nghiên cứu về sự phụ thuộc của
tri thức học viên với hứng thú học tập. Kết quả cho thấy tri thức của học viên có
mối quan hệ khăng khít với hứng thú học tập. Trong đó sự hiểu biết nhất định về
môn học được xem là một tiền đề cho sự hình thành hứng thú đối với môn học.
D.Super trong “Tâm lý học hứng thú” (1961) đã xây dựng phương pháp nghiên
cứu về hứng thú trong cấu trúc nhân cách.
Năm 1966 N.I.Ganbiô bảo vệ luận án tiến sĩ về đề tài “Vận dụng tính
hứng thú trong giảng dạy tiếng Nga. Tác giả cho rằng hứng thú học tập của học
sinh là một phương tiện để nâng cao chất lượng giảng dạy tiếng Nga trong nhà
trường”.
Năm 1967 N.G.Marôsôva nghiên cứu sự khác nhau trong việc hình thành
hứng thú của trẻ em trong sự phát triển bình thường và phát triển không bình
thường. N.G .Marôsôva đã nghiên cứu vấn đề “Tác dụng của việc giảng dạy,
nêu vấn đề đối với hứng thú nhận thức của sinh viên”. Năm 1976 tác giả đưa ra
cấu trúc tâm lý của hứng thú, đồng thời còn phân tích những điều kiện và khả
năng giáo dục hứng thú trong quá trình học tập và lao động của học sinh.
Trong công trình nghiên cứu của mình L.I.Bôzôvitch đã nêu lên quan hệ
giữa hứng thú tính tích cực học tập của học sinh I.G.Sukira trong công trình
“Vấn đề hứng thú trong khoa học giáo dục” (1972) đã đưa ra khái niệm về hứng

thú nhận thức cùng với biểu hiện của nó, đồng thời bà còn nêu lên nguồn gốc cơ
bản của hứng thú nhận thức là nội dung tài liệu và hoạt động học của học sinh.
6
Những công trình của A.G.Côvaliôp, A.V.Zapôrôzet đã góp phần quan
trọng trong nghiên cứu về hứng thú nói chung, hứng thú nhận thức nói riêng.
Năm 1976 A.K.Marcôva nghiên cứu về vai trò của dạy học nêu vấn đề với
hứng thú học tập của học sinh. Dạy học nêu vấn đề là một trong những biện
pháp quan trọng góp phần nâng cao hứng thú của học sinh trong quá trình học
tập.
J.Piaget (1896 – 1996) nhà tâm lý học nổi tiếng người Thụy Sĩ có rất
nhiều công trình nghiên cứu về trí tuệ trẻ em và giáo dục. Ông rất chú trọng đến
hứng thú của học sinh. Ông viết “Nhà trường kiểu mới đòi hỏi phải hoạt động
thực sự, phải làm việc một cách chủ động dựa trên nhu cầu và hứng thú cá
nhân”. Ông nhấn mạnh: cũng giống như người lớn, trẻ em là một thực thể mà
hoạt động cũng bị chi phối bởi quy luật hứng thú hoặc của nhu cầu. Nó sẽ không
đem lại hiệu suất đầy đủ nếu người ta không khêu gợi những động cơ nội tại của
hoạt động đó. Ông cho rằng mọi việc làm của trí thông minh đều dựa trên một
hứng thú, hứng thú chẳng qua chỉ là một trạng thái chức năng động của sự đồng
hóa.
Vậy từ những công trình nghiên cứu trên ta có thể khái quát lịch sử
nghiên cứu hứng thú trên thế giới chia làm các xu hướng sau:
Xu hướng thứ I: Giải thích bản chất tâm lý của hứng thú:
Đại diện cho xu hướng này là A.F.Bêliep. Năm 1944 tác giả bảo vệ thành
công luận án tiến sĩ “Tâm lý học hứng thú” nội dung cơ bản của luận án là
những vấn đề lý luận tổng quát về hứng thú trong tâm lý học.
Xu hướng thứ II: Xem xét hứng thú trong mối quan hệ với sự phát triển
nhân cách nói chung và vốn tri thức của cá nhân nói riêng.
Đại diện cho xu hướng này là L.Lbôgiôvích “Hứng thú trong quan hệ
hình thành nhân cách”, Lukin, Lêvitôp nghiên cứu “Hứng thú trong quan hệ với
năng lực”. L.P.Bơlagôna Dejina, L.X.Xlavi, B.N.Mione lại xem xét hứng thứ

trong mối quan hệ với hoạt động” các tác giả này đã coi hứng thú là động hoạt
7
động. Trong xu hướng này còn có nhiều nhà nghiên cứu khác như:
L.X.Rubinstêin, A.V.Daparôzét, M.I.Bôliép, L.A.Gôđôn …
Xu hướng thứ III: Nghiên cứu sự hình thành và phát triển hứng thú theo
các giai đoạn lứa tuổi:
Đại diện là G.I.Sukina “Nghiên cứu hứng thú trẻ em ở các lứa tuổi”.
D.P.Xalônhisư nghiên cứu sự phát triển hứng thú nhận thức của trẻ mẫu giáo.
V.G Ivanôp đã phân tích sự phát triển và giáo dục hứng thú của học sinh lớn
trong trường trung học. V.N. Marôsôva nghiên cứu “Sự hình thành hứng thú trẻ
em trong những điều kiện bình thường và trong điều kiện không bình thường”
(1957). Những công trình nghiên cứu này đã phân tích đặc điểm hứng thú của
từng lứa tuổi, những điều kiện và khả năng giáo dục hứng thú trong các giai
đoạn phát triển lứa tuổi của trẻ.
B.-+/
Năm 1960, Trương Anh Tuấn, Năm 1970 Phạm Huy Thụ, Năm 1980
Đặng Trường Thanh nghiên cứu “Hứng thú bộ môn của học sinh cấp III”.
Năm 1973, Phạm Tất Dong đã bảo vệ thành công luận án PTS ở Liên Xô
với đề tài “Một số đặc điểm hứng thú nghề của học sinh lớn và nhiệm vụ hướng
nghiệp”. Kết quả nghiên cứu không thống nhất với xu hướng phát triển nghề
nghiệp của xã hội, công tác hướng nghiệp ở trường phổ thông không được thực
hiện nên các em học sinh chịu nhiều thiệt thòi.
Năm 1977 tổ nghiên cứu của khoa tâm lý học giáo dục trường Đại học Sư
phạm Hà Nội I đã nghiên cứu đề tài “Hứng thú học tập của học sinh cấp II đối
với môn học cụ thể”.
Năm 1980 Lê Bá Chương “Bước đầu tìm hiểu về dạy học môn tâm lý học
để xây dựng hứng thú học tập bộ môn cho giáo sinh trường sư phạm 10 + 3”,
( luận án thạc sĩ).
Năm 1981 Nguyễn Thị Tuyết với đề tài luận văn “Bước đầu tìm hiểu
hứng thú học văn học lớp 10 ở một trường THPT tại TP Hồ Chí Minh”

