Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần I
Trường Đại học Thăng Long 185
KIỂM SOÁT NỘI BỘ CHI PHÍ SẢN XUẤT TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI VIỆT NAM
Ths. Chu Thị Thu Thủy
Khoa Kinh tế- Quản lý
Email:
Tóm tắt: Kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại
và phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) tại Việt Nam. Nghiên cứu của tác
giả sử dụng mẫu 30 doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2013 để đánh giá hiệu lực của kiểm
soát nội bộ chi phí sản xuất trong DNNVV. Với việc sử dụng bảng câu hỏi khảo sát, tác giả
nhận thấy đối với loại hình DNNVV tồn tại cả năm thành phần theo báo cáo COSO bao gồm:
Môi trường kiểm soát chi phí sản xuất, đánh giá rủi ro về chi phí sản xuất, hệ thống thông tin
và truyền thông, hoạt động kiểm soát chi phí sản xuất và giám sát chi phí sản xuất. Tuy nhiên,
mỗi thành phần vẫn tồn tại những yếu kém ảnh hưởng đến tính hiệu lực của kiểm soát nội bộ
chi phí sản xuất như quy trình đánh giá rủi ro, cam kết về tính chính trực và giá trị đạo đức
hay vấn đề phân công phân nhiệm trong hoạt động kiểm soát
Từ khóa: Kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất, DNNVVV.
1. Giới thiệu
Theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê, tính đến thời điểm 1/1/2012 cả nước có
khoảng 543.963 doanh nghiệp với số vốn khoảng 6 triệu tỷ đồng, trong đó số lượng doanh
nghiệp nhỏ và vừa chiếm khoảng 97%. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp 40% GDP của
cả nước, sử dụng 51% lao động xã hội. Tuy nhiên, theo Báo cáo mới nhất của VCCI trong
năm 2012 có đến 54.261 doanh nghiệp giải thể hoặc ngừng hoạt động, trong khi đó báo cáo
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hết quý I/2013 cả nước có tới 15.200 doanh nghiệp giải thể tăng
2200 doanh nghiệp so với cùng kỳ năm trước, trong đó chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và
vừa.Những nghiên cứu khảo sát gần đây cho thấy có nhiều lý do dẫn tới tình trạng các doanh
nghiệp nhỏ và vừa làm ăn thua lỗ và dẫn đến giải thể phá sản (Hồ Sỹ Hùng, 2010). Để tồn tại
và phát triển, các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam cần giải quyết được vấn đề kiểm soát
chi phí sản xuất kinh doanh nhằm tăng khả năng tích lũy tái sản xuất và tăng sức hút vốn của
xã hội. Như vậy kiểm soát và quản lý chi phí sản xuất là một trong những ưu tiên hàng đầu
không chỉ đối với các doanh nghiệp lớn mà còn đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp
nhỏ và vừa của Việt Nam. Để làm được điều này, các doanh nghiệp cần tổ chức được hệ
thống kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất hữu hiệu.
2. Tổng quan nghiên cứu
Trong quá trình phát triển của quản lý, kiểm soát nội bộ không ngừng phát triển cả
trong nhận thức của nhân loại về lý luận lẫn thực tiễn ứng dụng: Từ một khái niệm đơn giản
ban đầu của kiểm soát cho đến các khuôn khổ lý thuyết cơ bản và hoàn chỉnh như ngày nay.
Kiểm soát nội bộ được phát triển từ giai đoạn kiểm soát nội bộ truyền thống (với các tác giả
như Victor Z.Brink và Herbert Witt (1982); Alvin A.Arens và James K.Loebbecke (1988) và
các nghiên cứu ứng dụng của Hiệp hội kế toán viên công chứng Hoa Kỳ) đến kiểm soát nội
bộ hiện đại (đánh dấu bằng sự ra đời của Báo cáo COSO năm 1992; sau đó dựa trên các nền
tảng Báo cáo COSO 1992, hàng loạt các nghiên cứu về mặt lý luận và ứng dụng ra đời; như
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần I
Trường Đại học Thăng Long 186
nghiên cứu của các tác giả Victor Z.Brink và RoBert R.Moeler (1999); Alvin A.Aren và
James K.Loebbecke, Randal J.Elder và Mark S.Beasley (2000); Alan Trenery (1999); Gay và
Simnett (2003); Matthew Leitch (2008) hay các nghiên cứu ứng dụng phát triển theo hướng
kiểm toán độc lập, phát triển theo hướng công nghệ thông tin, phát triển theo hướng kiểm toán
nội bộ ). Đối với các nghiên cứu trong giai đoạn truyền thống thì kiểm soát nội bộ tập trung
nghiên cứu các thành phần của hệ thống kiểm soát nội bộ nhằm phục vụ cho mục đích kiểm
toán báo cáo tài chính của các kiểm toán viên. Trong giai đoạn hiện đại, các nghiên cứu về
kiểm soát nội bộ cũng tập trung vào nghiên cứu các thành phần cấu thành hệ thống kiểm soát
nội bộ và tác động của hệ thống kiểm soát nội bộ đến việc thực hiện các mục tiêu trong doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, dựa trên cơ sở nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ nói chung thì các
nghiên cứu về hệ thống kiểm soát nội bộ đi sâu vào các chu trình của quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp từ kiểm soát nội bộ về tiền, kiểm soát chu trình mua hàng và thanh
toán, kiểm soát tiền lương và nhân viên, kiểm soát mua, bán và sử dụng tài sản cố định đến
kiểm soát quá trình bán hàng, trả tiền Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của nền kinh
