SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"SỬ DỤNG TÀI LIỆU VĂN HỌC GIÚP HỌC SINH HỨNG THÚ
HỌC TẬP LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 8, 9"
1
Phần một
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Đặc điểm bộ môn
Dạy học lịch sử ở trường phổ thông là một quá trình giáo viên cung cấp cho học sinh
những kiến thức cơ bản của sử dân tộc nói riêng và lịch sử nhân loại nói chung, nhằm
phục vụ cho việc giáo dục học sinh phát triển toàn diện. Lịch sử vốn tồn tại khách quan
và đã diễn ra trong quá khứ, cho nên muốn học sinh tiếp thu được vấn đề đòi hỏi giáo
viên phải lựa chọn các phương pháp dạy học khác nhau sao cho đạt kết quả cao.
Với phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, học sinh chủ động lĩnh hội tri thức,
càng đòi hỏi người thầy giáo phải khai thác triệt để các phương pháp dạy học tích cực để
thu hút sự chú ý của học sinh. Đồng thời lôi cuốn sự ham mê đối với học sinh học môn
lịch sử trong tình hình hiện nay.
Đặc thù của bộ môn Lịch sử là: dài, nhiều sự kiện với những mốc Lịch sử khác nhau nên
khó ghi nhớ.
2. Lí do chọn đề tài
Trong nhà trường phổ thông, bộ môn lịch sử là một trong những bộ môn có tầm
quan trọng và có tính giáo dục rất lớn, nó cung cấp cho học sinh một bức tranh sinh động
về lịch sử loài người và lịch sử dân tộc
Từ đặc điểm bộ môn và yêu cầu thực tế, đòi hỏi chúng ta phải đổi mới phương
pháp dạy học lịch sử nhằm giúp học sinh hứng thú học tập, phát huy tính tích cực của học
sinh, giúp học sinh tư duy và nắm được nội dung kiến thức trọng tâm.
Vì vậy người giáo viên phải sử dụng đến kiến thức các môn học khác như: Địa,
công dân, văn học,… những bộ môn đó làm cho giờ học lịch sử sống động hơn, hấp dẫn
học sinh hơn. Trong đó, nếu giáo viên biết vận dụng một số câu trích dẫn, câu văn, câu
thơ, đoạn trích để miêu tả tường thuật một sự kiện, một cuộc đời hoạt động của nhân vật,
một cuộc cách mạng…sẽ làm phong phú tri thức học sinh, giúp học sinh yêu thích, hứng
thú say mê học tập môn lịch sử và sẽ làm bớt đi sự khô khan của giờ học môn lịch sử. Để
góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng, tôi
xin trình bày một số vấn đề về việc: “Sử dụng tài liệu văn học giúp học sinh hứng thú
học tập lịch sử Việt Nam lớp 8, 9”. Với việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ
góp phần giúp giáo viên có một giờ dạy học có hiệu quả tốt hơn, học sinh tự giác, chủ
động lĩnh hội kiến thức và ngày càng yêu thích học môn lịch sử.
3. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu:
2
Đề tài nghiên cứu giảng dạy và học tập với nội dung “Gây hứng thú học tập lịch sử
bằng tài liệu văn học”. Đối tượng nghiên cứu mà tôi áp dụng cho đề tài này là: Học sinh
lớp 8A, 8B, 9A và 9B của trường THCS Ba Vinh.
Đề tài được thực hiện trong năm học 2012- 2013 và các năm tiếp theo tại trường THCS
Ba Vinh và có thể nhân rộng ra các đơn vị bạn.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp sưu tầm sử liệu.
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp tổng hợp.
- Phương pháp khái quát.
- Thể nghiệm trên lớp.
Phần hai
NỘI DUNG
Chương I
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lí luận
Bác Hồ kính yêu dạy “Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Tại kỳ họp của Quốc hội khoá X năm 2000, Quốc hội X đã thông qua Nghị quyết số
40/2000/QH10 về vấn đề đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Tiếp đó ngày
11/6/2001 Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 14/2001/CT-TTg về đổi mới giáo dục phổ
thông. Trong đó nhấn mạnh mục tiêu của chương trình đổi mới giáo dục phổ thông là
nhằm thay đổi cách dạy và học theo hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh. Một
trong những phương pháp để tích cực hoá hoạt động dạy và học đó là việc dạy học liên
môn.
Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng của dạy học ở trường
phổ thông nói chung, môn lịch sử nói riêng. Nó góp phần bổ sung lượng kiến thức các
môn học khác cho bài học, giúp học sinh hứng thú say mê học tập, góp phần nâng cao
hiệu quả bài học, đồng thời từ đó học sinh hướng đến và làm theo những điều tốt đẹp vì
con người.
Mặt khác, bộ môn lịch sử cung cấp cho học sinh những tri thức ở nhiều lĩnh vực
3
của đời sống xã hội trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc và thế giới (cả tri thức
về khoa học xã hội và khoa học tự nhiên). Do đó việc dạy học liên môn là dùng các kiến
thức ở các bộ môn khác bổ sung, hỗ trợ làm sáng rõ hơn kiến thức mà học sinh đang
được học trong môn học, cụ thể ở đây là bộ môn lịch sử và việc sử dụng tài liệu văn học
trong dạy học lịch sử. Từ cơ sở đó tôi mạnh dạn xin trình bày những kinh nghiệm về sử
dụng tài liệu văn học trong giờ học lịch sử.
1.2. Cơ sở thực tiễn
“Lịch sử là những gì đã diễn ra trong quá khứ; lịch sử loài người mà chúng ta học là
toàn bộ những hoạt động của con người từ khi xuất hiện đến nay”
(SGK Lịch sử 6 – trang 3 – NXB Giáo dục năm 2002)
Như vậy, qua khái niệm trên chúng ta đều thấy rằng: Việc học lịch sử có nét đặc
trưng riêng, có cái khó riêng. Đó là người học không thể tri giác trực tiếp; không thể “sờ”
hay làm thí nghiệm trong phòng thí nghiệm mà buộc phải tư duy, phải trừu tượng hoá,
khái quát hoá để dựng lại những gì đã diễn ra trong quá khứ, thông qua các sự kiện, niên
đại, nhân vật Để làm được điều đó ngoài việc sử dụng các nguồn tư liệu sử học (hiện
vật, văn tự cổ ) thì việc sử dụng các tác phẩm văn học có tác dụng rất lớn trong việc
“dựng lại” lịch sử.
Bên cạnh đó, việc dạy và học lịch sử ở nhiều trường phổ thông hiện nay đang gặp
nhiều khó khăn. Đó là tình trạng đại bộ phận học sinh đang dần “xa lánh” môn lịch sử,
không còn hứng thú với việc học tập môn lịch sử. Đây là thực trạng đáng buồn, bởi vì sử
học ở trường phổ thông có vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm
và hình thành nhân cách của học sinh.
