Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

luận văn mỹ thuật Những yếu tố tạo hình trang trí cơ bản trong một số tác phẩm nổi bật của họa sĩ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.89 MB, 39 trang )

Khoá luận tốt nghiệp
ương

Đại học sư phạm nghệ thuật Trung

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Nghệ thuật tạo hình hiện đại phương Tây thế kỷ XX là bước tiến quan
trọng nhất trong lịch sử mỹ thuật thế giới. Các họa sĩ thời kì này chịu ảnh hưởng
lớn bởi tính ước lệ của mỹ thuật phương Đông. Nghệ thuật truyền thống phương
Đơng ln mang tính ước lệ cao, chỉ gợi chứ khơng tả, tạo hình cơ đọng với
đường nét khúc triết, hình mảng rõ ràng, màu sắc tươi tắn trong trẻo, giàu tính
trang trí. Điều này đã làm các họa sĩ phương Tây thích thú và thử nghiệm phong
cách tạo hình mới, dựa trên tinh thần sáng tạo của nghệ thuật Châu Á. Đưa tính
ước lệ vào tạo hình, hội họa hiện đại dần hình thành nên nhiều phong cách vẽ,
nhiều trường phái hội họa mang tính trang trí cao, vơ cùng sáng tạo, đa dạng và
giàu biểu cảm.
Các trường phái đã hình thành và có tầm ảnh hưởng quan trọng đối với hội
họa thế giới sau này như: trường phái Dã thú với H.Mattise, Siêu thực với
S.Dali, M.Chagall, Lập thể với đại diện là P.Picasso, Braque … đều thể hiện sự
ảnh hưởng nhất định của tính trang trí trong tạo hình.
Có thể thấy, tính trang trí có vai trị rất quan trọng đối với sự phát triển của
hội họa hiện đại nói riêng và nghệ thuật tạo hình nói chung. Hội họa thế kỷ XX
đã vô cùng thăng hoa với sự nở rộ của nhiều trào lưu nghệ thuật và nhiều phong
cách tạo hình độc đáo, sáng tạo, giàu biểu cảm, sử dụng tính trang trí trong tạo
hình. Đây cũng là cơ sở quan trọng, làm tiền đề cho hội họa và nghệ thuật đương
đại trở nên đa dạng phong phú về hình thức, đề tài và sâu sắc về nội dung.
Gustav Klimt là một trong những đại diện tiêu biểu cho phong cách hội họa
giàu tính trang trí. Ơng cũng là đại diện xuất sắc của trường phái biểu hiện
Vienna danh tiếng của nước Áo, bên cạnh hai họa sĩ xuất chúng của trường phái
này là O.Kokoschka và E.Schieler.


Phong cách hội họa của G.Klimt vơ cùng đặc sắc. Ơng kết hợp những
mảng tạo hình trang trí, đặt xen lẫn với những hình thể phụ nữ đầy gợi cảm vẽ
Lê Tuyết Trinh

1


Khoá luận tốt nghiệp
Đại học sư phạm nghệ thuật Trung
ương
theo lối tả thực. Chính sự kết hợp đặc biệt này đã tạo nên hiệu quả không gian
hư ảo diệu kỳ, nhưng cũng đầy xúc cảm trần tục của thế giới thực.
Tính trang trí trong tranh G.Klimt thể hiện ở những mảng họa tiết mang
tính tượng trưng, màu sắc tươi tắn. Những hoa văn trang trí được họa sĩ lấy cảm
hứng từ nhiều nền văn hóa khác nhau như: nghệ thuật tranh gốm Byzantine,
tranh khắc gỗ Nhật Bản, nghệ thuật tranh tường Ai Cập cổ đại, tranh cổ Trung
Quốc… Sự độc đáo trong các sáng tác của họa sĩ đã thể hiện khả năng sáng tạo
đa dạng của hội họa, góp phần làm phong phú thêm các phong cách tạo hình đặc
sắc và nhiều tác phẩm hội họa giá trị cho kho tàng nghệ thuật tạo hình của thế
giới. Chúng trở thành nguồn cảm hứng sáng tạo cho nhiều thế hệ họa sĩ sau này.
Qua nghiên cứu vấn đề này, tôi mong muốn tìm hiểu sâu thêm về phong
cách hội họa mình u thích, đồng thời có thêm kiến thức áp dụng cho công việc
sáng tác của bản thân sau này.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu.
Gustav Klimt là họa sĩ nổi tiếng với những sáng tác gây ấn tượng sâu sắc.
Trong thời kì nghệ thuật tạo hình thế giới nở rộ nhiều trào lưu và cho ra đời
những tác phẩm đặc sắc, G.Klimt đã tạo được dấu ấn riêng, góp vào lịch sử một
phong cách hội họa lôi cuốn, uyển nhã hết sức mới lạ hiện đại.
Là một họa sĩ có ảnh hưởng lớn trên thế giới với phong cách riêng rất đặc
trưng, cho nên việc nghiên cứu về sự nghiệp và phong cách nghệ thuật của

G.Klimt đã được nhiều nhà nghiên cứu phê bình mỹ thuật tìm hiểu chuyên sâu
cặn kẽ. Đặc trưng phong cách của G.Klimt là tính trang trí trong hội họa và hình
tượng người phụ nữ. Hình ảnh phụ nữ trong tranh Klimt đã được phân tích rất
nhiều bởi các nhà nghiên cứu trong và ngồi nước. Ở Việt Nam, tính trang trí
cũng là vấn đề đã từng được nghiên cứu khá chi tiết trong một số luận văn thạc
sĩ và tiểu luận như: đề tài khóa luận thạc sĩ về “ Tính trang trí trong hội họa ”
của giảng viên Lê Văn Sửu, đề tài khóa luận tốt nghiệp “ Yếu tố trang trí trong
tranh ” của Lê Minh Đức… nhưng đó là những tìm hiểu trên diện rộng về hội
họa nói chung, hoặc ở khía cạnh tìm hiểu nghệ thuật truyền thống để phát triển
hội họa hiện đại Việt Nam. Tuy nhiên, dưới góc độ nghiên cứu học tập, bài
Lê Tuyết Trinh

2


Khoá luận tốt nghiệp
Đại học sư phạm nghệ thuật Trung
ương
nghiên cứu này chỉ phân tích một khía cạnh là: những yếu tố tạo hình trang trí
cơ bản trong một số tác phẩm nổi bật của họa sĩ.
Đề tài này tuy khơng mới, nhưng những phân tích này sẽ cho thấy tầm quan
trọng của yếu tố tạo hình trang trí trong tranh của Klimt nói riêng và hội họa nói
chung. Đồng thời, nó góp phần nâng cao kiến thức hiểu biết về cuộc đời, sự nghiệp
và phong cách tạo hình của một trong những danh họa có ảnh hưởng nhất. Với
phong cách hội họa độc đáo, hiện đại và nội dung sâu sắc, những tác phẩm của
Gustav Klimt là nguồn cảm hứng để nhiều họa sĩ học hỏi sáng tạo nghệ thuật.
3. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu nhằm chỉ ra được hiệu quả thẩm mỹ và giá trị nghệ thuật của
tính trang trí trong hội họa, qua việc phân tích một số tác phẩm tiêu biểu của
Gustav Klimt.

4. Đối tượng nghiên cứu.
Tính trang trí trong một số tác phẩm tiêu biểu của Gustav Klimt.
5. Phạm vi nghiên cứu.
Tính trang trí trong một số tác phẩm tiêu biểu của Gustav Klimt như: Nụ
hôn, Ba giai đoạn của người phụ nữ, Sự sống và cái chết, Cây đời…
6. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Phân tích các yếu tố trang trí trong một số tác phẩm tiêu biểu của Gustav
Klimt để thấy được hiệu quả thẩm mỹ và giá trị nghệ thuật của chúng.
7. Phương pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu bằng phương pháp: thu thập tài liệu, phân tích, so sánh, tổng hợp.
8. Bố cục đề tài.
Ngồi phần mở đầu và kết luận, đề tài khóa luận bao gồm hai chương chính
như sau:
Chương 1: Khái quát đặc điểm phong cách nghệ thuật của Gustav Klimt.
Chương 2: Hiệu quả tạo hình từ tính trang trí trong một số tác phẩm
tiêu biểu của Gustav Klimt.