tế, môi trường cạnh tranh khốc liệt khiến cho hệ thống kiểm soát nội bộ ngày càng đóng vai
trò quan trọng trong các tổ chức, vì vậy kiểm soát nội bộ là chủ đề được nhiều tác giả quan
tâm đặc biệt là những vấn đề liên quan đến sự hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ, cụ thể
như: Nghiên cứu của Tác giả Quiu Xao (2011) về hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ
trong doanh nghiệp nhỏ và vừa: Nghiên cứu đã đánh giá hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội
bộ trong doanh nghiệp nhỏ và vừa, từ đó tác giả chỉ ra những yếu kém tồn tại trong hệ thống
kiểm soát nội bộ của loại hình doanh nghiệp này; Tác giả Dickson Anoyine Ayamga (2011)
nghiên cứu về hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ tác động tới sự tăng trưởng và sự hữu
hiệu của quản lý: Hệ thống kiểm soát nội bộ trong các tổ chức công (Public Institutions) rất
hữu hiệu trong việc đạt được các mục tiêu của tổ chức; Tác giả Mosses Byangue (2011) cũng
đề cập đến hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ nhưng xem xét tác động của kiểm soát nội
bộ đến giá trị tiền tệ trong các dự án tài trợ cho các trường học: Kết quả của nghiên cứu đã chỉ
ra rằng hệ thống kiểm soát nội bộ hữu hiệu có tác động dương đến giá trị tiền tệ trong đó môi
trường kiểm soát, đánh giá rủi ro và giám sát là ba nhân tố tác động mạnh nhất đến giá trị tiền
tệ của các dự án; Tác giả William Ofori (2011) xem xét hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội
bộ trong các công ty ở Ghana; Tác giả Angella Amuda và Eno L.Inanga (2009) nghiên cứu
hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ trong dự án được tài trợ bởi ngân hàng phát triển ở
Uganda: Nghiên cứu này chỉ ra rằng hệ thống kiểm soát nội bộ trong các dự án tài trợ này
hoạt động không có hiệu lực và gợi ý một số phương pháp cải thiện hệ thống kiểm soát nội
bộ Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu cụ thể về kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất cho các nhà
quản trị doanh nghiệp nhỏ và vừa mà chủ yếu chỉ dừng lại ở một số doanh nghiệp lớn hoặc
phục vụ cho kiểm toán viên trong kiểm toán báo cáo tài chính. Ở Việt Nam, lý luận về kiểm
soát nội bộ được đưa vào từ những 1990, sau đó là hàng loạt các nghiên cứu thực nghiệm về
kiểm soát nội bộ trên các lĩnh vực khác nhau và đối tượng chủ yếu ở đây là các doanh nghiệp
lớn, ví dụ như nghiên cứu của Tác giả Nguyễn Quang Quynh và các cộng sự (1998) về vấn đề
kiểm tra kiểm soát trong quản lý vĩ mô và vi mô, Tác giả Ngô Trí Tuệ và các cộng sự (2000)
về hệ thống kiểm soát nội bộ trong Tổng Công ty Bưu Chính - Viễn thông Việt Nam Như
vậy lý luận về kiểm soát nội bộ tại Việt Nam vẫn cần được bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp
với yêu cầu quản trị doanh nghiệp và với điều kiện của Việt Nam đặc biệt là lý luận về kiểm
soát nội bộ áp dụng cho những doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa.
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần I
Trường Đại học Thăng Long 187
3. Kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất trong doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
3.1. Kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất và các bộ phận cấu thành
Kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất là một quá trình do Ban giám đốc, nhà quản lý và
các nhân viên khác trong đơn vị chi phối, nó được thiết kế nhằm đảm bảo hợp lý mục tiêu về
chi phí sản xuất trong tổ chức
Kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất gồm 5 thành phần chính là: Môi trường kiểm soát
chi phí sản xuất, đánh giá rủi ro chi phí sản xuất, hoạt động kiểm soát chi phí sản xuất, hệ
thống thông tin về chi phí sản xuất và giám sát về kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất, cụ thể:
Thứ nhất, môi trường kiểm soát: Phản ánh sắc thái chung của một tổ chức, tác động
đến ý thức của mọi người trong đơn vị và là nền tảng cho các bộ phận khác trong tổ chức
kiểm soát nội bộ nói chung và tổ chức kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất nói riêng.
Thứ hai, đánh giá rủi ro chi phí sản xuất: Rủi ro chi phí sản xuất là khả năng mà
doanh nghiệp không đạt được mục tiêu đề ra do các yếu tố cản trở quá trình thực hiện mục
tiêu. Đánh giá rủi ro chi phí sản xuất là quá trình nhận dạng và phân tích rủi ro ảnh hưởng đến
việc đạt được mục tiêu về chi phí sản xuất, từ đó quản trị được rủi ro chi phí sản xuất.
Thứ ba, hệ thống thông tin chi phí sản xuất của doanh nghiệp tạo ra các báo cáo
trong đó chứa đựng những thông tin về tài chính, hoạt động hay tuân thủ về chi phí sản xuất
giúp cho nhà quản lý điều hành và kiểm soát chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Truyền thông
là việc trao đổi và truyền đạt các thông tin cần thiết về chi phí sản xuất tới các bên liên quan
trong và ngoài doanh nghiệp.