Trong quá trình giảng dạy môn lịch sử, ở các bài học nội dung truyền đạt cho học
sinh chỉ là những kênh chữ, một vài bài có cung cấp thêm hình ảnh, trong các tiết dạy lịch
sử đa số giáo viên chỉ chú ý bám sát nội dung kiến thức trong sách giáo khoa mà chưa
chú ý sử dụng những hình thức khác để bổ trợ làm cho tiết học thêm sinh động. Ví dụ
như: cung cấp thêm những hình ảnh ngoài sách giáo khoa hoặc những mẫu chuyện kể về
những con người đã góp phần xây dựng đất nước để có được những thành tựu của hôm
nay mà trong sách giáo khoa không đề cập đến một cách đầy đủ.
Qua tiết dạy lịch sử tại đơn vị, không những không đem lại hứng thú cho học sinh, mà
tiết học trở nên khô khan, đôi lúc học sinh lại có những suy nghĩ lệch lạc về những nhân
vật lịch sử hoặc những sự kiện lịch sử quan trọng.
Tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng trên, theo tôi có nhiều nguyên nhân. Trong đó
nguyên nhân quan trọng dẫn tới hiện tượng trên đó là: Giáo viên dạy sử còn để giờ dạy sử
4
quá khô khan, nặng nề nên thiếu sự thu hút đối với học sinh. Do đó, để khắc phục hiện
tượng này, theo tôi ngoài việc đổi mới phương pháp, tăng cường sử dụng đồ dùng trực
quan thì chúng ta cần sử dụng nhiều hơn nữa nguồn tài liệu văn học trong giờ học lịch
sử để làm bài giảng thêm sinh động, hấp dẫn hơn.
Chương II
THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện đề tài
2.1.1. Thuận lợi
Thứ nhất: Bản thân là một giáo viên có nhiều năm tham gia giảng dạy môn Lịch sử 8, 9
nên nắm bắt rất rõ đặc điểm của bộ môn, mục đích, yêu cầu của chương trình và nắm bắt
rất rõ những khó khăn mà các em gặp phải khi lĩnh hội kiến thức lịch sử.
Thứ hai: Từ năm học 2011-2012 trường tôi có hai giáo viên giảng dạy bộ môn Lịch sử
với trình độ chuẩn trở lên, đó là điều kiện để chúng tôi thường xuyên thực hiện các
chuyên đề, dự giờ, thao giảng và rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng bộ môn.
Thứ ba: Ngày nay với sự bùng nổ của các phương tiện thông tin truyền thông đã giúp các
em tiếp cận Lịch sử với nhiều nguồn khác nhau để lĩnh hội kiến thức Lịch sử một cách
đầy đủ nhất. Bên cạnh đó các em nhìn nhận bộ môn Lịch sử cũng theo chiều hướng tích
cực hơn.
Thứ tư: Học sinh Trường trung học cơ sở Ba Vinh đa số các em đều ngoan, được trang bị
đầy đủ sách giáo khoa, và có thư viện với các đầu sách để các em tham khảo.
Thứ năm: Bản thân có sức khoẻ tốt, có thời gian công tác giảng dạy; được Ban giám hiệu,
tổ chuyên môn cùng đồng nghiệp trong đơn vị giúp đỡ, tạo điều kiện để hoàn thành tốt
nhiệm vụ.
2.1.2. Khó khăn
Thứ nhất: Học sinh Trường trung học cơ sở Ba Vinh có đến 99 % là con em đồng bào các
dân tộc thiểu số, đời sống vật chất khó khăn, trình độ không đồng đều nên chất lượng bộ
môn thấp, có hạn
Thứ hai: Chưa có phòng học bộ môn, các trang thiết bị phục vụ dạy học vẫn còn thiếu,
xuống cấp.
Thứ ba: Đa số các em chưa biết khai thác các kênh thông tin để nâng cao hiệu quả lĩnh
hội kiến thức Lịch sử.
Thứ tư: Phương pháp nghiên cứu, trình bày, phân tích còn hạn chế
5
Thứ năm: Nguồn tài liệu tham khảo còn hiếm, khó sưu tầm (đặc biệt nguồn văn học
dân gian).
2.2. Thực trạng vấn đề
2.2.1. Đối với giáo viên
Là giáo viên đã công tác được gần 12 năm trong ngành, trong quá trình được tham gia tập
huấn, dự giờ đồng nghiệp và hơn hết là có nhiều năm trực tiếp giảng dạy bộ môn lịch sử
tôi thấy nhiều giáo viên vẫn xem nhẹ bộ môn của mình, tâm lí môn lịch sử là môn phụ, đã
làm cho không ít giáo viên có suy nghĩ “dạy cho xong”, hoặc là chỉ truyền tải những gì
trong sách giáo khoa yêu cầu, mà không chú ý đến việc đầu tư chiều sâu cho bài giảng,
mặt khác chương trình lịch sử lớp 8, 9 vẫn còn dài, nặng về kiến thức, làm cho học sinh
khó khăn trong việc lĩnh hội kiến thức.
Bên cạnh đó, quá trình đào tạo chính quy chuyên ngành lịch sử chỉ có ở bậc đại học còn ở
bậc cao đẳng thì đào tạo môn kép như: Sử - Giáo dục công dân, Sử - Địa, Văn - Sử… đã
làm cho chất lượng đội ngũ giáo viên chưa cao.
2.2.2. Đối với học sinh
Tâm lí học sinh vẫn xem nhẹ bộ môn Lịch sử, coi môn Lịch sử là môn phụ, các em chưa
thực sự tập trung tìm hiểu sâu bài học mà chỉ dừng lại ở mức độ học thuộc những gì thầy
cô cho ghi, mặt khác bộ môn Lịch sử vốn khô khan, dễ nhàm chán, nhiều giáo viên chưa
có phương pháp phù hợp, nên các em không ưa thích, không hứng thú học tập.
Đầu năm học 2013-2014 để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài tôi có làm một bài tập
trắc nghiệm để tìm hiểu động cơ và thái độ học tập của 113 học sinh lớp 8, 9 trường
THCS Ba Vinh như sau:
Hãy chọn phương án mà em cho là phù hợp với bản thân em?
Stt Phương án Đúng Sai
1 Lịch sử chỉ là môn học phụ
2 Môn lịch sử rất khô khan và dài dòng
3 Học lịch sử rất thú vị vì nó giúp em tìm hiểu được
lịch sử loài người và lịch sử dân tộc
4 Học lịch sử chỉ cần học những gì thầy cô cho ghi là
được, không cần phải tìm tòi thêm
6
Kết qủa thu được như sau:
Câu 1: 82 học sinh trả lời đúng, 31 học sinh trả lời sai
Câu 2: 75 học sinh trả lời đúng, 38 học sinh trả lời sai
Câu 3: 50 học sinh trả lời đúng, 63 học sinh trả lời sai
Câu 4: 72 học sinh trả lời đúng, 41 học sinh trả lời sai
Qua kết quả thu được từ bài tập trắc nghiệm chúng ta có thể kết luận: Đa số học sinh vẫn
coi Lịch sử là môn phụ, khô khan, dài dòng và chỉ cần học những gì mà thầy cô cho ghi
là được.