8
Năm 1984 Trần Thị Thanh Hương đã thực nghiệm “Nâng cao hứng thú
học toán của học sinh qua việc điểu khiển hoạt động tự học ở nhà”.
Năm 1987 Nguyễn Khắc Mai với đề tài luận án “Bước đầu tìm hiểu thực
trạng hứng thú đối với hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên tại
trường của sinh viên khoa tâm lý giáo dục”. Tác giả đã đưa ra những nguyên
nhân gây hứng thú là do ý nghĩa của môn học, trình độ của học sinh, phương
pháp giảng dạy của giảng viên.
Năm 1988 Vũ Thị Nho với đề tài “Tìm hiểu hứng thú với năng lực học
văn của học sinh lớp 6”. Đề tài đã tiến hành thực nghiệm để nghiên cứu bước
đầu về hứng thú năng lực học văn của các em học sinh lớp 6.
Năm 1994 Hoàng Hồng Liên có đề tài “Bước đầu nghiên cứu những con
đường nâng cao hứng thú cho học sinh phổ thông” tác giả kết luận dạy học trực
quan là biện pháp tốt nhất để tác động đến hứng thú của học sinh.
Năm 1996 Đào Thị Oanh đã nghiên cứu về “Hứng thú học tập và sự thích
nghi với cuộc sống nhà trường của học sinh tiểu học”.
Năm 1999 Lê Thị Thu Hằng với đề tài “Thực trạng hứng thú học tập các
môn lí luận của sinh viên trường ĐH Thể dục Thể Thao I” trong đó phương
pháp, năng lực chuyên môn của giảng viên là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất hứng
thú học tập của sinh viên.
Năm 2000 Trần Công Khanh đã đi sâu nghiên cứu “Tìm hiểu thực trạng
hứng thú học môn toán của học sinh trung học cơ sở thị xã Tân An”. Kết quả
cho thấy đa số học sinh trong diện điều tra chưa có hứng thú học toán. Năm
2002 Đặng Quốc Thành nghiên cứu “Hứng thú học môn tâm lý học quân sự của
học viên các trường Cao đẳng, Đại học Kĩ thuật Quân sự ”, tác giả đề xuất được
một số biện pháp ( cải tiến phương pháp dạy học, cải tiến hình thức dạy học,
một số biện pháp nâng cao hứng thú ).
Năm 2003 Nguyễn Hải Yến – Đặng Thị Thanh Tùng nghiên cứu “Một số
yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú nghiên cứu khoa học của sinh viên trường Đại
9

học Khoa học Xã hội và Nhân văn”. Đề tài đã nêu ra được một số yếu tố ảnh
hưởng đến hứng thú nghiên cứu khoa học của sinh viên là do chưa nhận thức
được vai trò của nghiên cứu khoa học, do bản thân chưa nổ lực vượt qua khó
khăn trong quá trình nghiên cứu.
Năm 2005 Phan Thị Thơm trong nghiên cứu luận văn thạc sĩ “Hứng thú
học tập môn tâm lý học đại cương của sinh viên trường Đại học Dân lập Đông
Đô”. Tác giả khẳng định: Hứng thú học tập môn tâm lý học chưa cao, chưa đồng
đều; Nguyên nhân ảnh hưởng đến hứng thú học tập của sinh viên phải kể đến
yếu tố giảng viên.
Ngoài ra còn một số tác giả khác đề cập đến vấn đề hứng thú như: Phạm
Ngọc Quỳnh với đề tài “Hứng thú học môn văn của học sinh lớp cấp II”; Phạm
Huy Thụ với luận án “Hiện trạng học tập các môn của học sinh cấp II một số
trường tiên tiến”; Dương Diệu Hoa “Bước đầu tìm hiểu hứng thú học tập môn
Tâm lý học địa cương của sinh viên khoa tâm lý học, Trường Đại học sư phạm
Hà Nội”; Phạm Thị Thắng “Nghiên cứu sự quan tâm của cha mẹ đến việc duy trì
hứng thú học tập cho các em thanh niên”…
NO"M"M2P:+J"
Q$./"M
R5 6S)
Nhà tâm lý học I.PH. Shecbac cho rằng, hứng thú là thuộc tính bẩm sinh
vốn có của con người, nó được biểu hiện thông qua thái độ, tình cảm của con
người vào một đối tượng nào đó trong thế giới khách quan. Một số nhà tâm lý
khác cho rằng, hứng thú là dấu hiệu của nhu cầu bản năng cần được thỏa mãn.
Hứng thú là trường hợp riêng của thiên hướng, nó được biểu hiện trong xu thế
của con người.
Annoi nhà tâm lý học người Mỹ lại cho rằng, hứng thú là một sự sáng tạo
của tinh thần với đối tượng mà con người hứng thú tham gia vào.
10
Harlette Buhler, hứng thú là một hiện tượng phức hợp cho đến nay vẫn
chưa được xác định, hứng thú là một từ, không những chỉ toàn bộ những hành