Thứ tư, hoạt động kiểm soát chi phí sản xuất: Hoạt động kiểm soát chi phí sản xuất
là tập hợp các chính sách và thủ tục kiểm soát chi phí sản xuất đảm bảo cho các chỉ thị của
nhà quản lý được thực hiện, là các hành động cần thiết thực hiện để đối phó với rủi ro đe dọa
đến việc đạt được các mục tiêu về chi phí sản xuất của tổ chức.
Thứ năm, giám sát kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất: Giám sát là quá trình đánh
giá chất lượng thực hiện kiểm soát nội bộ một cách liên tục, giúp cho kiểm soát nội bộ luôn
duy trì được hiệu lực của mình qua các giai đoạn khác nhau. Giám sát bao gồm giám sát
thường xuyên và giám sát định kỳ.
3.2. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam ảnh hưởng đến kiểm soát nội
bộ chi phí sản xuất
Tại Việt Nam, theo Nghị định Số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ thì
doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật,
được chia thành ba cấp: siêu nhỏ(số lao động từ 10 người trở xuống), nhỏ (vốn từ 20 tỷ trở
xuống hoặc lao động từ 200 người trở xuống), vừa (từ trên 20 tỷ đến 100 tỷ hoặc số lao động
từ 200 đến 300 người). Khi nghiên cứu về kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất trong các doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam, tác giả nhận thấy một số đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và
vừa chi phối kiểm soát nội bộ nói chung và kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất nói riêng.
Thứ nhất, doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam đa dạng về loại hình sở hữu: Doanh
nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam tồn tại và phát triển thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau
với nhiều hình thức tổ chức doanh nghiệp như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần I
Trường Đại học Thăng Long 188
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hợp
tác xã. Trong đó khu vực doanh nghiệp Nhà nước chiếm tỷ trọng ít nhất là 0,62%, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI chiếm tỷ trọng 2,27%, phần còn lại là doanh nghiệp
ngoài Nhà nước chiếm tới 97,11% (nguồn: Tổng Cục thống kê). Với việc đa dạng hóa về loại
hình sở hữu, do đó việc thiết kế và vận hành tổ chức kiểm soát nội bộ nói chung và kiểm soát
nội bộ chi phí sản xuất nói riêng khá đa dạng và phong phú, cụ thể với các doanh nghiệp khu
vực ngoài Nhà nước như doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần và hợp tác
xã hoạt động trên cơ sở nguồn vốn tự có nên các doanh nghiệp này hoàn toàn có quyền tự chủ
trong kinh doanh và xây dựng kiểm soát nội bộ nói chung và kiểm soát nội bộ chi phí nói
riêng trên cơ sở tuân thủ các quy định pháp lý. Ngược lại những doanh nghiệp Nhà nước và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khi thiết kế và vận hành kiểm soát nội bộ nói chung
và kiểm soát chi phí sản xuất nói riêng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ về cách thức kiểm soát của
Nhà nước và các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam là những doanh nghiệp có quy mô lao
động nhỏ: Số lượng doanh nghiệp có 10 nhân viên trở xuống năm 2011 chiếm tới 68,38% số
lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa (với số doanh nghiệp lên tới 216.732 doanh nghiệp), trong
khi đó số doanh nghiệp có trên 200 đến 300 lao động chỉ chiếm khoảng 2,16% số lượng
DNNVV, tương ứng với 6.583 doanh nghiệp (Nguồn: Tổng cục thống kê). Với quy mô lao
động nhỏ nên cơ cấu tổ chức của các doanh nghiệp đơn giản, linh hoạt, mức độ kết nối giữa
các thành viên trong doanh nghiệp mạnh tạo điều kiện cho kiểm soát nội bộ hoạt động hữu
hiệu. Tuy nhiên với số lượng lao động nhỏ thì việc ủy quyền, phân chia trách nhiệm hợp lý là
khá khó khăn. Kiểm soát hệ thống thông tin trong doanh nghiệp có quy mô nhỏ cũng là một
vấn đề lớn. Trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa quy trình và thủ tục kiểm soát thường không
được quy định chính thức.
Thứ ba, các DNNVV có quy mô vốn nhỏ: Doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 20 tỷ
chiếm tới 87,26% tổng số doanh nghiệp nhỏ và vừa (Nguồn: Tổng cục thống kê). Với năng
lực vốn hạn chế, để tiết kiệm chi phí thông thường các DNNVV có cơ cấu tổ chức đơn giản,
gọn nhẹ với sự kiêm nhiệm của các chức năng cơ bản trong doanh nghiệp. Cũng do hạn chế
về năng lực tài chính và vốn nên các DNNVV khó tiếp cận đến hệ thống kiểm tra, kiểm soát
hiện đại. Vì vậy, kiểm soát nội bộ nói chung và kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất nói riêng có
thể không đầy đủ như các doanh nghiệp lớn.