Trong những năm gần đây kết quả các kì thi đại học, cao đẳng cho thấy đa số học sinh
không nắm được những kiến thức của Lịch sử dân tộc, tỉ lệ điểm môn lịch sử đạt trên
điểm trung bình rất thấp, điều đó làm cho chúng ta không khỏi băn khoăn và càng thấy sự
cấp bách của việc thay đổi phương pháp dạy học. Từ những thực trạng trên và nhiều năm
giảng dạy bộ môn lịch sử 8, 9 tôi muốn chia sẻ với đồng nghiệp những kinh nghiệm “Sử
dụng tài liệu văn học giúp học sinh hứng thú học tập lịch sử Việt Nam lớp 8, 9” và
mong muốn làm sao cho các em đừng lãng quên lịch sử.
Chương III
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ “SỬ DỤNG TÀI LIỆU VĂN HỌC GIÚP HỌC SINH
HỨNG THÚ HỌC TẬP LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 8, 9”
Văn học và sử học có mối quan hệ mật thiết với nhau, trước đây người ta cho rằng “Văn,
Sử, Triết bất phân” bởi lúc đó Văn học, Sử học, Triết học chưa trở thành những môn
khoa học độc lập, còn ngày nay chúng đã trở thành các môn khoa học độc lập, nhưng
giữa chúng vẫn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Do đó, Văn học bổ trợ cho Sử học,
ngược lại Sử học bổ trợ cho Văn học, vì vậy nếu chúng ta biết vận dụng yếu tố Văn học
trong dạy học Lịch sử thì hiệu quả dạy học Lịch sử sẽ được nâng lên.
3.1. Tài liệu tham khảo trong dạy học lịch sử
Theo tiến sĩ N.G Đairi trong cuốn “Chuẩn bị bài học lịch sử như thế nào” (NXB
Giáo dục Hà Nội 1973 – trang 35). Thì bài giảng lịch sử trên lớp nên thực hiện theo sơ
đồ sau:
1 2
2 3
7
Trong đó, con số 1 chỉ phần tài liệu tham khảo không có trong SGK, giáo viên đưa vào
bài giảng nhằm nâng cao tính khoa học, sự trong sáng vừa sức, sự hấp dẫn lôi cuốn của
giờ học lịch sử.
Ngoài SGK, tài liệu tham khảo có vị trí, ý nghĩa quan trọng trong việc làm phong
phú kiến thức lịch sử đang học, hiểu sâu hơn quá khứ, tạo bài giảng hấp dẫn, sinh động
có sức lôi cuốn học sinh.
Phân loại tài liệu tham khảo, theo tài liệu BDTX chu kì III, nó có các loại như sau:
- Tài liệu lịch sử gốc: Gồm các văn kiện, tài liệu có liên quan trực tiếp đến sự kiện,
ra đời vào thời điểm xảy ra sự kiện như các hiệp ước, điều ước, tuyên ngôn Ví dụ:
Hiệp ước Hác Măng (1883); tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước VNDCCH (2/9/1945).
- Tài liệu, văn kiện của Đảng, Nhà nước, phong trào công nhân và cộng sản Quốc
tế
- Các tài liệu văn học (văn học dân gian, văn học bác học, văn học hiện đại )
- Tài liệu lịch sử rút ra từ các công trình nghiên cứu sử học, dân tộc học
Như vậy, trong giờ dạy học việc sử dụng tài liệu tham khảo giúp học sinh có thêm
cơ sở để nắm vững, hiểu bản chất sự kiện lịch sử, hình thành khái niệm, hiểu rõ quy luật,
bài học của lịch sử, nó giúp các em khắc phục việc “hiện đại hoá” lịch sủ hoặc “hư cấu”
sai sự thực lịch sử.
3.2. Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học Lịch sử
3.2.1. Vai trò, ý nghĩa của tài liệu văn học
Tài liệu văn học trong quá trình dạy học lịch sử ở trường phổ thông có vai trò to
lớn.
Trước hết, các tác phẩm văn học với những hình tượng cụ thể có tác động mạnh mẽ
đến tư tưởng, tình cảm của học sinh, nó giúp học sinh tiếp nhận kiến thức, khắc sâu kiến
thức một cách dễ dàng hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài 20 (lịch sử 6) – “Từ sau Trưng Vương đến trước Lí Nam Đế”
ở mục 4. Cuộc khởi n ghĩa Bà Triệu (năm 248) để khắc sâu hình ảnh oai phong của Bà
Triệu khi xung trận giáo viên nên sử dụng 2 câu thơ sau:
Hoành qua đương hổ dị (Vung giáo chống hổ dể)
Đối diện bà vương nan (Giáp mặt vua Bà Khó)
Thứ hai, các tác phẩm văn học góp phần làm cho bài giảng thêm sinh động, hấp
dẫn nâng cao, hứng thú của học sinh.
8
3.2.2. Các loại tài liệu văn học và cách sử dụng
Trong việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông tuỳ vào từng khoá trình, nội dung
từng bài, từng phần mà giáo viên có thể đưa vào bài giảng các loại tài liệu văn học khác
nhau như: Văn học dân gian; tác phẩm văn học ra đời vào thời kì xảy ra sự kiện lịch sử;
Tiểu thuyết lịch sử; Hồi kí cách mạng Mỗi loại lại có ý nghĩa khoa học riêng, dó đó khi
sử dụng phải phù hợp với yêu cầu bài giảng; với từng sự kiện, nhân vật lịch sử mà giáo
viên lựa chọn đưa vào.
a. Văn học dân gian
Văn học dân gian ra đời từ rất sớm và rất phong phú với nhiều thể loại khác nhau
như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, ca dao, dân ca Đây là những tài liệu có
giá trị, nó phản ánh nội dung nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc.
Ví dụ như: khi dạy bài 15 “Nước Âu Lạc”. Khi giảng dạy về việc xây dựng thành
Cổ Loa và cuộc kháng chiến chống quân xâm lượcTriệu, giáo viên có thể đưa vào đó một
số câu chuyện cổ tích về Nỏ Thần, về xây Thành Cổ Loa. Nhưng quan trọng hơn là qua
những câu chuyện đó giáo viên phải giúp học sinh thấy được bước tiến lớn của quân dân
Âu Lạc về kĩ thuật xây dựng cũng như kĩ thuật chế tác vũ khí.