động khác nhau mà hứng thú còn thể hiện cấu trúc bao gồm các nhu cầu.
K.Strong và W.James cho rằng hứng thú là một trường hợp riêng của
thiên hướng biểu hiện trong xu thế hoạt động của con người như là một nét tính
cách.
E.Super hứng thú không phải là thiên hướng không phải là nét tính cách
của cá nhân nó là một cái gì khác, riêng rẽ với thiên hướng, riêng rẽ với tính
cách, riêng rẽ với cảm xúc. Tuy nhiên ông lại không đưa ra một quan niệm rõ
ràng về hứng thú.
Klapalet nghiên cứu thực nghiệm và đi đến kết luận hứng thú là dấu hiệu
của nhu cầu bản năng khát vọng đòi hỏi cần được thỏa mãn của cá nhân.
Nhìn chung các nhà tâm lý học đề cập ở trên đều có quan điểm hoặc là
duy tâm hoặc là phiến diện siêu hình về hứng thú, tác hại của các quan điểm này
là nó phủ nhận vai trò của giáo dục và tính tích cực của cá nhân trong sự hình
thành của hứng thú.
RT+%/:+S/N+U"M
Tâm lý học Macxit xem xét hứng thú theo quan điểm duy vật biện chứng.
Coi hứng thú không phải là cái trừu tượng vốn có trong mỗi cá nhân mà là kết
quả của sự hình thành và phát triển nhân cách cá nhân, nó phản ánh một cách
khách quan thái độ đang tồn tại ở con người. Khái niệm hứng thú được xét dưới
nhiều góc độ khác nhau.
+ Hứng thú xét theo khía cạnh nhận thức:
Trong đó có V.N Miasixep, V.G.Ivanôp, A.GAckhipop coi hứng thú là
thái độ nhận thức tích cực của cá nhân với những đối tượng trong hiện thực
khách quan.
A.A Luiblinxcaia khẳng định hứng thú là thái độ nhận thức, thái độ khao
khát đi sâu vào một khía cạnh nhất định của thế giới xung quanh.
11
P.A.Rudich coi hứng thú là sự hiểu biết của xu hướng đặc biệt trong sự
nhận thức thế giới khách quan, là thiên hướng tương đối ổn định với một loại
hoạt động nhất định.

+ Hứng thú xét theo sự lựa chọn của cá nhân đối với thế giới khách quan:
X.L.Rubinstêin: đưa ra tính chất 2 chiều trong mối quan hệ tác động qua
lại giữa đối tượng với chủ. Ông nói hứng thú luôn có tính chất quan hệ 2 chiều.
Nếu như một vật nào đó hoặc tôi chú ý có nghĩa là vật đó rất thích thú đối với
tôi.
A.N.Lêônchiev cũng xem hứng thú là thái độ nhận thức nhưng đó là thái
độ nhận thức đặc biệt của chủ thể đối với đối tượng hoặc hiện tượng của thế giới
khách quan.
P.A.Rudich coi hứng thú là biểu hiện xu hướng đặc biệt của cá nhân nhằm
nhận thức những hiện tượng nhất định của cuộc sống xung quanh, đồng thời
biểu hiện thiên hướng tương đối ổn định của con người đối với các hoạt động
nhất định.
A.V.Daparôzét coi hứng thú như là khuynh hướng lựa chọn của sự chú ý
và đưa ra khái niệm hứng thú là khuynh hướng chú ý tới đối tượng nhất định là
nguyện vọng tìm hiểu chúng một cách càng tỉ mỉ càng tốt.
B.M.Cheplốp thì coi hứng thú là thiên hướng ưu tiên chú ý vào một đối
tượng nào đó.
+ Hứng thú xét theo khía cạnh gắn với nhu cầu:
Sbinle hứng thú là kết cấu bao gồm nhiều nhu cầu. Quan niệm này là
đồng nhất hứng thú với nhu cầu. Thực chất hứng thú có quan hệ mật thiết với
nhu cầu của từng cá nhân, nhưng nó không phải là chính bản thân nhu cầu, bởi
vì nhu cầu là những đòi hỏi tất yếu cần được thỏa mãn, là cái con người ta cần,
nhưng không phải mọi cái cần thiết đều đem lại sự hứng thú. Quan điểm này đã
đem bó hẹp khái niệm hứng thú chỉ trong phạm vi với nhu cầu.
12
Trong từ điển tâm lý họccủa GS.TS Vũ Dũng hứng thú được coi là hình
thức thể hiện nhu cầu nhận thức nhằm đảm bảo cho nhân cách ý thức được mục
đích hành động và tạo điều kiện cho việc định hướng, làm quen với những sự
việc mới, cho việc phản ánh hiện thực một cách đầy đủ và sâu sắc hơn.
Ngoài ra nhà tâm lý học A.Phreiet cho rằng: hứng thú là động lực của