Thứ tư, khả năng quản lý hạn chế: Phần lớn các DNNVV được lãnh đạo bởi nhà
quản lý có trình độ đại học (chiếm trên 84%), số chủ doanh nghiệp có trình độ trên đại học chỉ
chiếm 6,82%. (Nguồn: Dự án CARD 030/09VIE-Viện chính sách và chiến lược phát triển
NNNT, 2009). Tuy nhiên đa số các chủ doanh nghiệp tốt nghiệp chuyên ngành kỹ thuật, nay
chuyển sang kinh doanh nên chưa có nhiều kinh nghiệm trong quản lý, điều hành. Trên thực
tế, năng lực của nhà quản lý đóng một vai trò vô cùng quan trọng đến sự hữu hiệu của kiểm
soát nội bộ nói chung và kiểm soát chi phí nói riêng trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa do
các nhà quản lý tham gia trực tiếp nhất vào mọi thành phần của kiểm soát nội bộ, cụ thể:
Trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa tính chính trực và giá trị đạo đức không nhất thiết phải
thiết lập bằng văn bản mà thường truyền đạt thông qua những hoạt động hàng ngày của nhà
quản lý.Mặt khác, trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa sự hữu hiệu của hệ thống thông tin và
truyền thông phụ thuộc vào khả năng của người quản lý đối với việc giám sát các nhân tố bên
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần I
Trường Đại học Thăng Long 189
ngoài. Các trao đổi giữa người chủ kiêm người quản lý hay các nhân viên quản lý khác với
khách hàng và nhà cung cấp chính là nguồn thông tin quan trọng giúp nhà quản lý đánh giá
rủi ro. Hơn nữa, trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa việc truyền thông bên trong từ người
quản lý cao cấp đến các nhân viên rất dễ dàng. Thay vì kênh thông tin chính thức thì các
doanh nghiệp nhỏ và vừa thường có sự tiếp xúc hàng ngày giữa người quản lý cao cấp với
nhân viên. Vì vậy, những hoạt động hàng ngày của nhà quản lý cao cấp sẽ tác động rất lớn
đến các bên liên quan. Như vậy có thể thấy năng lực quản lý tác động mạnh đến sự hữu hiệu
của kiểm soát nội bộ nói chung và kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất nói riêng.
Thứ năm, trình độ tay nghề của người lao động thấp: Các chủ doanh nghiệp nhỏ
và vừa thường không đủ khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong việc thuê những
người lao động có tay nghề cao do hạn chế về khả năng tài chính. Kiểm soát nội bộ được thực
hiện bởi những con người trong tổ chức, bởi suy nghĩ và hành động của họ. Chính các thành
viên trong tổ chức sẽ vạch ra mục tiêu, đưa ra biện pháp kiểm soát và vận hành chúng. Tổ
chức kiểm soát nội bộ hữu hiệu khi từng thành viên trong tổ chức hiểu rõ trách nhiệm và
quyền hạn của mình. Như vậy, trình độ chuyên môn tác động không nhỏ đến hiệu lực của tổ
chức kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất trong doanh nghiệp nhỏ và vừa vì nó ảnh hưởng đến
nhận thức của từng thành viên về nhiệm vụ và quyền hạn trong việc thực hiện mục tiêu của tổ
chức.
3.3. Thực trạng kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp nhỏ và
vừa tại Việt Nam
Kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất là đề cập đến mọi mặt của hoạt động sản xuất trong
DNNVV tại Việt Nam, tăng cường tính hiệu lực của kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất nghĩa
là tạo ra giá trị gia tăng cho hoạt động sản xuất, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh trong
doanh nghiệp. Tuy nhiên, qua kết quả khảo sát 30 DNNVV tại Việt Nam tác giả nhận thấy
rằng kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất loại hình doanh nghiệp này còn nhiều yếu kém, cụ thể:
3.3.1. Môi trường kiểm soát chi phí sản xuất
+ Tính chính trực và giá trị đạo đức mặc dù đã được quan tâm song vẫn còn nhiều
hạn chế cụ thể: Khi giải quyết những vấn đề liên quan đến vi phạm quy tắc đạo đức, Ban
giám đốc công ty thường không có chế độ thưởng phạt rõ ràng với những hành vi vi phạm
quy tắc đạo đức (tỷ lệ 40%), hơn nữa có những công ty mà Ban giám đốc không điều tra
nguyên nhân khi vi phạm quy tắc đạo đức và ứng xử xảy ra. Ngoài ra, việc cập nhật, sửa đổi
quy tắc ứng xử cho các nhân viên cũng không được chú trọng thường xuyên.
+ Cơ cấu tổ chức đơn giản, linh hoạt tuy nhiên chưa phù hợp để dễ dàng ra quyết
định, thực hiện quyết định và kiểm tra quyết định, cụ thể: Cơ cấu tổ chức của các doanh
nghiệp nhỏ và vừa được xây dựng theo mô hình trực tuyến chức năng vì vậy cơ cấu này khá
linh hoạt. Tuy nhiên cũng có đến 27% công ty cho rằng cơ cấu tổ chức chưa phù hợp để dễ
dàng ra quyết định, thực hiện quyết định và kiểm tra quyết định, do trong các công ty này có
sự kiêm nhiệm giữa các bộ phận (với tỷ lệ 77%). Mặt khác, đối với các DNNVV thì việc xây
dựng bản mô tả công việc cho từng vị trí công việc của cá nhân vẫn còn là điểm yếu với tỷ lệ
43% công ty không có bản mô tả công việc chi tiết cho cá nhân và từng bộ phận.