Các loại hình văn học dân gian còn góp phần minh hoạ, làm rõ sự kiện, nhân vật
lịch sử. Do đó, giáo viên nên đưa vào để học sinh hiểu rõ hơn về sự kiện, nhân vật lịch sử
đó
Không những vậy, tài liệu văn học dân gian còn làm cho bài học sinh động, tạo
được không khí gần gũi với bối cảnh lịch sử đang học. Nó phản ánh những hiểu biết về
các sự kiện lịch sử đang học, giúp học sinh hiểu được vấn đề cụ thể rõ ràng hơn.
Ngoài ra, việc sử dụng tài liệu văn học dân gian còn giúp học sinh biết được, hiểu được
về chí khí con người, về địa danh của một nhân vật lịch sử nào đó.
Ví như khi nói về Lí Công Uẩn giáo viên có thể dùng 4 câu thơ sau:
“Màn có trời cao, chiếu đất liền
Đêm trăng thanh thả giấc thần tiên
Suốt đêm nào dám vung chân duỗi
Chỉ sợ sơn hà xã tắc nghiêng.”
Bên cạnh những tác dụng trên, việc sử dụng tài liệu văn học dân gian sẽ giúp cho
việc giáo dục tư tưởng, đạo đức nói chung và giáo dục truyền thống dân tộc nói riêng có
kết quả hơn. Chẳng hạn như: để giáo dục truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc,
giáo viên có thể sử dụng trong bài giảng những tác phẩm như: Hịch Tướng Sĩ; bài thơ
9
Thần của Lí Thường Kiệt; Hoặc để giáo dục lòng biết ơn các vua Hùng, giáo viên sử
dụng hai câu nói của Bác Hồ: “Các vua Hùng đã có công dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước.”
b. Các tác phẩm văn học ra đời vào thời kì diễn ra các sự kiện lịch sử
Đối với các tác phẩm văn học này, nó có ý nghĩa rất lớn đối với khi khui lại
hình ảnh quá khứ. Nó làm quá khứ của sự kiện lịch sử trở lên sống động hơn, chân
thật hơn. Sự kiện trở nên có sức sống hơn và thu hút học sinh hơn khi theo dõi bài
giảng.
Trong quá trình lịch sử từ đầu thế kỉ XX, khi nói về sự biến đổi của xã hội Việt
Nam, cũng như thân phận của người nông dân trong xã hội thuộc Pháp. Giáo viên có thể
sử dụng nhiều tác phẩm văn học có giá trị như: “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố; “Bước đường
cùng” của Nguyễn Công Hoan; “Lão Hạc” của Nam Cao để khắc sâu hình ảnh thân
phận người nông dân trong lòng xã hội cũ.
Như vậy có thể nói rằng các tác phẩm văn học, xuất hiện cùng thời kì diễn ra các sự kiện
lịch sử, đã giúp học sinh thấy được “bức tranh” sống động của lịch sử, làm cho các em
nhận thức được sự kiện đómột cách toàn diện hơn.
c. Tiểu thuyết lịch sử
Tiểu thuyết lịch sử có vai trò không nhỏ đối với việc dạy học lịch sử, vì các tiểu
thuyết này có chủ đề gần với những sự kiện trong khoá trình lịch sử, giúp học sinh khôi
phục lại bối cảnh lịch sử, hình ảnh các sự kiện nhân vật của quá khứ. Ví như: Tiểu thuyết
“Đêm hội long trì”; tác phẩm “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” tuy nhiên khi dạy giáo
viên cần lựa chọn, sáng lọc loại bỏ những tiểu thuyết bịa đặt, ảnh hưởng xấu đến nhận
thức lịch sử của học sinh.
3.3. Phương pháp sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử
Theo Trịnh Tùng, trong cuốn Phương pháp dạy học lịch sử (trang 164. NXB Giáo
Dục 1999) để sử dụng tài liệu văn học trong giờ dạy lịch sử, có thể tiến hành theo cách
sau:
Thứ nhất: Đưa vào bài giảng một đoạn thơ, đoạn văn ngắn nhằm minh hoạ những
sự kiện đang học làm cho nội dung bài học được phong phú và giờ học thêm sinh động.
Thứ hai: Dùng một đoạn trích để cụ thể hoá sự kiện, nêu ra kết luận khái quát giúp
học sinh hiểu sâu sắc hơn một thời kì, một sự kiện lịch sử.
Thứ ba: Tài liệu văn học được sử dụng để tổ chức những buổi ngoại khoá (Dạ hội
lịch sử).
10
Tuỳ vào nội dung bài học, tiết dạy và năng lực của mỗi giáo viên mà chúng ta có
thể sử dụng một trong những cách trên sao cho phù hợp.
3.4. Một số yêu cầu khi sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử
Sử dụng tài liệu văn học trong giờ học sử giúp giờ học trở nên sinh động, hấp dẫn
lôi cuốn học sinh, giúp học sinh có cái nhìn đa chiều đối với một sự kiện, một nhân vật,
một hiện tượng lịch sử. Dễ dàng đưa kiến thức sử đến với học sinh. Tuy vậy, theo tôi việc
sử dụng tài liệu văn học trong giờ học sử phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Thứ nhất: Tài liệu văn học đó phải đảm bảo cả giá trị giáo dưỡng, giáo dục và giá
trị văn học.
Thứ hai: Tài liệu ấy phải là một bức tranh sinh động về những sự kiện, nhân vật
lịch sử đang học phải phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh.
Thứ ba: Đối với giáo viên:
- Trước khi sử dụng, cần có sự lựa chọn kĩ càng, phải loại bỏ những yếu tố không
phù hợp. Đặc biệt đối với tài liệu văn học dân gian như thần thoại, cổ tích, ca dao, dân
ca giáo viên cần loại bỏ những yếu tố thần bí hoang đường giữ lại những điểm cơ bản,
khoa học phục vụ bài giảng.
- Khi sử dụng giáo viên chỉ đưa vào những nội dung phù hợp, tránh việc lạm
dụng đưa vào quá nhiều, làm loãng nội dung bài học lịch sử, biến giờ học sử thành giờ
giới thiệu các tác phẩm văn học, ảnh hưởng tới sự tập trung nhận thức của học sinh
vào những vấn đề đang học. Đồng thời, giáo viên cần sử dụng ngữ điệu phù hợp với
tài liệu văn học, với nội dung sự kiện lịch sử cần minh hoạ phải đưa vào bài giảng một
cách hợp lí, lôgíc làm được điều đó thì tính thuyết phục, hấp dẫn sẽ tăng lên rất
nhiều.