Lê Tuyết Trinh

3


Khoá luận tốt nghiệp
ương

Đại học sư phạm nghệ thuật Trung

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT

CỦA GUSTAV KLIMT
1.1. Đôi nét về sự nghiệp và các tác phẩm tiêu biểu.
Gustav Klimt sinh năm 1862 ở ngoại ô thành Vienna. Ông bắt đầu học vẽ
từ năm 15 tuổi và từng có ý định trở thành thầy giáo dạy vẽ. Nhưng giáo sư
F.Laufberger đã phát hiện tài năng của ông và hướng G.Klimt đi theo con đường
hội họa. Cha Klimt là một họa sĩ trang trí và ơng cũng theo học trường Nghệ
Thuật Trang trí Vienna từ năm 1876. Những năm đầu của sự nghiệp, G.Klimt
làm cơng việc trang trí sân khấu và bảo tàng ở Vienna. Chính nghề trang trí đã
có ảnh hưởng lớn đến phong các hội họa của ơng sau này.
Ơng là chủ tịch hội Họa sĩ Ly khai Vienna ( Vienna Secession ) với những
chủ trương chống lại hội họa hàn lâm khô cứng, xa rời đời sống xã hội. Ông
cũng đồng thời là họa sĩ của trào lưu Art Nouveau hay Nghệ thuật mới. Đây là
tư tưởng muốn đi tìm một cách bày tỏ mới trong hội họa ở nước Áo của các
nghệ sĩ tiên phong thời bấy giờ. G.Klimt cũng là người đóng vai trị chủ chốt để
hội họa Áo được thế giới nhìn nhận đúng mức.
G.Klimt được biết đến là một họa sĩ theo chủ nghĩa Biểu hiện. Nhưng bút
pháp của ông chịu ảnh hưởng của trào lưu Ấn tượng và Tân ấn tượng, với lối vẽ
điểm màu, thể hiện trong các bức tranh phong cảnh rất đẹp của họa sĩ. Các tác
phẩm của ơng lấy phụ nữ làm hình tượng chủ đạo. Hình ảnh nữ giới xuất hiện
liên tục trong tranh của G.Klimt ngay từ những tác phẩm đầu tiên. Ông đã say
mê vẽ phụ nữ và chủ đề về phụ nữ đến cuối đời. Đây cũng là chủ đề mang lại
thành công trong sự nghiệp của ông.
G.Klimt vẽ nhiều thể loại: tranh sử thi, tranh cổ điển, tranh mang tính ẩn
dụ, tranh chân dung, phong cảnh, tranh tường và các tác phẩm mang tính tượng
Lê Tuyết Trinh

4


Khoá luận tốt nghiệp

Đại học sư phạm nghệ thuật Trung
ương
trưng. Chính những tác phẩm tượng trưng này đã chứa đựng những suy nghĩ và
tình cảm của họa sĩ. Chúng trở thành những tác phẩm quan trọng trong sự
nghiệp sáng tác của G.Klimt. Các tác phẩm của ông thường tràn ngập màu sắc
và hoa văn. Các hoa văn màu sắc viễn dị là một ham thích đặc biệt của họa sĩ.
Hoa văn sóng nước, mây, chim thú, hình nhân Á Đơng, tranh tết của Trung Hoa,
tranh khắc gỗ màu sắc tươi tắn của Nhật Bản, tranh ghép gốm thời Byzantine…
là những bữa tiệc của màu sắc mà G.Klimt đắm chìm trong đó. Gustav Klimt
đặc biệt thích dùng lá vàng thật dán lên tranh gây hiệu quả lóng lánh, bắt mắt,
cùng với hệ thống đường nét vô cùng tinh nhã mảnh mai, chắt lọc, tạo nên
những tác phẩm tao nhã, sang trọng như Pallas Athene (H4), Nụ hôn (H17),
Chân dung Adele Bloch-Bauer I (H20)... Song hiệu quả chói lọi, lóa mắt của
trang trí chỉ nhằm nhấn mạnh, đề cao chủ đề chính, nhân vật chính. Các hoa văn
trang trí giàu chất tượng trưng đã thể hiện được nhiều giá trị hơn là sự duy mỹ
đơn thuần. Hình tượng con người trong tranh G.Klimt, mà chủ yếu là người phụ
nữ, không chỉ gợi cảm mà cịn tốt lên sức sống mãnh liệt, là hình ảnh tượng
trưng đầy biểu cảm cho vẻ đẹp sự sống ( tác phẩm Sự sống và cái chết - H19, Ba
giai đoạn của người phụ nữ - H18 ) và tình u con người ( tác phẩm Nụ hơn ).
Có thể chia mảng sáng tác của G.Klimt ra hai giai đoạn chính:
Thời kỳ đầu trong sự nghiệp của Gustav Klimt là giai đoạn bản lề của thế
kỷ XIX-XX. Lúc này, Klimt nhận được nhiều hợp đồng trang trí cho các sân
khấu và bảo tàng ở Vienna. Trong quá trình đó, họa sĩ đã có cơ hội tiếp xúc
nhiều hơn với nghệ thuật trang trí của các nền văn hóa. Một số sáng tác hội họa
trong lúc này của ông còn chịu ảnh hưởng nhiều bởi nghệ thuật hàn lâm. Các
bức tranh mang phong cách cổ điển về cả nội dung lẫn hình thức như: Fable
(H1), Idyll, The theatre in Tarmina… và một vài tranh chân dung như Two girl
with oleander (H3) được vẽ tả thực khá mẫu mực. Khoảng từ sau năm 1890,
phong cách hội họa của ơng có sự thay đổi đáng kể. Bút pháp của ơng phóng
khống hơn theo lối vẽ của khuynh hướng Ấn tượng ( Chân dung Marie

Lê Tuyết Trinh

5


Khoá luận tốt nghiệp
Đại học sư phạm nghệ thuật Trung
ương
Henneberg, Chân dung Sonja Knips ). Gustav Klimt đã dần bộc lộ cá tính trong
tạo hình nhân vật và cịn đưa tính trang trí vào trong những sáng tác hội họa,
khiến chúng mang vẻ hiện đại rất khác biệt. Từ các tác phẩm mang tính biểu
tượng ( Music I và II, Sculpture, Tragedy…) đến những bức chân dung ( Jojeph
Pembauer, Portrait of a lady…) và cả tranh huyền thoại ( Pallas Athene ), tranh
sinh hoạt ( Love - H2 ), đã cho thấy hứng thú của họa sĩ với trang trí. Những tác
phẩm lớn gây được chú ý đầu tiên của Klimt là các tranh trang trí mang tính ẩn
dụ: Triết học, Khoa học pháp lý, Y học (H5) cho đại sảnh Đại học Vienna vẽ
năm 1896. Nhiều sáng tác trong giai đoạn hình thành phong cách nghệ thuật của
họa sĩ còn cho thấy sự tác động lớn của tranh khắc gỗ Nhật Bản (H14), ví dụ
như ảnh hưởng về kiểu đường nét rất thanh mảnh, uyển chuyển tinh nhã trong
tranh khắc gỗ Máu cá (H15).
Thế kỷ XX, G.Klimt đã khẳng định được phong cách nghệ thuật cá nhân
bằng những bức tranh kết hợp kiểu vẽ nhân vật tả thực với lối trang trí bề mặt.
Giai đoạn này ơng tập trung sáng tác hai thể loại là tranh chân dung phụ nữ và
tranh Biểu hiện với hình ảnh phụ nữ đóng vai trò chủ đạo và được bao quanh bởi
rất nhiều họa tiết trang trí độc đáo. Ngồi ra ơng cịn vẽ nhiều tranh phong cảnh
với bút pháp Tân ấn tượng, đã gây ấn tượng mới lạ cho người xem ( Hoa hướng
dương - H7 ).
Tranh chân dung phụ nữ chiếm số lượng lớn các sáng tác của G.Klimt.
Trong đó có khá nhiều tác phẩm là do người nổi tiếng đương thời đặt ơng vẽ
chân dung. Có thể kể đến những bức tranh: Chân dung Emilie Floge (H10),

Chân dung Adele Bloch-Bauer I (H20)… Những bức chân dung phụ nữ được
ông sử dụng thủ pháp trang trí với nhiều mảng hoa văn họa tiết cách điệu để thể
hiện tính cách nhân vật. Nhưng sự phá cách táo bạo của Klimt đã bị từ chối bởi
chính những khách hàng của ơng. Phải khá nhiều năm sau công chúng mới nhận
ra vẻ đẹp độc đáo trong tạo hình và chiều sâu ý nghĩa trong những tác phẩm hội
họa của Klimt.
Lê Tuyết Trinh

6


Khoá luận tốt nghiệp
Đại học sư phạm nghệ thuật Trung
ương
Tranh Biểu hiện của Klimt thường chứa đựng nhiều triết lí về cuộc sống.
Tác phẩm Nụ hôn, Ba giai đoạn của người phụ nữ, Sự sống và cái chết, Cây
đời… cho thấy chiều sâu trong tư tưởng sáng tác của họa sĩ. Một số tác phẩm
khác lại được Klimt lấy cảm hứng từ sử tích và thần thoại như: Judith I, Judith
II (H11), Danae (H8), Leda cũng khơi gợi nhiều xúc cảm cho người xem. Các
nhân vật trong tranh được đặt trong tư thế và biểu cảm nét mặt khúc triết rõ ràng,
bộc lộ được tình cảm của nhân vật. Cịn các chi tiết trang trí bao phủ nhân vật vừa
có tác dụng làm đẹp, vừa ẩn dụ cho tính cách và bản chất của nhân vật. Tính trang
trí trong tranh Klimt có giá trị lớn về thẩm mỹ đồng thời còn làm giàu thêm giá trị
nội dung của tác phẩm với khả năng biểu hiện phong phú sáng tạo.
Trong tranh G.Klimt xuất hiện khá nhiều họa tiết cách điệu từ hoa lá. Có lẽ
ơng đã lấy cảm hứng khi vẽ những bức tranh phong cảnh trong vườn. Đối tượng
chính của ông là cây cối hoa lá màu sắc tươi sáng (Hoa hướng dương, Cây táo)
ngồi ra cịn có một loạt tranh vẽ cảnh bên hồ Attersee rất thơ mộng ( Schoss
Kammer at lake Attersee ). Bút pháp lúc này của Klimt gần với khuynh hướng
Tân ấn tượng nhiều hơn. Ông đã truyền tải được thiên nhiên sống động qua việc

