Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

tiểu luận đai học sư phạm Lịch sử mĩ thuật thế giới – Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời kì Hi Lạp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.78 MB, 22 trang )

Lịch sử mĩ thuật thế giới – Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời kì Hi Lạp
nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc
thời kì Hi Lạp cổ đại
ở thời kì Nguyên Thuỷ, cùng với sự phát triển về nhiều mặt, con người đã
có những bước sáng tạo trong nghệ thuật. Tuy mới dừng lại ở những tác phẩm
đơn giản nhưng các loại hình nghệ thuật như tranh vẽ trên tường, vách hang, các
tác phẩm điêu khắc đã có mặt trong đời sống nguyên thuỷ. Sang thời kì cổ đại,
Mĩ thuật đã phát triển rực rỡ để lại nhiều tác phẩm vô giá và chứng tỏ sự sáng
tạo của con người đã đạt tới đỉnh cao về mét số mặt, một số lĩnh vực.Trong
những lĩnh vực đó, không thể không kể đến sự phát triển của nghệ thuật kiến
trúc và nghệ thuật điêu khắc thời kì Hi Lạp. Nó đã để lại cho con người những
tác phẩm đồ sộ cả về tinh thần cũng như giá trị của chúng như: Đền Pác-tê-nông,
nhà hát Epidause, Nhóm tượng Lao - Cun, tượng ở Xni - dơ, tượng Người ném
đĩa, tượng Vệ nữ mi-lô,…
Sự phát triển về mọi mặt đó chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như lịch sử,
địa lí, con người,…Quá trình phát triển của nghệ thuật kiến trúc và nghệ
thuật điêu khắc thời kì Hi Lạp cũng chịu ảnh hưởng của những yếu tố
trên.
Khi chế độ chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã cũng là lúc nhà nước xuất
hiện. Xã hội loài người đã tiến lên thêm một bước. Điều kiện xã hội thay đổi,
tôn giáo tín ngưỡng thay đổi, cuộc sống con người thay đổi. Loài người bước
vào một thời kì mới, thời kì cổ đại. Mọi sự thay đổi tất yếu sẽ dẫn đến sự thay
đổi của mĩ thuật. Cùng với sự ra đời của những nhà nước đầu tiên như Lưỡng
Hà, Ai Cập, Hi Lạp, La Mã, rất nhiều phát minh, nghiên cứu về toán học, thiên
văn học, văn học, sử học…con người đã có nhiều phương tiện để giao tiếp. Chữ
viết xuất hiện đã đánh dấu một bước phát triển lớn của con người thời kì cổ đại.
Đó là phương tiện giúp con người trở lại lịch sử để tìm hiểu nghệ thuật nhanh
hơn, rõ ràng hơn. Hơn nữa, khi xã hội phát triển nó sẽ kéo theo sự phát triển của
mĩ thuật. Điều đó được chứng minh là các công trình kiến trúc, điêu khắc và hội
hoạ còn lại cho nhân loại ngày nay thấy được sự sáng tạo tuyệt vời của con
người thời cổ đại, sự tuyệt vời đó không thể không kể đến sự đóng góp vô cùng


to lớn của nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc thời kì Hi Lạp … Và những thành
tựu đó được hình thành với nền văn minh Hi Lạp như thế nào?
Khác với nền văn minh Hi Lạp:
1
Lịch sử mĩ thuật thế giới – Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời kì Hi Lạp
Có một quốc gia cổ đại đã ra đời vào khoảng năm 3100 tr. CN. Đây là một
quốc gia được hình thành gần như sớm nhất và là một vùng đất rất Ýt mưa. Bởi
vậy, dòng sông Nin trở nên vô cùng quan trọng trong đời sống ở đây. Dòng sông
mang nước cho ruộng đồng, bùn đất để làm gạch, làm đồ gốm. Và là con đường
giao thông quan trọng chạy suốt đất nước. Có lượng phù sa màu mỡ, kinh tế
nông nghiệp rất phát triển. Lịch sử Ai Cập chải qua ba giai đoạn phát triển
hoàng kim, văn hoá nghệ thuật có điều kiện phát triển. Nền văn minh Ai Cập
được hình thành và phát triển ngay từ thời kì đầu tiên. Giai đoạn này, mọi yếu tố
như chữ viết, tôn giáo, văn hoá nghệ thuật, khoa học của nền văn minh Ai Cập
đã phát triển và hoàn thiện. Trong đó, nghệ thuật Ai Cập đã có những đóng góp
rất lớn, đã để lại nhiều công trình kiến trúc, điêu khắc đồ sộ cho nhân loại, mở
đầu cho nghệ thuật thời kì Cổ Đại rực rỡ, cùng với đó là thời kì nền văn minh Hi
Lạp.
Sự xuất hiện nền văn minh Hi Lạp tiền đề cho nghệ thuật kiến trúc và
điêu khắc phát triển:
Vào khoảng thế kỉ VIII trước công nguyên, một nhà nước chiếm hữu nô lệ ra
đời và tồn tại ở phía bên kia Địa Trung Hải đến thế kỉ thứ II trước Công
Nguyên. Đó là nhà nước Hi Lạp cổ đại. Vị trí địa lí của Hi Lạp không thuận lợi
cho phát triển nông nghiệp, nhưng rất thuận lợi trong việc giao thông đường
biển. Ai Cập rất dồi dào về tài nguyên thiên nhiên như: vàng, bạc, đồng, sắt,…
đã tạo điều kiện cho sự phát triển thủ công nghiệp. Hi Lạp là một trung tâm công
nghiệp lớn nhất của Châu Âu về sản xuất thủ công nghiệp và ngoại thương. Đây
là cơ sở lớn góp phần thúc đẩy sự phát triển củ nền văn minh Hi lạp, trong đó
nghệ thuật điêu khắc và nghệ thuật kiến trúc.
Khi nói đến Hi Lạp là chúng ta đang nói đến những công trình kiến trúc và