Nói tóm lại, việc sử dụng tài liệu văn học trong giờ học sử là một trong những cách
thức để giáo viên đưa tài liệu tham khảo vào trong giờ dạy sử. Thực hiện theo sơ đồ dạy
học của Đairi, qua đó hoàn thành mục tiêu bài học, kế hoạch dạy học và nâng cao chất
lượng bộ môn trong trường phổ thông.
3.5. Minh họa cách “Sử dụng tài liệu văn học giúp học sinh hứng thú học tập lịch sử
Việt Nam lớp 8, 9”
3.5.1. Minh họa cách sử dụng tài liệu văn học trong dạy học trong một số bài ở
chương trình lịch sử Việt Nam lớp 9
Bài 14: Việt Nam sau chiến tranh Thế giới thứ nhất
Ở mục I. Chương trình khai thác lần thứ hai của thực dân Pháp
11
Khi giảng đến phần Thực dân Pháp tăng cường đầu tư vào nông nghiệp và khai mỏ giáo
viên có thể minh họa bằng câu thơ:
“Em đi ra Hòn Gai cuốc mỏ
Anh đi vào đất đỏ làm phu
Đổi thân được mấy đồng xu
Thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng”
Hoặc: “Cao su đi dễ khó về
Khi đi trai tráng, khi về bủng beo”
Hay: “Cao su đi dễ khó về
Khi đi mất vợ, khi về mất con”
Hoặc: "Chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn,
nước ta xơ xác, tiêu điều, chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí, làm cho dân ta nhất là dân cày và dân buôn trở nên
bần cùng.
Chúng không cho các nhà tư sản ngóc đầu lên, chúng bóc lột công nhân vô cùng tàn
nhẫn…”
(Trích: "Tuyên ngôn độc lập")
Các câu thơ này và đoạn trích trong "Tuyên ngôn độc lập" giúp cho học sinh hiểu được
chính sách bóc lột của thực dân Pháp đối với nhân dân ta và giáo dục lòng căm thù giặc
cho học sinh, có thái độ thương yêu những người lao động chân chính.
Ở mục II. Các chính sách chính trị, văn hóa, giáo dục
Khi giảng giáo viên có thể trích dẫn: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học, chúng
thẳng tay chém giết những người yêu nước, thương nòi của ta, chúng tắm những cuộc
khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu
dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược…”
( Trích: " Tuyên ngôn độc lập")
Đây là dẫn chứng: chứng tỏ chính sách bóc lột thâm độc của thực dân Pháp đối với nhân
dân ta bác bỏ luận điệu “Khai phá văn minh” của mẫu quốc, qua đó giáo dục lòng yêu
nước, lòng căm thù giặc cho học sinh.
12
Bài 16: Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài trong những năm 1919-
1925.
Ở mục I. Nguyễn Ái Quốc ở Pháp (1917- 1923)
Khi giảng giáo viên có thể trích dẫn Bản yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm:1.
Tổng ân xá những người bản xứ bị tù chính trị.
2. Cải cách nền pháp lí Đông Dương bằng cách để người bản xứ cũng được quyền
hưởng những bảo đảm pháp lí như người châu âu. Xóa bỏ hoàn toàn những tòa án đặc
biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An
Nam.
3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận.
4. Tự do lập hội và hội họp.
5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương.
6. Tự do học tập, thành lập các trường kĩ thuật tại tất cả các tỉnh cho người bản xứ.
7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật.
8. Có đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra tại Nghị viện Pháp
để giúp cho Nghị viện biết được nguyện vọng của người bản xứ.
( Trích: "Bản yêu sách của nhân dân An Nam")
Hoặc: Khi đọc luận cương của Lê-nin:
“…Luận cương đến Bác Hồ và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê Nin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài đất nước đợi mong tin
Bác reo lên một mình như nói cùng đất nước
“Cơm áo là đây, hạnh phúc đây rồi”
Hình của Đảng lồng trong hình của nước
Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười…”
Mục II. Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô (1923-1924)
“Tuyết Mát -cơ -va sáng ấy lạnh trăm lần
Trông tuyết trắng như đọng nghìn nước mắt
13
Lê Nin mất rồi nhưng Bác chẳng dừng chân
Luận cương của Lê Nin theo người về quê Việt
Biên giới còn xa nhưng Bác đã đến rồi
Kìa bóng Bác đang hôn lên hòn đá
Lắng nghe trong màu hồng hình đất nước phôi thai”
(Trích: "Người đi tìm hình của nước" của Chế Lan Viên)
Hoặc: “Tháng giêng, Mạc Tư Khoa tuyết trắng
Một người đi quên rét buốt xương
Anh tìm ai? Lê-nin vĩ đại
Tinh hoa trên đất chất kim cương”
(Trích: "Theo chân Bác" của Tố Hữu)
Trên đây là dẫn chứng nhằm cung cấp thêm tư liệu cho học sinh về “Bản yêu sách của
nhân dân An Nam” của Nguyễn Ái Quốc gửi đến hội nghị Véc-xai, qua các dẫn chứng
này, chúng ta còn giúp học sinh dễ nhớ được các mốc lịch sử và giáo dục cho học sinh
tình cảm của mình dành cho Bác Hồ.
Bài 17: Cách mạng Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Mục III. Việt nam quốc dân đảng và cuộc khởi nghĩa Yên Bái (1930)
Khi nói về chủ nghĩa “Tam dân” của Tôn Trung Sơn giáo viên có thể trích dẫn câu: “Độc
Lập - Tự Do - Hạnh Phúc” trong quốc hiệu của nước ta và liên hệ cách mạng Trung Quốc
với cách mạng Việt Nam.
Dân tộc: Độc lập
Dân quyền: Tự do.
Dân sinh: Hạnh phúc.
Bài 19: Phong trào cách mạng trong những năm1930 -1935
Nhằm khắc sâu địa danh cách mạng trong thời kì này giáo viên đọc đoạn thơ trong bài
"Thơ cách mạng”:
“Kìa Bến Thuỷ đứng đầu dậy trước
Nọ Thanh Chương tiếp bước đứng lên
Nam Đàn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên
14
Anh Sơn, Hà Tĩnh một phen dậy rồi”
Mục II: Phong trào cách mạng 1930 – 1931 với đỉnh cao Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Giảng về phong trào ở Nghệ Tĩnh giáo viên có thê đưa vào bài giảng đoạn trích sau trong
“Bài ca cách mạng” cụ thể là:
“ Than ôi, nước mất nhà xiêu
Thế không chịu nổi, liệu chiều tính mau
Kìa Bến Thuỷ đứng đầu dậy trước
Nọ Thanh Chương tiếp bước, bước lên
Nam Đàn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên
Anh Sơn, Hà Tĩnh 1 phen dậy rồi
Trên gió cả cờ đào phất thẳng
Dưới đất bằng giấy trắng tung ra
Chiến trường một trận xông pha
Bên kia đạn sắt, bên ta gan vàng ”
Bài 22. Cao trào cách mạng tiến tới tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945
Mục I. Mặt Trận Việt Minh ra đời
Khi nói đến sự kiện Nguyễn Ái Quốc về nước ngày 28/1/1941 giáo viên liên hệ:
“Ôi sáng xuân nay, xuân 41!