diễn đạt sự chuyển động tinh tế của không gian.
Dần dần hình ảnh phụ nữ và những họa tiết trang trí trở nên không thể thiếu
trong tranh của G.Klimt. Những tác phẩm hội họa biểu hiện giàu suy tưởng của
ông đậm tính trang trí. Mật độ dày đặc những mảng chi tiết trang trí ẩn hiện trên
cơ thể trần trụi của người phụ nữ làm nổi bật chất da thịt gợi cảm, tôn vinh vẻ
đẹp con người, đồng thời cũng thể hiện nhiều tầng ý nghĩa của tạo hình trang trí.
Tạo hình hoa văn trang trí trong tranh Klimt được lấy cảm hứng từ thiên nhiên
và những họa tiết cổ của các nền văn hóa khác nhau như: nghệ thuật Byzantine,
nghệ thuật trang trí Ai Cập cổ đại, tranh khắc gỗ Nhật Bản, mỹ thuật cổ Trung
Quốc… Chúng góp phần làm phong phú ngôn ngữ biểu hiện của họa sĩ và mang
lại những hiệu quả đặc biệt ấn tượng.
Lê Tuyết Trinh

7


Khoá luận tốt nghiệp
Đại học sư phạm nghệ thuật Trung
ương
1.2. Đặc điểm phong cách nghệ thuật của Gustav Klimt.
Như đã nói, điểm đặc trưng trong phong cách nghệ thuật của G.Klimt là
tính trang trí. Yếu tố trang trí trong những tác phẩm nghệ thuật của ơng là tổng
hịa những giá trị văn hóa, giá trị thẩm mỹ và giá trị truyền thống của cả phương
Đơng và phương Tây. Có thể kể ra đây những nền nghệ thuật có tác động lớn
đến họa sĩ như: nghệ thuật Byzantine, nghệ thuật Ai Cập cổ đại, nghệ thuật tranh
khắc gỗ Nhật Bản và tranh cổ Trung Quốc. Mỗi nền nghệ thuật nêu trên đều có
ảnh hưởng nhất định đến phong cách sáng tác của Gustav Klimt. Nghệ thuật
Byzantine dường như có liên hệ với tác phẩm của G.Klimt bằng tính hồnh
tráng của tranh tường ( The Beethoven Frieze ). Những góc độ khn mặt, hình
thể và tư thế động tác mang tính tượng trưng của nhân vật trong tranh, là ảnh

hưởng từ tranh bích họa của Ai Cập cổ đại ( Hi vọng- trích đoạn tranh tường
Cây đời - H13 ). Nghệ thuật phương Đông, mà tiêu biểu là tranh khắc gỗ Nhật
Bản (H14), có ảnh hưởng lớn đến sự thay đổi của hội họa thế giới thế kỷ XX.
Mỗi họa sĩ tìm thấy một khía cạnh khác nhau để khai thác. Và đối với Klimt thì
tranh khắc gỗ Nhật Bản là tiền đề cho yếu tố nét rất quan trọng trong phong cách
tạo hình của ơng. Cụ thể ở đây là nét khái quát mang tính trang trí. Tranh và hoa
văn cổ Trung Quốc đã đi vào những tác phẩm của Klimt, mang đến sự tươi mới
về không gian và màu sắc trong các bức chân dung phụ nữ (H12). Tổng kết tất
cả những tìm hiểu trên, đã hình thành nên một phong cách nghệ thuật rất riêng
của Gustav Klimt.
Gustav Klimt nổi tiếng với những tác phẩm hội họa giàu chất trang trí.
Người xem khơng chỉ bị chống ngợp bởi vẻ đẹp hình thức mới lạ, mà cịn
khơng ngừng thắc mắc về ý nghĩa ẩn đằng sau những chi tiết trang trí đã làm nên
trạng thái nửa thực nửa mộng trong tranh của ơng. Hoa văn họa tiết của Klimt
ngồi việc để làm đẹp cịn có ý đồ xác định, nhằm thể hiện trực tiếp bản chất và
đặc trưng tính cách của nhân vật. Ngôn ngữ biểu tượng đã được họa sĩ sử dụng
rất hiệu quả, với tạo hình họa tiết rất khúc triết, đơn giản mà giàu biểu cảm. Ông
Lê Tuyết Trinh

8


Khoá luận tốt nghiệp
Đại học sư phạm nghệ thuật Trung
ương
thường dùng những hình cơ bản như: hình vng, hình trịn, hình elip, xốy
ốc…với sự kết hợp hài hịa về màu sắc, bố cục. Đặc trưng của tranh Klimt là
những họa tiết trang trí mang tính tượng trưng và tạo hình biểu cảm nhân vật có
tính ẩn dụ, bởi vậy có thể nói ngơn ngữ biểu tượng là đặc điểm nổi bật trong
phong cách nghệ thuật của họa sĩ này. Ông sử dụng hình thức này rất thành cơng

cả trong tranh chân dung lẫn tranh Biểu hiện.
Đối với các tranh chân dung, họa tiết trang trí có vai trị làm nổi bật vẻ đẹp
hình thức của nhân vật và cịn góp phần thể hiện cá tính hay tư tưởng của người
được vẽ. Ví dụ như bức Chân dung Friederike Maria Beer (H12) cho thấy một
gương mặt phụ nữ ưu tư, dường như đang có nhiều tâm sự. Phần nền của bức
tranh được họa sĩ thể hiện bằng những hình người đang chiến đấu, mô phỏng
theo tranh cổ của Trung Quốc về đề tài chiến tranh. Nó diễn tả một cuộc chiến
đấu ác liệt với những chiến binh cầm gươm giáo dữ tợn và màu sắc táo bạo
tương phản mạnh. Không gian nền đã cho thấy bầu khơng khí sơi sục trái ngược
hẳn với trạng thái tĩnh và nét mặt man mác buồn của thiếu phụ được vẽ. Hình
ảnh tương phản này khiến tâm trạng nhân vật càng được nhấn mạnh thêm, đồng
thời khiến cho người xem liên tưởng đến sự giằng xé mâu thuẫn dữ dội đang ẩn
đằng sau khuôn mặt trầm lặng của người phụ nữ.
Đối với tranh Biểu hiện vốn đã mang tính tượng trưng trong hình thái của
nhân vật, những chi tiết trang trí càng làm giàu thêm khả năng biểu đạt các tầng
lớp ý nghĩa của tác phẩm. Như trong tác phẩm Nụ hơn (H17), tình u đơi lứa
hiện diện bằng hình ảnh một đơi nam nữ đang trao nhau nụ hơn, đó là hình thức
mn đời để thể hiện tình yêu của con người. Chân dung người đàn ơng tuy bị
khuất nhưng tính cách mạnh mẽ, chủ động quyết đoán đặc trưng của nam giới
lại được thể hiện bằng hành động của đơi tay. Cịn dáng vẻ yêu kiều e lệ khi
nhận nụ hôn của cô gái đã phơ bày sự nữ tính đến tối đa, tạo hình đơi tay của
nhân vật nữ cũng bộc lộ tính cách dịu dàng ơn nhu rất tinh tế. Mảng trang trí phủ
lên hai nhân vật dưới hình thức trang phục, đã bổ sung nhấn mạnh thêm những
Lê Tuyết Trinh