những công trình điêu khắc vĩ đại của cả nhân loại. Đó là: Đền Pác-tê-nông, nhà
hát Epidause, Nhóm tượng Lao-Cun, tượng ở Xni-dơ, tượng Người ném đĩa,
tượng Vệ nữ mi-lô,… “trên một phương diện nào đó, nghệ thuật kiến trúc và
điêu khắc Hi Lạp được coi là tiêu chuẩn và những kiểu mẫu không thể bắt
trước được”.
Nghệ thuật Hi Lạp nói chung, nghệ thuật kiến trúc nói riêng đã đạt được
những thành tựu to lớn và chiếm một vị trí quan trọng trong lịch sử phát triển
của văn hoá thế giới. Thành tựu của nghệ thuật tạo hình vừa biểu hiện sự sáng
tạo tuyệt vời của người Hi Lạp vừa chứng tỏ đỉnh cao về sự mẫu mực của Hi
Lạp về trí tuệ. Các chuẩn mực về tỉ lệ con người đến nay vẫn là chuẩn mực, là
sự khâm phục đối với con người thười kì Phục Hưng họ đã tìm thấy trong nền
2
Lịch sử mĩ thuật thế giới – Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời kì Hi Lạp
nghệ thuật cổ đại Hi Lạp một tư tưởng nhân văn cao cả một nền nghệ thuật hiện
thực, ca ngợi giá trị vẻ đẹp con người . Vai trò của nghệ thuật Hi Lạp đối với sự
phát triển văn hoá và nghệ thuật nhân loại là rất lớn. “Không có các cơ sở đó, cơ
sở do Hi Lạp và La Mã xây nên, thì không thể có Châu Âu hiện đại”- Ăng-
ghen . Sự phát triển của nghệ thuật Hi Lạp không giống với sự phát triển của Ai
Cập của các nước khác. Bên cạnh đó, chế độ dân chủ đã tạo điều kiện cho các tài
năng nghệ thuật phát triển. ở Hi Lạp cổ đại tên tuổi các vị vua hay người đứng
đầu thành bang không được biết đÕn. Xã hội Hi Lạp cổ đại là xã hội chiếm hữu
nô lệ. Nhưng bên trong xã hội Êy lại chứa dựng những tư tưởng dân chủ tiến bộ.
Chế độ đó mở đường cho các nhà khoa học, các nhà nghệ thuật được phát triển
tài năng, sáng tạo. Hơn thế nữa, mảnh đất Hi lạp-ngườn gốc của các thần thoại
Hi Lạp. Mọi câu chuyện thần thoại ra đời đều muốn giải thích các hiện tượng tự
nhiên và xã hội. Quan niệm củ thế giới thần linh cung giống thế gới con người
“thần nhân đồng hình”. Nó đã chi phối việc xây dựng các công trình kiến trúc,
điêu khắc rất riêng. Ngoài ra thần thoại Hi Lạp còn là những câu chuyện hay,
hấp dẫn tạo nguồn cảm hứng cho người nghệ sĩ tạo ra những tác phẩm nghệ
thuật bất hủ, đầy tính nhân văn. Trong đó không thể không kể đến những tác

phẩm điêu khắc và kiến trúc bậc nhất thế giới cổ đại.
Nghệ thuật Hi Lạp (kiến trúc và điêu khắc) được chia làm ba thời kì:
- Thời kì cổ sơ: Từ thế kỉ VII (T.CN) đến thế kỉ VI (T.CN).
- Thời kì cổ điển: Từ thế kỉ V (T.CN) đến thế kỉ IV (T.CN).
- Thời kì Hi Lạp hóa: Từ thế kỉ III (T.CN) đến thế kỉ II (T.CN).
Tương ứng với ba thời kì đó, trong kiến trúc có ba kiểu cột chính đó là:
• Thức Doric : Ra đời sớm nhất và được phát triển ở Penoponnese miền nam
nước ý. Cột Doric đơn giản bằng những đường thẳng, những rãnh sâu.Thức
cột Doric, cú hậu thân là thức cột Toscan, là thức cột cổ nhất và đơn giản
nhất trong hệ thống các thức cột cổ điển. Thức này được hình thành từ một
trụ thẳng đứng phình to ở đáy. Nói chung, thức cột này không có phần đế
cột lẫn không có phần đầu cột. Vẻ đẹp thức cột này thường được so sánh
với vẻ đẹp khỏe mạnh của người đàn ông cường tráng, do nó được sử dụng
ở tầng dưới cùng của đấu trường Coliseum và có khả năng chịu lực cao nhất.
Tỷ lệ đường kính cột trên chiều cao cột khoảng 1:4.
• Thức Inonic : Là sù kết hợp giữa đường cong và đường thẳng, vừa khoẻ
khoắn vừa mềm mại. Phần thân cột là những rãnh thẳng, phần đầu cột được
trang trÝ bằng những đường cong mềm mại, duyên dáng hơn. Thức cột
Ionic mang dáng dấp nữ tính, mảnh dẻ và giàu tính trang trí hơn cột Doric.
Nguồn gốc cột Inonic là Ionia, thuộc địa của Hy Lạp. Cột Ionic có 24 gờ
sống đứng trong khi cột Doric chỉ có 20 gờ, tỷ lệ đường kính cột trên chiều
cao cột là 1:9. Ngoài ra, cột này cú thờm đế cột ở phía dưới và đầu cột có
3
Lịch sử mĩ thuật thế giới – Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời kì Hi Lạp
hình đệm nhỏ, phía trên có hình xoắn ốc loe ra rồi cuộn vào trong. Các dầm
ngang của cột Ionic được phân vị theo chiều ngang thành ba dải. Cỏc ngụi
đền có cột này là đền Artemis ở Ephesus, đền thờ Apollo Epikourios ở
Bassae, đền Erecteyon ở Athena.
• Thức Coranhtieng : Thức cột Corinth ra đời sau hai cột trên, vào khoảng
thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, có đường nét mảnh mai, giàu trang trí, đầu

cột có nhiều chi tiết hoa lệ, giống như một lẵng hoa kết hợp cùng với mấy
tầng là phiên thảo diệp. Thức cột này do kiến trúc sư Callimachus sáng tạo
ra. Cột này có ưu điểm hơn hai cột trên là đối xứng nhiều chiều và có thể
cảm nhận được trong không gian. Có thể thấy công trình sử dụng loại cột
này tại đền Olympeion ở Athena và đền Apollo ở Bassae.
Các loại cột trên sau này được người La Mã cổ đại kế thừa và phát triển,
đồng thời sáng tạo thêm hai loại thức cột mới là Toscan và Composite.
Thức kiến trúc Hi Lạp
Thức kiÕn tróc trong đó tương quan giữa các bộ phận của hệ “dầm-cột” đạt
tới mức độ hoàn mĩ có nhiệu quả nghệ thuật cao.
Các nhà kiến trúc sư đã nghiên cứu tìm tòi, phát minh ra nhứng thức cột đạt
đến độ chắc chắn về cấu trúc, thẩm mĩ về hình thể tạo nên một kiến trúc có một
không hai, và đã để lại cho nhân loại một kho báu kiến thức về kến trúc và
những di sản nghệ thuật của nhân loại.
4
Lịch sử mĩ thuật thế giới – Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời kì Hi Lạp
Những nghiên cứu thức cột của các kiến trúc sư
Quá trình phát triển đền đài Hy Lạp cổ đại
Đền thờ Hy Lạp cổ đại có đặc điểm là nhiều cột chạy vòng
phía bên ngoài. Các loại hình đền đài được phân theo mức độ
phức tạp của cách thiết kế những cột đó như sau:
• Loại đền cổ nhất có dạng hình chữ nhật, lối vào chính ở
cạnh ngắn và có hai cột ở chính cạnh ngắn này, gọi là dạng
cột đôi ở hiên (Distyle); ví dụ như ngôi đền thờ thần
Themis ở Rhamnus.
Thần Themis ở Rhamnus.
• Loại đền cổ thứ hai có dạng như trên, nhưng
cú thờm hai cột ở cạnh ngắn phía sau nữa,
gọi là dạng cột đôi ở hiên cả hai đầu ; ví dụ
đền thờ Artemis ở Eleusina .