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn nơ
Bác đã về đây, Tổ quốc ơi!
Nhớ thương hòn đất ấm hơi Người
Ba mươi năm ấy chân không nghỉ
Mà đến bây giờ mới tới nơi”
(Trích: "Theo chân Bác" của Tố Hữu)
Qua bài thơ này học sinh dễ dàng nhớ được mốc thời gian Bác Hồ về nước là mùa xuân
năm 1941 và năm ra đi tìm đường cứu nước là 1911 ( ba mươi năm ấy…)
15
Để thấy không khí cách mạng sôi sục dâng trào, ta liên hệ các câu thơ sau:
“Đồng cỏ héo đã bùng lên lửa cháy
Nước non ơi hết thảy vùng lên
Bắc, Trung, Nam khắp 3 miền
Toàn dân khởi nghĩa chính quyền về tay”
Học sinh thấy được vai trò quần chúng để làm nên lịch sử, củng cố nhận thức, tư tưởng
của các em làm cho các em càng khắc sâu truyền thống anh hùng của dân tộc.
Bài 23: Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành lập nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa.
Mục I: Lệnh tổng khởi nghĩa được ban bố.
Trong mục này giáo viên cần trích đoạn:
“Việt Nam độc lập đồng minh
Có bản chương trình đánh Nhật, đánh Tây
Quyết làm cho nước non này,
Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền
Rồi ra sự nghiệp hoàn thành
Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng
Khuyên ai nên nhớ chữ đồng,
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”
(Bản diễn ca: "Mười chính sách của Việt Minh" của Hồ Chí Minh)
Bản diễn ca này giúp cho chúng ta nắm được các chính sách của mặt trận Việt Minh.
Mục III. Giành chính quyền trong cả nước
Nhân sự kiện Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập, nhà thơ Tố Hữu viết:
“Hôm nay sáng mồng hai, tháng chín
Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình
Muôn triệu tim chờ chim cũng nín
Bỗng vang lên câu hát ân tình
Hồ chí minh! Hồ chí minh!
Người đọc tuyên ngôn rồi chợt hỏi:
16
Đồng bào nghe tôi nói rõ không?
Ôi! Câu hỏi hơn một lời kêu gọi
Rất đơn sơ mà ấm bao lòng
Cả muôn triệu một lời đáp: Có !
Như Trường Sơn say gió Biển Đông…”
Bài thơ này giúp học sinh dễ nắm không gian và thời gian Bác Hồ đọc bản “Tuyên ngôn
độc lập”, giáo dục cho học sinh tình cảm thân thương, gần gũi dành cho Hồ Chủ Tịch;
khắc họa hình tượng Bác Hồ vĩ đại, làm cho các em nhớ mãi không quên ngày 2 tháng 9
năm 1945.
Bài 25: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946-
1950).
Mục I. Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ
Giáo viên dẫn: Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng,
thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân
tộc hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc.
Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc xuổng, gậy
gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã đến, ta phải hi sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước, dù phải
gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hi sinh, thắng lợi nhất định về dân
tộc ta.
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi muôn năm!
(Trích: "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" của Hồ Chí Minh)
Lời kêu gọi của Chủ Tịch Hồ Chí Minh rất ngắn gọn và súc tích, lời kêu gọi đã nói rõ
được âm mưu của thực dân Pháp và tinh thần đấu tranh vì độc lập của nhân dân Việt
Nam, qua đó học sinh biết được khí thế cách mạng của những năm đầu kháng chiến
chống Pháp.
17
Hoặc: Giọng của Người không phải sấm trên cao
Thấm từng tiếng ấm vào lòng mong ước
Con nghe Bác tưởng nghe lời non nước
Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau
Học sinh thấy rằng lời kêu gọi của Bác là tiếng gọi của non sông đất nước, là mệnh lệnh
của cách mạng tiến công dục dã soi đường chỉ lối cho mọi người Việt Nam đứng dậy cứu
nước.
Mục IV. Chiến dịch Việt Bắc Thu- Đông năm 1947
Qua thơ ca giúp học sinh xác định được các địa danh trong chiến dịch:
“Anh kể chuyện tôi nghe
Trận chợ Đồn chợ Rã
Ta đánh giặc chạy re
Hai đứa cười ha ha”
Bài 26: Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1950-
1953)
Mục I. Chiến dịch Biên giới Thu- Đông 1950
Bác Hồ của chúng ta đã trực tiếp ra trận để chỉ đạo chiến dịch. Khi dạy bài này giáo viên
có thể cung cấp thêm cho học sinh bài thơ “Đêm nay Bác không ngũ”
“Anh đội viên thức dậy
Thấy trời khuya lắm rồi
Mà sao Bác vẫn ngồi
Đêm nay Bác không ngủ
……”
Bài 27: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc (1953-
1954)
Giáo viên có thể sử dụng các tác phẩm văn học viết về Điện Biên Phủ trong thời kì này
vào bài giảng như bài “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” (Tố Hữu) giáo viên có thể trích dẫn
hai câu thơ sau để khắc sâu về hình ảnh chiến đấu dũng cảm của chiến sĩ Điện Biên đó là:
“Khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt
Máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn.”