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần I
Trường Đại học Thăng Long 190
+ Chính sách nhân sự trong các DNNVV không được xây dựng "bài bản" như các
doanh nghiệp lớn: Việc đào tạo, tổ chức các lớp học, hội thảo và hội nghị không được các
DNNVV quan tâm (với khoảng 67% doanh nghiệp hàng năm không tổ chức các lớp học, hội
thảo và hội nghị). Ban giám đốc các DNNVV cũng có các chính sách lương, thưởng khuyến
khích các thành viên trong công ty, tuy nhiên việc thực hiện không bài bản do các công ty này
không xây dựng được các tiêu chuẩn và phương pháp đánh giá thành tích của các nhân viên,
nếu có đánh giá thì kết quả đánh giá cũng không phản hồi một cách trực tiếp cho các thành
viên trong tổ chức.
+ Trong các DNNVV xuất hiện hiện tượng lạm quyền của Ban giám đốc nguyên nhân
là do thành viên hội đồng quản trị công ty cũng chính là Ban giám đốc công ty (với tỷ lệ
100%) vì vậy không có sự giám sát độc lập của Hội đồng quản trị đối với Ban giám đốc điều
hành.
+ Kế hoạch về chi phí sản xuất không được lập trên phần mềm máy tính như các
doanh nghiệp lớn mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cá nhân của Ban giám đốc (với tỷ lệ
17/30). Việc thông báo các kế hoạch về chi phí sản xuất được thông qua các cuộc họp định
kỳ. Vì vậy mà có đến 13/30 doanh nghiệp không hoàn thành kế hoạch về chi phí sản xuất.
Hơn nữa, trong các DNNVV chưa chú trọng đến việc ban hành các quy định, văn bản, thiết kế
biểu mẫu cũng như các loại kế hoạch chi phí sản xuất được lập trong năm với tỷ lệ bình quân
là 12/30.
Tóm lại, qua kết quả khảo sát có thể thấy môi trường kiểm soát chi phí sản xuất của
DNNVV tại Việt Nam có khá nhiều vấn đề nổi cộm như: chưa thiết lập được một cơ cấu tổ
chức bao quát được hết các khía cạnh của hoạt động sản xuất; mặc dù có thiết lập văn hóa
doanh nghiệp nhưng vẫn còn hiểu sai, hoặc thực hiện không đúng những quy tắc đạo đức và
ứng xử do chính công ty đặt ra; chưa có chế độ đánh giá, thưởng, phạt và đào tạo nhân viên
phù hợp để thu hút và giữ chân những nhân viên đủ năng lực Tất cả những điều này khiến
cho kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất trong các DNNVV tại Việt Nam không phát huy được
hết vai trò trong của nó trong việc giám sát, kiểm soát công tác quản lý chi phí sản xuất nói
riêng và hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung.
3.3.2. Đánh giá rủi ro về chi phí sản xuất
Rủi ro về chi phí sản xuất trong các DNNVV phát sinh khá nhiều như: rủi ro về sự
tăng giá nguyên vật liệu, rủi ro về mất mát, gian lận Quá trình đánh giá rủi ro về chi phí sản
xuất trong các DNNVV ít phức tạp hơn các doanh nghiệp lớn. Đa số các DNNVV đều rất chú
trọng đến công tác xác định và quản lý rủi ro về chi phí sản xuất, chỉ có khoảng 6/30 doanh
nghiệp không quan tâm đến việc xác định rủi ro về chi phí sản xuất. Mục tiêu về hoạt động
nói chung và chi phí sản xuất nói riêng đối với các DNNVV thường ngầm hiểu hơn là công
khai, các mục tiêu này thường được lồng trong công tác kế hoạch về chi phí sản xuất và được
truyền đạt dễ dàng từ Ban giám đốc đến các bộ phận trong công ty thông qua các cuộc họp
định kỳ hàng tháng, hàng quý. Quá trình nhận dạng và đánh giá rủi ro của các DNNVV không
bài bản như các doanh nghiệp lớn mà thông thường Ban giám đốc tiếp nhận thông tin một
cách trực tiếp từ các nhà cung cấp, khách hàng và nhân viên. Ban giám đốc nghiên cứu những
rủi ro ảnh hưởng đáng kể đến việc hoàn thành mục tiêu về chi phí sản xuất phát sinh từ những
nhân tố bên ngoài thông qua sự tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, nhà cung cấp và từ những
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần I
Trường Đại học Thăng Long 191
nhân tố bên trong thông qua quá trình giải quyết các nghiệp vụ hàng ngày. Ngoài ra các thông
tin từ các cuộc họp giúp Ban giám đốc nhận dạng và phân tích được những rủi ro, từ đó tìm
được biện pháp quản trị rủi ro một cách nhanh chóng. Mặc dù quá trình nhận dạng, đánh giá
rủi ro về chi phí sản xuất được Ban giám đốc rất quan tâm nhưng có đến 14/30 doanh nghiệp
được phỏng vấn cho rằng họ chưa thiết kế được chiến lược phù hợp để xác định rủi ro về chi
phí sản xuất cũng như hệ thống thích hợp để đối phó kịp thời với rủi ro về chi phí sản xuất.