Đền thời Artemis ở Eleusina
• Loại đền giống loại đền thứ nhất, nhưng thay vì hai cột mà là bốn cột ở phía
trước, gọi là dạng hàng cột mặt trước hay hàng cột hiên; vớ dụ ngôi đền ở
Selinus.
• Loại đền giống loại đền thứ hai, nhưng có bốn cột ở cạnh ngắn phía trước và
bốn cột ở cạnh ngắn phía sau, gọi là loại hàng cột cả hai đầu (Amphi-
Prostyle) (tiền tố "amphi" có nghĩa là "cả hai phía").
• Loại đền hình tròn, vành ngoài có hàng cột vòng
quanh gọi là nhà trũn cú hàng cột bao quanh.
• Loại đền hình chữ nhật có tường chịu lực là chính,
nhưng mặt ngoài tường ghộp thờm cỏc cột, gọi là
loại đền cú cỏc hàng cột giả bao quanh hay bổ trụ
bao quanh (Pseudo-Peripteral); ví dụ đền thờ thần
Zeus ở Olympia.
5
Lịch sử mĩ thuật thế giới – Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời kì Hi Lạp
Đền thờ thần Zeus ở Olympia.
• Loại đền hình chữ nhật có một hàng cột chạy ở vành ngoài chu vi công trình,
gọi là loại đền cú cỏc hàng cột bao quanh (Peripteral); ví dụ đền Hephaestos
và đền Parthenon ở Athena, đền Paestum
• Loại đền hình chữ nhật, có hai hàng cột chạy bao xung quanh công trình, có
tên gọi là đền Dipteral; ví dụ đền Olympeion ở Athena,…
Mặt bằng đền thờ dạng
Distyle
Mặt bằng đền thờ dạng
Distyle cột ở hai phía
Mặt bằng đền thờ dạng
Prostyle
Mặt bằng đền thờ dạng Peripteral

Mặt bằng đền thờ dạng Amphi-prostyle
Mặt bằng đền thờ Hy Lạp cổ đại được tạo thành bởi ba thành phần chính:
pronaos (tiền sảnh), naos (gian thờ) và pathenon (phòng để châu báu). Ngoài ra,
trong một số đền cũn cú thờm opisthodomos (hậu sảnh).
Vẻ đẹp của đền đài Hy Lạp cổ đại gắn liền với sự ra đời và phát triển của các
loại thức cột.
Kiến tróc Hi Lạp cổ đại là kiểu kiến trúc phòng cột, chủ yếu là các dãy cột
cao đồ sộ, không có tường, thường là kiến trúc đền thờ với ba kiểu cột đặc trưng
cho ba thời kì của nghệ thuật Hi Lạp cổ đại.
Nghệ thuật kiến trúc Hi Lạp cổ đại cùng với đời sống xã hội của Hi Lạp chịu
ảnh hưởng lớn của tôn giáo. Họ thờ nhiều vị thần,và mỗi nơi khác nhau thì thờ
một thần bảo trợ khác nhau. Bởi vậy có nhiều nhà thờ ra đời với các kiểu kiến
trúc nhà thờ khác nhau phát triển. Đó là điều kiện tạo nên sự đồ sộ của kiến trúc
Hi Lạp cổ đại.
Điển hình nhất có thể kể đến đền thê Pác-tê-nông mét trong bảy kì quan của thế
giới cổ đại.
6
Lịch sử mĩ thuật thế giới – Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời kì Hi Lạp
Đền thờ Pác-tê-nông nhìn xiên Đền thờ Pác-tê-nông nhìn chính
diện
Đền thờ Pác-tê-nông(447 – 432 T.CN)
Đền thời Đền thờ Pác-tê-nông là sự kết hợp hài hoà giữa sự khoẻ khoắn bằng
những đường thẳng của thức Đô- ríc và sự nhẹ nhàng uyển chuyển giữa đường
thẳng và đường cong của thức I-nô-níc. Pác-tê-nông được xây dùng vào năm
443 trước công nguyên. Đền thờ nữ thần A-tê-na, vị thần bảo vệ thành A-ten. Vẻ
đẹp của Pác-tê-nông thể hiện trong sự cân đối, hài hoà về tỉ lệ toàn bộ công trình
và giữa các bộ phận kiến trúc. Vẻ đẹp của Pác-tê-nông còn được thể hiện, bộc lộ
trong sự đơn giản, trang nhã mà khoẻ khoắn, mạnh mẽ của khối kiến trúc chủ
yếu dựa trên những đường thẳng với sù trang trí bằng các tác phẩm điêu khắc và
phù điêu dạng trụ ngang. Pác-tê-nông do hai nhà kiến trúc sư Calicrats và

Ichtinots. Nền đền được xây dựng cân đối với tầm vóc của đền. Các tác phẩm
điêu khắc của Phi-di-át đã làm đẹp thêm, lộng lẫy thêm. Tất cả các yếu tố đó đã
đưa công trình này lên một tầm nhìn cao, trở thành một công trình sáng tạo đẹp
nhất của thế giới cổ đại, là kì quan trong tốp 7 kì quan nổi tiếng nhất thế giới.
Công trình có mặt bằng hình chữ nhật kích thước 31m x 70m cao 14m. Có hành
lang cột bao quanh: Mặt chính 8 cột, mặt bên gồm 17 cột, các cột được tạo thành
hình thức Doric cao 10,4m làm bằng đá Cẩm thạch trắng có tỉ lệ và đường nét
rất thanh thoát, đỡ bộ mái và hai chiều dốc tạo nên phía mặt trước bộ đầu mái
hình tam giác với nhiều điêu khắc trang trí đẹp. Những diềm trang trí vong
quanh theo thức Inonic nhẹ nhành, sang trọng. Toàn bộ công trình đặt trên một
nền cao có nhiêu bậc. Không gian bên trong bao gồm một phòng lớn, phía trước
có đặt tượng thờ nữ thần Atena cao 6m và phòng bé phía sau dùng làm kho chứa
báu vật.vẻ đẹp của kiến trúc đền Pác-tê-nông coi là mẫu mực cho các kiến trúc
sư thế hệ sau học tập.
7
Lịch sử mĩ thuật thế giới – Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời kì Hi Lạp
Không chỉ có Pác-tê-nông, ở Hi Lạp còn rất nhiều đền thờ nổi tiếng như:
Đền thờ Thần Dớt, đền thờ Actemits, đền Erechteon, đền Erechteon mang tên
người anh hùng Athen.