Mục 2. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ từ lúc mở đầu ngày 13/3/1954 đến khi kết thúc
18
ngày 7/5/1954 giáo viên giảng thêm:
“Năm mươi sáu ngày đêm
Khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không sờn…”
Hoặc: “Kháng chiến ba ngàn ngày
Không đêm nào vui bằng đêm nay
Đêm lịch sử Điện Biên sáng rực
Trên đất nước, như huân chương trên ngực
Dân tộc ta dân tộc anh hùng”
Hay: “Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng…”
(Trích: “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” Tố Hữu)
Qua các bài thơ này giúp học sinh dễ dàng ghi nhớ thời gian diễn ra chiến dịch Điện Biên
Phủ (56 ngày đêm), chín năm kháng chiến chống Pháp (từ 1946 đến 1954) và làm cho
học sinh hiểu rõ sự hi sinh, gian khổ và đã làm nên một Điện Biên Phủ chấn động địa
cầu. Niềm tự hào dân tộc, thôi thúc các em ra sức học tập và rèn luyện nêm người
Qua khổ thơ học sinh thấy được sự đồng lòng đồng sức của nhân dân ta trong Chiến dịch
Điện Biên Phủ: “Dốc Pha Đin chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô anh hò chị hát”
Hoặc: “Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rủ bùn đứng dậy sáng loà”
(Nguyễn Đình Thi)
Mục III. Hiệp Định Giơnevơ năm 1954
“Sông Bến Hải bên bồi bên lỡ
Cầu Hiền Lương bên nhớ bên thương
Cách chia mười mấy năm trường
19
Khi mô mới nối được đường vô ra”
Một giới tuyến quân sự tạm thời, nhưng đế quốc Mĩ đã âm mưu chia cắt đất nước ta lâu
dài Nam- Bắc ngăn cách nước:
“Nhưng súng gươm đâu ngăn được tình thương
Đâu ngăn được mặt trời đỏ rực
Khi lòng tôi đã hoá hướng dương”
(Lê Anh Xuân)
Bài 28: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, đấu tranh chống Đế Quốc Mĩ và chính
quyền Sài Gòn ở Miền Nam (1954-1965)
Với chính sách tố cộng, diệt cộng và đạo luật 10/59 của Mĩ - Diệm, qua khổ thơ học sinh
thấy được tộ ác của Mĩ- Ngụy
“Có những ông già chúng khảo tra
Chẳng khai nó chém giữa sân nhà
Có chị gần sinh không chịu nhục
Lấy vồ nó đập vọt thai ra”
(Tố Hữu)
Khi nói đến Miền Bắc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965 )
“ Hỡi Miền Bắc đó nặng đôi vai
Gánh cả non sông vượt dặm dài
Xẻ dọc trường sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Hoặc “Từ ngày anh đi ruộng đồng em đảm đang
Ruộng chẳng chăng dây cây lúa thẳng hàng
Đào đắp đê khơi nước vào làng”
Qua các khổ thơ trên học sinh thấy được sự quyết tâm thi đua giữa hậu phương và tiền
tuyến cùng đồng lòng chung sức lập công và tin tưởng ngày chiến thắng.
Bài 29. Phần IV-mục 2: Nhân dân miền bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (chiến tranh phá
hoại lần 2 của Mĩ với 12 ngày đêm ở Hà Nội, Hải Phòng…)
“Chúng muốn biến ta thành tro bụi
20
Ta hoá vàng nhân phẩm lương tâm
Chúng muốn ta bán mình ô nhục
Ta làm sen thơm ngat giữa đầm….
Cả bốn biển hoan hô Hà Nội
Pháo đài bay rụng đỏ mặt hồ”
(Tố Hữu)
3.5.2. Minh họa cách sử dụng tài liệu văn học trong dạy học trong một số bài ở
chương trình lịch sử Việt Nam lớp 8
Bài 24: Cuộc kháng chiến chống từ năm 1858 đến năm 1873
Khi nói đến tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược thì chế độ phong kiến
khủng hoảng trầm trọng kéo theo khủng hoảng về kinh tế, xã hội như nông nghiệp sa sút,
đất đai khai khẩn được lại rơi vào tay địa chủ, dân phiêu tán khắp nơi. Giáo viên có thể
trích một bài vè nói về tình cảnh của nhân dân ở giai đoạn này:
“Cơm thì chẳng có
Rau cháo cũng không
Đất trắng xóa ngoài đồng
Nhà giàu niêm kín cổng
Còn một bộ xương sống
Vơ vất đi ăn mày”
Mục 2: Chiến sự ở Gia Định 1959.
- Ngày 17/2/1859, Pháp nổ súng đánh thành Gia Định, quân triều đình nhanh chóng tan
rã, Nguyễn Đình Chiểu đã ghi lại sự kiện bi thảm này qua bài thơ “Chạy giặc”
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.
Bỏ nhà lũ tẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ đàn chim dáo dát bay
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây
Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
21
Nỡ để dân đen mắc nạn này”
(Theo thơ văn Nguyễn Đình Chiểu – NXB Văn học, Hà Nội 1963)
- Trong khi phong trào chống Pháp diễn ra khắp nơi thì triều đình nhà Nguyễn lại lần
lược kí với Pháp từ hiệp ước Nhâm Tuất làm cho nhân dân vô cùng phẫn nộ, giáo viên có
thể minh họa:
“Tan nhà cám nổi câu ly hận
Cắt đất thương thay cuộc giảng hòa
Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ
Ngậm cười hết nói nổi quan ta”
(Cảm khái – Phan Văn Trị)
Mục 2: Kháng chiến lan rộng ra ba tỉnh miền Tây Nam Kì
- Để nói lên khí thế chống giặc của người dân Nam Bộ nói chung, ba tỉnh miền Tây
Nam Kì nói riêng, giáo viên có thể trích một đoạn trong văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc của
Nguyễn Đình Chiểu như:
“Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn: Toan lo nghèo khó.
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ
Bữa thấy bòng bong che trắng lấp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen xì,
muốn ra cắn cỏ”.
Hoả mai đánh bằng rơm con cúc, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng
bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ ”
- Khi Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kì rồi chiếm luôn ba tỉnh miền Tây Nam
Kì, Nguyễn Trung Trực đã đấu tranh anh dũng qua hai trận đánh: đánh chìm tàu Ét-pê-
răng của địch trên sông Vàm Cỏ Đông (10/12/1861), tiêu diệt đồn kiên Giang
(16/6/1868), ông đã được danh sĩ Huỳnh Mẫn Đạt khen ngợi qua hai câu thơ sau:
“Lửa bừng Nhựt Tảo rêm trời đất
Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần”
- Hay giáo viên có thể lấy câu nói của Nguyễn Trung Trực khi ông bị giặc đem đi hành
hình: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây” Vừa là
ý chí chống giặc của ông đồng thời là ý chí chống giặc của toàn dân Việt Nam.
22
- Cũng có thể sử dụng đoạn trích của Gosselin người Pháp nói về tinh thần chiến đấu của
nhân dân Việt Nam vì độc lập dân tộc: “Đứng trước vũ khí của chúng ta, những người An
Nam chỉ có một phương sách duy nhất là hi sinh cho sự bảo vệ các quyền tự do của họ.
Họ đã bình tĩnh đương đầu cái chết với một sự can đảm tột đỉnh và trong số rất đông
những người ngã xuống vì những viên đạn của các đơn vị hành hình hay dưới làn gươm
của các tên đao phủ, chúng tôi không bao giờ ghi nhận được một sự yếu đuối nào”.
Bài 25 “Kháng chiến lan rộng ra toàn quốc (1873-1884)
- Chiến thắng tiêu biểu trong cuộc đấu tranh của quân dân Bắc Kì là chiến thắng Cầu
Giấy lần nhất (21/12/1873) và chiến thắng Cầu Giấy lần hai (19/5/1883), chiến thắng này
công lớn thuộc về đội quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc, để khắc họa về tài cũng như tinh
thần chống Pháp của Lưu Vĩnh Phúc như sau:
“Cung kiếm tài cao ít kẻ lường
Đáo để anh hùng lòng bất khuất
Về Tàu còn nguyện giết Tây dương”
- Sau hiệp ước Giáp Tuất 1874, nhân dân phản đối mạnh mẽ, nhân dân không chỉ đánh
Tây mà chống cả triều đình:
“Dập dìu trống đánh cờ xiêu
Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây”
Mục II – phần 2: Nhân dân Bắc Kì tiếp tục kháng Pháp.