3.3.3. Hệ thống thông tin về chi phí sản xuất
Hệ thống thông tin về chi phí sản xuất bao gồm hệ thống thông tin kế toán (hệ thống
chứng từ, tài khoản, sổ sách và báo cáo) và hệ thông thông tin ngoài kế toán (giữa các phòng
ban, giữa phòng ban với Ban giám đốc ). Các doanh nghiệp thuộc diện khảo sát đều áp dụng
chế độ kế toán theo Quyết định 48 vì vậy việc vận dụng chế độ kế toán, hệ thống sổ sách
chứng từ đều theo quyết định này:
Về hệ thống chứng từ kế toán về chi phí sản xuất: Hệ thống chứng từ kế toán về chi
phí sản xuất bao gồm chứng từ về lao động tiền lương, hàng tồn kho, tài sản cố định, tiền tệ.
Trong các DNNVV đa số các doanh nghiệp được khảo sát có quy định rõ ràng bằng văn bản
về trình tự lập và luân chuyển chứng từ chi phí sản xuất với tỷ lệ 23/30. Đa số các DNNVV
được khảo sát đều có hướng dẫn việc sử dụng các loại chứng từ về chi phí sản xuất, có quy
định về nơi lưu trữ chứng từ kế toán cũng như quy định về việc phân cấp ký chứng từ kế toán
khá rõ ràng để đảm bảo yêu cầu quản lý và kiểm soát chặt chẽ chi phí sản xuất, trong đó việc
phân cấp ký chứng từ kế toán là do Giám đốc công ty quy định với tỷ lệ 23/30. Bộ phận kế
toán của các DNNVV đã thực hiện tốt trách nhiệm kiểm tra chứng từ chi phí sản xuất trước
khi hạch toán ví dụ như kiểm tra đối chiếu giữa phiếu đề nghị xuất vật tư và số lượng trên
phiếu xuất kho
Về hệ thống tài khoản kế toán: hệ thống tài khoản kế toán về chi phí sản xuất được sử
dụng như theo hướng dẫn của Quyết định 48 và được mở chi tiết đến tài khoản cấp 2 và cấp 3
để phù hợp với việc theo dõi các loại chi phí khác nhau với tỷ lệ 25/30 doanh nghiệp.
Về hình thức sổ kế toán: các doanh nghiệp được khảo sát sử dụng hình thức nhật ký
chung. Ưu điểm của hình thức này đơn giản và dễ sử dụng. Đa số các doanh nghiệp được
khảo sát đều sử dụng phần mềm kế toán để hạch toán nói chung và chi phí sản xuất nói riêng
với tỷ lệ 25/30 doanh nghiệp. Tuy đa số sử dụng phần mềm kế toán để hạch toán chi phí sản
xuất tuy nhiên phần mềm kế toán chưa có khả năng xử lý dữ liệu hoàn toàn tự động. Kế toán
vẫn kết hợp phần mềm xử lý dữ liệu thủ công với kế toán máy ví dụ như lập bảng chấm công,
bảng lương, phiếu khối lượng, định mức đều trên excel. Hàng tháng các DNNVV đều thực
hiện tốt trách nhiệm về in sổ kế toán và các bảng kê chứng từ về chi phí sản xuất.
Về hệ thống báo cáo kế toán về chi phí sản xuất: Việc lập các báo cáo tài chính chỉ
chú trọng vào việc tuân thủ trách nhiệm lập, nộp báo cáo tài chính theo quy định của Nhà
nước. Chính vì vậy các doanh nghiệp này chỉ lập những báo cáo tài chính chung theo định kỳ
như báo cáo kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán. Các báo cáo về chi phí sản xuất phục
vụ cho mục đích quản trị doanh nghiệp chưa được lập nhiều. Đa số các báo cáo liên quan đến
chi phí sản xuất là các báo cáo của các bộ phận liên quan về tình hình sản xuất như sản lượng,
năng suất lao động, tình hình nhập-xuất- tồn kho, tình hình lương Chính vì vậy mà có đến
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần I
Trường Đại học Thăng Long 192
10/30 các nhà quản lý cho rằng hệ thống thông tin kế toán chưa truyền đạt được những thông
tin cần thiết về chi phí sản xuất cho các bên liên quan.
Tóm lại, qua kết quả khảo sát có thể thấy rằng hệ thống thông tin và truyền thông về
chi phí sản xuất của các DNNVV với cơ cấu gọn nhẹ, quy trình sản xuất đơn giản, hạch toán
không phức tạp, các chức năng tài chính kế toán không được đầy đủ và chi tiết như các doanh
nghiệp lớn. Do vậy, nhiều khi chất lượng thông tin mà các bộ phận liên quan nhận được còn
nghèo nàn, không kịp thời, không phù hợp để ra quyết định
3.3.4. Hoạt động kiểm soát chi phí sản xuất
Các hoạt động kiểm soát chính trong các DNNVV không có sự khác biệt đáng kể so
với các doanh nghiệp lớn. Các quy định và hướng dẫn về chính sách, thủ tục kiểm soát chi phí
sản xuất đã nêu rõ được chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận liên quan đến chi phí sản xuất.