Đền thê Actemits Đền Erechteon.
Artemis không chỉ đơn thuần không chỉ là ngôi đền mà còn là công trình kiến
trúc đẹp nhất thế giới theo đánh giá của các triết gia cổ đại. ĐÒn đuệoc xây
dựng để tôn vinh nữ thần săbn bắn và thiên nhiên hoang dã của của Hi
Lạp, vị trí nằm tại thành phố Ephesus gần thị trấn đương đại Selcuk.
Dù ngôi đền có từ thế kỉ thứ II Trước công nguyên, Atemis chỉ mới được xây
dựng sau đó 150 năm. công trình đặt dưới sự bảo trợ của vua Croésus và do kến
trúc sư Hi Lạp Chersiphon. Artemis được làm bằng đá cẩm thạch, trang trí bằng
nhiều tượng đồng.Trong nhiều năm nó là nơi tụ hội của các thương buôn, du
khách, nghệ sĩ và các vị vua đến để bày tỏ lòng tôn kính đối với nữ thần.


Đền thê Actemits(bị phá huỷ theo thời gian)
8
Lịch sử mĩ thuật thế giới – Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời kì Hi Lạp
Nghệ thuật Hy Lạp và sự giàu có của châu Á đã kết hợp tạo dựng nên một
công trình kiến trúc thần thánh và nguy nga. Đền thờ nữ thần Artemiss
nằm trong số Bảy kỳ quan bởi tớnh trỏng lệ về kiến trúc và kích thước
khác thường.
Đền thờ này rất lớn, đây là một trong số những ngôi đền đồ sộ nhất do người
Hy Lạp cổ đại xây dựng từ trước đến nay. Tọa lạc gần Ephesus bên bờ
biển Ionia thuộc Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay, cả hai ngôi đền và thành phố đều
trở nên thịnh vượng do số người hành hương đến viếng ngôi đền tráng lệ
này, là nơi thờ tượng vị nữ thần huyền bí “Nữ thần đi săn của người
Ephesia”, thường được đồng nhất với vị nữ thần Hy Lạp Artemis, trong
thực tế được xem như là vị thần của người Anatolia thời cổ đại.
Đền thờ nữ thần Artemis không những là một trong số những ngôi đền Hy
Lạp đồ sộ nhất, mà còn là một trong những công trình được xây dựng toàn
bằng đá cẩm thạch lâu đời nhất. Đền được xây dựng ở địa điểm gồm cỏc
ngụi đền xây dựng đầu tiên vào khoảng năm 550 TCN với sự giúp đỡ tài
chính của Croesus, một vị vua nổi tiếng giàu có thuộc vương quốc Lydia
lân cận. Thế nhưng, vào năm 356 TCN, công trình kiến trúc nguy nga này
bị thiêu huỷ. Trong vòng vài thập niên sau, người ta dựng tại địa điểm cũ
ngôi đền mới, theo hình dáng của ngôi đền ban đầu.

Ngôi đền mới trùng tu vẫn còn tồn tại dưới thời kỳ La Mã, khi ấy nhà văn La
Mó đó ngạc nhiên trước kích thước và việc xây dựng ngôi đền. Ba cửa sổ
lớn được trổ thẳng xuyên qua mái, cửa sổ ở giữa tạo ra một khoang hở
giúp những người viếng đền có thể nhìn thấy vị nữ thần Artemis trên bàn
thờ. Chính bàn thờ cũng là một công trình cú dóy cột thật tráng lệ ở bờn
phía, đặt ở phía trước ngôi đền.

9
Lịch sử mĩ thuật thế giới – Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời kì Hi Lạp
Đền thờ nữ thần Artemiss.(550 tr.CN)
Đền nguyên thuỷ cú kích thước 55 x 110 m tính ở bậc thang phía trên, ba phía
là một dãy cột gồm hai hàng bao quanh, một chiếc cổng có mái che với
hàng cột sõu phớa trước lối ra vào. Khi ngôi đền được trùng tu vào thế kỷ
4 TCN, thì nền móng của một số kiến trúc thượng tầng của ngôi đền
nguyên thuỷ được tận dụng, nhưng ngày nay chỉ cao khỏi mặt đất khoảng
2m, tấm móng được một hàng cầu thang bao quanh. Ba mươi sáu cột nằm
ở phía trước lối ra vào đều trang trí bằng cỏc tỏc phẩm chạm nổi, một đặc
điểm khác thường đối với cỏc ngụi đền Hy Lạp, chính bản thõn cỏc cột
đều chạm trổ từ 40 đến 48 đường rónh mỏng khoét sâu ở thân cột. Quanh
ngôi đền phía trên cỏc cõy cột, có một trụ gạch, trong khi cỏc mỏng xối
đều chạm hình đầu sư tử. Với khoảng cách giữa các cột không có trụ đỡ
thường vượt quá 6,5 m, bao gồm các tảng đá dài đến 8,75m, công trình đã
buộc những người thợ xây thể hiện khả năng cao nhất của mình.
Đá cẩm thạch dùng trong công trình được lấy từ mỏ đỏ cỏch cụng trường 11
km (7 dặm), khoảng cỏch khỏ xa khiến việc vận chuyển những tảng đá
nặng đến 40 tấn trở thành một thử thách .
Kích thước đáng kinh ngạc của ngôi đền và các tảng đá sử dụng trong công
trình đòi hỏi những kỹ thuật mới trong vận chuyển và dựng đá đứng thẳng.
Trong khi phương pháp của Chersiphron chưa từng áp dụng ở nơi khỏc, thỡ ngụi
đền đồ sộ này quả thật là chứng cứ cho sự khéo léo, tài tình của ông. Nhưng tiếc
thay, chỉ một phần rất ít của công trình còn tồn tại cho đến nay, người ta chỉ bảo
quản được bục đài vòng của đền vừa khai quật và một cột đền duy nhất được gia
cố bằng bê tông.
10
Lịch sử mĩ thuật thế giới – Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời kì Hi Lạp
Nghệ thuật kiến trúc Hi Lạp cổ đại phát triển rực rỡ, họ đã tìm ra nhiều chất
liệu xây dựng khác nhau tạo nên quần thể kiến trúc độc đáo và đa dạng… Cho

tới thế kỉ VI tr.CN, các đền thờ của Hi Lạp đều được làm bằng gỗ hoặc gạch.
Đến thế kỉ thứ V tr.CN người Hi Lạp chuyển sang các kiến trúc đá cẩm thạch
sang trọng và lộng lẫy với bốn mặt là các hàng cột đá. Kiến trúc tôn giáo là thể
loại biểu hiện tài năng của người Hi Lạp. Tuy vậy người cổ đại Hi Lạp không
dừng ở đây. Họ đã sáng tạo ra nhiều thức kiến trúc với nhiều kiểu dáng phong
phú. Điều đó phải kể đến viếc quy hoạch đô thị, xây dựng các nhà hát, các thành
luỹ, các quảng trường,… và thời kì từ thế kỉ thứ VI tr.CN đến thế kỉ II tr.CN.
Người Hi Lạp đã tiến hành quy hoạch trung tâm thành Pecgam to lớn, đồ sộ
vượt qua cả thành Aten. Có những lăng mộ lớn được xếp vào một trong bảy kì
quan của thế giới cổ
đại như lăng
Mausole ở
Halicanasse.
.