những xúc cảm khác nhau.
Sbinle giải thích hứng thú là tính nhạy cảm đặc biệt của xúc cảm.
RP"V+%/#$"M
Trong cuốn tâm lý học cá nhân, A.G.Côvaliốp coi hứng thú là sự định
hướng của cá nhân, vào một đối tượng nhất định, tác giả đã đưa ra một khái
niệm được xem là khá hoàn chỉnh về hứng thú: “Hứng thú là một thái độ đặc thù
của cá nhân đối với đối tượng nào đó, do ý nghĩa của nó trong cuộc sống và sự
hấp dẫn về mặt tình cảm của nó”.
L.A.Gôđơn coi hứng thú là sự kết hợp độc đáo của các quá trình tình cảm,
ý chí, trí tuệ, làm cho tính tích cực của hoạt động con người nói chung được
nâng cao.
Nhà tâm lý học người Đức A.Kossakowski coi hứng thú hướng tích cực
tâm lý vào những đối tượng nhất định với mục đích nhận thức chúng, tiếp thu
những tri thức và nắm vững những hành động phù hợp. Hứng thú biểu hiện mối
quan hệ tới tính lựa chọn đối với môi truờng và kích thích, con người quan tâm
tới những đối tượng những tình huống hành động quan trọng có ý nghĩa đối
với mình.
Tóm lại: Các nhà tâm lý học Macxit đã nghiên cứu hứng thú theo quan
điểm duy vật biện chứng đã chỉ ra tính chất phức tạp của hứng thú, xem xét
hứng thú trong mối tương quan với các yếu tố khác của nhân cách như nhu cầu,
xúc cảm, ý chí, trí tuệ …
RPJV+./"M:+B.-+/
Tiêu biểu là nhóm của tác giả: Phạm Minh Hạc – Lê Khanh – Trần Trọng
Thủy cho rằng: Khi ta có hứng thú về một cái gì đó, thì cái đó bao giờ cũng
13
được ta ý thức, ta hiểu ý nghĩa của nó đối với cuộc sống của ta. Hơn nữa ở ta
xuất hiện một tình cảm đặc biệt đối với nó, do đó hứng thú lôi cuốn hấp dẫn
chúng ta về phía đối tượng của nó tạo ra tâm lý khát khao tiếp cận đi sâu vào nó.
Nguyễn Quang Uẩn trong tâm lý học đại cương đã cho ra đời một khái
niệm tương đối thống nhất: Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối

tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại khoái
cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động. Khái niệm này vừa nêu được bản
chất cửa hứng thú, vừa gắn hứng thú với hoạt động của cá nhân.
Xét về mặt khái niệm: Hứng thú là một thái độ đặc biệt của cá nhân đối
với đối tượng, thể hiện ở sự chú ý tới đối tượng, khao khát đi sâu nhận thức đối
tượng sự thích thú được thỏa mãn với đối tượng.
Một sự vật, hiện tượng nào đó chỉ có thể trở thành đối tượng của hứng thú
khi chúng thoả mãn 2 điều kiện sau đây:
Điều kiện I:
Có ý nghĩa với cuộc sống của cá nhân, điều kiện này quyết định nhận thức
trong cấu trúc của hứng thú, đối tượng nào càng có ý nghĩa lớn đối với cuộc
sống của cá nhân thì càng dễ dàng tạo ra hứng thú. Muốn hình thành hứng thú,
chủ thể phải nhận thức rõ ý nghĩa của đối tượng với cuộc sống của mình, nhận
thức càng sâu sắc và đầy đủ càng đặt nền móng vững chắc cho sự hình thành và
phát triển của hứng thú.
Điều kiện II:
Có khả năng mang lại khoái cảm cho cá nhân. Trong quá trình hoạt động
với đối tượng, hứng thú có quan hệ mật thiết với nhu cầu. Khoái cảm nảy sinh
trong quá trình hoạt động với đối tượng, đồng thời chính khoái cảm có tác dụng
thúc đẩy cá nhân tích cực hoạt động, điều đó chứng tỏ hứng thú chỉ có thể hình
thành và phát triển trong quá trình hoạt động của cá nhân. Biện pháp quan trọng
nhất, chủ yếu nhất để gây ra hứng thú là tổ chức hoạt động, trong quá trình hoạt
động và bằng hoạt động với đối tượng, mới có thể nâng cao được hứng thú của
cá nhân.
14
Cũng như những chức năng cấp cao khác, hứng thú được quy định bởi
những điều kiện xã hội lịch sử. Hứng thú của cá nhân được hình thành trong
hoạt động và sau khi đã được hình thành chính nó quay trở lại thúc đẩy cá nhân
hoạt động. Vì lý do trên hứng thú tạo nên ở cá nhân khát vọng tiếp cận và đi sâu
vào đối tượng gây ra nó, khát vọng này được biểu hiện ở chỗ cá nhân tập trung

chú ý cao độ vào cái làm cho mình hứng thú, hướng dẫn và điều chỉnh các quá
trình tâm lý theo một hướng xác định, do đó tích cực hóa hoạt động của con
người theo hướng phù hợp với hứng thú của nó dù phải vượt qua muôn ngàn
khó khăn người ta vẫn thấy thoải mái và thu được hiệu quả cao.
Hứng thú trong công việc hoàn toàn khác với làm việc tùy hứng, hứng thú
trong công việc là một phẩm chất tốt đẹp của nhân cách, còn làm việc tùy hứng
là biểu hiện của tính tùy tiện của một tính cách không được giáo dục chu đáo.
Trong đề tài nghiên cứu của tôi sử dụng khái niệm hứng thú làm khái
niệm công cụ: khái niệm được định nghĩa như sau:
“Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa
có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng đem lại khoái cảm cho cá nhân
trong quá trình hoạt động”.
;LWM:+M
Tiến sĩ tâm lý học N.G.Mavôzôva: Ông đã dựa vào 3 biểu hiện để đưa ra
quan niệm của mình về cấu trúc của hứng thú:
Cá nhân hiểu rõ được đối tượng đã gây ra hứng thú.
Có cảm xúc sâu sắc với đối tượng gây ra hứng thú.
Cá nhân tiến hành những hành động để vươn tới chiếm lĩnh đối tượng đó.
Theo tác giả: hứng thú liên quan đến việc người đó có xúc cảm tình cảm
thực sự với đối tượng mà mình muốn chiếm lĩnh, có niềm vui tìm hiểu và nhận
thức đối tượng, có động cơ trực tiếp xuất phát từ bản thân hoạt động, tự nó lôi
cuốn, kích thích hứng thú, những động cơ khác không trực tiếp xuất phát từ bản
15
thân hoạt động chỉ có tác dụng hỗ trợ cho sự nảy sinh và duy trì hứng thú chứ
không xác định bản chất hứng thú.
Vậy hứng thú là sự kết hợp giữa nhận thức – xúc cảm tích cực và hoạt
động, nếu chỉ nói đến mặt nhận thức thì chỉ là sự hiểu biết của con người đối với
đối tượng, nếu chỉ nói đến mặt hành vi là chỉ đề cập đến hình thức biểu hiện bên
ngoài, không thấy được xúc cảm tình cảm của họ đối với đối tượng đó, có nghĩa
là hiểu được nội dung tâm lý của hứng thú nó tiềm ẩn bên trong. Hứng thú phải