9


Khoá luận tốt nghiệp
Đại học sư phạm nghệ thuật Trung

ương
phẩm chất nổi bật của nhân vật. Họa tiết, gồm những hình chữ nhật kỷ hà khúc
triết khỏe khoắn trên tấm áo của người đàn ông, biểu hiện cho sự mạnh mẽ trong
cả tính cách cứng rắn lẫn sức mạnh cơ thể của nam giới. Ngay cạnh đó, vẻ đẹp
hình thức của nữ giới thì được so sánh với vẻ tươi tắn rực rỡ của những đóa hoa
cách điệu. Những mảng họa tiết hình trịn, elip xen kẽ với những đường nét
mềm mại lượn dọc thân cô gái tượng trưng cho vẻ đẹp dịu dàng về tính cách và
sự duyên dáng uyển chuyển về hình thức của người phụ nữ. Tạo hình hai mảng
trang trí trên hai nhân vật tuy khác biệt nhưng được đặt cạnh nhau trong tổng thể
hòa sắc vàng, đã nói lên sự gắn bó sâu sắc trong tình u. Ngơn ngữ biểu tượng
được tác giả sử dụng khéo léo trên cả tạo dáng nhân vật và chi tiết trang trí, đã
đẩy cao giá trị biểu cảm của tác phẩm hội họa. Lối diễn đạt tinh tế uyển nhã rất
đẹp mắt này đã lôi cuốn người thưởng thức vào chiều sâu ý nghĩa của tác phẩm.
Tạo hình cách điệu cũng là yếu tố chủ đạo hình thành nên phong cách của
G.Klimt. Đầu tiên phải kể đến sự cách điệu về không gian tranh rất rõ ràng trong
nhiều tác phẩm chân dung phụ nữ và tranh Biểu hiện. Họa sĩ thường dùng không
gian ảo là những mảng màu đơn sắc dàn trải để nhấn mạnh cho nhân vật và họa
tiết vốn được diễn rất chi tiết. Phần nền của tranh Nụ hôn không phải là những
chi tiết phức tạp mà được giản lược thành không gian đơn sắc, làm nổi bật hình ảnh
đơi nam nữ ở chính diện và cả hoa văn trên trang phục. Ngược lại, trong nhiều tác
phẩm sau này lấy cảm hứng từ tranh cổ Trung Quốc, Klimt lại đề cao tính trang trí
phức tạp của nền tranh, nhằm bộc lộ tính cách nhân vật. Khơng gian ảo cách điệu
đã góp phần nâng cao giá trị biểu cảm của hình tượng con người.
Tạo hình họa tiết trang trí của G.Klimt rất đa dạng. Chỉ bằng những hình cơ
bản như hình vng, trịn, tam giác, elip, xốy ốc…họa sĩ đã sáng tạo được
nhiều chi tiết trang trí đặc sắc, rất bắt mắt. Klimt sử dụng lối cách điệu giản
lược, cho nên các hoa văn họa tiết đặt cạnh nhau trong tranh tưởng chừng phức
tạp, lại được tạo hình đơn giản bằng các mảng màu khá khúc triết và nét màu
Lê Tuyết Trinh


10


Khoá luận tốt nghiệp
ương
dứt khoát.

Đại học sư phạm nghệ thuật Trung

Nhân vật trong tranh G.Klimt mang tính tả thực bởi chất da thịt sống động và
bút pháp gợi khối tinh tế, khiến hình thể có chiều sâu khơng gian. Nhưng tạo hình
của ơng khơng hồn tồn lệ thực mà được cách điệu theo hướng bóp hình. Hình
dáng phụ nữ có thể trở nên rất mảnh mai và thuôn dài hơn thực tế, mà vẫn giữ được
vẻ gợi cảm yêu kiều, như trong tranh Water serpents II (H6). Đường viền cơ thể
mang tính trang trí cũng thể hiện sự cách điệu về nét trên hình của nhân vật.
Một đặc điểm nổi bật nữa trong phong cách hội họa của G.Klimt là cách
thức gợi tả rất tinh tế, mà trong đó gợi nhiều hơn tả. Hình thể nhân vật được gợi
khối và đậm nhạt bằng đường nét, gam màu rất chọn lọc. Nét của Klimt chịu ảnh
hưởng nhất định về đường nét của tranh khắc gỗ Nhật Bản. Trong các tác phẩm
sau này, Klimt sử dụng nét chắt lọc mang tính trang trí để gợi hình thể nhân vật
và dùng nét nhấn để gợi đậm nhạt tạo cảm giác về khối của cơ thể con người.
Bởi vậy mà nhân vật có sự hài hịa với những mảng trang trí phẳng. Khơng chỉ
gợi khối tả thực hiệu quả, ơng cịn dùng chính những mảng trang trí để gợi
khơng gian. Mảng trang trí trên chiếc ghế của Chân dung Adele Bloch-Bauer I
(H20) và Chân dung Fritza Riedler (H25) được xử lý rất tinh xảo. Bằng cách
thay đổi chiều hướng, kích cỡ của các mảng họa tiết trên hai chiếc ghế, họa sĩ đã
thể hiện được hình dáng của sự vật và chiều sâu của nó trong khơng gian.
Tác phẩm của G.Klimt ln có sự kết hợp táo bạo và độc đáo giữa hình thể
con người, đặc biệt là người phụ nữ, với những mảng trang trí giàu tính sáng tạo.
Klimt đã hịa nhập giữa cách diễn tả khối với lối trang trí khai thác tính làm đẹp

trên bề mặt, tạo nên sự kết hợp huyền ảo của hai chiều không gian thực và ảo.
Những mảng họa tiết trang trí được đặt xen kẽ khơng chỉ tơn lên vẻ đẹp hình
tượng con người mà cịn biểu hiện phần nào ý nghĩa của tác phẩm, đồng thời
gây ấn tượng mạnh cho người xem. Trên hết, những tác phẩm nghệ thuật của
người họa sĩ này luôn là dấu ấn đậm nét trong lịch sử hội họa, bởi những tác
Lê Tuyết Trinh

11


Khoá luận tốt nghiệp
Đại học sư phạm nghệ thuật Trung
ương
phẩm lộng lẫy ẩn chứa tính nhân văn sâu sắc và bởi những đóng góp cho sự đổi
mới sáng tạo của nghệ thuật tạo hình.

CHƯƠNG 2:
HIỆU QUẢ TẠO HÌNH TỪ TÍNH TRANG TRÍ TRONG MỘT
SỐTÁC PHẨM TIÊU BIỂU CỦA GUSTAV KLIMT
2.1. Những yếu tố trang trí trong tranh Gustav Klimt.
Hội họa là loại hình nghệ thuật thị giác nên nó tác động vào tâm tư, tình
cảm của người xem bằng ngơn ngữ đặc trưng, đó là đường nét, hình mảng, màu
sắc, đậm nhạt… Chúng được sắp xếp dưới nhiều hình thức và tạo thành một
tổng thể nghệ thuật để thể hiện thơng điệp của họa sĩ. Mỗi người vẽ lại có cách
sử dụng ngơn ngữ tạo hình riêng để tạo nên hiệu quả thẩm mỹ mang dấu ấn cá
nhân. Trong tranh của họa sĩ Gustav Klimt, những yếu tố này được trình bày
dưới dạng trang trí bề mặt, làm tơn lên vẻ đẹp gợi cảm mang tính hiện thực của
hình thể con người, đồng thời nó cũng là ngơn ngữ tượng trưng làm tăng giá trị
biểu cảm của tác phẩm nghệ thuật.
2.1.1. Bố cục.

Bố cục tranh là sự sắp xếp bố trí những yếu tố tạo hình nhằm thể hiện ý tưởng
của người vẽ. Bởi vậy bố cục là nền tảng cho mọi hình tượng được xây dựng, là
tổng hịa của sự cân bằng hợp lí giữa các yếu tố cịn lại. Tác phẩm của Gustav
Klimt vốn mang tính biểu hiện, đồng thời kết hợp với các chi tiết trang trí nên
không gian tranh khá phức tạp. Tổng thể của tác phẩm được tạo thành từ sự cân
bằng và nhịp điệu giữa những thành phần khác như nét, mảng, màu sắc, đậm nhạt.
Trong đó sự cân bằng giữa mảng và nét hình thành nên mảng trang trí bề mặt. Vậy
nên, khi xét đến tính trang trí trong tác phẩm hội họa thì bố cục rất quan trọng. Bố
cục trong các bức tranh của Klimt mang tính ước lệ cao nên họa sĩ sử dụng tính
Lê Tuyết Trinh

12


Khoá luận tốt nghiệp
Đại học sư phạm nghệ thuật Trung
ương
trang trí trong việc xây dựng bố cục đã khiến tác phẩm giàu tính biểu hiện hơn.
Tính trang trí được thể hiện qua bố cục tác phẩm Cây đời (H16). Bức tranh
tường này có bố cục đối xứng, trọng tâm là hình ảnh cây đời vươn tỏa thân cành
rộng sang hai phía. Tương ứng hai bên cây đời là hình ảnh tượng trưng cho sự hi
vọng và sự mãn nguyện được đặt đối xứng như thể hiện sự cân bằng trong cuộc
sống. Thơng qua hình ảnh cây đời, con người gửi gắm những hi vọng và ước
nguyện vào tương lai.
Còn trong Ba giai đoạn của người phụ nữ (H18), kiểu bố cục đăng đối đã
được họa sĩ thể hiện một cách vô cùng khéo léo tinh tế, nhằm thể hiện sự tương
phản giữa hai hình thái khác biệt của cùng một chủ thể. Đó là hình ảnh một
người phụ nữ trong ba độ tuổi: thời ấu thơ non trẻ, thời kì trưởng thành tươi tắn
rực rỡ nhất và đối nghịch là giai đoạn trung niên, giai đoạn đánh dấu thời kì lão
hóa cùng với tuổi già khơng thể cưỡng lại trong đời người. Ba hình ảnh trên