Nhà hát Epidause(giữa thế kỉ IV tr.CN)
Nghệ thuật Hi Lạp nói chung, nghệ thuật kiến trúc nói riêng đã đạt được
những thành tựu to lớn và chiếm một vị trí quan trọng trong lịch sử phát triển
của văn hoá thế giới. Thành tựu của nghệ thuật tạo hình vừa biểu hiện sự sáng
tạo tuyệt vời của người Hi Lạp vừa chứng tỏ đỉnh cao về sự mẫu mực của Hi
Lạp về trí tuệ.
Thế vận hội đầu tiên được tổ chức tại Hi Lạp vào năm 776 tr. CN nhằm tôn
vinh thần Zeus. Đây là một đại hội thể dục thể thao quan trong nhất. Đó là
phong trào rèn luyện mang nhiều ý nghĩa lớn lao, thể thao giúp rèn luyện sức
11
Lịch sử mĩ thuật thế giới – Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời kì Hi Lạp
khoẻ để có thể trở thành các chiến binh dũng mãnh, đồng thời còn tạo ra những
cơ thể đẹp, thân hình cân đối. Đây là nguồn cảm hứng cho các nghệ sĩ Hi Lạp
nghiên cứu và sáng tạo ra những tỉ lệ “vàng” cho hình tượng con người. Đó
chính là nguồn gốc của những tác phẩm điêu khắc có một không hai cho đến bây

giê, như: Tượng vệ nữ Milo, tượng người ném đĩa, nhóm tượng Lacun,…
Nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp giống như kiến trúc, cũng được phát triển
qua ba giai đoạn:
• Giai đoạn 1: Thời kì cổ sơ (thế kỉ thứ VII-VI tr.CN): có đặc điểm là các
tượng nam khoả thân, nữ mặc áo dài có hình dáng thẳng đứng và trong dáng
tĩnh, hai tay buông theo thân, cân đối. Mặt tạo hình chưa chuẩn về giải phẫu.
Phần lớn là các tượng nhỏ bằng đất nung, hoặc ngà voi, hoặc bằng gỗ thể
hiện một cách sơ lược hình tượng các con vật, con người, hay hình người kết
hợp với con vật,…hay diẽn tả các vị thần, được gắn liền tôn giáo. Sang thế
kỉ thứ VI tr.CN phong cách làm tượng đã có sự chuyển biến. Các tượng
thẳng đứng, tĩnh đần được thay thế bằng những pho tượng có dáng động từ
đơn giản đến phức tạp dần. Nửa đầu thế kỉ V tr. CN điêu khắc Hi lạp được
đánh dấu bằng các tác phẩm trạm nổi ở các đền thờ. Con người được diễn tả
ở nhiều tư thế vận động khác nhau, sinh động hơn.

(Tượng nam
thanh niên)
• Giai
đoạn 2: Thời kì cổ điển (thế kỉ V-
IV tr.CN): Là giai đoạn lí tưởng
hoá. Người đứng đầu về điêu khắc
thời kì này là Phidias, còn có
Polyclete, Myzon,…với những
tượng đáng động. Tỉ lệ chuẩn cân
đối giữa đầu-thân-tay-chân, hài hoà
của cơ thể nam giới, mềm mại sống
động của hệ thống cơ, chất liệu đá
12
Lịch sử mĩ thuật thế giới – Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời kì Hi Lạp
dường như đã làm người xem hình dung như những nếp vải, như những bó

cơ, như chất da thịt mịn màng,…ở tượng Doripho, làm cho ta có cảm nhận
được sự vững của cơ thể, sự chuẩn xác về giải phẫu tạo hình kết hợp với cái
đẹp của đường nét, hình khối.

ggggg
Tượng Đorifor (440 tr.CN)

Tượng Nữ Thần Chiến Thắng
13
Lịch sử mĩ thuật thế giới – Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời kì Hi Lạp
Hình ảnh đàn ông khỏa thân rất phổ biến trong nghệ thuật Hy Lạp, mặc dự cỏc
sử gia vẫn khẳng định rằng người Hy Lạp cổ đại hầu như không hở phần
nào trên cơ thể. Nay một nghiên cứu cho thấy, nền nghệ thuật tân tiến đú
đó mụ phỏng sát thực tế.
Khỏa thân là một công cụ của nghệ sĩ để minh họa các vai trò khác nhau của
người đàn ông, từ chủ nghĩa anh hùng tới kẻ chiến bại.
"Trong nghệ thuật Hy Lạp cổ, có rất nhiều kiểu khỏa thân khác nhau mang
những ý nghĩa khác nhau", Jeffrey Hurwit, lịch sử gia nghệ thuật cổ đại tại Đại
học Oregon, Mỹ, nói. "Đôi khi chỳng cũn mõu thuẫn nhau".
Nghiên cứu mới của Hurwit cho thấy người Hy Lạp đúng là cú lừa thể trong
một số trường hợp. Đàn ông đi lại không mặc gì trong buồng ngủ và tại những
bữa tiệc rượu đêm mà ở đó họ vui chơi, ăn uống. Tình trạng khỏa thân cũng phổ
biến ở những nơi thi đấu thể thao và các kỳ Olympic games.
Tuy nhiên, không mặc gì cũng là điều mạo hiểm cho người Hy Lạp. "Nhìn
chung, không có chuyện đàn ông đi lại trên đường phố mà ở trần, họ cũng không
cưỡi ngựa trần truồng và tất nhiờn khụng tham chiến mà lừa lồ", Hurwit nói,
"Trong hầu hết cỏc mụi trường công cộng, mặc quần áo là bắt buộc, và trong
chiến đấu khỏa thân có nghĩa là tự sát".
Tuy nhiên, các chiến binh và anh hùng vẫn thường được miêu tả trần trụi trong
cỏc tỏc phẩm nghệ thuật. Theo Hurwit, các nghệ sĩ muốn lột tả sức mạnh thể