là sự kết hợp giữa nhận thức và xúc cảm tích cực và hành động, nghĩa là có sự
kết hợp giữa sự hiểu biết về đối tượng với sự thích thú với đối tượng và tính tích
cực hoạt động với đối tượng.
Bất kỳ những hứng thú nào cũng là thái độ cảm xúc tích cực của chủ thể
với đối tượng. Nó là sự thích thú với bản thân đối tượng và với hoạt động với
đối tượng. Nhận thức luôn là tiền đề là cơ sở cho việc hình thành thái độ.
Cách phân tích hứng thú của N.G.Mavôzôva được nhiều nhà tâm lý tán
thành, điểm quan trọng nhất là tác giả đã gắn hứng thú với hoạt động. Tuy nhiên
cách phân tích này quá chú trọng đến mặt xúc cảm của hứng thú nên đã xem nhẹ
mặt nhận thức. Tác giả đã nhấn mạnh thái độ, xúc cảm của nhận thức mà chưa
nói đến nội dung, đối tượng nhận thức trong hứng thú. Nếu chỉ nói đến mặt nhận
thức, thì chỉ là sự biểu hiện của con người đối với đối tượng. Nếu chỉ nói đến
mặt hành vi, là chỉ đề cập đến hình thái bên ngoài, mà chưa nói đến nội dung
bên trong. Vậy hứng thú phải là sự kết hợp giữa: Nhận thức – Xúc cảm tích cực
– Hành động.
Ba thành tố trên có quan hệ chặt chẽ với nhau trong hứng thú cá nhân. Để
có hứng thú đối với đối tượng nào đó cần phải có các yếu tố trên, nó có quan hệ
mật thiết với nhau, tương tác lẫn nhau, trong cấu trúc hứng thú, sự tồn tại của
từng mặt riêng lẻ không có ý nghĩa đối với hứng thú, không nói lên mức độ của
hứng thú.
16
;$N2M
Hứng thú biểu hiện mối quan hệ tác động qua lại giữa chủ thể và khách
thể, do đó biểu hiện của nó khá phong phú đa dạng và hấp dẫn. Dựa vào các tiêu
chuẩn phân loại khác nhau mà người ta phân chia hứng thú của con người thành
các loại khác nhau.
- Nếu căn cứ vào hiệu quả của hứng thú: Chia ra làm 2 loại:
+ Hứng thú thụ động:
Là loại hứng thú tĩnh quan dừng lại ở hứng thú ngắm nhìn, chiêm ngưỡng
đối tượng gây nên hứng thú, không thể hiện mặt tích cực để nhận thức sâu hơn

đối tượng, làm chủ đối tượng và hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực mình hấp thụ.
+ Hứng thú tích cực:
Không chỉ chiêm ngưỡng đối tượng gây nên hứng thú, mà lao vào hoạt
động với mục đích chiếm lĩnh được đối tượng. Nó là một trong những nguồn
kích thích sự phát triển nhân cách, hình thành kỹ năng kỹ xảo, nguồn gốc của sự
sáng tạo.
Nếu căn cứ vào nội dung đối tượng, nội dung hoạt động: Chia hứng thú ra
làm 5 loại:
+ Hứng thú vật chất: Là loại hứng thú biểu hiện thành nguyện vọng như muốn
có chỗ ở đầy đủ, tiện nghi, ăn ngon, mặc đẹp.
+ Hứng thú nhận thức:
Ta có thể hiểu hứng thú dưới hình thức học tập như: Hứng thú vật lý học,
hứng thú triết học, hứng thú tâm lý học
+ Hứng thú lao động nghề nghiệp:
Hứng thú một ngành nghề cụ thể: Hứng thú nghề sư phạm, nghề bác sĩ
+ Hứng thú xã hội – chính trị: Hứng thú một lĩnh vực hoạt động chính trị.
+ Hứng thú mĩ thuật: Hứng thú về cái hay, cái đẹp như văn học, phim ảnh, âm
nhạc
17
Nếu căn cứ vào khối lượng của hứng thú, người ta chia hứng thú ra làm 2
loại:
+ Hứng thú rộng: Bao quát nhiều lĩnh vực nhiều mặt thường không sâu.
+ Hứng thú hẹp: Hứng thú với từng mặt, từng ngành nghề, lĩnh vực cụ thể
trong cuộc sống cá nhân đòi hỏi có hứng thú rộng - hẹp, vì chỉ có hứng thú hẹp
mà không có hứng thú rộng thì nhân cách của họ sẽ không toàn diện, song chỉ có
hứng thú rộng thì sự phát triển nhân cách cá nhân sẽ hời hợt thiếu sự sâu sắc.
Nếu căn cứ vào tính bền vững, người ta chia hứng thú làm 2 loại:
+ Hứng thú bền vững:
Thường gắn liền với năng lực cao và sự nhận thức sâu sắc nghĩa vụ và
thiên hướng của mình.