Để làm cho học sinh hiểu rõ tình cảnh rối ren của triều Nguyễn khi Tự Đức mất cũng như
hiểu tại sao Pháp lại không nhân nhượng triều Nguyễn như năm 1874 nữa. Giáo viên có
thể đọc cho học sinh nghe hai câu ca dao sau:
“Một nhà sinh được Ba vua
Vua sống, vua chết, vua thua chạy dài”
(Ba vua này là Đồng Khánh (sống), Kiến Phúc (chết), Hàm Nghi chạy ra Sơn
phòng đều là con của Kiến Thái Vương (một nhà))
Bài 29: Chính sáh khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và những chuyển biến về
kinh tế, xã hội ở Việt Nam.
Phần I mục 1: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp,
dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp đã làm
cho kinh tế cũng như xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến, khi phân tích cuộc sống của
người công nhân giáo viên có thể nhấn mạnh bằng các nội dung sau:
23
“Cao su đi dễ khó về
Khi đi trai tráng khi về bủn beo”
Hay: “Cao su xanh tốt lạ đời
Mỗi cây bón một xác người công nhân”
Phần I mục 2: Để mô phỏng cảnh nhân dân ta phải nộp sưu thuế, giáo viên có thể sử
dụng bốn câu ca dao sau:
“Ôi nhớ những năm nào thuở trước
Xóm làng ta xơ xác héo hon
Nửa đêm thuế thúc trống dồn
Sân đình máu chảy đường thôn lính đầy”
Bài 30: Phong trào yêu nước chống Pháp từ đầu thếkỉ XX đến năm 1918.
Vào đầu thế kỉ XX, các sĩ phu yêu nước đã tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản, thực hiện
phong trào cách mạng theo khuynh hướng mới mà tiêu biểu là Phan Bội Châu và Phan
Châu Trinh.
- Phan Bội Châu với xu hướng bạo động, thành lập hội Duy Tân với chủ trương đánh
đuổi giặc Pháp giành độc lập, ngày 24/12/1913, Phan Bội Châu bị giới quân phiệt Trung
Quốc bắt giam tại nhà tù Quảng Đông (Tr ung Quốc). Để khắc họa hình ảnh Phan Bội
Châu giáo viên trình bày nội dung ngắn gọn tác phẩm “Những trò lố hay là Varen và
Phan Bội châu” của Nguyễn Ái Quốc: “Trước khi Va-ren từ Pháp sang Đông Dương
nhận chức Toàn quyền y hứa sẽ chăm sóc vụ Phan Bội Châu. Khi gặp cụ Phan, Va-ren ra
sức dụ dỗ, thuyết phục, nhưng vẫn không mua chuộc được Phan Bội Châu, cụ Phan thì tỏ
thái độ im lặng, dửng dung, anh lính dõng thì quả quyết rằng có thấy đôi ngọn râu mép
của cụ Phan nhếch lên một chút, nhân chứng thứ hai lại quả quyết cụ Phan đã nhổ vào
mặt Va-ren”.
- Phan Châu Trinh theo xu hướng cải cách với nội dung chủ yếu là cải cách về văn hóa –
xã hội gắn liền với giáo dục lòng yêu nước, mở trường Đông Kinh nghĩa thục tại Hà Nội,
các buổi diễn thuyết bhay bình văn thu hút được nhiều tầng lớp tham gia như có quan lại,
binh lính, viên chức, nông dân … một bài văn thời đó đã viết:
“Buổi diễn thuyết, người đông như hội
Kì bình văn, khách đến như mưa”
- Khi nói về sự biến đổi của xã hội Việt Nam, cũng như thân phận của người nông
dân trong xã hội thuộc Pháp. Giáo viên có thể sử dụng nhiều tác phẩm văn học có giá trị
24
như: “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố; “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan; “Lão
Hạc” của Nam Cao để khắc sâu hình ảnh thân phận người nông dân trong lòng xã hội
cũ.
Ngoài ra tài liệu văn học được sử dụng để tổ chức những buổi hoạt động ngoại khóa cho
môn lịch sử, nhằm cung cấp thêm kiến thức và phát triển tư duy cho học sinh, muốn đưa
tài liệu văn học vào dạy lịch sử trong hoạt động ngoại khóa có hiệu quả thì giáo viên phải
giúp học sinh lập danh mục sách cần đọc, nêu một số tác phẩm truyện hoặc thơ có liên
quan để học sinh tìm dễ dàng. Giáo viên có thể khơi dậy tính hiếu kì và lòng ham hiểu
biết của học sinh bằng cách tóm tắt sơ lược nội dung trong sách, kể một vài chi tiết,
những đoạn nhỏ trong sách để kích thích học sinh tiếp tục đọc để tìm hiểu.
Trên đây là một số dẫn chứng trong việc sử dụng yếu tố Văn học trong dạy học Lịch sử,
nội dung văn học gắn liền với sự kiện Lịch sử, Văn học phản ánh Lịch sử dân tộc, nếu
trong quá trình giảng dạy giáo viên biết vận dụng một cách linh hoạt kiến thức Văn học
thì sẽ làm cho bộ môn đỡ khô khan, đỡ nhàm chán hơn cho các em, gây cho học sinh sự
thích thú tìm tòi, khai thác kiến thức Lịch sử và hơn hết là giúp các em dễ nhớ, dễ thuộc.
Chương IV
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Tôi đã sử dụng kinh nghiệm này vào các tiết dạy và đạt được kết quả khả quan, khi sử
dụng một số câu thơ, câu văn, câu trích dẫn… minh họa cho một sự kiện lịch sử, bài học
lịch sử làm giờ học sinh động hơn, hấp dẫn học sinh hơn, giờ học đạt hiệu quả cao. Trong
dạy học dùng thơ văn cho học sinh có vai trò tích cực, chủ động trong việc học tập, qua
đó các em chủ động tìm những kiến thức đã học để hiểu sâu, toàn diện một sự kiện lịch
sử, đồng thời học sinh còn ôn tập, củng cố, tổng hợp kiến thức ở mức độ cao hơn. Kết
quả năm học 2012-2013 cao hơn năm học 2011-2012 và kết quả học kì I năm học 2013-
2014 cụ thể như sau:
Khố
i
Sĩ số
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
8 61 10 16,
4
22 36,
1
26 42,6 3 4,9
9 50 12 24 15 30 24 48 0 0
25