chất của người đàn ông khi chiến thắng quân địch. Nhưng thực tế, nếu bạn có
thể ra chiến trường mà không mặc gỡ thỡ bạn phải cực kỳ tài ba. Ngoài ra, các
anh hựng khụng phải là đối tượng duy nhất bị các nghệ sĩ cổ đại lột trần.
Nghiên cứu của Hurwit cũng tìm thấy hình ảnh của những đàn ông trần truồng
bị đánh chết. Trong trường hợp này, sự lừa thể nhằm miêu tả sự yếu ớt của con
người.
Trong khi đó, những người lao động được vẽ không mặc gì, làm rõ cơ bắp và
mồ hụi trên người nhằm chứng tỏ họ lao động mệt
nhọc thế nào. Các vị thần và những người thuộc tầng
lớp cao quý cũng đôi khi khụng khoỏc gỡ trờn người
để thể hiện vị thế của họ trong xã hội.
Khác với Polyclete, Myzon nghiên cứu dáng động
của hình tượng con người
14
Lịch sử mĩ thuật thế giới – Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời kì Hi Lạp
Tượng người ném đĩa là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. Đây là
một lực sĩ cường tráng đang vật động hết sức mình để ném đĩa thi đấu trong thế
vận hội Olimpic tổ chức ở Olimpia bốn năm một lần. Ông đã bắt được vẻ đẹp
của sức mạnh, vẻ đẹp của cơ bắp. Để đặc tả được hết vẻ đẹp của cơ thể, tác giả
đã tạo ra dáng vặn hợp lí, trong sự phối hợp phần chân nghiêng và thân nhìn
chính diện. Sự kết hợp này của hình khối đã tạo ra sự chuyển động và vẻ đẹp
hoàn mĩ cho tác phẩm.Phidias là một nhà điêu khắc có tên tuổi ở Hi Lạp trong
thế kỉ V tr. CN. Tác phẩm của ông chủ yếu là tượng và phù điêu trang tríở đền
thờ nữ thần Atena.
Tượng người ném đĩa (450tr.CN) bảo tàng
Roma

Tượng thần Zeus được xếp vào một trong bảy kì
quan của thế giới cổ đại. Đó là pho tượng ngồi trên
ngai vàng, tay trái cầm cây gậy vương trượng, tay

phải cầm tượng thần chiến thắng. Phần trên của

Tượng thần Zeus (450 tr.CN) hình mô phỏng.
tượng được khảm ngà voi, nửa thân dưới được phủ một tấm vải bằng vàng dát
máng, dép cũng được làm bằng vàng. Ngai vàng được làm bằng ngà voi.
.
Đây là bức tượng của vị thần mà các cuộc thi tài thể thao Olympic
cổ được tổ chức để tôn vinh ông. Tượng đặt tại thành phố cổ Olympia,
nằm ở bờ biển phía tây Hy Lạp hiện nay, cách thủ đô Athens 150 km.
Theo lịch Hy Lạp cổ bắt đầu từ năm 776 TCN thỡ cỏc cuộc thi đấu cũng
bắt đầu từ năm đó. Bức tượng Zeus kỳ vĩ do kiến trúc sư Libon thiết kế
15
Lịch sử mĩ thuật thế giới – Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời kì Hi Lạp
và được xây dựng vào năm 450 TCN. Vào thời điểm nước Hy Lạp đang
hùng mạnh, ngôi đền kiểu Doric quá tầm thường đơn giản nên cần cú
cỏc sửa đổi lớn. Giải pháp là đặt một bức tượng
khổng lồ trong đền. Điêu khắc gia Athens được
giao nhiệm vụ "thiêng liêng” này. Nhiều năm
sau đó, ngôi đền thu hút số du khách và người
hành hương đến từ khắp nơi trên thế giới. Bước
sang thế kỷ II TCN, bức tượng được tu sửa chút ít
rồi đến thế kỷ I SCN, hoàn đế La Mã Caligula tìm
cách đưa bức tượng về Rome nhưng giàn giáo do
các nhân công của Caligula xây dựng bị đổ sụp.
Sau khi các cuộc thi đấu Olympic bị cấm năm 391
SCN, Hoàng đế Theodosius cũng ra lệnh đóng cửa đền Zeus. Sau đó thành
phố Olympia bị động đất, trượt đất và ngập lụt tấn công. Đến thế kỷ V S.CN,
đền lại bị lửa làm hư hại. Nhưng trước đó, bức tượng đã dược những người
Hy Lạp giàu có chuyển đến Constantinople và tượng đứng vững tại đây cho
đến khi nó bị lửa làm thiệt hại nặng vào năm 462 SCN. Hôm nay bức tượng

không còn lại gì ở ngôi đền cũ, trừ đá và vụn cỏt cựng nền và những chiếc
cột bị gãy của ngôi đền. .
Điêu khắc gia Pheidias bắt đầu xây dựng bức tượng vào năm 440 TCN.
Vài năm trước đú, ụng đó phỏt triển một kỹ thuật đặc biệt dùng cho việc xây
dựng các bức tượng bằng vàng và ngà. Kỹ thuật này sử dụng các khung gỗ
lắp ghép như giàn giáo để phủ những tấm kim loại quý hoặc ngà voi lên mặt
ngoài công trình. Hiện di tích nhà xưởng của Pheidias ở Olympia vẫn tồn tại.
Nó bằng kích cỡ và theo đúng hướng với ngôi đền Zeus cũ. Tại xưởng này,
Pheidias cho đẽo, khắc những phần khác nhau của tượng trước khi mang
đến đền lắp ghép. Nhưng khi bức tượng hoàn tất, ngôi đền lại quá nhỏ so với
nó. Một số người cho rằng bức tượng không cân xứng với chiều cao đền.
Thần Zeus ở trong tư thế ngồi, nếu ông đứng lên ngôi đền sẽ bị bung mái.
Nhưng cũng có người khen ngợi ý đồ của Pheidias. Chính nguy cơ ngôi đền
bị bung mái khi "vua các vị thần" đứng lờn đó tạo cảm hứng cho nhiều nhà
thơ và sử gia. Bệ của tượng có bề rộng 6,5 m cao 1 m. Tượng cao 13 m tương
đương với ngôi nhà bốn tầng. Bức tượng cao đến nỗi các du khách chỉ có thể
mô tả về chiếc ngai vàng thần Zeus ngồi, không thấy rõ chi tiết cơ thể ông.
Phần chân của chiếc ngai được trang trí bằng các tượng nhân sư và những
vị thần chiếc thắng có cánh. Thần Apollo, Artemis và con gái của thần Niobe
đều có mặt. Theo ghi chép của sử gia Hy Lạp Pausanias thỡ trờn đầu của
thần Zeus là chùm tia Olive. Tay phải ông giữ biểu tượng chiến thắng làm
16
Lịch sử mĩ thuật thế giới – Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời kì Hi Lạp
bằng vàng và ngà voi. Tay trái ông giữ một quyền trượng có con ó đậu ở
đỉnh.
Tượng Apollo ở
belvedere
Sang thế kỉ thứ IV tr.CN, điêu khắc hi lạp lại tiến thêm một bước nữa.
Không chỉ về hình khối, tỉ lệ, về tạo dáng động, ở thế kỉ này các nhà điêu
khắc còn tăng thêm chất liệu thực cho tượng, bớt chất biểu cảm sâu sắc hơn,