+ Hứng thú không bền vững: Hứng thú thường bắt nguồn từ nhận thức hời hợt
đối tượng hứng thú.
Nếu căn cứ vào chiều sâu của hứng thú người ta cũng chia làm 2 loại:
+ Hứng thú sâu sắc: Thường thể hiện thái độ thận trọng có trách nhiệm với hoạt
động, công việc. Mong muốn đi sâu vào đối tượng nhận thức, đi sâu nắm vững
đến mức hoàn hảo đối tượng của mình.
+ Hứng thú hời hợt bên ngoài:
Đây là những người qua loa đại khái trong quá trình nhận thức, trong thực
tiễn họ là những người nhẹ dạ, nông nổi.
Căn cứ vào chiều hướng của hứng thú: Chia ra làm 2 loại:
+ Hứng thú trực tiếp:
Hứng thú đối với bản thân quá trình hoạt động, hứng thú với quá trình
nhận thức, quá trình lao động, và hoạt động sáng tạo.
+ Hứng thú gián tiếp:
Loại hứng thú với kết quả hoạt động.
18
&X%.:+M
Mỗi một cá thể khác nhau, hứng thú là khác nhau: có người hứng thú với
hoạt động này, có người hứng thú với hoạt động khác. Xét dưới góc độ biểu
hiện, người ta chia biểu hiện của hứng thứ làm hai mức độ:
Mức độ I: Chủ thể mới dừng lại ở việc nhận thức về đối tượng. Chưa có
xúc cảm tình cảm với đối tượng đó, chưa tiến hành, hoạt động để chiếm lĩnh đối
tượng đó.
Mức độ II: Đối tượng hứng thú thúc đẩy chủ thể hoạt động.
Hứng thú biểu hiện ở nội dung của nó như: Hứng thú học tập, nghiên cứu
khoa học, đi mua hàng, đi dạo chơi
Hứng thú biểu hiện chiều rộng, chiều sâu của nó: Những người có hứng
thú đối với nhiều đối tượng khác nhau, nhiều lĩnh vực khác nhau thường có cuộc
sống hời hợt, bề ngoài. Những người chỉ tập trung hứng thú vào một hoặc một
vài đối tượng thì cuộc sống thường đơn điệu. Trong thực tế những người thành

đạt là những người biết giới hạn hứng thú của mình trong phạm vi hợp lý, trên
nền những hứng thú khác nhau, họ xác định được một hoặc một số hứng thú
trung tâm mang lại ý nghĩa thúc đẩy con người hoạt động.
Phạm Tất Dong: cho rằng hứng thú biểu hiện ở các khía cạnh sau:
Biểu hiện trong khuynh hướng của con người đối với hoạt động có liên
quan tới đối tượng của hứng thú đó.
Biểu hiện trong sự trải nghiệm thường xuyên những tình cảm dễ chịu do
đối tượng này gây ra.
Biểu hiện trong khuynh hướng bàn luận thường xuyên về đối tượng này,
về việc có liên quan tới chúng.
Biểu hiện trong sự tập trung chú ý của con người vào đối tượng của hứng thú.
Biểu hiện trong sự ghi nhớ nhanh và lâu những điều có quan hệ gần gũi
với đối tượng này, trong hoạt động tưởng tượng phong phú, trong tư duy căng
thẳng những vấn đề có liên quan đến đối tượng của hứng thú đó.
19
Theo G.I.Sukina: Hứng thú biểu hiện ở những khía cạnh sau:
Khuynh hướng lựa chọn các quá trình tâm lý con người nhằm vào đối
tượng và hiện tượng của thế giới xung quanh.
Nguyện vọng, nhu cầu của cá nhân muốn tìm hiểu một lĩnh vực, hiện
tượng cụ thể, một hoạt động xác định mang lại sự thỏa mãn cho cá nhân.
Kích thích mạnh mẽ, tính tích cực cho cá nhân, do ảnh hưởng của nguồn
kích thích này, mà tất cả các quá trình diễn ra khẩn trương, còn hoạt động trở
nên say mê và đem lại hiệu quả cao.
Thái độ đặc biệt (không thờ ơ, không bàng quan mà tràn đầy những ý định
tích cực, một cảm xúc trong sáng, một ý trí tập trung đối với các đối tượng, hiện
tượng, quá trình ).
EM2P:+J"Y/LZQ&[E".
T(N$
B+W\"]%/2P^W _2
B+W\:+2P^W _2`

Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội, là người bạn đồng
hành của thanh niên. Trong những năm qua, Đoàn Thanh niên đã không ngừng
tìm các giải pháp thực hiện các chương trình hành động vì sự phát triển của
thanh niên. Làm sao để có thể vừa giúp thanh niên tích cực học tập, vừa đáp ứng
nhu cầu sinh hoạt, giải trí, rèn luyện thể chất và nhân cách của thanh niên, đó là
vấn đề mà tổ chức Đoàn quan tâm, hướng đến.
Điều đầu tiên phải nói tới là các phong trào ở Đoàn trường luôn hướng tới
hướng thiện mỗi con người, khi tham gia những hoạt động ấy sẽ giúp các bạn
sinh viên ý thức hơn về bản thân mình trong nhà trường và xã hội. Tạo cho các
bạn sự tự tin, năng động giúp cho khả năng giao tiếp của bạn tốt hơn, có được
những người bạn tốt, đó là nơi mà không có sự phân biệt tuổi tác, giàu nghèo
Có được một ít trải nghiệm cuộc sống, trải nghiệm của đường đời khi bạn
tham gia các hoạt động như thanh niên tình nguyện, gây quỹ từ thiện hay tham
20
gia các chiến dịch mùa hè xanh…Tham gia bạn sẽ còn có được niềm vui, bạn
như được xả stress sau những giờ học tập căng thẳng. Ngoài ra hoạt động Đoàn
là cơ hội để các bạn thể hiện tài năng của mình như múa, hát, khiêu vũ…
Chúng ta có thể khẳng định rằng vai trò của hoạt động Đoàn đối với
Thanh niên nói chung và với sinh viên nói riêng rất quan trọng, là một trong
những nhân tố góp phần hình thành và phát triển phẩm chất đạo đức của một
người Đoàn viên Thanh niên, giúp các bạn tự tin hơn, vững vàng hơn khi bước
chân vào cuộc sống xã hội.
]%/2P^W _2
Có thể khẳng định, trong bất cứ trường Đại học nào, hoạt động của Đoàn
trường cũng giữ một vị trí và vai trò quan trọng trong hoạt động chung của nhà
trường. Đoàn trường là nơi tổ chức nhiều hoạt động nhất nhằm thu hút sinh viên
tham gia, tuy nhiên không phải Đoàn trường nào cũng có thể làm tốt công tác này.
Hoạt động Đoàn ở trường Đại học hiện nay tập trung vào các hoạt động
cơ bản như: các hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao chào mừng các ngày lễ, kỉ
niệm; Tổ chức các cuộc thi: sinh viên thanh lịch, tiếng hát sinh viên…các hoạt