Đặc biệt các thủ tục về kế toán chi phí sản xuất được tách biệt khá rõ ràng.Việc phân chia
trách nhiệm giữa các chức năng về chi phí sản xuất cần phải rõ ràng và tách biệt, điều này làm
hạn chế khả năng gian lận có thể xảy ra. Tuy nhiên theo kết quả khảo sát DNNVV thì các bộ
phận trong tổ chức có sự kiêm nhiệm cao ví dụ như sự kiêm nhiệm của phòng kế toán trong
việc tính lương và trả lương công nhân, hay bộ phận mua hàng kiêm luôn chức năng kiểm tra
quy cách và nhận hàng Về kiểm soát quá trình xử lý thông tin trong DNNVV cũng bao gồm
kiểm soát chung và kiểm soát ứng dụng. Đối với kiểm soát chung đa số các DNNVV đã thiết
lập mật khẩu và phân quyền sử dụng đối với các nhân viên sử dụng phần mềm kế toán. Tuy
nhiên những chu trình khác liên quan đến chi phí sản xuất thì không có DNNVV nào thiết lập
việc phân quyền sử dụng và mật khẩu như quy trình tiền lương, quy trình xuất kho nguyên vật
liệu, quy trình xây dựng định mức giá thành Mặt khác đối với các DNNVV việc kiểm soát
dữ liệu cũng không được chú trọng ở các khâu trừ kiểm soát dữ liệu về phần mềm kế toán. Đa
số các công ty được hỏi các bộ phận khác ngoài phần mềm kế toán không hề có sao lưu dữ
liệu để dự phòng các bất trắc có thể xảy ra. Về kiểm soát ứng dụng thì theo kết quả khảo sát
của tác giả thì đa số các DNNVV trước khi nhập liệu đều có kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp
của các chứng từ cũng như kiểm tra sự phê duyệt trên các chứng từ chi phí sản xuất. Hơn nữa
các chứng từ về chi phí sản xuất này luôn có các chứng từ hỗ trợ đi kèm để minh chứng cho
sự phát sinh của các nghiệp vụ này với tỷ lệ 25/30. Tuy nhiên theo kết quả điều tra thì mặc dù
các DNNVV đều lập các chứng từ về chi phí sản xuất ngay khi nghiệp vụ xảy ra nhưng trong
các DNNVV này có đến 13/30 doanh nghiệp không đánh số trước các chứng từ về chi phí sản
xuất trước khi sử dụng, điều này sẽ làm tăng nguy cơ sai sót và gian lận xảy ra. Theo kết quả
khảo sát có đến 8/30 công ty chứng từ về chi phí sản xuất khi phát sinh không được xử lý
nhanh chóng, có những công ty bộ phận kế toán tập hợp chứng từ một tuần và sau đó mới
hạch toán. Hơn nữa, có khoảng 26/30 doanh nghiệp được khảo sát tổ chức, lưu trữ, bảo quản
tài liệu kế toán khoa học, an toàn, đúng quy định và dễ dàng khi truy cập. Đối với các
DNNVV thì việc xét duyệt và phê chuẩn các nghiệp vụ phát sinh đều tập trung vào Ban giám
đốc. Việc phân chia trách nhiệm đầy đủ trong các DNNVV được thực hiện khá đầy đủ với
việc tách biệt rõ ràng xét duyệt, xử lý, kiểm tra và ghi sổ kế toán với tỷ lệ 28/30. Mặc dù trong
các DNNVV có sự kiêm nhiệm song Ban giám đốc công ty cũng không để một cá nhân nắm
tất cả các khâu của quy trình, nghiệp vụ. Đối với kiểm soát vật chất liên quan đến quy trình
chi phí sản xuất gồm kiểm kê hàng tồn kho và kiểm kê tài sản cố định được các DNNVV thực
hiện 1 lần/năm, cùng với việc lập báo cáo tài chính. Cũng có những doanh nghiệp kiểm kê
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần I
Trường Đại học Thăng Long 193
hàng tồn kho và tài sản cố định theo quý, nhưng số lượng này không nhiều do thời gian và chi
phí phát sinh lớn. Việc phân tích và rà soát số liệu về chi phí sản xuất được các DNNVV khá
chú trọng thông qua việc cân đối và đối chiếu số liệu về chi phí sản xuất thông qua việc quy
định bằng văn bản (25/30). Việc cân đối và đối chiếu số liệu về chi phí sản xuất được thực
hiện nghiêm túc.Trong các DNNVV được khảo sát thì Ban giám đốc công ty cũng thường
xuyên kiểm tra việc thực hiện công việc của các bộ phận liên quan một cách trực tiếp. Mặt
khác, Ban giám đốc cũng thường xuyên so sánh giữa chi phí thực tế và chi phí kế hoạch (định
mức) để xem xét mức độ hoàn thành kế hoạch, nguyên nhân và ảnh hưởng đến việc hoàn
thành mục tiêu về chi phí sản xuất.
Tóm lại, có thể thấy rằng hoạt động kiểm soát của các DNNVV còn một số bất cập,
nguyên nhân xuất phát chủ yếu từ việc áp dụng các nguyên tắc thiết kế hoạt động kiểm soát
chưa hợp lý, đặc biệt do quy mô nhỏ nên việc một cá nhân kiêm nhiệm là điều không tránh
khỏi, việc này làm gia tăng sai sót và gian lận. Do đó, theo kết quả khảo sát các công ty cho
rằng các thủ tục kiểm soát và chính sách kiểm soát của công ty chưa đối phó được với rủi ro
về chi phí sản xuất và giảm thiểu được các rủi ro tiềm tàng đối với mục tiêu về chi phí sản
xuất.