tiêu biểu là các tác giả:
Tượng vệ nữ Milô
Prasitile: Thích vẻ đẹp mềm mại duyên dáng khác với vẻ đẹp tráng
kiện, uy nghêm của thế kỉ trước; Vẻ đẹp khoả thân của cơ thể nữ. Đây là sự
thay đổi lớn trong trong nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp cổ đại. Các nghệ sĩ đã
phô diễn vẻ đẹp tuyệt mĩ mà tạo hoá đã ban tặng cho người phụ nữ qua
những pho tượng nữ khoả thân: Vệ nữ Milo, Vệ nữ Xnidơ của Praxiten.
Lixip: VÒ tỉ lệ nam giới lại có sựu thay đổi, ở Policlet có tỉ lệ 7 đầu thì
ở tượng A-po-xi-o-men có chuẩn mực về tỉ lệ là 8 đầu, một vẻ đẹp thanh
mảnh hơn, đầu nhỏ thân dài,…
Giai đoạn 3: Thời kì Hi Lạp hoá (thế kỉ V-IV tr.CN): giai đoạn này bớt
chất lí tưởng hoá, tăng thêm chất hiện thực. Tìm đến một phong cách mới. Hoặc
đẩy cao hơn về mặt biểu hiện những tình cảm đau thương, bi thảm. Hoặc diễn tả
17
Lịch sử mĩ thuật thế giới – Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời kì Hi Lạp
phức tạp hơn, hoặc cường diệu hoá. Thể loại thường gặp trong điêu khắc thời kì
Hi Lạp hoá là nhóm tượng và phù điêu lớn. Tiêu biểu là nhóm tượng Lao-cun:

Nhóm tượng đẹp và mang nhiều
chất bi tráng, diến tả một cảnh tượng
khủng khiếp về số phận con
người.nhốm tượng diễn tả ba nhân vật,
mỗi người mang một nét đẹp riêng.
Ngoài cái lí tưởng về thể hình, tác giả
còn muốn nhấn mạnh vẻ đẹp về tính
cách , về sự bộc lộ nội tâm. Cụ thể ở
đây qua các hình dáng,
thái độ khác nhau của ba nhân vật đã
bộc lộ nỗi khiếp sợ, đau đớn kiệt sức
của ba cha con Lao-cun. Sức căng vặn

của ba cơ thể, kết hợp với đường cong phức tạp uốn Ðo của hai con rắn đã tạo
Nhóm tượng Lao-cun.
Đá cẩm thạch (bảo tàng
Vaticang)
nên một nhóm tượng có bố cục chặt chẽ, gắn bó thể hiện nội dung một cách sâu
sắc.
Phù điêu trên diềm mũ cột đèn thờ Pec-gam diễn tả cộc sống giao chiến giũă
các thần linh và những người khổng lồ. Được diễn tả một cách điêu luyện, hình
khối mạnh mẽ, động tác, thế dáng có sức mạnh,…
18
Lịch sử mĩ thuật thế giới – Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời kì Hi Lạp
Người Hi Lạp cổ đại đã để lại rất nhiều tượng và đền đài. Tuy nhiên, ngày
nay người ta vẫn chưa biết hết các công trình này vì một số tượng bị thất
lạc, bị chìm xuống biển bởi những lí do nào đó. Nhưng những gỡ cũn lại
cũng đã đủ làm cho người đời sau ngỡ ngàng và khâm phục.
.
Đó là những tượng nhỏ, tượng bán thân vốn được dựng ở các quảng
trường. Lại có những tượng thần lớn dựng ở đền, như tượng nữ thần A-tờ-
na đội mũ chiến binh, hoặc những tượng nhiều người biết qua phiên bản
như Lực sĩ ném đĩa, Thần Vệ nữ Mi-lụ v.v… Tượng bằng đá cẩm thạch
trắng, được tạo dáng đến mức hoàn hảo, với những đường nét mềm mại,
tinh tế lạ lùng, với tư thế và vẻ mặt sống động, có thần. Phần lớn là tượng
thần, nhưng ở đây lại được thể hiện là người và rất đẹp. Giá trị hiện thực
và nhân đạo cũng là ở đó. Tượng Hi Lạp đã trở thành một kiểu mẫu nghệ
thuật, một vật chiêm ngưỡng của đời sau. .
Các công trình kiến trúc cũng đạt tới trình độ tuyệt mĩ. Hầu hết các công
trình này là đền thờ thần. Đền là một nền nhà rộng để làm lễ, phía trong là
bệ thờ, xung quanh có tường và có cửa vào. Thông thường có một hành
lang rộng chạy xung quanh đền, được viền bằng một hàng cột có cạnh.
Phía trên hàng cột, dưới mái, ở hai đầu hồi thường kết bằng những tấm