động tình nguyện như tiếp sức mùa thi, mùa hè xanh, tổ chức hội trại…cơ hội
tham gia hoạt động, được cống hiến và thể hiện tài năng, bản lĩnh chính trị của
một Đoàn viên thanh niên ngày càng nhiều. Tất cả mọi sinh viên đều có cơ hội
như nhau, không phân biệt giới, dân tộc, tôn giáo, chỉ cần các bạn nhiệt tình,
đam mê và làm việc với tinh thần trách nhiệm cao.
Đoàn trường khuyến khích tập thể, liên chi Đoàn có nhiều đề xuất, ý
tưởng để xây dựng hoạt động chung được phong phú và đa dạng. Mọi kết quả
đánh giá thành tích hoạt động luôn bình đẳng trước cá nhân và tập thể. Hoạt
động Đoàn trở thành công việc chung của tất cả mọi sinh viên trên tinh thần
đoàn kết, hợp tác vì sự phát triển của Đoàn trường.
Nhìn chung, hoạt động Đoàn ở các trường Đại học hiện nay đã có sự mở
rộng về qui mô, hình thức tổ chức phong phú và đa dạng hơn nhiều, đặc biệt là
21
có sự giao lưu giữa các trường Đại học, giao lưu giữa các Đoàn trường với Tỉnh
Đoàn, Thành đoàn, các quận, huyện… Nhờ đó các hoạt động trở nên phong phú,
đa dạng và thu hút được nhiều sinh viên tham gia.
Ngày nay, hoạt động Đoàn của các trường Đại học đã và đang dần khẳng
định được vị trí, vai trò của mình trong việc giáo dục phẩm chất đạo đức cho
sinh viên. Giúp sinh viên có những chuẩn bị ban đầu về những kĩ năng cần thiết
để tự tin hơn khi bước vào cuộc sống xã hội.
PJ]%/:+J"Y/LZQ&[E".T(N
$
Q$./J"
Khi định nghĩa về sinh viên các nhà nghiên cứu cũng đi từ nhiều hướng
tiếp cận khác nhau:
Theo Tâm lý học “Tuổi thanh niên là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ em đến
người lớn và bao gồm một khoảng đời từ 11, 12 tuổi đến 24, 25 tuổi”. Giai đoạn
này có thể chia làm hai kì: thời kì chuyển tiếp trước bắt đầu từ lúc 17, 18 tuổi và
kết thúc lúc thành người lớn thực sự 24, 25 tuổi. Như vậy sinh viên là những
thanh niên ở thời kì chuyển tiếp sau.

Tiếp cận xã hội học: “Thuật ngữ sinh viên theo tiếng la tinh có nghĩa là
những người làm việc, học tập nhiệt tình, đang khai thác tìm kiếm kiến thức.
theo xã hội học thì sinh viên là đại biểu của một nhóm xã hội đặc biệt gồm
những người đang chuẩn bị cho một hoạt động lao động trong một lĩnh vực nghề
nghiệp nhất định. Ở cấp độ xã hội sinh viên là những người đang chuẩn bị ra
nhập đội ngũ trí thức xã hội. Ở cấp độ cá nhân, sinh viên là người đang trưởng
thành về mặt xã hội, chín muồi về thể lực, định hình về nhân cách, đang học tập,
tiếp thu những tri thức, kĩ năng của một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định”
Tóm lại dù theo hướng tiếp cận nào, những quan điểm trên đây của các
tác giả đều khẳng định: sinh viên là những thanh niên ở lứa tuổi từ 17 đến 25
tuổi, đang trưởng thành về mặt xã hội, chín muồi về thể lực, định hình về nhân
22
cách, say mê học tập nghiên cứu và đang chuẩn bị cho mình một lĩnh vực nghề
nghiệp nhất định trong xã hội
Tuổi sinh viên là giai đoạn hết sức đặc biệt trong đời sống con người, đây
là thời kì của sự trưởng thành xã hội, bắt đầu có quyền của công dân, hoàn thiện
học vấn chuẩn bị cho một trình độ chuyên môn nghề nghiệp nhất định, có quan
điểm chính trị có được nghề ổn định, bắt đầu lao động, giảm phụ thuộc kinh tế,
bước vào hôn nhân…
="Y/LE".T(N$
Học viện Quản lý giáo dục gồm có ba khoa: khoa Quản lý giáo dục, khoa
Giáo dục và khoa công nghệ thông tin. Phần lớn các bạn sinh viên năm thứ nhất
trong độ tuổi từ 18 – 20 tuổi, vừa tốt nghiệp trung học phổ thông. Số lượng nam
sinh viên ít hơn so với nữ sinh, các bạn đến từ nhiều tỉnh thành, các dân tộc khác
nhau. Họ có kế hoạch riêng và hành động độc lập trong hành vi, có những thay
đổi mạnh mẽ về động cơ và thang giá trị xã hội liên quan đến nghề nghiệp trong
tương lai. Họ khát vọng được thể hiện mình trong mọi lĩnh vực của cuộc sống,
khao khát được cống hiến, mong muốn xã hội đánh giá và công nhận. Xã hội coi
họ là những thanh niên chính thức, một người trưởng thành. Tuy nhiên khi đang
ngồi trên ghế nhà trường, chưa tham gia trực tiếp sản xuất của cải vật chất, tinh