được đặt trong mảng khơng gian trung tâm của bức tranh, bao quanh là không
gian ảo như ước lệ của dòng chảy thời gian. Trong đó phần khơng gian trung
tâm lại được chia làm hai mảng không gian đăng đối rất tinh tế, phân biệt rõ
giữa thời kì trung niên và hình ảnh hai thời kì cịn lại. Sự tương phản khơng chỉ
thể hiện ở hình ảnh già nua và trẻ trung của nhân vật, mà họa sĩ còn thể hiện ở
sự khác biệt về đậm nhạt và màu sắc của hai mảng không gian. Hình ảnh người
phụ nữ trẻ bế đứa bé tượng trưng cho giai đoạn thiếu nhi và tuổi trưởng thành
tràn trề sức sống, được tác giả thể hiện bằng gam màu lạnh trung tính, màu sắc
tươi sáng trong trẻo; chân dung cơ gái cịn được tơ điểm bởi họa tiết hoa lá càng
biểu hiện rõ vẻ đẹp rực rỡ của tuổi trẻ. Ngược lại, chất da thịt sẫm màu trên cơ
thể người đàn bà trung niên cho thấy sự khắc nghiệt của dịng chảy thời gian; bề
mặt trang trí xung quanh được vẽ bằng gam màu nóng trầm với màu chủ đạo là
đỏ, cam, vàng, đen. Có thể thấy hai mảng không gian đăng đối đồng thời được
lồng vào sự khác biệt rõ nét về đậm nhạt và gam màu, khiến sự tương phản được
nhấn mạnh hơn, nêu bật lên chủ đề của bức tranh.
Kiểu bố cục đăng đối giả cũng được G.Klimt sử dụng thành công trong tác
Lê Tuyết Trinh

13


Khoá luận tốt nghiệp
Đại học sư phạm nghệ thuật Trung
ương
phẩm Sự sống và cái chết (H19). Lối bố cục này gây cảm giác về sự so sánh
tương phản của hai trạng thái đối lập trong cuộc sống, đồng thời cũng cho thấy
sự tồn tại song song tất yếu của hai trạng thái này. Sự đối lập được nhấn mạnh
bằng sự tương phản về màu sắc, đậm nhạt và ý nghĩa biểu hiện của họa tiết trên
hai mảng hình .
Như đã nói, đặc trưng trong tác phẩm của G.Klimt là khơng gian kết hợp

giữa sự trang trí thuần túy trên bề mặt và sự gợi khối tinh tế nhằm tôn vinh vẻ
đẹp con người, đồng thời mang tính ẩn dụ nhiều tầng ý nghĩa của tác giả. Những
mảng trang trí được hình thành bởi sự cân bằng giữa đường nét và mảng hình.
Chúng hịa hợp với nhau bằng nhịp điệu và màu sắc, khiến không gian ảo trong
tranh luôn rộn ràng bắt mắt nhưng vẫn hài hòa với mảng nhân vật. Các mảng
trang trí được họa sĩ bố trí linh hoạt cho phù hợp với ý tưởng sáng tác. Như
trong bức tranh Sự sống và cái chết, các mảng họa tiết đan xen hài hòa với nhân
vật bằng nhịp điệu và sự cân bằng theo cảm quan của họa sĩ. Nhưng chính
những mảng họa tiết rực rỡ sắc màu khơng rõ hình thù lại biểu hiện thành cơng
sức sống mãnh liệt trong ý đồ của tác giả. Khác với nó, tác phẩm Nụ hôn lại cho
thấy sự gắn kết của hai hình thức tương phản. Mảng trang trí ơm sát cơ thể hai
nhân vật thể hiện rõ hình thể và được trang trí bằng những họa tiết khác biệt.
Trên cơ thể người đàn ông được bao phủ bởi những chi tiết trang trí biểu hiện
cho tính cách và sức mạnh của nam giới. Ngược lại, cơ thể người phụ nữ được
trang điểm bằng những họa tiết nói lên vẻ đẹp nữ tính. G.Klimt đặt hai mảng
hình này sát cạnh nhau nhưng vẫn trong tổng thể về màu sắc, khiến người xem
cảm nhận được sự hịa hợp trong tình u đơi lứa.
Trong tranh G.Klimt có sự phức tạp cao về cường độ xuất hiện những chi
tiết trang trí. Nhưng chính sự phức tạp đó lại khiến phong cách nghệ thuật của
ơng trở nên vô cùng lôi cuốn. Họa sĩ đã khéo léo vận dụng những họa tiết ước lệ
với tạo hình nhân vật để tạo thành tổng thể hội họa giàu triết li nhân văn. Tác
phẩm của ông đã đồng thời đáp ứng được sự đòi hỏi về cái đẹp và cái mới luôn
Lê Tuyết Trinh

14


Khoá luận tốt nghiệp
ương
được đặt ra trong nghệ thuật.


Đại học sư phạm nghệ thuật Trung

2.1.2. Đường nét.
Về cơ bản, đường nét là đường bao ngoài để xác định giới hạn của hình.
Tác phẩm của Gustav Klimt mang tính trang trí cao nên đường nét đóng vai trị
rất quan trọng. Họa sĩ đã sử dụng linh hoạt nhiều hình thái nét trong tạo hình họa
tiết và nhân vật. Chính đường nét hình thành nên những hoa văn đặc trưng trong
tranh Klimt như hình xốy ốc, hình tam giác, hình vng, trịn, elip, hoa lá…
đồng thời nét cũng tạo thành các mảng hình tách biệt giữa mảng trang trí với cơ
thể người.
Sự cân bằng giữa đường nét và hình mảng hình thành nên họa tiết trang trí.
Đường nét đóng vai trị phân định giới hạn của các mảng hình nhỏ và sự lặp lại
của chúng tạo thành các họa tiết nối tiếp nhau. Ví dụ như trong bức tranh Sự
sống và cái chết, các mảng trang trí dày đặc chi tiết tạo bởi nét và các mảng nhỏ.
Sự tiếp nối liên tục của họa tiết đã thể hiện sức sinh sôi nảy nở mạnh mẽ của sự
sống. Bên hình tượng trưng cho cái chết, họa sĩ dùng nét màu trắng khoanh hình
chữ thập màu đen, vừa làm nổi bật hình chữ thập tang tóc, đồng thời nhấn mạnh
sự chết chóc.
Họa tiết hình xoáy ốc xuất hiện trong nhiều tác phẩm của G.Klimt, và
đường cong là nhân tố chủ đạo hình thành nên họa tiết này. Ta có thể dễ dàng
bắt gặp chi tiết này trong các bức tranh tiêu biểu như: Chân dung Adele BlochBauer I, Cây đời, Nụ hôn. Hầu như các bức tranh mang tính tượng trưng khác
của ơng cũng xuất hiện dáng dấp của hình xốy trịn hoặc xốy elip. Đối với
Chân dung Adele Bloch-Bauer I, những đường xoáy ốc vàng được đặt xen kẽ
với các mảng hoa văn rất đa dạng trong khơng gian hình chiếc ghế bao quanh
nhân vật, vừa thể hiện được cá tính, vừa làm tốt lên vẻ đẹp sang trọng quyền
q của người phụ nữ trong tranh. Những đường xốy trong Nụ hơn lại biểu hiện
cho sự quấn qt hịa quện của tình u đơi lứa. Đặc biệt nhất là tạo hình Cây
đời (H16) được xây dựng hồn tồn bởi các đường xốy ốc liên tục vươn rộng,
Lê Tuyết Trinh


15


Khoá luận tốt nghiệp
Đại học sư phạm nghệ thuật Trung
ương
tạo cảm giác miên man bất tận. Đường cong hình xốy ốc ở bức tranh này như
thể hiện tính ý niệm về nhân sinh, về vòng luân hồi và quy luật nhân quả của
cuộc sống mà người nghệ sĩ gửi gắm.
Nét không chỉ thể hiện rõ ràng trên các hoa văn trang trí mà cịn được họa
sĩ dụng cơng rất tinh tế trên nhân vật. Hình thể con người trong tranh ln tạo
được cảm giác có độ nổi của khối là do họa sĩ dùng sắc độ màu và nét đậm nhạt
để gợi. Tuy nhiên đường nét gợi hình thể nhân vật cũng đồng thời có tính trang
trí. Họa sĩ đã gợi hình của nhân vật và các bộ phận trên cơ thể bằng nét chắt lọc
khái quát mang tính trang trí. Có lẽ Klimt chịu ảnh hưởng từ nét trong tranh
khắc gỗ Nhật Bản (H14). Những nét này mảnh và mềm mại, tạo cảm giác nét
đều và khoanh lấy nhân vật. Đan xen nhịp nhàng với nét chắt lọc là nét nhấn gợi
đậm nhạt rất tinh tế, giữ được độ nổi của chất da thịt. Lối sử dụng nét linh hoạt
này khiến cho cơ thể nhân vật tuy có bề nổi nhưng khơng tách biệt với khơng
gian trang trí phẳng xung quanh. Sự đồng điệu về nét đã tạo nên ấn tượng về
tính trang trí bao trùm các tác phẩm.
2.1.3. Hình mảng.
Hình mảng trong tranh Gustav Klimt có thể chia ra hai phần là: hình nhân
vật gợi khối và mảng trang trí phẳng. Trong đó, mảng trang trí phẳng có vai trị
làm đẹp và góp phần nâng cao khả năng biểu hiện cho tác phẩm hội họa. Ông
kết hợp các yếu tố hình thể với những trang trí mang tính ẩn dụ được thể hiện
trên trang phục nhân vật. Các mảng trang trí đã tạo thành những miếng hình
khúc triết kết hợp với những khoảng trống hư ảo, thơ mộng tạo thành một bố
cục hiện đại, mang đến cảm quan mới lạ cho người thưởng thức.