phù điêu được trang trí rất sinh động, tất cả bằng đá.
.
Dưới bầu trời trong xanh Địa Trung Hải, những ngôi đền nổi bật lờn
khụng phải bằng chiều cao đồ sộ, bằng màu sắc thâm trầm bí ẩn, mà bằng
đá cẩm thạch trắng, bằng hàng cột duyên dáng, bằng vẻ nhẹ nhàng, thanh
thoát, tươi tắn, gần gũi, có sức thu hút, làm say mê lòng người. Dường
như đõy không phải là nơi thâm nghiêm linh thiêng thờ cúng mà như
được xây dựng làm nhà bảo tàng nghệ thuật. .
Giá trị nghệ thuật cao và giá trị hiện thực sinh động của các kiến trúc cổ
đại Hi Lạp chính là chỗ đó. .
Ở A-ten có một khu thờ cỳng xõy trờn một quả nỳi nhỏ ở ngoại vi
thành phố. Ở đây người ta được thấy một số đền đẹp nhất của Hi Lạp,
trong đó có ngôi đền Pỏc-tờ-nụng, mặc dù ngày nay đã bị vỡ lở khá nhiều,
vẫn đứng đó như muốn khoe cùng Vũ Trụ một tài năng nghệ thuật kiến
trúc của con người, một kiệt tác của muôn đời. .
Nghệ thuật Hy Lạp và sự giàu có của châu Á đã kết hợp tạo dựng nên
một công trình kiến trúc thần thánh và nguy nga. Đền thờ nữ thần
19
Lịch sử mĩ thuật thế giới – Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời kì Hi Lạp
Artemiss nằm trong số Bảy kỳ quan bởi tớnh trỏng lệ về kiến trúc và kích
thước khác thường.
Hội tụ tất cả các yếu tố trên là điều kện tuyệt vời cho sự phát triển của văn
hoá, nghệ thuật Hi Lạp. Nghệ thuật tạo hình Hi Lạp nhất là kiến trúc và điêu
khắc đã đạt tới đỉnh cao chỉ sau hơn 200 năm, từ thế kỉ VII đến thế kỉ Vtr.CN.
Từ giữa thế kỉ IV tr.CN, Hi Lạp đã có nhêìu biến động lớn. Hi Lạp đã xâm
chiếm Ba Tư, Tiểu á, Ai Cập , Ân độ …Đây là giai đoạn Hi lạp hoá trong nghệ
thuật Hi Lạp.Đến thế kỉ II tr. CN Hi Lạp bị La Mã chinh phục. Đây là giai đoạn
kết thúc của nền văn hoá văn minh Hi Lạp cổ đại. Nhưng đã để lại cho nhân loại
một di sản khổng lồ về văn hoá nghệ thuật.
Nền nghệ thuật từ thế kỉ 12 tr.CN. đến thế kỉ 1 tr.CN. của vùng đất Hi Lạp,

các đảo lân cận và miền duyên hải Tiểu Á. Cho đến nay, nghệ thuật Hi Lạp vẫn
được tôn vinh là nghệ thuật kinh điển, ảnh hưởng của nó lan rộng toàn thế
giới. Điêu khắc: bộ phận quan trọng nhất của nghệ thuật Hi Lạp, biểu hiện rõ
nét lí tưởng về cái đẹp và sự nghiên cứu sâu sắc cơ thể con người. Giai đoạn
sơ kì (từ thế kỉ 7 tr.CN.), điêu khắc mang nhiều chất nguyên thuỷ, tượng
người thường ở thế đứng thẳng, đàn ông ở dạng khoả thõn, miêu tả hình
tượng chiến sĩ và các anh hùng. Cuối giai đoạn sơ kì, xuất hiện nhiều phù điêu
và tượng trang trí ở các đền thờ. Giai đoạn cổ điển của điêu khắc Hi Lạp (từ
thế kỉ 5 tr.CN.) thể hiện lí tưởng và những quy chuẩn mĩ thuật của chủ nghĩa
anh hùng, đặc điểm chung của tượng là cơ thể tráng kiện, tinh thần cao
thượng. Myrụng (Myron) là một đại biểu của thời kì này, chuyên tạc tượng
đồng, tác phẩm “Người ném đĩa” là sự kết hợp cao độ giữa động tác mạnh mẽ
và tinh thần sung mãn (x. Myrụng). Phiđiat (Phidias) thường làm tượng cú
kớch cỡ lớn và dùng vật liệu quý như vàng, ngà voi (nay chỉ còn những bản
sao chép nhỏ), tác phẩm quan trọng nhất của ông là cỏc điờu khắc ở đền
Pactờnụng (Parthộnon - thành Aten; x. Phiđiat). Đỉnh cao của NTHL và cũng
là một đỉnh cao của nghệ thuật thế giới là Pụlyclet (Polyclốte), chuyờn tạc
tượng chiến binh và võ sĩ; bức “Người cầm giỏo”, một tượng nam có tỉ lệ giữa
đầu và thân là 1/7, được coi là tỉ lệ chuẩn mực của điêu khắc cổ điển (x.
Pụlyclet). Ở cuối giai đoạn cổ điển, phong cách nghệ thuật mang chất lí tưởng
được thay thế bằng cách biểu hiện mang tính thế tục, có nhiều nét cá tính
hơn, chứa đậm tư tưởng và tình cảm của tác giả. Đại biểu cuối cùng của giai
đoạn này là nhà điêu khắc Lyxip (Lysippe), tương truyền ụng cú đến 1500 tác
phẩm, hầu hết bằng đồng. .
Giai đoạn “Hi Lạp hoỏ” (323 tr.CN - thế kỉ 1 tr.CN.) điêu khắc phát triển
khuynh hướng thế tục, nhưng ở một số tác phẩm xuất sắc vẫn giữ được tinh
20
Lịch sử mĩ thuật thế giới – Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời kì Hi Lạp
thần cổ điển, tiêu biểu là tượng “Nữ thần chiến thắng” (đầu thế kỉ 2 tr.CN.
“Nữ thần chiến thắng Xamụtơrat“. Tượng thần Vệ nữ ở đảo Milụ (Milo)

và các tượng nữ thần ở giai đoạn này cho thấy ý nguyện của các nhà
điêu khắc không phải là đúc tạothiờn thần, mà là diễn tả vẻ đẹp thân
hình của người phụ nữ, phục vụ cho sự hưởng thụ cái đẹp nhân tính.
Trung tâm mĩ thuật của giai đoạn này là tiểu Vương quốc Pecgam
(Pergam; Pecgamụn), nơi có đàn tế thần Zơt (Zeus) xây dựng năm 180
tCn., với những phù điêu trang trí mô tả cuộc chiến giữa người khổng
lồ với thần, nhóm tượng Laocụn không còn tinh thần cổ điển mà mang
tính khoa trương ( “Laocụn và các con”).
Nghệ thuật Hi Lạp nói chung, nghệ thuật kiến trúc nói riêng đã đạt được
những thành tựu to lớn và chiếm một vị trí quan trọng trong lịch sử phát triển
của văn hoá thế giới. Thành tựu của nghệ thuật tạo hình vừa biểu hiện sự sáng
tạo tuyệt vời của người Hi Lạp vừa chứng tỏ đỉnh cao về sự mẫu mực của Hi
Lạp về trí tuệ.
“Trên một phương diện nào đó, nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Hi Lạp
được coi là tiêu chuẩn và những kiểu mẫu không thể bắt trước được”.
“Không có các cơ sở đó, cơ sở do Hi Lạp và La Mã xây nên, thì không thể
có Châu Âu hiện đại”- Ăng-ghen .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
21
Lịch sử mĩ thuật thế giới – Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời kì Hi Lạp
1. Lịch sử mĩ thuật thế giới, tác giả: Phạm Thị Chỉnh
2. Câu chuyện nghệ thuật, tác giả: Lê Sĩ Tuấn biên dịch
3. Câu chuyện nghệ thuật hội hoạ thế giới từ tiền sử đến hiện đại, tác giả:
Sister, Wendi, Beckett
4. Báo mạng: Báo xây dựng; Việt báo,…
22

×