thần nên sinh viên chưa hoàn tự lập về mọi mặt so với những thanh niên cùng độ
tuổi phải sớm vào đời.
Trong xu thế nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ cùng với xu hướng
hội nhập quốc tế của Việt Nam như hiện nay, sinh viên phải tiếp cận với những
nội dung học tập mang tính chuyên ngành, phương pháp học tập mang tính
nghiên cứu khoa học, môi trường sinh hoạt mở rộng phạm vi quốc gia, quốc tế.
Nội dung và cách thức giao tiếp với thầy cô bạn bè và các tổ chức xã hội phong
phú đa dạng.
Vì vậy nét đặc trưng tâm lý của sinh viên nói chung và sinh viên năm thứ
nhất nói riêng là sự căng thẳng và phát triển mạnh mẽ về trí tuệ, sự phối hợp của
23
nhiều thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát
hóa, phương pháp học tập mang tính tích cực, chủ động, sáng tạo phù hợp với
chuyên ngành khoa học mà họ theo đuổi.
Tuổi trẻ với sự năng động, nhiệt tình, nhiều bạn sinh viên cho rằng được
tham gia hoạt động Đoàn là niềm vui, là kỉ niệm đánh dấu trong cuộc đời sinh
viên của mỗi người. Ai cũng mong muốn mình được một lần tham gia công tác
đoàn, được trải nghiệm khoảnh khắc đáng nhớ của thời sinh viên.
Q$./M2P:+J"Y/L
ZQ&[E".T(N$
Sinh viên là thời kì đẹp nhất của tuổi thanh niên, lúc này cuộc sống, công
việc cũng như các mối quan hệ của các bạn được mở rộng. Bởi ngoài công việc
học tập, các bạn ai cũng muốn dành chút thời gian cho hoạt động nào đó, một
trong những hoạt động thu hút được nhiều các bạn sinh viên tham gia có lẽ là
hoạt động của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, nơi tập trung đông đảo
các bạn Đoàn viên thanh niên. Tham gia hoạt động Đoàn là lúc các bạn được trải
nghiệm nhiều kinh nghiệm sống, được thử sức mình trong các hoạt động và rèn
luyện bản thân tốt hơn.
Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị xã hội lớn
nhất của thanh niên, từ lâu Đoàn đã được khẳng định là cánh tay phải đắc lực

của Đảng. Để tỏ rõ được vai trò hoạt động của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh nói chung và vai trò của Đoàn trường nói riêng trong quá trình rèn
luyện và trau dồi phẩm chất đạo đức cho Đoàn viên, trong thời gian vừa qua
Đoàn trường HV QLGD đã không ngừng tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, văn
nghệ, TDTT, các hoạt động tình nguyện, tạo điều kiện để mọi Đoàn viên đều có
cơ hội được tham gia. Qua quan sát tinh thần thái độ làm việc của các Đoàn viên
chúng tôi nhận thấy các bạn rất say sưa, nhiệt tình và tham gia với tinh thần
trách nhiệm cao…
24
Căn cứ vào khái niệm hứng thú mà chúng tôi đã đề cập ở trên, ở đây
chúng tôi có đưa ra khái niệm về hứng thú hoạt động Đoàn của sinh viên năm
thứ nhất: Hứng thú hoạt động Đoàn của sinh viên năm thứ nhất chính là thái độ
đặc biệt, là niềm đam mê, lòng nhiệt tình, nhu cầu muốn được cống hiến sức
mình cho công tác Đoàn. Hoạt động Đoàn đó vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống,
vừa có khả năng đem lại khoái cảm cho sinh viên .
&]%/M2P:+J"Y/L
ZQ&[EBT'a
Tuy nhiên, là sinh viên năm thứ nhất các bạn cũng không tránh khỏi
những bỡ ngỡ khi tổ chức hoặc tham gia một hoạt đông Đoàn, bởi tính chất hoạt
động Đoàn trong môi trường Đại học khác so với hoạt động trong môi trường
học phổ thông. Mặt khác là sinh viên năm thứ nhất kinh nghiệm trong tổ chức,
tham gia hoạt động Đoàn không phải sinh viên nào cũng có thể trang bị cho
mình từ trước, với một số sinh viên có thể đây là lần đầu tiên các bạn được tham
gia một hoạt động tình nguyện hoặc một hội trại…vì thế mà cách thức tổ chức
hoạt động còn manh mún, nhỏ lẻ, chưa biết liên kết các đoàn viên trong việc
thực hiện nhiệm vụ chung.
Một khó khăn mà phần lớn sinh viên năm thứ nhất ở các trường đều gặp
phải chính là sự thay đổi của môi trường sống, học tập. Nhiều sinh viên cảm
thấy chưa tự tin khi đứng trước đám đông, hay tham gia các buổi học tập nhóm,
chưa quen với phương pháp học tập, giảng dạy…Điều đó là cho nhiều bạn mất

tự tin, lúng túng khi làm việc, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của các bạn rất
nhiều.
Sinh viên năm thứ nhất (K4 ) HV QLGD, tuy là những Đoàn viên thanh
niên mới rời trường xa trường phổ thông và đến với môi trường học Đại học,
ban đầu còn gặp nhiều khó khăn về môi trường sống, học tập…Nhưng chỉ trong
một thời gian ngắn các bạn đã nhanh chóng hòa nhập môi trường mới của mình,
25

×