G.Klimt đã nghiên cứu, tìm hiểu các chiều hướng hình thể phụ nữ bằng
nhiều kí họa, và đã thể hiện rất thành công. Nhân vật được họa sĩ thể hiện bằng
bút pháp Ấn tượng, gợi khối bằng sắc độ đậm nhạt của màu. Tạo hình của nhân
vật mang tính tượng trưng cao trong các cử chỉ, dáng điệu và biểu cảm nét mặt.
Mảng trang trí được sáng tạo rất đa dạng với nhiều chi tiết hoa văn cách
Lê Tuyết Trinh

16


Khoá luận tốt nghiệp
Đại học sư phạm nghệ thuật Trung
ương
điệu từ tự nhiên và từ họa tiết tượng trưng của nhiều nền văn hóa. Sự kết nối các
mảng họa tiết nhỏ tạo nên các mảng khơng gian trang trí bao quanh và nhấn
mạnh hình tượng nhân vật.
Sự ham thích các hoa văn trang trí khiến G.Klimt có rất nhiều sáng tạo
trong các mảng trang trí và khơng gian nền. Các mảng trang trí thường là tạo
hình ước lệ từ tự nhiên, hoa lá, hoặc từ họa tiết cổ như xoáy nước trong tranh
khắc gỗ Nhật Bản hay hình con mắt trên bích họa Ai Cập cổ... Trong các bức
tranh Biểu hiện đã nêu, nền tranh thường thể hiện không gian ảo để các mảng
họa tiết trang trí bao quanh nhân vật rõ nét hơn. Nhưng trong nhiều bức tranh
chân dung phụ nữ sau này, họa sĩ lấy cảm hứng từ tranh cổ Trung Hoa để trang
trí nền tranh, gây ấn tượng mới mẻ. Có thể thấy rõ điều này qua chi tiết nền của
các bức tranh: Vũ công (H22), Chân dung Adele Bloch-Bauer II (H23), Người
đàn bà cầm quạt…Họa sĩ đã khai thác vẻ đẹp của cả nền nghệ thuật phương
Đơng lẫn phương Tây, để mang đến một hình thức biểu hiện mới cho hội họa.
Với mỗi tạo hình khác nhau thì mảng trang trí lại gây ấn tượng khác. Ví dụ
như trong bức Ba giai đoạn của người phụ nữ, họa sĩ sử dụng những hình mảng
khỏe khoắn để thể hiện không gian ảo phù hợp với nội dung tác phẩm. Mảng

phẳng màu đen phía bên trên của bức tranh có dạng hình chữ nhật, tạo cảm giác
chắc chắn dứt khốt. Cịn mảng khơng gian ảo bên dưới được tả như dịng chảy
một chiều. Hai mảng khơng gian này làm nền và cũng nói lên nội dung chủ đạo
của tác phẩm về quy luật bất biến của thời gian. Trong một số tác phẩm khác,
họa sĩ lại tạo hình nương theo nhịp điệu và chiều hướng của hình thể như Sự
sống và cái chết, Thiếu nữ (H21), làm tổng thể tranh rất mềm mại uyển chuyển.
Trong bức Nụ hôn, hình mảng có sự gắn bó chặt chẽ với ý đồ biểu hiện.
Klimt sử dụng mật độ trang trí dày đặc trên cơ thể hai nhân vật nam nữ để làm
nổi bật hai hình tượng này. Những mảng họa tiết này vừa thu hút thị giác, vừa
nói lên nội tâm và bản chất nhân vật, lại gây hứng thú tìm hiểu ở người thưởng
thức tranh. Sau lưng hai nhân vật cịn có một mảng trang trí kiểu xốy nước.
Lê Tuyết Trinh

17


Khố luận tốt nghiệp
Đại học sư phạm nghệ thuật Trung
ương
Chính mảng này đã làm cân bằng bố cục tổng thể, cùng lúc nó tạo với hai nhân
vật thành một khối thống nhất, tượng trưng cho sự gắn bó sâu sắc trong tình u.
Mảng trang trí khơng chỉ tạo ấn tượng thẩm mỹ và thể hiện tính tượng
trưng mà cịn là yếu tố tạo chất. Chất liệu sơn dầu đã được họa sĩ sử dụng rất đa
dạng bằng bút pháp linh hoạt. Klimt đã kết hợp dùng lá vàng, mang lại vẻ đẹp
lộng lẫy sang trọng cho nhiều họa phẩm của mình.
Phong cách hội họa của G.Klimt mang đến cho người xem trải nghiệm mới
lạ, đắm chìm trong khơng gian ảo và thực đầy lơi cuốn. Trong đó, mảng trang trí
đóng vai trị làm đẹp, đồng thời mang tính ẩn dụ sâu sắc, làm giàu thêm ý nghĩa
biểu cảm của hình ảnh.
2.1.4. Màu sắc.

Màu sắc được sử dụng để biểu đạt cảm xúc trong hội họa. Màu sắc có thể
gợi đậm nhạt bằng sắc độ và tạo chiều sâu cho bức tranh. Đồng thời màu sắc cịn
có khả năng liên kết các yếu tố tạo hình cịn lại. Mỗi màu sắc lại mang một sắc
thái riêng, đem đến cảm nhận khác nhau cho con người. Cảm xúc và cảm giác
mà màu sắc mang lại cho con người là cơ sở để họa sĩ tác động đến thị giác
người xem.
G.Klimt là họa sĩ Biểu hiện, tranh ơng khơng chỉ đẹp mà cịn có nội dung
sâu sắc. Màu sắc trong tranh ơng cũng đồng thời mang tính tượng trưng nhằm
truyền đạt ý tưởng sáng tác. Điều này thể hiện rõ nhất trong bức Sự sống và cái
chết (H19). Hình tượng cái chết được ước lệ bằng hịa sắc lạnh âm u cùng với
hình ảnh cây thánh giá, là biểu tượng cho nghĩa địa và người chết trong văn hóa
phương Tây. Đối nghịch với nó là hình tượng của sự sống căng tràn, với sự bùng
nổ tuôn trào của những màu sắc hết sức tươi sáng. Màu sắc cịn thể hiện phẩm
chất hoặc tình cảm của nhân vật. Sắc vàng lộng lẫy của kim loại vàng đã nêu bật
được khí chất sang trọng quí phái của Chân dung Adele Bloch-Bauer I (H20).
Hay gam màu trắng lại khiến ta cảm nhận được vẻ đẹp thuần khiết trong sáng và
dịu dàng từ bề ngoài đến nội tâm của Chân dung Serena Lederer (H9), Chân
Lê Tuyết Trinh

18


Khoá luận tốt nghiệp
Đại học sư phạm nghệ thuật Trung
ương
dung Gertha Felsovanyi. Đây cũng là hai gam màu được Klimt thể hiện nhiều
trong vẽ chân dung phụ nữ.
Hình thể nhân vật và mảng trang trí tuy khác biệt về tính chất khơng gian,
nhưng vẫn có sự ăn nhập nhờ sự vận dụng màu sắc tinh tế của họa sĩ. Màu sắc
trên cơ thể nhân vật có cùng hịa sắc với mảng trang trí tạo sự hài hịa êm mắt.

Cách sử dụng hòa sắc vàng sang trọng trong bức tranh Chân dung Adele BlochBauer I, hay hòa sắc lạnh trong Sự sống và cái chết là ví dụ điển hình. Sự cân
bằng về màu sắc đã gắn kết tổng thể tác phẩm.
Ngay từ giai đoạn hình thành phong cách nghệ thuật, Klimt đã chú ý tới
khả năng tạo hiệu quả thị giác của lá vàng, bạc trong trang trí. Một số tác phẩm
mang tính sử thi, huyền thoại như Pallas Athene hay Judith I đều thành công với
việc tạo chất và thể hiện được chất cổ điển của nhân vật bằng hình thức mới.
Họa sĩ dùng sắc vàng kim loại để nhấn mạnh vẻ đẹp quí phái sang trọng cho
Chân dung Adele Bloch-Bauer I. Không chỉ thể hiện sự lộng lẫy giàu sang, ánh
vàng kim còn biểu thị cho sự vĩnh cửu trong Nụ hơn. Lá vàng có tính phản
quang, có ánh kim, rất thu hút thị giác khiến tạo chất của tác phẩm thêm phong
phú, làm gia tăng giá trị thẩm mỹ và giá trị nghệ thuật.
Trong các tác phẩm của Gustav Klimt, màu sắc của họa tiết trang trí luôn
rực rỡ, táo bạo khác với kiểu màu thể hiện chất da thịt trên nhân vật. Họa tiết
không chỉ đa dạng về hình thức mà cịn phong phú về hình thái màu. Điều này
khiến tranh của ơng ln có sức cuốn hút đặc biệt.
2.2. Hiệu quả tạo hình từ tính trang trí.
2.2.1. Hiệu quả thẩm mỹ.
Những tạo hình trang trí rất đa dạng và giàu biểu cảm là thành phần quan
trọng làm nên vẻ đẹp độc đáo trong tranh của Gustav Klimt. Chúng gây được ấn
tượng mạnh mẽ bởi sự kết hợp táo bạo mà tinh tế với hình thể con người gợi
cảm. Các chi tiết trang trí đóng vai trò làm đẹp nhưng cũng ẩn dụ nhiều tầng ý
nghĩa, khiến người xem thích thú tìm hiểu.
Lê Tuyết Trinh