3.3.5. Giám sát kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất
Giám sát về kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất nói riêng và kiểm soát nội bộ nói chung
của các DNNVV được thực hiện thường xuyên và không được quy định chính thức bằng văn
bản. Công việc giám sát nội bộ về chi phí sản xuất trong các DNNVV chủ yếu liên quan trực
tiếp đến Ban giám đốc của doanh nghiệp. Đối với các DNNVV việc giám sát kiểm soát nội bộ
chi phí sản xuất khá hiệu quả với sự tham gia trực tiếp tham gia phần lớn vào hoạt động của
Ban giám đốc. Do vậy theo kết quả khảo sát các công ty được khảo sát cho rằng giám sát
đóng vai trò quan trọng để đạt được mục tiêu về chi phí sản xuất như tiết kiệm chi phí, giảm
hao hụt mất mát, tăng chất lượng sản phẩm, giảm sai sót và gian lận trong hạch toán với tỷ
lệ 28/30. Đối với các DNNVV thì những yếu kém trong kiểm soát nội bộ về chi phí sản xuất
được xác định và thông báo kịp thời cho các bộ phận liên quan (tỷ lệ 28/30) nguyên nhân do
cơ cấu tổ chức đơn giản, nên các khiếm khuyết này được báo cáo một cách dễ dàng cho người
có trách nhiệm. Mặt khác các nhân viên trong DNNVV thường hiểu rõ là vấn đề nào cần báo
cáo cho cấp trên.
4. Kết luận và một số kiến nghị
Qua kết quả khảo sát có thể nhận thấy rằng kiểm soát nội bộ chi phí sản trong các
DNNVV tại Việt Nam hoạt động với đầy đủ năm bộ phận cấu thành theo COSO. Tuy nhiên
có thể nhận thấy rằng kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất trong DNNVV vẫn còn tồn tại một số
bất cập và yếu kém trong môi trường kiểm soát chi phí sản xuất (đặc biệt trong cam kết về
tính chính trực và giá trị đạo đức ), trong đánh giá rủi ro về chi phí sản xuất (quá trình nhận
dạng và phân tích rủi ro chưa được xây dựng bài bản và phụ thuộc vào kinh nghiệm của Ban
giám đốc ), hệ thống thông tin và truyền thông (xây dựng gọn nhẹ nhưng chưa đáp ứng được
nhu cầu thông tin về chi phí sản xuất cho việc ra quyết định ), hoạt động kiểm soát (chính
sách và thủ tục kiểm soát chưa đối phó và giảm thiểu được rủi ro tiềm tàng, các rủi ro có ảnh
hưởng quan trọng đến mục tiêu chi phí ) hay giám sát nội bộ về chi phí sản xuất. Qua đây,
tác giả đưa ra một số gợi ý và kiến nghị đối với các nhà quản trị DNNVV trong việc cải thiện
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần I
Trường Đại học Thăng Long 194
kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất gồm: Tăng cường quản lý doanh nghiệp đặc biệt chú trọng
đến kiểm soát nội bộ chi phí sản xuất và nhận thức rủi ro về chi phí sản xuất; Cải thiện môi
trường kiểm soát chi phí sản xuất đặc biệt là môi trường văn hóa doanh nghiệp; Hoàn thiện
hơn hệ thống thông tin và truyền thông nội bộ (thiết lập hệ thống thông tin 2 chiều từ trên
xuống và từ dưới lên) để tăng cường chất lượng thông tin và thông tin kịp thời trong nội bộ;
Hoàn thiện cơ chế giám sát và tăng cường quản lý giám sát.
5. Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
[1]. Chính phủ (2009), Nghị định Số 59/2009/NĐ-CP ngày 10/06/2009 - Nghị định về
trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
[2]. Hồ Sỹ Hùng (2010), Nhu cầu và định hướng trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ
và vừa ở Việt Nam trong giai đoạn tới, Nxb Thông tin và truyền thông.
Tiếng Anh
[3]. Committee of Sponsoring Organizations of the Treadway Commission (1992),
Internal control – Integrated framework.
[4]. Committee of Sponsoring Organizations of the Treadway Commission (2006),
Internal control over Financial Reporting – Guidance for smaller Public Companies.
[5]. Committee of Sponsoring Organizations of the Treadway Commission (2004),
Enterprise risk management- Integrated framework.
[6]. Committee of Sponsoring Organizations of the Treadway Commission (2009),
Guidance on Monitoring Internal control systems.
[7]. Dickson Aloyine Ayamga (2011), Internal control for effective organizational
management and growth, Phd. Thesis, Regent University College of Sience and Technology.
[8]. European Commission (2013), The new SME definition - User guide and model
declaration.
[9]. Farrell, M.J. (1957), The Measurement of Productive Efficiency, Journal of the
Royal Statistical Society A 120, 253-290.
[10]. Gay and Simnett (2003), Auditing and Assurance services in Australia, Mc
Graw Hill.
Abtract: Internal control over production costs plays an important role in the
existence and development of Vietnamese small and medium-sized enterprises (SMEs). The
study sample included 30 SMEs of Vietnam in 2013 to evaluate the effectiveness of internal
control over production costs in SMes. With the use of questionnaire survey, the study pointed
out that Vietnamese SMEs's internal control over production costs consists of five elements
same as the COSO's report: control environment, risk assesment, Information and
communication, control activities and monitoring of production costs. However, each
component still exists weaknesses that affect the effectiveness of internal control over
production costs such as the weakness of risk assesment process, commitement to integrity
and ethical values or asigning responsibility of control activities
Key word: Internal control over production costs, SMEs.