19


Khoá luận tốt nghiệp
Đại học sư phạm nghệ thuật Trung
ương

Những chi tiết trang trí có tác động kích thích mạnh mẽ tới thị giác con
người, bởi tính lặp lại liên tục của các chi tiết hoa văn màu sắc rực rỡ dễ dàng
gây chú ý hơn những mảng màu đơn sắc. Klimt sử dụng chúng xây dựng nên
không gian ảo ước lệ và tạo được cảm quan mới lạ. Nhịp điệu của màu sắc và
các mảng họa tiết trang trí hịa vào nhau thành nhịp trang trí rất uyển chuyển.
Tất cả làm nên vẻ đẹp ám ảnh lạ lùng, khiến ta như lạc vào một chiều không
gian ảo mộng, nửa thực nửa hư.
Khơng chỉ có tác dụng làm đẹp đơn thuần, các chi tiết hoa văn đồng thời có
khả năng tạo chất. Trong các tác phẩm hội họa, kĩ thuật tạo chất thường giúp
nâng cao giá trị biểu đạt của tác phẩm và làm đa dạng các hình thức thể hiện của
chất liệu. Chẳng hạn như việc các họa sĩ Cổ điển thường cố tả chất giống y như
thật bằng cách vẽ vờn. Còn các họa sĩ Ấn tượng và Hậu ấn tượng lại dùng những
vệt màu tươi rất mạnh bạo để thể hiện cảm xúc. Như trong tranh V.Vangogh, vệt
sơn hằn rõ trên bề mặt tranh gây cảm giác cuồn cuộn rất mãnh liệt. Trong tranh
G.Klimt, các họa tiết được nối tiếp nhau với mật độ dày đặc tạo nên ảo giác về
không gian. Bố cục các mảng chi tiết trang trí to nhỏ, mau thưa rất linh hoạt tạo
nên nhịp điệu hài hịa với mảng nhân vật.
Tính trang trí trong tranh G.Klimt là sáng tạo mới mẻ khác biệt với mọi
phong cách tạo hình theo lối trang trí vào thời điểm đó. Để thấy được rõ hơn
hiệu quả thẩm mỹ trong phong cách tạo hình của ơng, cần phải so sánh tác phẩm
của Klimt với tranh của họa sĩ có sự tương đồng nhất định với phong cách sáng
tác của ông. Mà tiêu biểu nhất là họa sĩ Egon Schiele.
Egon Schiele là họa sĩ cùng thời chịu ảnh hưởng trực tiếp từ tạo hình cơ thể
người của Gustav Klimt. Ta nhận thấy có sự tương đồng về phong cách của hai
họa sĩ người Áo này, thể hiện rõ nhất qua những tranh khỏa thân nữ. Kiểu bóp
hình cách điệu và cách sử dụng nét của Schiele khá gần với Klimt. Những sáng
tác của ơng mang tính phồn thực (H26), tập trung thể hiện hình thể con người
với bút pháp giàu cảm xúc. Nếu tác phẩm của Klimt thu hút thị giác với vẻ đẹp
Lê Tuyết Trinh


20


Khoá luận tốt nghiệp
Đại học sư phạm nghệ thuật Trung
ương
choáng ngợp của hiệu ứng trang trí, thì Schiele lại lơi cuốn người xem bằng sự
rung cảm từ ngôn ngữ cơ thể. Không gian trong tranh Schiele thường đơn giản
để tập trung vào hình thể nhân vật. Bút pháp của ơng có khả năng biểu hiện cảm
xúc rất mãnh liệt, đến mức tạo được cảm giác về sự chuyển động của cơ thể.
Ngược lại, biểu cảm trên gương mặt, dáng điệu tư thế của nhân vật trong tranh
Klimt thường gây cảm giác tĩnh. Thêm vào đó, nét viền mang tính trang trí để
gợi hình và màu sắc nhẹ nhàng trên cơ thể nhân vật càng tạo sự tĩnh tại. Klimt
chỉ sử dụng nhịp điệu các mảng chi tiết trang trí để tạo nhịp chuyển động của
không gian. Các chi tiết trang trí cũng đồng thời mang ý nghĩa tượng trưng, tạo
nên chiều sâu nội dung của tác phẩm. Có thể thấy, tuy có sự tương đồng về tạo
hình nhân vật, nhưng với bút pháp và cách sử dụng ngôn ngữ hội họa khác nhau
thì hai họa sĩ đã tạo được hiệu quả biểu cảm khác nhau. Phong cách vẽ của
E.Schiele tác động trực tiếp vào cảm giác bằng cách thể hiện ngơn ngữ hình thể
đầy cảm hứng, đã chạm đến nỗi đam mê rất bản ngã của con người. Còn nghệ
thuật của G.Klimt lại gây thích thú bằng hình thức hội họa mới lạ, với nhiều
tầng ý nghĩa sâu sắc. Chúng khiến người xem không thể rời mắt, không ngừng
suy tưởng để rồi đắm chìm vào khơng gian ước lệ mơ hồ của mộng và thực.
Khuynh hướng Ấn tượng ảnh hưởng khá lớn đến bút pháp của G.Klimt và
là cơ sở quan trọng hình thành nên phong cách nổi tiếng của ông. Klimt sáng tác
nhiều tác phẩm theo khuynh hướng này trong những năm đầu của thế kỷ XX
như Judith I, Chân dung Gertha Felsovanyi, Chân dung Marie Henneberg…
Trong đó, bức Chân dung Marie Henneberg vẽ vào khoảng năm 1901-02 có
cùng môtip chân dung phụ nữ ngồi ghế với hai tác phẩm sau này mà Klimt đã
đưa tính trang trí vào là Chân dung Fritza Riedler ( 1906 ) và Chân dung Adele

Bloch-Bauer I ( 1907 ). Điều này cho phép ta so sánh ba tác phẩm để thấy được
vai trò quan trọng và hiệu quả của tính trang trí trong tranh G.Klimt.
Chân dung Marie Henneberg (H24) được vẽ vào khoảng năm 1901-02, với
bút pháp Ấn tượng, thể hiện rõ nhất ở nền tranh và chiếc ghế. Những vạch màu
đan xen, chồng lên nhau tạo cảm giác về chất liệu của sự vật và sự chuyển động
Lê Tuyết Trinh

21


Khoá luận tốt nghiệp
Đại học sư phạm nghệ thuật Trung
ương
của khơng khí, ánh sáng trong khơng gian. Chiếc ghế như hịa vào khơng gian
nền, làm nổi bật người phụ nữ với chiếc váy sáng màu được thể hiện bằng mảng
màu lớn.
Phải đến vài năm sau, G.Klimt lại vẽ liên tiếp hai bức chân dung phụ nữ
ngồi ghế, nhưng với phong cách kì lạ nhất. Chân dung Fritza Riedler (H25) tả
thực, lại được đặt trong khơng gian mang tính trang trí hồn tồn. Klimt đã vẽ
người mẫu của mình đang ngồi trên một chiếc ghế ở dạng một mảng trang trí
phẳng chặn ở góc tranh và ơm lấy nhân vật, khiến bề nổi của chân dung được
đẩy lên. Họa sĩ đã sử dụng hai chiều không gian khác nhau để nhấn mạnh nhân
vật chính. Nhưng bức tranh vẫn có sự hài hòa, bởi hòa sắc trắng của bộ váy và
chiếc ghế khiến hai mảng này không tương phản gay gắt, và đường nét gợi khối
cho nhân vật cũng mang tính trang trí. Klimt cũng khơng qn gợi khơng gian
bằng cách thay đổi hướng và hình mảng của họa tiết để tạo chiều sâu. Ở bức
tranh này, phần nền quanh nhân vật là những mảng tường ước lệ, vng vắn,
khiến khơng khí tranh trở nên cơ đọng chứ khơng có cảm giác về sự chuyển
động trong không gian như bức Chân dung Marie Henneberg. Nhưng mảng họa
tiết trang trí dạng phẳng lại gây sự thu hút và đặc biệt làm nổi bật được vẻ đẹp

bồng bềnh của chiếc váy, qua đó nhấn mạnh chân dung nhân vật.
Sau Chân dung Fritza Riedler, Klimt vẽ Chân dung Adele Bloch–Bauer I
(H20), nhưng lần này ông khoác lên nhân vật bộ trang phục hết sức lộng lẫy, tạo
bởi các họa tiết trang trí bề mặt lấy cảm hứng từ nghệ thuật Ai Cập cổ đại. Họa
sĩ dùng rất nhiều lá vàng và cả lá bạc để trang trí tác phẩm này. Mảng chiếc ghế
đằng sau nhân vật cũng được trang trí rất chi tiết cơng phu tựa như một thứ trang
sức lấp lánh tô điểm cho phần chân dung tả thực của nhân vật thêm phần quý
phái. Tuy chỉ tả thực khuôn mặt, bờ vai và hai bàn tay nhưng người phụ nữ
trong bức tranh đã tốt lên vẻ giàu có sang trọng, nhờ hiệu ứng của các chi tiết
trang trí và sắc vàng kim loại. Đồng thời các chi tiết trang trí mang tính tượng
trưng cũng nói lên phần nào cá tính mà nhân vật không thể hiện trên gương mặt.
Lê Tuyết Trinh

22


Khoá luận tốt nghiệp
Đại học sư phạm nghệ thuật Trung
ương
So với tác phẩm này thì bức Chân dung của Marie Henneberg và Fritza Riedler
giản dị hơn rất nhiều. Mật độ dồn dập của các mảng chi tiết trang trí trong tranh
khiến người xem không thể rời mắt và thực sự bị choáng ngợp. Klimt đã xây
dựng được một lối biểu hiện mới có sức mê hoặc mạnh mẽ, vơ cùng lơi cuốn và
kích thích thị giác. Sự kết hợp giữa khơng gian phẳng và hình mảng tả thực
tưởng như rất mâu thuẫn, nhưng đã được Klimt xử lý rất khéo léo và tạo nên
những hiệu quả thẩm mỹ không ngờ. Rõ ràng khi đưa tính trang trí vào tranh hội
họa, Klimt đã thể hiện được nhiều hơn sự diễn tả lệ thực.
2.2.2. Giá trị nghệ thuật.
Có thể thấy hoa văn trang trí trong tác phẩm của Gustav Klimt chịu ảnh
hưởng lớn từ mỹ thuật truyền thống của nhiều nền văn hóa khác nhau như: nghệ

thuật Byzantine, nghệ thuật trang trí Ai Cập cổ đại, tranh cổ Trung Hoa, tranh
khắc gỗ Nhật Bản…Tranh của Klimt không chỉ là bữa tiệc màu sắc mà còn là
nơi quy tụ vẻ đẹp của nhiều tinh hoa mỹ thuật trên thế giới.
Bản chất của trang trí là làm đẹp. Về phương diện thẩm mỹ, tính trang trí
trong các tác phẩm của Klimt đã đáp ứng được địi hỏi về cái đẹp hình thức. Các
mảng trang trí màu sắc rực rỡ gây kích thích thị giác người xem, cùng với tạo
hình nhân vật bắt mắt và nội dung triết lí sâu sắc, đã khiến tác phẩm để lại ấn
tượng trong lịng các thế hệ cơng chúng.
Thế kỷ XX là khoảng thời gian mà nghệ thuật gặt hái nhiều thành tựu rực
rỡ bởi sự xuất hiện liên tiếp của các trào lưu nghệ thuật hiện đại. Là họa sĩ tiên
phong, G.Klimt đã ủng hộ nhiệt tình cho phong trào nghệ thuật mới bằng những
tác phẩm Biểu hiện đặc sắc, thỏa mãn sự khát khao cái mới cả về hình thức lẫn
nội dung. Cái mới trong tác phẩm của ơng là sự cách tân đầy tính sáng tạo
những giá trị thẩm mỹ truyền thống của cả phương Đông và phương Tây, kết
hợp với phong cách tạo hình hiện đại, tạo nên giá trị mới phù hợp với nhu cầu
thẩm mỹ của thời đại lại vừa giữ được những tinh hoa văn hóa của lịch sử. Cái
mới trong tranh của Klimt vừa có giá trị về sáng tạo, lại vừa có giá trị bảo tồn và
Lê Tuyết Trinh

23


Khoá luận tốt nghiệp
ương
phát huy truyền thống.

Đại học sư phạm nghệ thuật Trung

Phong cách của G.Klimt có thể coi là tiêu biểu cho tính trang trí trong hội
họa. Sau ơng, các họa sĩ cũng đã tìm tịi sáng tạo nhiều phong cách hội họa trên

cơ sở các yếu tố trang trí. Sáng tạo của ơng đã trở thành cảm hứng để nhiều thế
hệ học tập theo. Nghệ thuật của ông ln có giá trị tham khảo. Nhiều tác phẩm
nghệ thuật đương đại cho thấy có sự vận dụng những mảng họa tiết trang trí
bằng nhiều phong cách thể hiện khác nhau (H28, H30). Đối với mỹ thuật Việt
Nam nói riêng, tính trang trí trong hội họa của Klimt có thể trở thành gợi ý để
các họa sĩ khai thác vốn văn hóa dân gian, đưa vào các sáng tác hiện đại để phát
huy nghệ thuật truyền thống. Nhiều họa sĩ trẻ Việt Nam thực sự gây được ấn
tượng bằng phong cách tạo hình giàu tính trang trí, mà nữ họa sĩ Đinh Thị Thắm
Poong là điển hình (H27, H29).
Những tác phẩm Biểu hiện của Gustav Klimt không chỉ thỏa mãn thẩm mỹ
mà còn gây ấn tượng bởi nội dung sâu sắc giàu tính nhân văn. Qua đó, ơng thể
hiện tình cảm và sự cảm thông đối với thân phận những người phụ nữ; đồng thời
cũng nhấn mạnh những quy luật bất biến trong tự nhiên, lồng ghép cùng với triết
lí nhân sinh của bản thân. Ngôn ngữ biểu tượng hiện diện trên những chi tiết
trang trí cách điệu độc đáo, kết hợp với cử chỉ và nét mặt đầy biểu cảm của nhân
vật, đã khiến các tác phẩm vừa lôi cuốn thị giác vừa giàu ý nghĩa. Những tác
phẩm Biểu hiện tiêu biểu phải kể đến trong sự nghiệp sáng tác của G.Klimt là:
Nụ hôn, Ba giai đoạn của người phụ nữ, Sự sống và cái chết, Cây đời.
Tác phẩm Nụ hôn (H17) là tác phẩm được công chúng biết đến nhiều nhất
của họa sĩ, không chỉ bởi phong cách tạo hình độc đáo mà cịn bởi những cảm
xúc mà tác phẩm đem lại. Nụ hôn tượng trưng cho sự hịa hợp về cả tâm hồn lẫn
thể xác trong tình yêu đôi lứa. Tác phẩm đã trở thành tượng đài tình u vĩnh
cửu vơ cùng đặc sắc của nền hội họa thế giới.
Ba giai đoạn của người phụ nữ (H18) là tác phẩm giàu tính triết lí sâu sắc,
khi thể hiện quy luật tất yếu của cuộc sống qua những giai đoạn mà một đời
Lê Tuyết Trinh

24



Khoá luận tốt nghiệp
Đại học sư phạm nghệ thuật Trung
ương
người phụ nữ phải trải qua. Hình ảnh người phụ nữ trong tác phẩm cho thấy sự
tồn tại nghiệt ngã của thời gian. Ba giai đoạn cũng là ba độ tuổi, ba tâm trạng và
cảm xúc khác nhau được thể hiện rất khúc triết, cho thấy tác giả có sự quan sát
tinh tế và niềm cảm thông sâu sắc với thân phận người phụ nữ .
Hình ảnh phụ nữ ln là nguồn cảm hứng của Klimt. Dường như với họa
sĩ, những thân hình căng tràn sức sống của phái nữ là biểu tượng thuyết phục
nhất cho vẻ đẹp cuộc sống và sức sống mãnh liệt của con người. Điều này thể
hiện rõ trong tác phẩm Sự sống và cái chết (H19). Tranh gây ấn tượng bởi sự đối
lập gay gắt, giữa cuộc sống rực rỡ sắc màu tràn ngập ánh sáng tương phản với
hình ảnh cái chết u ám tàn khốc luôn đe dọa bất cứ lúc nào.
Cây đời (H16) là tác phẩm tranh tường của Klimt. Hình ảnh cây đời là biểu
tượng xuất hiện trong nhiều nền văn hóa. Nó là tượng trưng cho niềm tin của
con người về thế giới tâm linh, về sự luân hồi và nhân quả của cuộc sống. Cây
đời cũng đồng thời là hiện thân của sự sống, sức sinh sôi nảy nở của thiên
nhiên…Với ý nghĩa đó, Cây đời của Klimt được tạo hình với thân cành là những
vịng xốy như vịng quay bất tận của cuộc sống, chúng lan tỏa và bao trùm tịan
bộ khơng gian tranh. Hình ảnh Hi vọng và Mãn nguyện được đặt đối xứng hai
bên cây đời, như phản ánh những hi vọng mong đợi và được thỏa mãn trong
vòng luân hồi nhân quả, một nét tương đồng với tư tưởng Á Đông.
Thông qua các tác phẩm, người xem có thể nhận thấy sự quan sát và cảm
nhận tinh tế của tác giả trong cả nội dung lẫn tạo hình. Những khía cạnh khá
trừu tượng trong cuộc sống được thể hiện hết sức ấn tượng và đầy sáng tạo.
Chúng gây thu hút mạnh mẽ bởi vẻ mới lạ về hình thức và ý nghĩa ẩn dụ của
tranh. Điều này đã khẳng định giá trị nội dung của các tác phẩm, qua đó cho
thấy vai trị quan trọng của tính trang trí trong việc thể hiện thành cơng ý tưởng
của họa sĩ. Họa tiết trang trí trong tranh của Klimt đã trở thành mối liên kết
nhuần nhị giữa vẻ đẹp truyền thống của các nền mỹ thuật phương Đông và

phương Tây, với sự sáng tạo đầy táo bạo, mới mẻ và hiện đại. Ông đã ghi tên
Lê Tuyết Trinh

25


×